Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ

Ṭa Thánh Tây Ninh

Tân Kinh

Thiên Đạo Và Thế Đạo

Ṭa Thánh Giữ Bản Quyền

Ṭa Thánh tháng 6 năm Canh-Ngũ
 ( 12 - 7 - 1930 A-L )

Châu Tri

Gởi cho chư Hiền Hữu chư Thánh Thất .
Đầu Họ và Chức Sắc ( Cửu Trùng Đài ) .
Hiền-Hữu Yêu Dấu
Đức Hộ Pháp có gởi cho tôi một bổn lễ cúng Đấng Chí Tôn và Tam Giáo của Hiệp Thiên Đài soạn lại y như sau đây .
Hôm 9 fevrier 1930, sau ngày vía của Đấng Chí Tôn, tôi có đặt một bàn Hội xem xét và hết thảy đều thuận ưng ban hành y theo cuốn Lễ Bổn ấy .
Từ đây chư Hiền Hữu phải y theo đó mà hành Lễ và dạy cách hành Lễ cho chư Đạo Hữu lưỡng phái ( Nam-Nữ ) .

Đạo là chánh lư mà chánh lư th́ có một nên cách hành lễ của Đạo phải y nhau như một mà thôi .

Ai canh cải bày biện coi cho huê mỹ th́ tội trọng .

Từ đây nếu c̣n Đạo Hữu nào không biết hành lễ th́ lỗi  về Giáo Hữu, Lễ sanh, Chánh phó Trị Sự và Thông Sự, họ nào theo họ nấy .

 Nay kính
Thượng Đầu Sư
 Thượng Trung Nhựt

Tựa

Từ khi mở Đạo, Chí Tôn duy giáng cơ truyền cho Phật Giáo Minh Sư, Minh Đường, Minh Lư dạy dâng kinh cho ĐạiĐạo Tam Kỳ Phổ Độ .

Song Kinh Tận Độ vong-tinh chưa hề giáng cơ cho nơi nào tất cả .  Đức Quyền Giáo Tông ( khi c̣n tại thế ) và Đức Hộ Pháp, trót mười năm trường nghĩa là từ ngày mở Đạo, đă nhiều phen dâng sớ cho Đại Từ-Phụ và các đấng Thiêng-Liêng đặng xin kinh Tận Độ, nhưng mà Chí-Tôn cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật vẫn chưa định ban ân cho toàn Sanh-Chúng

1

3       2       4

5     6       7       8     9

10            11             12

 

 Măi đến ngày 23 tháng 7 tới mùng 4 tháng 8 năm Ất-Hợi ( du 21 au 31 Aout 1935 ), mới giáng cho Tân-Kinh. Ấy là một giọt nước Cam-Lồ của Đức Từ-Bi rưới chan đặng gội nhuần cho các đẳng linh hồn của toàn cả Thế-giái .

 Chúng ta thầm xét th́ đủ hiểu rằng : Đă trải qua mười năm,

 Chí Tôn mới mở cơ tận độ. Cơ tận độ Nhơn-Sanh duy kể từ ngày ban Tân-Kinh nầy mà thôi .

 Thương thay cho những kẻ vô phần chịu phận thiệt tḥi quy liễu trước ngày Tân-Kinh chuyển Pháp. Ấy cũng là quả kiếp của Nhơn-Sanh do Thiên cơ tiền định. Nếu chúng ta thương tưởng th́ duy có một phương độ rỗi là tŕ tụng Di-Lạc Chơn-Kinh hầu các đẳng linh-hồn đặng siêu thăng

 
Tịnh-Độ .

Ấy vậy, bổn kinh này nguyên của chư Phật, chư Tiên đă giáng cơ truyền thế trong kỳ Trung Nguơn Ất-Hợi .

Khi tụng phải thành tâm và phải để nơi tinh khiết .

Hội Thánh Kính Cáo .

 

 Tiểu Dẫn

 Cách Thờ Phượng và Cúng Kiếng

 

 Lập vị THƯỢNG-ĐẾ th́ phải lựa nơi nào cho tinh-khiết, tốt hơn hết là giữa nhà, lập trang thờ cho cao và treo màn cho khuất chỗ thờ phượng .

1 - Thánh-tượng THIÊN-NHĂN .
2 - Đèn Thái-Cực .
3 - Trái cây .
4 - Bông .
 5 - Nước trà " để bên Hữu ấy là Âm " .
6 - 7 và 8  -  Ba ly rượu .

9 - Nước trắng " để bên Tả ấy là Dương " .

10 và 12  -  Hai cây đèn .
11 - Lư hương .
Bông chỉ về TINH, Rượu chỉ về KHÍ, Trà chỉ về THẦN .
TINH, KHÍ, THẦN là Tam-Bửu của các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật .
- Thời Tư, Ngọ cúng rượu .
- Thời Mẹo, Dậu cúng nước Âm-Dương .

Khi cúng Thầy phải đốt cho đủ 5 cây hương, cấm hàng trong ba  cây gọi là : Án Tam-Tài, thêm hàng ngoài 2 cây gọi là : Tượng Ngũ-Khí .

 

Bàn Thờ Hộ Pháp

1

2               3

4       5       6       7       8

10              9               11

 

1 - Tượng thờ chữ " Khí "

        2 - Trái Cây .

        3 - Bông .

        4 - Nước Trà .

        5 - 6 và 7 - Ba ly Rượu .

        8 - Nước Trắng

        9 - Lư Hương .

        10 và 11 - Hai cây Đèn .

        Bàn thờ Hộ Pháp duy thờ nơi Thánh Thất mà thôi .

        Mỗi khi cúng Tứ Thời th́ đốt ba cây hương .

                         Cách Lạy & Ấn Tư

         Tay trái bắt ấn tư [1] rồi nắm lại. Kế đó, bàn tay mặt áp ngoài, rồi ngón cái ( tay mặt ) xỏ vô giữa ngón cái và ngón trỏ bên tay trái .

         Để hai tay như vậy mà đưa lên trán, xá sâu ba xá, rồi qú xuống .

         Đưa hai tay lên trán như trước niệm " Nam mô Phật " .

         Đưa qua bên trái niệm " Nam mô Pháp ".

         Đưa qua bên mặt niệm " Nam mô Tăng " .

         - Rồi để ngay trước ngực niệm :

          Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát ( Cúi đầu ) .

          Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát ( Cúi đầu ) .

          Nam mô Lư Đại Tiên Trưởng Kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ( Cúi đầu ) .

          Nam mô Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân ( Cúi đầu ) .

          Nam mô Chư Phật, Chư Tiên, Chư Thánh, Chư Thần ( Cúi đầu ) .

        - Mỗi lần lạy Trời, th́ lạy 3 lạy, mỗi lạy gật đầu 4 cái, như vậy tổng cộng là 12 gật .

        Nhớ mỗi lạy phải niệm : Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát .

        - C̣n lạy Phật và Tiên, th́ 3 lạy, mỗi lạy gật đầu 3 cái, như vậy tổng cộng là 9 gật .

        [1] ( Bắt ấn Tư nghĩa là bấm đầu ngón tay cái vào gốc ngón áp út, khi lạy th́ 2 bàn tay trải ra và 2 ngón cái phải gác tréo vào nhau )

                        Cúng Đàn

        Nơi Thánh-Thất, nhằm kỳ vía lớn hay Sóc-Vọng mới cúng đại đàn, c̣n kỳ dư th́ thiết tiểu đàn, dầu cho có làm tuần tự chi cũng vậy .

        Mỗi kỳ đại đàn th́ đánh 3 hiệp Lôi Âm Cổ và Bạch Ngọc Chung, mỗi hiệp 12 hồi, mỗi hồi 12 vùi, đánh Ngọc Hoàng Sấm có nhạc lễ .

         Tiểu đàn không có đánh trống duy có kệ chuông mà thôi .

         Khi sửa soạn cúng, đánh chuông nhứt, kệ ba câu, hễ dứt mỗi câu đánh một tiếng chuông lớn .

        Chừng nhập đàn, đánh chuông nh́, kệ ba câu, hễ dứt mỗi câu đánh một tiếng chuông lớn .

        Lúc cúng rồi, kệ ba câu, dứt mỗi câu đánh một tiếng chuông lớn, kế xá băi đàn .

        Nơi nhà Đạo hữu, trước khi sửa soạn cúng Tứ thời th́ đánh ba tiếng chuông, lúc cúng rồi cũng đánh ba tiếng chuông là đủ, chớ không có kệ .

                        Trai-Kỳ

      Nhập môn rồi phải tập trai giới, ban đầu ít nữa phải giữ lục trai, lần lần tập đến thập trai, như trường trai được lại càng tốt .

      Lục trai là : ăn chay ngày mồng 1,8,14,15,23 và 30 .

      ( Nhưng tháng thiếu ăn ngày 29 thế cho ngày 30 ) .

      Thập trai là : ăn chay ngày mồng 1,8,14,15,18,23,24,28,29 và 30 ( Tháng thiếu ăn thêm ngày 27 ).

      Vị nào giữ được thập trai đỗ lên th́, sau khi qui liễu, được Hội-Thánh đến làm phép xác, y như lời Thầy đă tiên tri :

        " Ai giữ trai kỳ từ 10 ngày sấp lên, được thọ truyền bửu-pháp " .

                     Cách Thiết Lễ & Nghi Tiết

         Cầu Hồn khi hấp hối & Cầu Hồn khi đă chết rồi

        Dầu nhằm giờ cúng ( Tứ-Thời ) hay không cũng phải thiết lễ

 Thầy trước. Cúng rồi tịnh tâm vái Thầy đặng tụng Kinh Cầu Hồn cho Đạo hữu trong khi hấp hối hay đă vừa quy liễu .

        Rồi vị chứng đàn đến đứng phía trước đầu bịnh nhơn, nếu có Đồng-nhi th́ sắp hàng hai bên từ phía trên sắp xuống .

        Vị chứng đàn đứng giữa, tịnh thần nghiêm-trang và kêu người bịnh hấp hối, dầu dứt hơi rồi cũng vậy, mà nói rằng :

        " Tôi vâng lịnh Đức Chí Tôn đến tụng kinh cho linh hồn Đạo hữu ........[2] nhẹ nhàng siêu thăng tịnh độ. Vậy Đạo hữu phải tịnh thần mà nghe và phải cầu nguyện nơi Đức Chí Tôn ban ơn lành cho " .

        - Kế tụng Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối ( 3 lần ) .

        - khi dứt phải cúi đầu và niệm câu chú của Thầy ( 3 lần ) .

        - C̣n như bịnh nhơn vừa tắc hơi th́ tụng bài Kinh Đă Chết Rồi ( 3 lần ) .

        [2] ( Cầu hồn cho Chức sắc th́ kêu Thánh danh, Đạo hữu th́

 kêu Hiền Huynh hay Hiền Tỷ v.v... )

                Tẩn Liệm

        Cách thể Nghi-tiết làm cũng như cầu hồn vậy, nghĩa là phải cúng Thầy trước, rồi đến chỗ người chết nằm, tụng kinh tẩn liệm ( 3 lần ).

 Tụng rồi th́ tang chủ lạy vong-linh nghĩa là lạy xác rồi mới tẩn liệm .

                Cầu Siêu

        Đương lúc làm phép xác, phải tụng kinh :

        " Đầu vọng bái Tây Phương Phật Tổ "

        " A-Di-Đà Phật độ chúng dân v.v... "

        Rồi tụng tiếp bài :

        " Ba mươi sáu cơi Thiên-Tào "

        " Nhập trong Bát Quái mới vào Ngọc Hư v.v... "

        Tụng như vậy ba lần, mỗi lần dứt bài kinh phải cúi đầu .

        Khi dứt bài kinh lần thứ ba phải niệm câu chú của Thầy ( 3 lần ) .

        Tới tụng Di Lạc Chơn Kinh .

        Những nhà ở xa Thánh-Thất, không thể đến làm phép xác được, th́ sau khi tẩn liệm, lập một bàn thờ Vong trước linh cữu, rồi vị chứng đàn cầu nguyện Thầy [3], đặng thỉnh Vong đến trước Điện-tiền [4] và cũng tụng như ở trên đây vậy .

        [3] ( Lên nhan đèn tử tế, không có đọc kinh cúng, ( Tứ-Thời ) .

 Vị chứng Đàn phải Chức sắc Thiên phong, hay là Chức việc Chánh, Phó Trị-Sự hoặc Thông-Sự, phải có hai vị Chức sắc hay là Chức việc nhỏ hơn vị chứng đàn cầm 2 cây đèn cầy đứng hai bên ) .

        [4] ( Nơi Điện tiền, sau chỗ vị chứng đàn phải để trống

 1 chỗ nghĩa là cho Vong qú cúng Thầy và nghe tụng kinh ) . ( Hành lễ nơi Thánh Thất, thượng sớ kêu là Điện-tiền, c̣n nơi tư gia th́ kêu là Thiên-bàn ) .

                Thành Phục

        Cúng Thầy trước có thượng sớ, rồi cúng Thành-phục làm theo lễ Nho .

        Cúng Triêu-Tịch cũng làm lễ ( Nho ) .

                Đưa Linh Cửu

        Cúng Thầy trước, rồi làm lễ cáo Từ-Tổ. Khi làm lễ cáo từ-tổ th́ tụng Kinh Cầu Tổ Phụ ( 3 lần ) và tụng Kinh Cứu Khổ ( 3 lần ), hễ dứt th́ niệm câu chú của Thầy ( 3 lần ) kế làm lễ Khiển-Điện, làm lễ Nho .

        Xong rồi cho Đạo-tỳ nhập bái quan [5]. Hễ phát hành th́ Đồng-nhi tụng bài Kinh Đưa Linh Cửu ra tới huyệt .

        Khi di Linh cửu ra ngoài đàng th́ sắp đặt như sau đây :

        1.- Hễ là Tín-đồ đến Lễ-sanh th́ cây phướn của Thượng- Sanh đi trước, c̣n hàng Chức sắc từ Giáo-hữu trở lên th́ cây phướn Thượng-Phẩm đi trước, " Hai cây phướn Thượng Sanh, Thượng-Phẩm ấy, thế cho tấm triệu " .

        2.- Bàn thờ Vong .

        3.- Đồng-nhi đi hai hàng ( Nam tả Nữ hữu ).

        4.- Linh cữu .

        5.- Tang chủ đi kế sau linh Cửu .

        6.- Nữ phái

        7.- Nam phái chót hết .

        [5] ( Giảm bớt cách tập đi đảo hàng và lộng ṿng móc mối, mà chỉ sắp hàng đôi ở ngoài đi vô cho có hàng ngũ. Khi vào bái quan rồi, lạy bốn lạy như thường là đủ .

        - Tụng tới mấy hàng chữ xiêng và đậm nét phải gật đầu ) .

                Hạ Huyệt

        Khi ra tới huyệt th́ vị chứng Đàn và Đồng-nhi đứng trước đầu huyệt tụng kinh Hạ-huyệt ( 3 hiệp ), mỗi hiệp cúi đầu, măn hiệp thứ 3 liền tụng ba biến Văng-sanh Thần-chú. Hễ dứt th́ niệm câu chú của Thầy ( 3 lần ) .

                Làm Tuần Cửu

        Từ Nhứt-cửu tới Cửu-cửu kỳ nào cũng phải cúng Thầy trước ( cúng Tiểu-đàn ) có dâng Tam-Bửu và thượng sớ, song không có lễ nhạc .

        Khi cúng Thầy rồi, thỉnh linh vị đến trước Điện-tiền, tụng bài kinh Khai Cửu, rồi tiếp tụng kinh Nhứt cửu hoặc Nhị cửu ( tụng như vậy cho đủ 3 hiệp ) .

     Đến khi dứt th́ niệm câu chú của Thầy ( Lạy ba lạy. Mỗi lạy 4 gật X 3 lạy = 12 gật ) .

        Mỗi tuần cửu phải qú tụng Di-Lạc Chơn-Kinh nơi trước Bửu-Điện. Hễ dứt hiệp th́ niệm danh mỗi vị Phật và lạy một lạy .

        Sau rốt hết niệm câu chú của Thầy ( Lạy ba lạy. Mỗi lạy 4 gật X 3 lạy = 12 gật ) .

        Tụng nhiều chừng nào tốt chừng nấy song mỗi hiệp tụng 3 người đến 6 người cho ăn rập nhau .

                  Tiểu Tường  ( 200 ngày )

        Đếm đủ 200 ngày kể từ ngày làm tuần Cửu-cửu rồi mới làm lễ Tiểu Tường .

        Cách thể ghi tiết th́ cũng làm y như làm tuần Cửu-cửu vậy, nghĩa là cúng Tiểu Đàn có dâng Tam-Bửu và Thượng sớ, rồi thỉnh linh vị đến trước Điện-tiền tụng kinh Khai Tiểu-Tường kế tiếp tụng kinh Tiểu Tường ( tụng như vậy cho đủ 3 hiệp ) . Đến khi dứt th́ niệm câu chú của Thầy ( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật = 12 gật ) .

         C̣n sự cúng vong th́ nên cúng nơi nhà thờ tiền văng, làm lớn hay nhỏ tùy sức tang chủ và phải thương lượng trước với Lễ-viện .

                  Đại Tường  ( 300 ngày )

        Đếm đủ 300 ngày kể từ ngày làm Tiểu Tường rồi mới làm Đại Tường .

        Nghi lễ cách làm cũng y như Tiểu Tường vậy, nhưng trước hết phải tụng Kinh Khai Đại Tường rồi tiếp tụng Kinh Đại Tường ( tụng như vậy cho đủ 3 hiệp ) đến khi dứt th́ niệm câu chú của Thầy ( 3 lạy, mỗi

 lạy 4 gật = 12 gật )

        Tiếp theo tụng Di Lạc Chơn Kinh. Đại Tường măn tang lễ Trừ phục, cúng vong làm lễ ( Nho ) .

             Cầu Hồn & Cầu Siêu

         Cho Người Chưa Nhập Môn Cầu Đạo

        Những người chưa nhập môn cầu Đạo, chẳng luận giàu sang hay nghèo hèn, già trẻ hay trẻ bé, đă nhập môn rồi nhưng bị sa ngă bỏ Đạo, mà đến giờ chót của người, biết hồi tâm tin tưởng Đức Chí Tôn, hay là người chết rồi mà thân tộc người tin tưởng Đức Chí Tôn, đến rước Cầu-hồn và Cầu-siêu th́ chúng ta cũng nên thi ân giúp đỡ linh hồn ấy siêu thoát.

 Ấy là một điều làm phước đức, độ linh hồn con cái của Đức Chí-Tôn y theo Chơn truyền Tận-Độ .

        Song cách thể hành Đạo, Chức sắc và Chức việc phải làm y như vầy :

        1 - Về việc cầu siêu, nếu gần Thánh thất th́ cầu siêu nơi Thánh thất .

        2 - Nếu ở xa Thánh thất th́ thiết lễ cầu siêu nơi nhà Chức sắc hoặc Chức việc gần đó .

        3 - Nếu người trong thân chịu nhập môn th́ dỡ hơn Chức việc cứ đến Thượng-Tượng cho nhập môn rồi thiết lễ tang sự luôn .

        4 - Về việc cầu hồn làm tại nhà tang chủ, Cầu hồn th́ duy tụng bài

        " Đầu vọng bái Tây Phương Phật Tổ "

        " A Di Đà Phật độ chúng dân v.v... "

        Tối lại cả Đạo hữu và gia quyến của người lâm chung phải thành tâm tụng Di Lạc Chơn Kinh cho tới ngày di linh cữu .

         Đều trọng yếu hơn hết là tất cả Tang-môn phải giữ trai giới trong mấy ngày Linh cữu c̣n tại tiền th́ mới làm bạt-tiến cho linh hồn được giải thoát .