SƠ LƯỢC TÔN GIÁO CAO ĐÀI PHỔ TRUYỀN RA BẮC VIỆT

( Hà Nội : 1933-1945 )

 
 

Ngày Rằm tháng 10 năm Bính Dần (19-11-1926) Đức NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ giáng trần hoằng khai nền ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ (Tại Thánh Thất G̣ Kén thuộc tỉnh Tây Ninh) trên đất nước VIỆT NAM đang bị lệ thuộc PHÁP do dân tộc VIỆT NAM là chủ mối Đạo nhà.

 

HỘI THÁNH CAO ĐÀI dự trù Lễ Khánh Thành Thánh Thất Từ Lâm (G̣ Kén) trong 3 ngày, v́ tài chính có hạn, không dám mời nhiều quan khách, bởi thực dân PHÁP theo dơi cản ngăn lắm chuyện, nhưng lễ khánh thành Thánh Thất vẫn được kéo dài trên 3 tháng do đồng bào nhân sĩ trí thức báo giới lần hồi kéo về Thánh Thất Từ Lâm Tự chiêm ngưỡng lễ bái Đức THƯỢNG ĐẾ cùng chào mừng nền Tôn Giáo CAO ĐÀI vừa mới khai sáng trên lănh thổ Việt Nam, và vỏn vẹn trong 3 tháng có trên 100 ngàn người xin gia nhập môn cầu Đạo cùng lôi cuốn thêm một số đông Tín Hữu ở các địa phương tự nguyện hiến thân về làm công quả nơi Thánh Thất Từ Lâm Tự (G̣ Kén).

 

Đồng thời thúc ép và bắt buộc Hoà Thượng NHƯ NHĂN phải chính thức đ̣i ngôi Chùa Từ Lâm Tự, v́ vị Chánh Tham Biện Tỉnh Tây Ninh (Người Pháp làm Chủ Tỉnh Tây Ninh) lúc bấy giờ quá lo âu về sự phát triển mạnh mẽ của Đạo CAO ĐÀI nên cố t́nh ngám ngầm xúi giục Phật Tử đ̣i Chùa Lâm Tự để ngăn chặn sự phát triển của Đạo CAO ĐÀI.

 

Trước áp lực nặng nền bị các Phật Tử quá khích lớn tiếng đ̣i trục xuất ra khỏi Chùa G̣ Kén, HỘI THÁNH c̣n đang băn khoăn t́m nơi di dời th́ Đức CHÍ TÔN và Đức LƯ THÁI BẠCH giáng cơ chỉ dẫn HỘI THÁNH t́m mua phần đất để cất ngôi ĐỀN THÁNH tạm.

 

Đức LƯ THÁI BẠCH phán dạy: “Mai này chư Hiền Hữu lên đường Dây Thép đến tận Bàu Cà Na thuộc xă Long Thành Tây Ninh, coi như Hiền Hữu có thấy đặng chăng ?”.

Với sự chỉ dẩn của Đức LƯ THÁI BẠCH quá ư rơ ràng, HỘI THÁNH nhờ xe ông THÁI THƠ THANH, Đại Tỷ LÂM HƯƠNG THANH, Đức PHẠM HỘ PHÁP, Ngài Đầu Sư LÊ VĂN TRUNG và nhị vị Phối Sư THƯỢNG TƯƠNG THANH và NGỌC TRANG THANH đưa đến Cà Na và mua được phần đất của người PHÁP. làm Kiểm Lâm tên là ASPAR.

 

Sau khi t́m mua được một phần đất, HỘI THÁNH cầu cơ đễ thỉnh giáo Đức LƯ THÁI BẠCH, Đức LƯ ĐẠI TIÊN giáng cơ phán dạy: “Phải đó ! Tưởng chư Hiền hữu không thấy. Lăo cắt nghĩa v́ sao cuộc đất ấy là Thánh Địa, chẳng sâu hơn 30 thước mạch nước như con sông, giữa trung tâm đất giáp lại trúng giữa 6 nguồn làm ra như in 6 con rồng đoanh nhau. Nguồn mạch ấy lấy chụm trong đỉnh núi, nên gọi là Lục Long pḥ ấn. Ngay miếng đất ấy đặng 3 đầu: 1 đầu ra giếng Mạch (Ao hồ), 2 đầu nửa bên cụm rừng bên kia !

 

Vậy người Lang Sa chủ đất đ̣i 20 ngàn, Lảo dặn THÁI THƠ THÁNH vào trả 17, 18 ngàn th́ đặng đất. Đă vậy c̣n xin khai khẩn miếng rừng bên kia nữa mới trọn. Ngày nay c̣n rẻ, chớ đất chung quanh Thánh Thất ngày sau hoá vàng.

Chư Hiền Hữu hiểu biết đủ đều lo lập nghiệp ngày sau rất nên quư trọng”.

 

Sau khi HỘI THÁNH mua phần đất của ông ASPAR xong th́ Đức CAO THƯỢNG PHẨM hướng dẫn số công quả khởi công sang bằng khu rừng cấm 96 mẫu ngày đêm không nghỉ.

 

Với hai bàn tay trắng, không cơ giới, chỉ có một quyết tâm cùng nhiệt thành chung trí vỏn vẹn trong ṿng 3 tháng th́ khu rừng cấm hoang vu đầy hùm beo ác thú đă nhường chỗ cho ngôi ĐỀN THÁNH tạm bằng gỗ tranh lá có đủ lầu Chuông, Lầu Trống có Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài, Bát Quái Đà cao ṿi vọi ẩn bên khu rừng thiên nhiên với kiến trúc thẩm mỹ phi thường khiến cho các du khách vô cùng kinh ngạc bởi công tŕnh tạo tác do quyền Thiêng Liêng hướng dẫn cho đến ngày hoàn thành Ngôi ĐỀN THÁNH tạm.

 

Đức LƯ THÁI BẠCH giáng cơ phán dạy HỘI THÁNH : “Ngày nay LĂO nhất định bỏ chùa G̣ Kén. Vậy th́ phải trả lại chùa này, song trước khi trả phải cất Thánh Thất cho xong y như lời dạy. Chư Hiền Hữu phải hiệp nhau lập cho thành T̉A THÁNH, chi chi cũng tại Tây Ninh này mà thôi, bởi v́ nơi đây rộng rải đó là nơi  tiếp giao với ngoại quốc”. V́ thế đúng ngày Rằm Tháng 2 năm Đinh Măo (23-31927) HỘI THÁNH CAO ĐÀI TOÀ THÁNH TÂY NINH chính thức giao trả lại ngôi chùa G̣ Kén cho Hoà thượng NHƯ NHĂN, thực hiện đúng lời phán dạy của Đức Lư.

Nền ĐẠI ĐẠO từ từ thuyên bổ Chức Sắc Nam Nữ đi truyền Đạo ở các tỉnh Miền Đông Miền Tây NAM VIỆT, và lập thành Hội Thánh Ngoại Giáo do Giáo Hữu THƯỢNG BẢY THANH (LÊ VĂN BẢY) làm Chủ Trưởng.

 

Kế tiếp vào giữa năm 1927, Đức Hộ Pháp PHẠM CÔNG TẮC lên Phnom - Pênh giúp sức cho Giáo Hữu THƯỢNG BẢY THANH truyền bá Đạo CAO ĐÀI vô cùng mạnh mẻ tại Cao Miên, phổ độ được một số đông thân hào trí thức tại Phnom - Pênh nhập môn cầu Đạo, và lập nhiều đàn cơ được nhà đại văn Hào VICTOR HUGO hướng dẫn.

Do đó Hội Thánh Ngoại Giáo được đặt dưới quyền Thiêng liêng CHƯỞNG QUẢN của ĐỨC NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN (VICTOR HUGO) trực thuộc Hội Thánh Cao Đài Toà Thánh Tây Ninh và Bổ nhiệm Chức sắc đi truyền Giáo : THÁI LAN, AI LAO và TRUNG HOA.

 

ĐẠO CAO ĐÀI ĐƯỢC PHỔ TRUYỀN RA BẮC VIỆT ( HÀ NỘI )

 

Năm 1930 ông Lễ Sanh NGỌC HOÀ THANH (BÙI VĂN HOÀ, sinh quán tại Bắc Việt, là một công chức Sở Bưu Điện Hà Nội được về Miền Nam VIỆT NAM, nhập môn vào Đạo CAO ĐÀI và đắc phong Lễ Sanh phái NGỌC) là vị Chức Sắc CAO ĐÀI đầu tiên thờ phượng Đức CHÍ TÔN ở phố Hàng Bè HÀ NỘI, với tư cách cá nhơn không do HỘI THÁNH bổ nhiệm. Tuy nhiên ông Lễ Sanh NGỌC HOÀ THANH rất nhiệt t́nh lo ĐẠO, tự nguyện đi đến các làng Tương Mai, Bạch Mai, Đăng Giang thuyết minh Giáo Lư CAO ĐÀI được đồng bào chú ư chấp nhận Tôn Giáo CAO ĐÀI hoà hợp với các Tôn Giáo khác đă sẵn có tại Bắc Việt. Mặc dù ông Lễ Sanh NGỌC HOÀ THANH không có quyền cấp giấy nhập môn cầu Đạo nhưng sau này một số đông đồng bào giác ngộ trước đă được ông Lễ Sanh HOÀ đưa đến Thánh Thất  LÊ LỢI của Hội Thánh Toà Thánh Tây Ninh lập minh thệ nhập môn cầu Đạo.

 

Giáo Hữu THƯỢNG TUẤT THANH Chức Sắc CAO ĐÀI đầu tiên được Hội Thánh Toà Thánh Tây Ninh bổ nhiệm ra Truyền Giáo tại Bắc Hà là một sự lựa chọn vô cùng tế nhị bởi ông NGUYỄN VĂN TUẤT là người sanh trưởng tại Tỉnh Nam Định (Bắc Việt) ông vào miền Nam lập nghiệp và may duyên nhập môn cầu Đạo CAO ĐÀI, được thọ phong Lễ Sanh THƯỢNG TUẤT THANH lập công quả tại Toà Thánh  TÂY NINH và vinh thăng lên phẩm Giáo Hữu.

 

Đầu năm Quư Dậu (1933) ông Giáo Hữu THƯỢNG TUẤT THANH được Hội Thánh CAO ĐÀI Toà Thánh Tây Ninh tuyển chọn thuyên bổ truyền Đạo tại Bắc Việt (Hà Nội), bởi vị Chức Sắc gốc người Bắc rất dễ dàng hoà nhập và gây cảm tỉnh với người Bắc hơn. Nhờ vậy mà ông Giáo Hữu, THƯỢNG TUẤT THANH đă độ dẫn được một số đông nhập môn cầu Đạo. Nhưng sự vận chuyển giao thông giữa 2 miền NAM và BẮC c̣n gặp nhiều khó khăn.

 

Năm 1935 xe lửa (Hoả Xa) từ Hà Nội chỉ chạy tới Vinh, c̣n xe lửa từ Sài G̣n chỉ chạy tới Tourane - Đà Nẵng mà thôi và xe đ̣ th́ chưa có phương tiện giao thông lúc bấy giờ duy nhất là tàu biển vừa tốn kém vừa mất thời gian vận chuyển từ Hà Nội vào Sài G̣n.

Hội Thánh Cao Đài Toà Thánh Tây Ninh biết rơ Chức Sắc miền Nam ra Hành Đạo tại miền  BẮC rất bở ngở nên mới chọn ông Giáo Hữu THƯỢNG TUẤT THANH, nhưng tiếc rằng ông Giáo Hữu, THƯỢNG TUẤT THANH mới ra Miền Bắc truyền Đạo được một thời gian ngắn th́ ông quy vị, sau cơn bệnh nặng và được Bổn Đạo chung lo cuộc an táng ông tại Nghĩa Trang Hợp Thiện thuộc tỉnh Hà Đông, cùng được HỘI THÁNH TOÀ THÁNH TÂY NINH truy phong Đầu Địa Phận Đạo Vô Vi tại Bắc Việt.

Kế tiếp là ông Giáo Hữu THƯỢNG CHỮ THANH (ĐẶNG TRUNG CHỮ) được lệnh HỘI THÁNH TOÀ THÁNH TÂY NINH  bổ nhiệm Truyền Giáo tại Bắc Việt, ông Giáo Hữu THƯỢNG CHỮ THANH ra Hà Nội tạm lập ngôi Thánh Thất tại Phố Ga Hàng Cỏ một thời gian th́ gặp phải khó khăn theo dơi của nhà cầm quyền PHÁP nên chỉ trong một thời gian ngắn th́ ông Giáo Hữu THƯỢNG CHỮ THANH đệ đơn xin Hội Thánh cho trở về Miền Nam phục vụ cho Đạo, và được HỘI THÁNH chấp nhận cho trở về Toà Thánh Tây Ninh.

 

Đầu năm 1934, HỘI THÁNH TOÀ THÁNH TÂY NINH tiếp tục thuyên bổ một phái đoàn Chức Sắc gồm 4 vị : Giáo Hữu THƯỢNG NGOẠN THANH (NGUYỄN VĂN NGOẠN), Lể sanh THƯỢNG ĐIỂM THANH, Chánh trị Sự THẠCH và Phó Trị Sự PHONG vừa đặt chơn tới Hà Nội th́ liên lạc thẳng với Hội Nam Kỳ Tương Tế, một hội do đồng bào Miền Nam ra làm việc tại Hà Nội.

 

Trụ Sở NAM KỲ TƯƠNG TẾ đặt tại khu phố Thi Sách (gần khu Nhà Rượu) do các ông : MAI VĂN BIÊN, MAI VĂN NGHĨA, HỒ TRỌNG TUẤN cùng vài chục hội viên hoạt động song hội Nam Kỳ Tương Tế lại có nghĩa trang riêng biệt khá rộng răi toạ lạc ở phố NGUYỄN CÔNG TRỨ (sau Nhà Rượu). Nhiều cuộc gặp gỡ vô cùng tâm đắc giữa phái đoàn Chức Sắc Cao Đài Toà Thánh Tây Ninh với Hội Nam Kỳ Tương Tế và quư ông : MAI VĂN BIÊN, MAI VĂN NGHĨA, HỒ TRỌNG TUẤN  Và các Hội viên Hội Nam Kỳ Tương Tế đồng t́nh nguyện nhập môn cầu Đạo theo sự hướng dẫn của ông Giáo Hữu THƯỢNG NGOẠN THANH thâu được một số Tín Hữu mới toàn là công chức tri thức nhập môn vào Đạo CAO ĐÀI ông Giáo Hữu THƯỢNG NGOẠN THANH đề nghị thành lập một ngôi Thánh Thất tạm cho nhơn sanh có nơi lễ bái CHÍ TÔN th́ được sự nhiệt t́nh hưởng ứng của một số người mới nhập môn tán thành.

Phải nh́n nhận công nghiệp phi thường của nhị vị Đạo Hữu MAI VĂN BIÊN  và MAI VĂN NGHĨA mới nhập môn vào Đạo,  nhưng có quyết tâm và nhiệt t́nh chạy t́m kiếm một căn nhà cho khang trang để tạm lập ngôi Thánh Thất CAO ĐÀI tạm.

 

Đáp ứng một số nguyện vọng thiết tha của một số Tín Hữu mới nhập môn cầu Đạo là thuê được một ngôi nhà rất khang trang tại phố HARMAND (sau này là Phù Đổng Thiên Vương gần khu nhà rượu) tạm làm Thánh Thất.

 

Thuê xong căn nhà, toàn cả Bổn Đạo Nam Nữ đồng chung tâm hiệp trí kẻ của, người công trang trí Văn Pḥng và Thánh Thất suốt 2 tháng mới chu toàn, ông Giáo Hữu THƯỢNG NGOẠN THANH lo chỉ dẫn các thờ phượng trên Thiên Bàn, tập dợt Đồng Nhi đọc kinh hướng dẫn việc kệ Chuông - Trống cùng lễ nhạc vô cùng chu đáo chuẩn bị ngày khai  ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ tại Bắc Hà mồng 1 tháng 3 năm Giáp Tuất 9DL (14-4-1934 ngày thứ bảy).

 

Huyền diệu thay ! Sự trông đợi chờ mong của Bổn Đạo Bắc Hà đă khởi điểm tiếng Trống Chuông vang rền tại Thánh Thất Cao Đài Harmand (Gọi theo tên đường phố cho Bổn Đảo dễ nhớ làm rung động bao con tim của những người ngoan Đạo tại Thủ Đô Hà Nội lúc bấy giờ, cùng thức tỉnh bao oan hồn lạclơng nương theo tiếng Trống chuông cầu xin siêu thoát.)

 

Lần đầu tiên tiếng Trống Chuông ĐẠI ĐẠO ngân vang vào giờ Tư (12 giờ khuya đêm mồng 1 tháng 3 năm Giáp Tuất giữa chốn ngh́n năm văn vật trước sự ngạc nhiên của người Pháp và đồng bào quanh vùng Bắc Hà hiếu kỳ kéo nhau đến dự khán buổi lễ Lịch Sử Đạo CAO ĐÀI tại Bắc Hà nhứt là giọng đọc kinh trầm bổng thảnh thót hoà lẫn với