Ngoài các bài kinh Thiên Ịạo đọc trong các thời cúng tại Thánh Thất hay tư gia
mà ni dung ca ngợi công đức của các Ịấng Trọn Lành hay kêu gọi đến năng lực thần
bí của thế giới thần linh, để hổ trợ cho các pháp bửu bí truyền được ứng hiện
linh diệu, người ta nhận thấy c̣n có rất nhiều bài kinh gọi là Kinh Thế Ịạo,
dùng để đọc trong những dịp sau đây:
- Tang tế: thí dụ bài kinh dùng để tỏ cái t́nh, cái nghĩa của người c̣n sống với
kẻ quá cố.Thuộc loại nầy, nghi lễ Cao Ịài đă có những bài kinh sau đây:
- Kinh tụng khi Vua thăng hà,
- Kinh tụng khi Thầy qui vị,
- Kinh cầu Tổ Phụ qui liễu,
- Kinh tụng Cha Mẹ qui liễu,
- Kinh cầu Bà Con cố hữu qui liễu,
- Kinh tụng Huynh Ịệ măn phần,
- Kinh tụng khi Chồng qui vị,
- Kinh tụng khi Vợ qui liễu.
Lời lẽ trong bài kinh khác nhau tùy theo mối liên hệ giữa người quá cố và kẻ
sanh tiền, nhưng ni dung có điểm tương đồng là ca ngợi công ơn của người đă chết,
nhắc nhỡ vong linh luôn luôn nhớ đến Ịức Chí Tôn, và sau cùng là lời cầu khẩn
cùng Ịức Ngài từ bi cứu đ.
- Hôn phối: Chỉ có một bài kinh duy nhứt gọi là kinh Hôn Phối đọc tại Thánh Thất
khi đám cưới được Hi Thánh nh́n nhận hợp pháp và có Chức Sắc làm phép Hôn Phối.
- Nhóm họp: trong các buổi hi họp đông người, hoặc để thuyết pháp cũng có bài
kinh như:
- Kinh nhập hi đọc lúc khai mạc buổi họp.
- Kinh xuất hi đọc vào lúc bế mạc buổi họp.
- Kinh thuyết pháp đọc trước khi giảng Ịạo, thuyết pháp.
- Các hoạt động thường ngày: xen vào các hoạt động thường ngày như ăn ngủ, đi đứng
có bài kinh sau đây:
- Kinh khi thức dậy,
- Kinh đi ra đường,
- Kinh khi về,
- Kinh vào ăn cơm,
- Kinh khi ăn cơm rồi,
- Kinh khi đi ngủ.
- Và sau cùng là bài kinh cứu khổ dùng để đọc trong những dịp bất thường, khi người
tín đồ cần kêu gọi đến năng lực của thần linh giúp họ vượt qua vài trở ngại nào
đó trong cuộc sống, mà xét ra lời yêu cầu rất nên chánh đáng.
Tất cả các bài kinh nầy đều có trong quyển "Kinh Thiên Ịạo và Thế Ịạo" do Hội
Thánh ỊỊTKPỊ Ṭa Thánh Tây Ninh xuất bản.
II.- Cách Áp Dụng
Có một điều lầm lẫn rất tai hại là người ta vẫn thường cho rằng các bài kinh Thế
Ịạo liên quan đến các hoạt động thường ngày như ăn ngủ, đi đứng...chỉ áp dụng
cho trẻ con mà thôi, c̣n người lớn th́ đă "hiểu đạo" rồi. Ịành rằng khi người ta
đă thấm nhuần tư tưởng cao siêu trong các bài kinh ấy, và đă thật sự sống với
những điều mà tư tưởng ấy muốn diễn tả, th́ h́nh thức đọc kinh có lẽ cũng không
c̣n cần thiết nữa. Kẻ đă qua sông th́ cần ǵ phải mang theo chiếc bè trên lưng,
thế nhưng nh́n kỹ lại, trong hạng tín đồ có bao nhiêu người có được tŕnh độ tâm
linh như vậy? Phải thành thật thú nhận rằng có rất ít người đạt đến mức đ ấy sau
nửa thế kỷ truyền giáo.
Cho nên sự áp dụng một cách nghiêm chỉnh những bài kinh thế đạo vẫn cần thiết,
và rất cần thiết như cơm ăn, áo mặc hằng ngày vậy. Ịọc kinh chỉ là làm thể pháp
mà thôi, cần đạt đến ni dung là cái tác dụng của lời kinh ấy giúp ích được ǵ
cho tâm hồn của chúng ta lắng đọng những tư tưởng trần tục và khơi dậy những tư
tưởng thanh cao thánh triết. Cho nên nếu người tín đồ chịu khó suy nghiệm sẽ
thấy cách áp dụng như sau:
- Ịối với trẻ con cần có sắc tướng âm thanh rơ rệt chúng mới hiểu được nên cần
phải đọc ra lời, lại nữa cũng là phương bắt chúng học thuộc ḷng.
- C̣n đối với người lớn th́ chỉ đọc trong trí mà thôi, nghĩa là tâm ḿnh tưởng
đến những lời kinh trước khi ăn cơm, sau khi ăn xong, trước khi nhắm mắt ngủ,
khi vừa tỉnh giấc, khi đi ra đường, khi trở về nhà. Phương thức nầy áp dụng cho
tất cả mọi người, mọi nơi, mọi lúc...bên ngoài dường như không ai hay biết ǵ cả
về thế giới ni tâm sinh động của ḿnh. Chỉ thoáng mấy giây đồng hồ chúng ta có
thể tưởng xong một bài kinh, nghĩ cũng chẳng khó ǵ, mà ít người làm được!
III.- Tác Dụng Tâm Lư Và Thần Quyền
Có lẽ nguyên nhân chính của sự lười biếng nầy là người tín đồ không hiểu rơ, và
cũng không được chứng nghiệm về tác dụng hữu ích của lời kinh tiếng kệ, do đó
không có đức tin vững mạnh đối với thần linh, những bậc chơn tu đều có một niềm
thương xót vô biên đối với chúng sanh, khi thấy họ không hiểu ǵ về thế giới
thần linh cả. Muốn nắm tay dẫn đến tận nơi, vén bức màn thiêng liêng chỉ cho ngó
thấy tận mắt, sợ e v́ kinh hăi mà loạn thần hóa ra ngây dại, c̣n dùng lư lẽ mà
nhủ khuyên th́ lư căi lư già đời không hết.
Nếu biết rằng người có xác và hồn, xác biết ăn c̣n hồn chẳng biết ăn sao? Xác
biết lựa món ăn ngon c̣n hồn chẳng biết món ăn sao? Chẳng lẽ xác biết lựa cao
lương mỹ vị cho béo bổ khỏe mạnh c̣n hồn th́ cho nó ăn những tư tưởng, thấp hèn,
oán ghét, thù hận, đố kỵ, tham lam, ích kỷ hay sao? Vậy mà con người vẫn thường
hay đắm ḿnh trong những tư tưởng hắc ám ấy.
Muốn xua đuổi những tư tưởng oán thù, tham lam, ích kỷ...ra khỏi tâm thần người
tín đồ, các bậc Thánh hiền đă đặt ra các bài kinh thế đạo để ngày ngày áp dụng
dường như có một người nhắc nhở bên tai ḿnh vậy. Không chịu áp dụng th́ kể như
không c̣n ai nhắc hết. Nghĩ về điều tốt tức là không nghĩ về điều xấu, ít ra
cũng trong khoảnh khắc nào đó, rồi những tư tưởng thiện ấy sẽ từ từ hướng dẫn
thể xác có những hành động lành. Ấy là một cái phép của trời đất, phải tập cho
con người có suy nghĩ tốt trước đă, rồi ư nghĩ ấy sẽ dẫn dắt hành động trở nên
tốt. Tác dụng tâm lư rơ ràng như vậy, muốn cùng chẳng muốn là tại ḿnh làm mà
thôi.
Về phương diện thần quyền chúng ta há chẳng thường thấy có những người mà tinh
thần bạc nhược, lờ đờ, uể oải, hiện rơ trên nét mặt...người đời há chẳng từng
gọi họ là những kẻ "không hồn" hay sao?Chẳng cần phải luận giải chi dài ḍng về
việc linh hồn có hay không, vậy chớ thực thể sinh động nào làm cho cái xác của
con người biết cựa quậy và khôn ngoan, làm cho chúng ta phân biệt được giữa một
tử thi và một con người sống? Chúng ta coi đó là dấu hiệu, là chứng tích của một
chơn thần đang ngự trị trong xác thân. Người đời vẫn thường gọi linh hồn là tất
cả những ǵ của con người khác hơn phần xác chết của họ. Phần linh hồn ấy sẽ rời
khỏi xác thân vào lúc mà người ta gọi là chết, và người sống có giao tiếp với nó
được. Thuật cầu cơ chấp bút trong Cao Ịài được xây dựng trên nền tảng nầy, người
sống có thể thông công với vong linh người chết (dĩ nhiên với một số điều kiện
nào đó không mấy dễ dàng). Kết quả của sự thông công nầy là Ịạo Cao Ịài được
thành h́nh. Linh hồn của thi hào Lư Bạch, của Thái Tử Sĩ Ịạt Ta, của Khổng Tử,
Lăo Tử, của Jesus Christ, của Victor Hugo, của Tôn Dật Tiên, Trạng Tŕnh, và
biết bao nhiêu người khác nữa mà danh tánh dường như xa lạ, đă đến để nói chuyện
với người tín đồ Cao Ịài, làm chứng rằng thế giới vô h́nh có thật và linh hồn
bất tử. Tất cả những vị nầy đều kính nhường một Ịấng mà người ta gọi là Ông Trời,
là Thượng Ịế, là Ịức Chí Tôn. Ṛi chính ḿnh Ịức Chí Tôn cùng đến nói chuyện với
loài người nữa.
Bây giờ chỉ c̣n vấn đề là con người có chịu đặt ḿnh trong mối tương giao mật
thiết với Thượng Ịế và thần linh hay không. Tôi sẽ không bao giờ nói chuyện với
bạn nếu tôi nghĩ rằng bạn không có mặt ở trước tôi, hay ít ra sự hiện hữu của
bạn không có trong tầm giao tiếp của tôi. Ịối với Thượng Ịế và Thần linh cũng
vậy, người tín đồ sẽ không thể nào cảm ứng được nếu họ không tin rằng có các Ịấng
ấy trong thế giới vô h́nh. Ịức tin là đầu mối, là điều kiện tối quan hệ để thiết
lập tương giao giữa người và thần linh, ư nghĩa sau cùng của đạo giáo là đặt đời
sống con người trong sự ḥa hợp với siêu nhiên, và quyền lực tối trọng kia được
mô tả bằng hai tiếng "Thượng Ịế". Thượng Ịế và Thần linh sống động, luôn luôn ảnh
hưởng trên đời sống trần tục của con người, và nếu con người thiết lập được tương
giao với các Ịấng ấy, đời sống của họ sẽ đi đúng trong thiên cơ và sẽ bảo đảm
cho họ chân hạnh phúc. V́ vậy đức tin là điều cần phải củng cố trước tiên, v́ người
ta không thể tin mà không có chứng nghiệm. Sự cầu nguyện và đức tin sẽ giúp người
ta có được những chứng nghiệm, một vài lần trong cả tháng hay đôi khi cả năm,
c̣n quá ít nếu không nói là không đủ để bắt gặp đời sống của các Ịấng Thiêng
Liêng. Tỉ như chiếc radio bỏ túi với vài cục pin bé nhỏ làm sao có thể bắt được
những làn sóng điện của anh phi hành gia từ cung trăng gởi về.
Phải có một đức tin rất mạnh mới chứng nghiệm được thế giới vô h́nh, và một khi
đặt ḿnh trong mối tương giao ấy, đời sống của người tín đồ trở nên phi phàm.
Tác dụng thần quyền của những bài Kinh Thế Ịạo là để buộc tâm thần người tín đồ
luôn luôn hướng về Ịức Chí Tôn cao cả, ḷng chân thành và tư tưởng của họ là
những tín hiệu gởi đến thần linh lời cầu xin giúp đỡ. Mối tương giao thiết lập
được th́ hai thực thể hữu vô sẽ là một. Người tín đồ sẽ trở thành người Thần,
người Thánh, người Tiên, người Phật trong tất cả mọi hành động của họ, lúc ăn,
lúc ngủ, lúc thức, lúc đi ra đường, lúc trở về...họ luôn luôn phối hợp với thần
linh trong mọi hoạt động và những tín hiệu ấy phải được đánh đi đều đều th́ hai
thực thể mới không tách rời nhau. Ịó cũng là ư nghĩa của tiếng Phật Trời pḥ h,
hay ban ơn vậy. |