Thờ Cúng

I. Cúng Ịại Ịàn Tại Thánh Thất
 

Tân Luật Ịại Ịạo Tam Kỳ Phổ Ịộ điều thứ 19 buộc mỗi tín đồ phải đến Thánh Thất tham dự các đàn cúng vào ngày mồng một và rằm mỗi tháng âm lịch và sau đó nghe giảng đạo. Trường hợp bận việc riêng bất khả kháng th́ được chế giảm.
Ịể kiểm soát sự siêng năng chầu Lễ Ịức Chí Tôn của tín đồ, Hội Thánh đă cho áp dụng thể thức chứng sổ lưu niệm mỗi lần dự lễ. Có hai h́nh thức cúng đàn: đại đàn và tiểu dẫn.
Nghi tiết cúng đại đàn tại các Thánh Thất được tóm lược như sau:
- Ịến giờ cúng, Lễ vụ đánh ba hiệp trống, mỗi hiệp 12 hồi, mỗi hồi 12 tiếng. Giờ cúng được ấn định vào thời Tư (00 giờ ) hoặc thời Ngọ (12 giờ trưa). Trước khi đánh trống phải đọc câu kệ trống
Chú Kệ Trống:

Lôi âm thánh cổ triệt hư không
Truyền tấu càn khôn thế giới thông
Ịạo pháp đương kim đương chánh giáo
Linh quang chiếu diệu Ngọc Kinh Cung
Dứt mỗi câu kệ phải đánh một tiếng trống hoặc một tiếng chuông tùy theo bài kệ
- Xong đến 3 hiệp chuông cũng y như đánh trống
Chú kệ chuông

Thần chung thính hướng triệt phong đô
Ịịa tạng khai môn phóng xá cô
Tam kỳ vận chuyển kim quang hiện
Sám hối âm hồn xuất u đồ.
Dứt mỗi câu kệ phải đánh một tiếng trống hoặc một tiếng chuông tùy theo bài kệ
- Khi chuông đổ được hai hiệp, chức sắc chức việc và tín đồ xếp thành hàng đi vào Thánh Thất, hai tay bắt ấn Tư (Cách bắt ấn Tư như sau: ngón cái của bàn tay trái chỉ vào gốc của ngón áp út, xong nắm các ngón tay lại. Dùng ngón cái của bàn tay phải chỉ vào gốc của ngón trỏ bàn tay trái, c̣n 4 ngón kia bao phía ngoài bàn tay trái. Khi bắt ấn này th́ tâm thần phải yên tịnh.), theo thứ tự nam tả nữ hữu (nh́n từ trong ra ngoài), phẩm lớn trước, phẩm nhỏ sau. Tất cả đứng dọc theo hai bên, mặt quay vào nhau.
- Chuông dứt, Lễ vụ khắc 3 tiếng chuông báo hiệu nhập đàn, tất cả đều xá một xá, xong bước vào giữa chánh điện, mắt nh́n về phía Thiên Nhăn.
- Nhạc tấu huân thiên: ban nhạc trổi bản ḥa tấu rất đặc biệt kéo dài khoảng nửa giờ. Mọi người đều đứng yên tại vị trí của ḿnh, cố gắng giữ tâm hồn cho yên tịnh.
- Niệm Thánh: dứt phần nhạc, nghe theo tiếng chuông của Lễ vụ tất cả đều xá 3 xá, qú xuống đưa tay lên giữa trán niệm "nam mô Phật", đưa tay bên trái niệm "nam mô Pháp", đưa tay bên phải niệm "nam mô Tăng", đưa tay giữa ngực niệm :

Nam Mô Cao Ịài Tiên Ông Ịại Bồ Tát Ma Ha Tát
Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nam mô Lư Ịại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông Ịại Ịạo Tam Kỳ Phổ Ịộ.
Nam mô Hiệp Thiên Ịại Ịế Quan Thánh Ịế Quân.
Nam mô chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần".
Mỗi câu niệm phải cúi đầu kính lễ.
- Ịọc kinh: niệm thánh xong đồng nhi bắt đầu đọc các bài kinh sau đây :
Niệm Hương:
"Ịạo gốc bởi ḷng tín hiệp ..."
Khi dứt lạy 12 lạy, nghĩa là 3 lần cúi xuống, mỗi lần 4 gật (v́ mỗi gật tương trưng cho một lạy), mỗi lần gật đầu đều có niệm chú Chí Tôn: "Nam mô Cao Ịái Tiên Ông Ịại Bồ Tát Ma Ha Tát ".
- Chú ư khi cúi xuống lạy hai bàn tay x̣e ra úp sát mặt đất, giữ cho 2 ngón tay chéo nhau khi ngẩng đầu lên th́ bắt ấn Tư lại như cũ.
Khai Kinh:
"Biển trần khổ vơi vơi trời nước ..."
Khi dứt cúi đầu chớ không lạy.
Kinh Ngọc Hoàng Thượng Ịế:
" Ịại La Thiên Ịế..."
Khi dứt lạy 12 lạy như trên, niệm chú Chí Tôn.
Phật Giáo Tâm Kinh:
"Hổn độn Tôn sư ..."
Lạy chín (9) lạy nghĩa là 3 lần cúi xuống mỗi lần 3 gật. Niệm chú tại mỗi gật: "Nam mô Nhiên Ịăng Cổ Phật Ịại Bồ Tát Ma Ha Tát".
Tiên Giáo Tâm Kinh:
"Tiên Thiên khí hóa ..."
Lạy chín (9) lạy như trên. Niệm chú: "Nam mô Thái Thượng Ịạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn".
Thánh Giáo Tâm Kinh:
"Quế hương nội điện ..."
Lạy chín (9) lạy như trên. Niệm chú: "Nam mô Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn ...".
- Dâng Tam Bửu:
Ịồng nhi đọc các bài thài sau đây:
- Dâng Hoa: "Từ bi giá ngự rạng môn thiền ..."
- Dâng rượu: "Thiên ân huệ chiếu giáng thiền minh ..."
- Dâng trà: "Mai Xuân nguyệt cúc vị trà hương ..."
Dứt mỗi bài thài lạy 4 lạy nghĩa là chỉ có một lần cúi xuống, 4 lần gật.
Lời cầu nguyện khi dâng tam bửu như sau:
- Khi dâng hoa cúi đầu xuống cầu nguyện Ịức Chí Tôn như sau:
"Con xin dâng mảnh h́nh hài của con cho Chí Tôn dùng phương nào th́ dùng."
- Khi dâng rượu cúi đầu xuống cầu nguyện Ịức Chí Tôn như sau:
"Con xin dâng cả trí thức tinh thần của con cho Chí Tôn dùng phương nào th́ dùng."
- Khi dâng trà cúi đầu xuống cầu nguyện Ịức Chí Tôn như sau:
"Con xin dâng cả linh hồn của con cho Chí Tôn dùng phương nào th́ dùng."
Và cầu nguyện luôn câu sau đây:
"Cả linh hồn, cả trí năo, cả h́nh hài con, Thầy đào tạo, đó là của Thầy th́ do nơi quyền hành độc đoán của Thầy định."
Trích lời thuyết đạo của Ịức Hộ Pháp Quyển 1 trang 115.
- Dâng Sớ :
Sau khi đọc sớ và đốt sớ xong, lạy 12 lạy, niệm chú Chí Tôn.
Ịọc bài kinh ngũ nguyện:
"Nam mô nhứt nguyện Ịại Ịạo hoằng khai
Nh́ nguyện phổ độ chúng sanh
Tam nguyện xá tội đệ tử
Tứ nguyện thiên hạ thái b́nh
Ngũ nguyện Thánh Thất an ninh".
Niệm chú Chí Tôn.
Phần nghi lễ cúng tế xong, tất cả đứng dậy xá 3 xá, quay ra sau lưng (nhớ quay đồng lượt phía bên vai trái), xá bàn Hộ Pháp một xá ( Sau Ịức Hộ Pháp có chữ Khí) lui về hai bên đàn ni, nam tả nữ hữu (nh́n từ trong ra ngoài).
- Phần thuyết Ịạo của Chức sắc (nếu có).
- Băi Ịàn: Lễ Vụ đến dọng chuông băi đàn và kệ các câu chú như sau:
"Ịàn tràng viên măn chức sắc quy nguyên vĩnh mộc từ ân phong điều vơ thuận (đánh một tiếng đại hồng chung)
Thiên phong hăi chúng quốc thới dân an, hồi hướng đàn đường tận thâu pháp giái (đánh một tiếng đại hồng chung)
Án dà ra để dạ ta bà ha. (đánh một tiếng đại hồng chung)".
Tất cả nghiêm trang xá đàn, đoạn theo thứ tự ra về. (người đứng phía trong ra trước, ngoài ra sau, y như trật tự khi vào Thánh Thất).

II. Cúng Ịại Ịàn Tại Ṭa Thánh
Ịền Thánh tại Ṭa Thánh Tây Ninh là nơi trung ương, nghi tiết cúng đại đàn có phần khác hơn đôi chút ở những điểm sau:
a) Hoán đàn: khi vào bên trong Ịền Thánh vẫn giữ theo thứ tự nam tả nữ hữu (nh́n từ trong ra ngoài). Cả chức sắc, chức việc và đạo hữu của mỗi phái nam, nữ đều đi thành một ṿng tṛn ngược chiều nhau, nam theo nam, nữ theo nữ, gọi là đi hoán đàn. Khởi sự từ chỗ bước vào, ngang ngai Hộ Pháp, phía nam đi thẳng lên Bát Quái Ịài, đi ngang qua cung Ịạo (khoảng trong giữa bàn thờ Ịức Chí Tôn và ngai Giáo Tông, ṿng qua bên phía nữ, xuống tận ngai Hộ Pháp, đi ngang qua trước mặt ngai, trở lại vị trí bắt đầu khi năy tức là giáp được một ṿng, rồi mới tiến đến vị trí của mỗi người tùy theo hàng phẩm lớn nhỏ để chờ khởi sự cúng.
Phái nữ cũng đi thành một ṿng như vậy nhưng ngược chiều phái nam.
Ư nghĩa của pháp đi hoán đàn được Ịức Hộ Pháp giải thích như sau:
"Tại sao phải hoán đàn nam nữ chen nhau? Ịó là bùa pháp luân thường chuyển. Tại sao Chí Tôn để bùa pháp luân thường chuyển tại thế này, đặng chi vậy? Hiện đă măn Hạ ngươn tam chuyển, Thượng ngươn tứ chuyển ta gọi là khai ngươn nên phải để cho pháp luân chuyển.
Ta đă biết thời Tiên Thiên khí và hậu Thiên Khí chuyển làm một mới đạt đạo đặng. Cả thảy đều biết qua Cửu Trùng Ịài này là Cửu Thiên Khai Hóa, c̣n cung trên kia là cung Ịạo, từ trước đến nay mỗi người mải miết t́m Ịạo mà Chí Tôn Ịể giữa đó, trước mắt mà không biết. Ịi chín từng trời để cho phần hồn đi cho cùng tột cửu phẩm Thần, Thánh, Tiên, đến Phật tức là Phật xuống phàm, rồi phàm trở lại Phật, chuyển luân như vậy, bí pháp gọi là đạt Ịạo"
(Lời thuyết Ịạo. Quyển nh́, trang 28)
b) Khi cúng tại Ịền Thánh, được ngồi xếp bằng thay v́ qú như ở các Thánh Thất.
c) Chỉnh sát cúng phẩm: Trong thời gian nhạc tấu huân thiên, khi Ngọc Ịàn xướng " Chỉnh sát cúng phẩm", th́ một vị chức sắc Hiệp Thiên Ịài rời hàng ngũ lên lầu Hiệp Thiên Ịài quan sát các đồ cúng phẩm có đều đủ và tinh khiết rồi hành pháp trấn thần các cúng phẩm, xong rồi trở lại vị trí cũ và giao cho sáu vị Lễ Sĩ gồm hai mặc áo vàng, hai mặc áo xanh, hai mặc áo đỏ, đi măo lễ, cầm lồng đèn (màu theo sắc áo của ḿnh) đi từ phía trên lầu Hiệp Thiên Ịài xuống trước ngai H Pháp rồi đi theo đường ni tâm Chánh Ịiện lên phía Bát Quái Ịài. Theo sau là một Giáo Sư phái Ngọc mang một cái hộp đựng Tam Bửu (hoa, rượu, trà), sáu Lễ Sĩ và một vị Giáo Sư đi tới ngang phẩm Phối Sư th́ dừng lại đây, phân ra hai bên cho tới khi dâng tam bửu xong sẽ trở về vị trí cũ.
Khi nhạc tấu huân thiên dứt có một vị chức sắc Hiệp Thiên Ịài lên thỉnh hương tại Bát Quái Ịài đem xuống ngoại nghi (ngang Phẩm Phối Sư ), Lễ Sĩ điện hương.
Khi Lễ Sĩ điện hoa lên nội nghi (tại cung Ịạo) th́ vị chánh Phối Sư phái Ngọc tiếp lấy b́nh hoa lên đứng phía sau ngai của Ngọc Chưởng Pháp ngó ra phía Hiệp Thiên Ịài đưa cao ngay trán tŕnh cho chức sắc và tín đồ biết để dâng lời cầu nguyện.
Khi dâng rượu th́ Chánh Phối Sư phái Thượng tiếp lấy chung rượu lên như Ngọc Chánh Phối Sư, nhưng đứng sau ngai Giáo Tông.
Khi dâng trà th́ Chánh Phối Sư phái Thái tiếp lấy chung trà lên tŕnh như Ngọc và Thượng Chánh Phối Sư, nhưng đứng phía sau ngai Thái Chưởng Pháp.

III) Sự Khác Biệt Về Nghi Tiết Cúng Tiểu Ịàn Và Ịại Ịàn
a) Tại Ṭa Thánh : Tiểu đàn khác Ịại đàn ở những điểm sau:
- Nhạc đờn ba bài (thay v́ 7 bài hoặc 5 bài như trong Ịại đàn).
- Lễ Sĩ không đăng điện.
- Không lập ngoại nghi.
- Không đi hoán đàn.
b) Tại Thánh Thất: Tiểu đàn tại Thánh Thất khác Ịại đàn ở những điểm sau:
- Nhạc đờn ba bài (thay v́ 7 bài hoặc 5 bài như trong Ịại đàn).
- Lễ Sĩ không đăng điện.
- Không lập ngoại nghi.

IV) Cúng Ịàn Tại Ịiện Thờ Phật Mẫu.
Khi vào chầu Lễ Ịức Phật Mẫu và các Ịấng thiêng liêng tại điện thờ Phật Mẫu tất cả mọi người đều mặc áo dài trắng, khăn đống đen đối với nam phái, nữ phái mặc áo dài trắng thường, dầu cho chức sắc cũng vậy. Về phương diện h́nh thức, nơi đây không c̣n phân biệt phẩm tước, mọi người đều b́nh đẳng, ai đền trước quỳ trước, đến sau quỳ sau.
a) Cách Nhập Ịàn:
Ịúng giờ cúng, Lễ Viên đổ ba tiếng đại hồng chung và đọc kệ lần thứ nhứt như sau:
- "Văn chung khấu hướng huệ trưởng càn khôn" (dọng một tiếng chuông).
- "Pháp giái chúng sanh đồng đăng bỉ ngạn" (dọng một tiếng chuông).
- " Án dà ra đế dạ ta bà ha"(dọng một tiếng chuông).
Kệ chuông dứt chư thiện nam tín nữ sắp đặt chỉnh tề, nam th́ sắp hàng hai bên bàn thờ chư chơn linh nam phái, nữ th́ sắp hai bên bàn thờ đức Phật Mẫu và chư chơn linh nữ phái.
Chuông đổ lần thứ hai, cũng ba tiếng với các câu kệ như sau:
- "Nhứt vi vu ám tất giai văn,"
- "Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác,"
- "Án dà ra đế dạ ta bà ha".

Dứt mỗi câu dọng một tiếng đại hồng chung.
Khi tiếng chuông cuối cùng dứt, tất cả xá đàn một xá, bước vào trong sắp thành hàng ngó lên bàn thờ.
b) Nhạc tấu Huân Thiên:
Nhạc đờn năm bài dứt, Lễ Viện khắc chuông mọi người kỉnh ba xá, quỳ xuống.
c) Mật niệm Ịức Phật Mẫu và các Ịấng thiêng liêng: ( nhớ là không có lấy dấu Phật, Pháp, Tăng). Niệm như sau:
- "Nam Mô Diêu Tŕ Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn" (xá một xá)
- "Nam mô Cửu Vị Tiên Nương" (xá một xá)
- "Nam mô Bạch Vận Ịông Chư Thánh" (xá một xá)
d) Ịọc các bài kinh sau đây:
- Niệm Hương: "Ịạo gốc bởi ḷng tín hiệp ..."
Khi dứt lạy chín lạy, nghĩa là 3 lần cúi xuống, mỗi lần 3 gật, mỗi lần gật đầu niệm "Nam mô Diêu Tŕ Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn".
- Khai Kinh: "Biển trần khổ vơi vơi trời nước ..."
Khi dứt cúi đầu chớ không có lạỵ
- Phật Mẫu Chơn Kinh: "Tạo Hóa Thiên huyền vi Thiên Hậu..."
Khi dứt Lạy chín lạy nghĩa là 3 lần cúi xuống mỗi lần 3 gật. Niệm chú tại mỗi gật: "Nam mô Diêu Tŕ Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn".
- Dâng Tam Bửu: (Hoa, Rượu, Trà)
Chú ư: Bài dâng hoa câu thứ tư phải đọc "cúi mong Phật Mẫu rưới ân thiên." thay v́ đọc: "cúi mong Thượng Ịế rưới ân thiên.".
Dứt mỗi bài thài lạy chín lạy nghĩa là 3 lần cúi xuống mỗi lần 3 gật. Niệm chú tại mỗi gật: "Nam mô Diêu Tŕ Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn".
d) Sớ văn Thượng tấu:
Ịọc sớ và đốt xong, lạy chín lạy nghĩa là lạy ba lần mỗi lần ba gật, Niệm chú tại mỗi gật: "Nam mô Diêu Tŕ Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn".
e) Ngũ Nguyện:

"Nam mô nhứt nguyện Ịại Ịạo hoằng khai
Nh́ nguyện phổ đ chúng sanh
Tam nguyện xá ti đệ tử
Tứ nguyện thiên hạ thái b́nh
Ngũ nguyện Thánh Thất an ninh".
Ịọc ngũ nguyện xong lạy chín lạy nghĩa là lạy ba lần mỗi lần ba gật, Niệm chú tại mỗi gật: "Nam mô Diêu Tŕ Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn".
Ịứng lên xá ba xá trở ra sắp hàng thành tam ban, nam theo nam, nữ theo nữ
f) Kệ chuông Băi Ịàn:
(Y như câu kệ tại đền Thánh và Thánh Thất, cách dọng chuông cũng y như vậy)
Xong mỗi người xá đàn từ từ trở ra.

V.- Nghi Tiết Cúng Tứ Thời Tại Ṭa Thánh, Thánh Thất và Ịền Thờ Phật Mẫu.
a) Tại Ṭa Thánh và các Thánh Thất.
Ngoài các buổi cúng đại đàn và tiểu đàn nhằm vào các ngày đại lễ và tiểu lễ (ngày vía, ngày kỷ niệm các chức sắc tiền bối có công lớn với Ịạo, ngày mồng một, ngày rằm tháng tính theo âm lịch), tại Ṭa Thánh và các Thánh Thất luôn luôn có các buổi cúng hàng ngày vào các giờ: Tư (0 giờ khuya) - Mẽo (6 giờ sáng) - Ngọ (12 giờ trưa) - Dậu (18 giờ chiều), gọi là cúng tứ thời.
Cúng tứ thời giản dị hơn cúng đại đàn và tiểu đàn, nghi tiết được tóm lược như sau:
Ịến giờ cúng , lễ vụ kệ ba câu chú đánh ba tiếng đại hồng chung lần thứ nhất, (1) chức sắc, chức việc, đạo hữu tuần tự đi vào chánh điện (nam bên tả, nữ bên hữu, hướng từ trong ra ngoài), cũng đứng hai bên quay mặt vào nhau, sắp theo thứ tự phẩm trật. Xong, lễ vụ tiếp tục kệ ba câu chú đáng ba tiếng đại hồng chung lần thứ hai (2), mọi người tiếp tục hành lễ

(1) Văn chung khấu hướng huệ trưởng càn khôn (đánh 1 tiếng chuông)
Pháp giải chúng sanh đồng dăng bỉ ngạn (đánh 1 tiếng chuông)
Án dà ra đế dạ ta bà ha (đánh 1 tiếng chuông)
(2) Nhứt vi u ám tất giai văn (đánh 1 tiếng chuông)
Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác (đánh 1 tiếng chuông)
Án dà ra đế dạ ta bà ha (đánh 1 tiếng chuông)
Với những động tác giống như phần tŕnh bày ở đoạn trước. Tuy nhiên, các phần nghi lễ sau đây không có trong các buổi cúng tứ thời:
- Hoán đàn.
- Nhạc tấu huân thiên.
- Dâng tam bửu (chỉ dâng một trong ba món và đọc một bài thài tùy theo thời cúng: thời Tư, và Ngọ dâng rượu - thời Mẽo, và Dậu dâng trà).
- Chỉnh sát cúng phẩm.
- Thuyết Ịạo.
Trong lúc đồng nhi đọc kinh, có ḥa tấu nhạc đệm theo.
Cúng xong, lễ vụ kệ ba câu chú (3) khắc ba tiếng đại hồng chung và băi đàn.

(3)Ịàn tràng viên măn chức sắc quy nguyên (đánh 1 tiếng chuông)
Vĩnh mộc từ ân phong điều vô thuận. (đánh 1 tiếng chuông)
Thiên phong hải chúng quốc thới dân an hồi hướng đàn đường tận thâu pháp giái (đánh 1 tiếng chuông)
b) Tại Ịền Thờ Phật Mẫu.
Cũng như tại Ṭa Thánh và các Thánh Thất, ngoài các kỳ cúng đàn, thường nhật cũng luôn luôn cúng tứ thời vào các giờ qui định như trên.
Thể thức hành lễ cũng giống như như phần tŕnh bày ở mục IV, tuy nhiên các phần sau đây được giảm chế:
- Nhạc tấu huân thiên.
- Dâng tam bửu (chỉ dâng một trong ba món giống như ở Ṭa Thánh).
- Sớ văn thượng tấu.
Trong khi đồng nhi đọc kinh có nhạc đệm theo.

VI. - Thờ Cúng Tại Tư Gia.
Ịọc giả nên xem những quyển sách sau đây:
1) Kinh Thiên Ịạo và Thế Ịạo (Hội Thánh xuất bản)
2) Thiên bàn thờ tại tư gia (Giáo Hữu Thượng Lư Thanh)
3) Ư nghĩa thờ Thiên Nhăn (H. T. Nguyễn Kim Anh).

VII. - Tại Sao Phải Thờ Cúng
Ịiểm khó khăn hơn hết trong vấn đề thờ cúng; không phải là những nghi lễ tế tự phức tạp; hay các lời kinh bằng chữ Hán khó hiểu, khó nhớ ... Thoạt nh́n người ta có thể cảm nghĩ như vậy, nhưng nghi lễ dù phức tạp đến đâu vẫn có thể quen được như một tập tục, lời kinh dù có khó đến đâu; đọc măi cũng thuộc. Ịó là h́nh tượng bên ngoài; ai ai cũng làm được. Chính nội dung, tác dụng của lời kinh tiếng kệ, những giây phút trầm tư mặc tưởng ấy, có ích ǵ cho bản thân ta; khiến người tín đồ phải thực hành những nghi lễ ấy, đó mới là trọng hệ. Ịây là điểm đệ nhứt khó khăn; trong đời sống của người tín đồ; v́ nó thuộc về mặt tâm pháp bí truyền. Trong một đàn cúng có đông người tham dự, thường chỉ có một số rất ít người; có thể cảm nghiệm được một nguồn năng lượng sinh động, một cái ǵ lung linh huyền diệu trong "cơi sống thật" đang phủ trùm lấy họ từ bên ngoài cả đến bên trong thân xác. Một khi cả xác thân lẫn tâm hồn; đă đắm ḿnh trong ḍng sinh lực ấy, người tín đồ đă thực sự đứng trước ngưỡng cửa của một thế giới không c̣n thuộc về "cơi người ta" nữa. Nguồn năng lực vô biên ấy, không thể tả được, nhưng chỉ cần một chút xíu thôi, cũng đủ làm cho những kẻ bướng bỉnh nhất trên thế gian này thay đổi cuộc sống của họ một cách trọn vẹn - Nhưng không phải ai ai cũng dễ dàng khám phá được.
Một khi đă thực sự sống trong thế giới Thần Tiên, ngay bên cạnh "cơi người ta" này, th́ người tín đồ không c̣n tâm trạng sợ hăi nữa, trái hẳn với sự tưởng tượng của những kẻ mà đời sống đắm ch́m trong tục lụy, ngồi ở đây tưởng tượng vẽ vời ra "thế giới bên kia", mà thực sự họ chưa từng sống ở đó, một phút giây nào cả.
Chúng tôi xin nhắc lại lời nói của Thánh Giăng cách đây gần hai ngàn năm:
"Người nào đă cảm giác được cái tinh thần thiêng liêng của Ịức Chí Tôn không thể lầm lẫn, nghi ngờ, hay phủ nhận nó. Ôi! Thế gian, ví như các người có đồng thanh phủ nhận Ngài, ta thà từ bỏ thế gian và giữ vững đức tin của ta".
(Chơn sư và Thánh Ịạo. Leadbeater. Nguyễn Hữu Kiệt dịch)
Các bậc chơn tu xưa nay đă nói rất nhiều về đời sống Thần Thánh này, nhưng khốn nỗi chính các Ngài cũng không có quyền muốn đem cho ai th́ cho "nguồn sống vạn năng" ấy dù chỉ một chút xíu thôi.
Ịó là một định luật tất yếu, trong càn khôn vũ trụ. Các ngài sẵn sàng cho khối gia tài thiêng liêng ấy, đến tất cả mọi người, nhưng mà nắm lấy được hay không là do tự ở chính ḿnh. Thành thử kết quả sau cùng là các Ngài không trọn quyền ban cho ai tùy thích được. Ịó là một định luật công b́nh, của báu không bán nài và cũng chẳng riêng ai được quyền nắm giữ dù họ là giáo chủ đi nữa.
Thờ cúng là một trong những cách làm cho thần trí của người tín đồ quen chủ định để dắt thần xác đến gần thế giới của thần linh. Rồi đến một lúc nào đó cả hành vi, tư tưởng, lời nói của người tín đồ đă hiển hiện là những "người thần", " người thánh" trước mắt mọi người th́ tự nhiên cánh cửa "thế giới vô h́nh" sẽ mở hoát ra như một định luật của hữu vô đồng nhất, mà người đạo giáo thường gọi là thế pháp và bí pháp tương liên mật thiết với nhau.
Thần, Thánh, Tiên, Phật không phải là những vị mà con người có thể cầu khẩn, van xin hay đút lót của hối lộ theo kiểu thường làm ở thế gian.
Nghi lễ thờ cúng chỉ là những h́nh tượng biểu lộ bên ngoài của một nội tâm kính trọng, và ư muốn cầu thân cùng các Ịấng thiêng liêng. Dấu hiệu tỏ lộ bên ngoài có thể bắt chước được.
H́nh tướng bên ngoài ấy dùng để dắt dẫn tâm linh, nên nó phải thay đổi cho phù hợp với phong tục tập quán, và tŕnh độ tấn hóa của con người. Nghi lễ các đạo giáo, v́ vậy phải khác nhau, mới thích ứng được với mọi người, chớ c̣n bên trong, cái khổ, cái sướng, hay niềm an lạc trong tâm hồn của con người, th́ từ cổ chí kim ai cũng như ai. Thực hành những nghi lễ thờ cúng là để t́m về chỗ thuần nhất ấy, và khi đạt đến rồi, th́ người không c̣n phân cách với người nữa, người cũng không c̣n phân cách với Trời, Phật hay Thần, Thánh nữa. Ịó là lư do sau cùng, khiến người tín đồ phải để tâm đến việc thờ cúng. Ịức Quan Thế Âm Bồ Tát có giáng cơ chỉ dạy như sau:
"Các em phải lo cúng kiến thường, - Một là tập cho chơn thần gần gủi Ịấng thiên liêng đặng sáng lạn. - Hai là cầu khẩn với Ịức Ịại Từ Bi tha thứ ti t́nh cho các em và cả chúng sanh. - Ba là có tế lễ th́ tâm phải có cảm, cảm rồi mới có ứng, ứng là lẽ tự nhiên. - Bốn là tâm có cảm th́ ḷng bác ái mới mở rộng, mà nhứt là khiếu lương tri, lương năng của các em, cũng nhờ đó mà lần hồi thành ra mẫn huệ"
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Quyển II, 1969 - trang 87
Sự ngộ nhận của chữ nghĩa trong kinh điển, và lời cầu khẩn, vái van, xin tha thứ tội t́nh, đă làm cho người ta, tưởng chừng như các Ịấng thiêng liêng cũng có nhân cách, biết thương yêu, ghét, giận như phàm nhân vậy. Sự thật không phải thế. Chẳng phải v́ lời cầu khẩn, những tiếng nói xin xỏ ấy mà các Ịấng thương t́nh tha thứ, nhưng chính v́ tâm hồn của con người trong giây phút ấy, đă mở rộng cửa đón nhận các Ịấng thiêng liêng, mà các Ịấng th́ hằng có mặt khắp nơi, nên khi mở cửa tâm hồn thi đương nhiên gặp, tức là cảm ứng được. Cũng ví như bầu sương lam, đang phủ trùm cả núi rừng, bác tiều phu mở cửa lều th́ tự nhiên sương tràn vào. Tại hành động mở cánh cửa ra, chớ không phải tại lời nói của bác tiều rằng "tôi mở cửa", tại cái khoảng trống không c̣n ngăn cách phần trong nhà và bên ngoài mà sương tràn vào và cái nhà đầy sương. Sương và nhà lúc bấy giờ là một. Sương ở trong nhà và nhà ở trong sương.
Ấy vậy thờ cúng không phải là việc mê tín hay dấu hiệu của những tâm hồn yếu hèn mà mê tín, yếu hèn là tại ḿnh hiểu sai và làm sai vậy. Cho nên sự thành tâm và trúng cách, nghĩa là đúng pháp, rất cần thiết, trong việc thờ cúng, bằng chẳng vậy th́ dầu có cúng lạy suốt đời cũng chỉ làm mọi cho khói nhang, cũng hoài công vô ích.