Trung Thu Linh Mộng

 

Nhă Tập Trung Thu Linh Mộng, tác gỉa Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu

" Mỹ Ngọc & Cao Liêng Tử "

Ban Đạo Sử Cao Đài Âu Châu xuất bản tại

Paris 21/07/1997

 

Lời Giới Thiệu

Nhă Tập Trung Thu Linh Mộng của Đức Bảo Văn Pháp Quân, Cao

 Quỳnh Diêu. Người thấy mộng để thành thơ từ năm 1932 măi đến 10 năm sau

 Người mới có lời bộc bạch cho nhă tập " 1932-1942 ".

        Cũng may thay cho hậu sinh chúng tôi hưởng được sự lưu truyền

 của nhă tập " Trung Thu Linh Mộng " vẫn c̣n dấu ấn nguyên bản đến ngày

 nay, do Hiền Huynh Phan Ngọc Truất sưu tầm và gửi đến Paris " Pháp Quốc "

 cho Ban Đạo Sử Cao Đài Âu Châu làm tư liệu .

        Phải nói chân thành rằng nếu không có sự thôi thúc của ḍng Đạo

 th́ nhă tập Trung Thu Linh Mộng khó xuất hiện, bởi sự im liềm của nhă tập

 đă hơn một kiếp người " 65 năm " .

         Ngoài ra Hiền huynh Phan Ngọc Truất c̣n khám phá ra nhiều

 chi tiết tiểu sử của Bảo Văn Pháp Quân " Cao Quỳnh Diêu " rất giá trị,

 đă giúp chúng tôi đốt giai đoạn t́m kiếm bút hiệu và tiểu sử Cao Liêng

 Tử " Mỹ Ngọc " của Người .

        " Xin đọc Tiểu Sử Bảo Văn Pháp Quân của Phan Ngọc Truất

 sưu tầm & Huỳnh Tâm biên khảo "

        Nhă tập Trung Thu Linh Mộng là một kho tàn truyền giáo, với

 Đức tin Cao Đài cao ṿi vọi, lời thơ của những vĩ nhân tiền Khai Đạo

 đă chỉ lối cho nhơn sanh vươn tới cung quản Thiên thần, lời thơ khung

 vàng thước ngọc dâng đồng sinh một lộ tŕnh thắng khổ và tự tin .

        Mỗi lời thơ là một linh mộng siêu thoát, một kiếp thành chỉ

 có như hôm nay và muôn đời trước vạng kiếp sau đồng cộng hưởng, bởi lời

 thơ tẩy sạch trần. Nều chưa đọc thơ Trung Thu Linh Mộng chắt hẳng chưa

 vào đời v́ thơ Trung Thu Linh Mộng là Người với ta đồng cảm thông cùng

 cảnh kiếp sinh .

        Trang thơ đă vừng sáng trí tuệ, bởi lời thơ rực rỡ như muôn

 ngàn phép lạ, lời linh mộng là kinh từ cơi sáng tâm hồn, bút pháp thơ

 kỳ diệu của Đức Bảo Văn Pháp Quân dâng hiếu cho mọi người một linh mộng

 hiện hữu và Người là gương treo cho chúng ta cùng soi chung .

         Ban Đạo Sử nay xuất bản nhă tập Trung Thu Linh Mộng dâng

 hiến bạn đọc một công tŕnh thắng khổ chúc quư vị thành tựu .

               

Paris 17/03/1997

Ban Đạo Sử Âu Châu

 

Lời Bộc Bạch

Vẫn là một án văn, ám tả sự thật trong một điềm chiêm bao, Khi thức giấc trí c̣n ghi nhớ rơ ràng mỗi lời chỉ giáo, duy có bài thi là cần nhứt, lại rủi c̣n nhớ có chín chữ. Ấy là nhờ giọng ngâm thanh tao của Bác-Nương c̣n văn vẳng bên tai .

        " Trong câu phá ....... du .......

              Trang nhứt: Thâu về ải bắc .......

              Trang nh́ : Ngọc rạng thành nam .....

        Câu chuyện lạ nầy, sáng ngày có tường thuật cho Hộ Pháp, Quyền Giáo Tông, Sĩ Tải Ngọ và đứa đệ tử Trang Hoài Khánh với nhiều Chức sắc nam nữ đều nghe .

        Qua ngày sau, Bác Nương giáng cơ gợi nhắc lại đủ tám câu, song Người lại buộc Văn Pháp phải ngâm cho giống hơi giọng của Người .

        Xem lại Thánh giáo lối Trung-thu Nhâm-thân th́ rơ thấy .

Phú Nhuận tháng 02 Nhâm Thân

"  Mars 1942 "

Hiệp Thiên : Văn Pháp Quân " Cao Quỳnh Diêu "

 

Trung Thu Linh Mộng

" Đạo kỳ ba sáng tạo ,

        Năm thứ tám hầu sang .

        Khói hương bay ngui ngút chốn rừng thoàn ,

        Mùi cúc đượm nực-nồng miền Thánh địa .

        Thanh bạch rỡ màu Tây vức [1] ,

        Ánh gương-nga chiếu diệu cảnh Thiên nhiên .

        Đỏ vàng pha sắc Tần vân ,

        Ngần tinh đẩu điểm tô bầu thế giái .

        Tám hướng vây ṭa Bác quái,

        Bốn phương chiêu khách cửu lưu .

 

 [1] Tây Ninh

 

        *

        Nghĩ phận ta .

        Vai mơi gánh thế t́nh ,

        Thú vui miền sằng giă .

        Gươm thân huệ, mượn vẹt tan lằng vân ám ,

        Noi hiền xưa, giải y lại, đông tầm cùng đôi bạn hiền

 quăng ném gánh hồng tang ,

        Nước nhành dương, vưng chan rưới khách trần ai ,

        Ngồi rừng trước, vung đạo nhà, hiệp trí với vài tri kỷ

 dẫn d́u đoàn sanh chúng .

 

        *

        Bởi rứa cho nên .

        Thay thanh mạo, thơ đờn cất gánh ,

        Đổi thảo hài, hạnh đức trau ḷng .

        Đến Tổ đ́nh, ví dạ đói no cũng vui thú nâu sồng ,

        Về cố thổ, dầu thân ấm lạnh vẫn ǵn ḷng son sắt .

        Quyết dạ một trọn thờ Trời đất ,

        Dụng tấm nhiệt thành đem hiến cho chúng sanh linh .

        Ǵn ḷng đơn gầy dựng non sông ,

        Lau gương trí huệ quyết làu soi bầu Vơ-trụ .

        V́ vậy mà :

        Đôi lúc, vầy đôi bạn đề thi ngấm cảnh, trau-tria ḷng

 phàm tục ,

        Ghe phen, trổi năm cung thúc dạ buồn đời, khêu gợi giọng

 đổ quyên .

 

        *

        Một đêm kia .

        Gương cung quảng luống dật dờ ,

        Giọng chung đài nghe thấp thoán .

        Canh càng khuya, đêm càng thẩm, nơi tịnh thất mơ màng

 giấc tĩnh say đưa phách đến non Vu .

        Trời thêm lặng, cảnh thêm êm, ngọn thanh phong phướng

 phất hơi đầm ấm điệu hồn về đảnh Hạt .

 

        Thoạt thấy .

        Chất-ngất dương che vọng cát ,

        Diềm dà liễu đỡ vân đài ;

        Dường như Non Thái dựa kề ,

        Chẳng khác Bồng Lai đem lại .

        Trước mắt tựa bá ṭng trăm cội, nào loan sè, nào phụng

 múa, cảnH nguy nga, càng ngấm lại càng xinh .

        Bên ḿnh xen hoa thảo muôn cḥm, nầy cúc nở, này sen đơm,

 màu rựt rỡ, thêm nh́n càng thêm đẹp .

        Mảng lóng Cung Thần gieo tiếng nhạc ,

        Giọng du dương như nhạc trổi khúc Cầu hoàng .

        Nào hay hồn tục lạt Non-Tiên ,

        Nơi thanh tĩnh thoạt lại gặp trang Nữ-Sĩ .

 

        *

        Ta nghĩ rằng .

        Nếu chẳng phen người Tây-tử ,

        Cũng là mặt khách Quỳnh châu ,

        Đài sen cuộn gót chơn thâu .

        Nét-liễu khoe ngần ngọc rạng ,

        Đi đứng dịu-dàng cốt cách, nét phong lưu đâu nhượng khách tư văn .

        Tới lui yểu điệu nghi dung, gương thông tuệ gẫm khác

 người trần thế .

 

        Ta khi ấy .

                Vừa mừng vừa sợ ,

                Nửa nhớ nửa quên .

                U ơ hồn chưa nhớ đặng dạn h́nh ,

                Ngơ ngẫn phách có đâu tường tiên tục .

 

                Thoát nghe .

                Người để tiếng chào mừng Cao Liêng Tử đă hèn láu

 mới tạng mặt trưởng-huynh ,

        Ta định chừng, may mĩa Hớn Tiên nương nên vội vă đáp mong

 ơn hiền muội .

 

        Thật là .

        Cửu hạng phùng cam vỏ ,

        Tha hương ngộ cố tri .

 

        Gẫm lại .

        Kẻ vô duyên trót muôn chung cũng khó gặp Đạo mầu ,

        Người hữu hạnh trong một kiếp vẫn đắc truyền cơ nhiệm .

 

        Nên ta mới tiếp rằng .

        Ơn tri ngộ, công tạo khách khai cơ từ buổi ,

        Nghĩa cố giao đuốc rọi đường dẫn bước những ngày .

        Gặp mặt đây vẫn thật quá may ,

        Xin ḷng đoái thương nhau chỉ dẫn .

        *

        Người bèn đáp lại .

        Trường náo nhiệt xem đà kế cận ,

        Cuộc tang thương ngảnh lại khôn xa .

        Khách mảng chen lấn bước phồn hoa ,

        Người luốn nhẫn mong mùi phú quí .

        Đời sợ súc nên chen nên lấn ,

        Thế muốn hơn toan giực toan giành .

        Mạnh th́ cậy sức cường tranh ,

        Khôn lại dụng tài hiếp bức .

        Nào biết nh́n nhau đồng loại ,

        Chẳng c̣n giữ chút thương tâm .

        Kiếp chầy e không tránh khỏi nạn chiến tranh ,

        Thời thế gẫm đă đành vùi cơn loạn biến .

        Toan bảo bọc lấy đoàn con dại,

        Trời sớm khai chánh giáo dẫn đường ,

        Muốn dắt d́u phải bước trẻ ngây,

        Đất kịp mở chơn truyền tạo khách .

        *

        Hiền huynh ngảnh lại đó mà coi !

        Bảy năm Đạo mở ,

        Ba lược Trời khai .

 

        Thế mà .

        Non sông đă lở, bồi đắp chẳng một ai ,

        Nhân vật hầu xiêu, đở nâng chưa mấy mặt .

        Tiện muội vốn khâm thừa ngọc-sắc, tâm pháp vâng thửa lịnh gieo truyền ,

        Hiền huynh tua ghi nhớ lời vàng, cơ mật khá ǵn ḷng kiên cố .

        Suy kiêm nghiệm cổ ,

        Cải cựu oán tân .

        Dầu chi cũng có bóng Hồng ,

        Chớ vội sánh so đức bạc .

        Triều triệu vai mang sanh chúng ,

        Nặng hoằng đầu đội khuôn linh .

        Thi đền nhứt luật đinh ninh ,

        Bút hạ năm vần lưu hiến .

 

        Thi rằng .

        Nhẹ bước nhàn du để vẻ hồng ,

        Sấn tay nước Việt dậm non sông .

        Châu về đất Bắc dời Kiêm-khuyết ,

        Ngọc rạng thành Nam chuộc ải đồng .

        Mở lối đài vân mời trí sĩ ,

        Dọn đường Hồng-Lạc dắt anh phong .

        Động đào quen thú mơi chiều ngấm ,

        Hỏi khách tao nhân có mặn nồng .

        *

        Em vẫn rơ hiền huynh .

        Noi Thánh trước, ḷng chẳng quảng mao lư xịt xạt mưa sau hư dậu lá ,

        Dơi Hiến xưa, dạ khôn nài lều cỏ xơ rơ gió trước lọt hiên tranh .

        Hằng tâm ghi chữ thanh bần ,

        Chẳng ư bợn màu trược phú .

        Tay trắng dẫn d́u trăm họ ,

        Ḷng son rạng chói một màu .

        Vậy mới trượng phu ,

        Ấy là quân tử .

        Thôi thôi ! Lời cặn kẻ, nơi Thánh địa hiền huynh tua chữ dạ,

        Khách dục thâu, chốn Diêu tŕ tiện muội phản hồi cung .

        Ḱa xa đưa tiếng hạt trổi không trung ,

        Nọ chực rướt cánh loan sè kế cận .

        Lui bước ḷng người dùng thẳng ,

        Xây lưng ư khách không đành .

        Dường như thương kẻ phiêu linh ,

        Chới với không ai nâng đỡ .

*

        Ta khi ấy .

        Vừa muốn nghiêng ḿnh thi lễ ,

        Bổng nhiên thức giấc mộng hồ .

        Nhuận mùi hương, mủi dường phất phơ, hương bay ngào ngạt tựa màn ,

        Reo hơi nhạc, tai như văn vẵn, nhạc c̣n lóng nghe bên cạnh .

        Ngơ ngẫn nửa say nửa tĩnh ,

        Dậy ngồi vừa nghĩ vừa suy .

        Trổi gót-hài bước lại tay hiên ,

        Thỉnh đạo phục day về Bắc-khuyết .

        Đầu vọng bái mong ơn Thượng-Đế ,

        Miệng lâm dâm trước ánh Đẩu-Tinh .

        Máy càn khôn xoây lẫn khí âm dương ,

        Vầng nhựt nguyệt chuyển luân phiên triêu tịch .

        Chừ ta mới .

        Vào Thảo-xá gắn ghi bao sự tích ,

        Lên án văn sơ lược mấy kỷ chương .

        Sắc không, không sắc nghĩ cũng lạ dường ,

        Hư thiệt, thiệt hư truyền ư hậu thế ".

 

Viết  tại Tây Ninh

Trung Thu năm Nhâm Thân 1932

Cao Quỳnh Diêu