Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ

Ṭa Thánh Tây Ninh

 

GIÁO  LƯ

Hiệp Thiên Đài

 

Giáo lư lược khảo

Tác gỉa Tiếp Pháp: Trương Văn Tràng

 

Lờ  Tựa

Của Ông Bảo-Thế: Lê-Thiện-Phước

------

    Học Đạo là t́m hiểu Chơn-lư và một khi thấu triệt rồi th́ không

c̣n vui thú nào ở thế-gian sánh kịp. Nhờ vậy, người hành đạo mới dám

hi-sinh những cái ǵ ràng buộc Thần-trí và Tâm-hồn, ngơ hầu giải thoát

cảnh trầm luân nơi bễ khổ đặng qui hồi nguyên bổn.

    Từ xưa đến nay đă có nhiều Tôn-giáo xướng xuất nhiều phương hướng

d́u dẫn nhơn-sanh trong trường xửsự tiếp vật theo đạo hóa-sanh của

Trời-Đất. Song le, văn minh vật chất càng ngày càng tiến triển, như

hiện giờ khoa-học gần như muốn chiếm đoạt cơ mầu-nhiệm của Tạo-Đoan,

th́ trái lại, tinh thần đạo đức của nhơn-sanh càng ngày càng lu lờ,

mặc dầu các Tôn-giáo kia đă tận lực giáo nhơn qui thiện.

    Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ xuất-thế với một yếu-lư qui Tam-giáo hiệp

Ngũ-Chi, thành-thử những Tu-Sĩ của nền tân Tôn-Giáo nầy không c̣n

phân-biệt giáo phái, tức là coi nhau như bạn thân đồng theo một khuynh

hướng "Cứu nhơn độ thế". Lẽ dĩ nhiên Đạo Cao-Đài phải có một Giáo-lư

phù hạp với Tŕnh độ của nhơn-sanh hiện tại đặng chuyển đọa vi-thăng,

tiêu trừ nghiệp chướng. Huynh Tiếp-pháp Trương-văn-Tràng đă dày công

soạn quyển Giáo-lư nầy cốt yếu giúp cho các bạn Tu-sĩ khỏi lầm lạc

trên đường học Đạo;

 

   Sách nầy đánh truyền bá các nơi, dầu nơi gia-đ́nh Đạo-giáo, hay

gia-thất bàng quan, đều nên đọc nó, bất luận là lúc nào, trong đồi

ḿnh, sẽ thấy nó là nguồn an-ủi để sửa ḿnh khi rủi lâm vấp tội t́nh,

hoặc nó sẽ là kim Chỉ-nam để vạch lối cho kẻ hành giả đem cái Ta

giả-hiệp trở về cái Chơn thật bổn-ngă.

 

                                T̉A-THÁNH, ngày 28 tháhn 8 năm Kỷ-Hợi

 

                                          (30-9-59 d.l.)

 

                                     Qu. Đầu-Sư Cửu-Trùng-Đài

 

                                               Bảo-Thế

 

                                        Kư tên : LÊ-THIN-PHƯỚC

 

 

 

            T̉A-THÁNH, ngày 24 tháng 8 năm Kỷ-Hợi (26-9-1959)

 

                              -----------

 

 

 

                   Tặng quyển  " ĐI - ĐO  GIÁO - LƯ "

 

                             của ông Tiếp-Pháp

 

                            TRƯƠNG - VĂN - TRàNG

 

                                    ***

 

 

 

                   "Giáo-Lư" Đạo Trời thất ức niên,

 

                    Trương-Quân biên soạn để lưu truyền.

 

                    Tồn tâm chỉ rơ đường mê-giác,

 

                    Dưỡng tánh phân rành nẻo tục-tiên.

 

                    Vẹt ngút mây mù nâng đuốc huệ,

 

                    Gắng công học hỏi đánh tài hiền.

 

                    Noi theo chánh thuyết bền trau luyện,

 

                    Mới đạt chơn tu phép diệu huyền.

 

                                          CAO-THƯợNG-SANH

 

                                  *

 

                      THỂ THEO CÂU PHƯƠNG NGÔN

 

      Cành hoa nở buổi rạng đông, chẳng phải muốn khoe sắc đẹp, hương

thơm mà tại thời tiết bắt nó phải nở, cho nên nó không thể không nở

được.

 

      Mặc t́nh khách qua đường ai yêu hoa th́ dừng chơn mà thưởng

thức.

 

 

 

                            THAY LởI TỰA

 

                                 *

 

      Nay khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, Đức Chí-Tôn không dùng lối giáng

Trần như mấy lần trước, mà lại dùng Thần-Điển đặng truyền-giáo. Đức

Chí-Tôn cũng không xưng danh "Ngọc-Hoàng Thượng-Đế" mà lại tá danh

"Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát", để cầm giềng nền Tân

Tôn-Giáo. Cái lẽ tại làm sao Đức Chí-Tôn dùng phương-pháp khác hơn

thời xưa thié xim xem bên trong quyển sách nầy sẽ rơ. Bây giờ, chúng

tôi xin kể sơ lược cách Truyền-giáo của Đức Chí-Tôn, để độc-giả hiểu

qua cái lẽ huyền-diệu của ông Thầy Trời. Như lúc ban đầu những người

Thiện-nam, Tín-nữ, thượng sớ cầu Đạo th́ Đức Ngài cho mỗi người một

bài thi : hoặc bát cú, hoặc tứ-tuyệt. Trogn bài thi, đức Ngài nói đời

tư, hay tâm-lư của đương-sự, để mỗi người tự xét ḿnh. Kịp đến sự dạy

Đạo cũng vậy. Đức Chí-Tôn tùy căn-cơ mỗi Môn-đệ, cảm-hóa lần hồi : từ

chỗ dễ đến chỗ khó, từ chỗ tối đến chỗ sáng, từ chỗ mê đến chỗ ngộ.

Lời dạy dỗ hấp dẫn kẻ học ham mà không chán, có đức-quả mà không biết.

Thật phép giáo-hóa của Đức Chí-Tôn vô cùng khéo léo.

 

      Th́ chúng tôi cũng ở trong trường hợp ấy. Trước kia,không hiểu

đạo-lư là chi, thậm chí đến đức-tin truyền thống của Tổ-phụ cũng chỉ

c̣n phưởng-phất trong tâm-địa mà thôi. Rồi th́nh-ĺnh đến năm Ất-Sửu

(1925) tại Sài-gon, có một phong-trào "Pḥ-cơ, Chấp-bút, Xây-bàn" nổi

lên. Ban đầu, v́ tánh háo-kỳ, chúng tôi theo để t́m hiểu sự thật. Thế

mà rồi v́ ham mộ văn-chương, chăm theo không chán, măi rồi lại ư-hội

được Chơn-lư và sau cùng th́ mộ Đạo. Nhờ sự khéo dạy dỗ của Đức

Chí-Tôn mà chúng tôi hiểu được chút ít Đạo-lư.

 

   Quyển sách nầy gồm có mười chương, mỗi chương gồm những bài học của

chúng tôi, hoặc do Đức Chí-Tôn giáng cơ dạy, hoặc khảo-cứu trong kinh

sách Tam-giáo, rồi sắp đặt thành thông-hệ mạch-lạc. Mặc dầu nghĩa lư

nông-sơ, nhưng chúng tôi cũng thành-thật cống-hiến cho Bổn-đạo, gọi là

làm công-quả.

 

    Để biết qua cái đại-cương của quyển sách,chúng tôi xin tŕnh bày

sơ-lược mười chương sách đă nói trên. C̣n như muốn biết tinh tường th́

xin xem chi-tiết bên trong.

 

            Chương thứ      I    :   Tiểu-sử Đại-Đạo

            Chương thứ     II    :   Nền tảng Đại-Đạo

            Chương thứ    III    :   H́nh thể Đại-Đạo

            Chương thứ     IV    :   Lễ nghi Đạo-luật

            Chương thứ      V    :   Vơ-Trụ-Quan

            Chương thứ     VI    :   Nhơn-Sanh-Quan

            Chương thứ    VII    :   Sự giáo-hóa của Đại-Đạo

            Chương thứ   VIII    :   Hạ-thừa

            Chương thứ     IX    :   Thượng-Thừa

            Chương thứ      X    :   Tổng-luận.

 

    Trong mười chương sách vừa kể trên : từ chương I đến chương IV,

chúng tôi tŕnh bày Tiểu-sử Đại-Đạo và một Hội-Thánh gồm có Ba-đài,

đại-diện Đạo-Đức tại thế-gian, để độc-giả biết qua nền Tân Tôn-giáo do

phương thức nào xuất hiện và làm thế nào đặng nên gương đạo đức cho

người đời soi sáng. Từ chương V đến chương IX, chúng tôi nghị luận

Vơ-Trụ-Quan, Nhơn-Sanh-Quan, cách giáo-hóa của Đại-Đạo để Độc-giả thấy

chỗ thành lập đức tin của Tín-đồ Đại-Đạo. Thứ nữa, kẻ học sẽ nương

Hạ-thừa mà tiến lần đến Thượng-thừa.

    Hai lớp học nầy, (Hạ-thừa và Thượng-thừa), tuy khác tŕnh độ, song

cả hai đều lấy đạo Trời làm căn bản để sửa đạo Người ; nghĩa là kẻ

Tín-đồ Đại-Đạo lấy thiên-lư làm then chốt cho đời sống của ḿnh để

thực-hành cái thuyết "Thiên địa vạn-vật nhứt thể" của Tam-giáo đời

trước ; cứu cánh là giải-thoát kiếp Luân-hồi ra ngoài ṿng sanh-tử.

    Tài sơ, đức bạc, chúng tôi lấy làm ái-ngại mà cống-hiến quyển sách

nhỏ nầy. Dĩ nhiên, sự khuyết-điểm th́ chắc chắn không tránh khỏi. Mặc

dầu vậy, chúng tôi cũng mong rằng : nó sẽ giúp ích cho người mới nhập

môn một phần nào.

 

                                       Tác-giả kỉnh đốn.

 

 

 

                        CHƯƠNG THỨ NHỨT

                              -*-

 

                        TIỂU-SỬ ĐI-ĐO

                              -*-

 

                       HUẤN-LUYN Đ-NG-TỬ

 

      Ngày nay, ai cũng hiểu rằng nền Tôn-giáo Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ

do huyền-diệu cơ-bút thành-lập, mà Đồng-Tử là vấn-đề quan-trọng trong

phép "Thông-Thần-Lực" (médiumnité). Ấy vậy nên trước khi khai Đạo, Đức

CHÍ-TÔN ủy-quyền cho chư Tiên Phật chọn lựa và huấn-luyện Đồng-Tử.

Chúng tôi c̣n nhớ vào khoảng thượng tuần tháng 6, năm Ất-Sửu (1925)

tại Đô-Thành Sài-Gon th́nh-ĺnh phát-khởi một phong trào : Xây bàn,

Pḥ cơ, Chấp bút. Đầu nầy xây bàn tiếp chuyện với các Vong-linh, để

họa thi vịnh phú ; chỗ nó Pḥ-cơ, Chấp-bút cầu Tiên để xin Toa thuốc

chữa bịnh. Tại trung-tâm Sài-gon có một nhóm công-chức cũng bắt chước

xây-bàn cầu các Đấng Thiêng-Liêng để học hỏi văn-chương thi-phú. Ban

đầu, họ tính dùng dịp tiêu-khiển mà thôi ; nhưng về sau v́ ham mộ

văn-chương thi-phú, mà họ theo đuổi phép "Thông-Thần-lực" đến nơi

vi-diệu mà rồi chung cuộc họ trở nên những người Pḥ-Cơ đặc-sắc để Đức

CHÍ-TÔN dùnh làm môi giới cho sự mở Đại-Đạo. Những vị sau này được

CHÍ-TÔN phong vào hàng Chức-Sắc đại Thiên-phong trong Đài Hiệp-Thiên.

    Nhắc lại, nguyên chiếc bàn nhỏ có bốn chưn, kê hai chưn kia cao

hơn hai chưn nọ, chừng ba phân tây. Thế th́ chiếc bàn trở nên

gập-gh́nh, có thể dở lên đặt xuống dễ dàng. Sự xây bàn phải có ít hơn

hết là hai người, ngồi đối diện nhau và để hai bàn tay lên trên mặt

bàn. Trong chừng 10 phút th́ chiếc bàn bắt đầu chuyển động. Đó là

triệu chứng đă có một vị Thiêng-Liêng giáng-điển, chiếc bàn bắt đầu dở

lên và gỏ xuống.

    Vậy chiếc bàn chuyển động cách nào mà viết ra chữ ?

    Có một khẩu ước giữa Đấng Vô-h́nh và hai vị Đồng-Tử như vầy :

nhịp một lần là chữ "A" ; hai lần là chữ "Ă" ; ba lần là chữ "Â" bốn

lần là chữ "B" và cứ như thế tiếp diễn đến đủ 24 chữ cái. Trong khi

bàn nhịp, hễ ngừng chỗ nào th́ người ngồi ngoài phải biên chữ ấy ;

chung cuộc thành ra một danh-từ ; nhiều danh-từ hiệp thành một bài thi

"Bát-cú", hoặc một bài "Tản-văn"

   Cách "Xây bàn" ban đầu th́ khó khăn ; nhưng về sau, các vị

Đồng-Tử quen tay và thuần-điển th́ cũng được dễ dàng. Nhờ vậy nên sự

tiếp chuyện càng ngày càng được mau lẹ và rơ ràng.

   Chúng tôi c̣n nhớ, có lẽ hôm ấy nhằm ngày 10 tháng 6 năm Ất-Sửu

(1925) có một cô gái nhập bàn, tự xưng là Đoàn-ngọc-Quế và cho một bài

thi Bát-cú như vầy :

                " Nỗi niềm tâm sự tỏ cùng ai ;

                " Mạng bạc c̣n xuân uổng sắc tài.

                " Những ngỡ trau duyên vào Ngọc-các,

                " Nào ngờ phủi nợ xuống Tuyền-Đài.

                " Dưỡng sanh cam lỗi t́nh sông núi,

                " Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai.

                " Dồn dập tương tư hoằng một gánh,

                " Nỗi niềm tâm sự tỏ cùng ai.

    Sau rơ lại th́ cô Đoàn-Ngọc-Quế là biệt hiệu của bà Thất-nương

Nữ-Phật Diêu-Tŕ-Cung dùng lối giáng Thần, và cho thi như trên là có ư

cảm hóa mấy vị Đồng-Tử tương lai. Từ đó về sau Cửu-vị Nữ-Phật

Diêu-Tŕ-Cung thường hay giáng Đàn và dùng lối văn vừa vui, vừa hay,

để huấn luyện Đồng-Tử. Đến một hôm nọ, th́nh ĺnh có một Đấng giáng

Đàn với một Thần-điển phi thường và tự xưng là A Ă Â. Về sau, biết ra

th́ chính Ông A Ă Â là Đức "Cao-Đài Thượng-Đế". Đức Ngài có nói rằng

:"Ta phải hạ ḿnh là một Chơn-Linh thường, để cảm hóa các con". Thật

quả vậy, nếu lúc đó Đức CHÍ-TÔN nói rơ : Ngài là Đức Thượng-Đế th́

chắc chúng ta chẳng hề dám lân la học hỏi.

     Cách dạy của Ông A Ă Â cũng như các vị Nữ-Phật nói trên ; nghĩa

là Ông cho bài vừa vui, vừa hay, làm cho kẻ học không chán. Măi đến

ngày 30 tháng 10 năm Ất-Sửu nhằm ngày 15 tháng 12 năm 1925, Đức

CHÍ-TÔN dạy phải lập bàn Vọng-Thiên cầu Đạo và phải dùng lối "Pḥ Cơ"

để tiếp xúc với Đức Ngài. Cách Pḥ-Cơ bây giờ hăy c̣n dùng ; có lẽ ai

cũng hiểu, khỏi phải mô tả nữa.

     Đến đêm 24 tháng 12 năm 1925, ngày Chúa giáng sanh bên Thái Tây,

đức CHÍ-TÔN giáng-cơ dạy rằng :

     "Ngọc-Hoàng Thượng-Đế viết Cao-Đài Tiên-Ông, Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát

giáo Đạo Nam-Phương".

                           Thi :

              " Muôn kiếp có ta nắm chủ quyền,

              " Vui ḷng tu niệm hưởng ân Thiên.

              " Đạo mầu rưới khắp nơi Trần-Thế,

              " Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn bền.

      Đến đây chúng tôi mới rơ ra rằng cái phong trào Xây bàn, Pḥ-Cơ,

Chấp-Bút trước kia là Tiên-triệu (Signes précurseurs) cho nền Tôn-giáo

Đại-Đạo vừa xuất thế và cũng là phương-pháp huấn luyện Đồng-Tử của Đức

CHÍ-TÔN để dùng truyền giáo.

      Lời Tiên-Tri.- Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế giáng cơ lập một nền

Tôn-giáo như thế nầy là một việc thế-gian hi-hữu, làm cho chúng tôi,

mặc dầu đă suy nghĩ nhiều, song vẫn bán-tín, bán-nghi. Thế nên chúng

tôi mới t́m hiểu thêm nữa th́ thấy trước kia đă có nhiều lời tiên tri

rằng sẽ có một nền Tân Tôn-giáo, xuất thế, mà chúng tôi lần lược kể

như sau :

      a) Sách "Phật Tông-Nguyên-Lư" chép rằng : Khi Đức Phật Thích-Ca

sắp tịch nhập, để tử Ngài là A-Nan-Đa rơi lụy mà hỏi rằng :

         "Khi Tôn-Sư viên tịch rồi, ai dạy bảo các con ?" Ngài đáp

:"Ta Chẳng phải là vị Phật đầu tiên, hay là cuối cùng giáng thế. Ngày

giờ đến, sẽ có vị Phật khác xuất hiện cứu đời, một vị Chí-Thánh, một

vị Đại-giác cực kỳ cao thượng, một vị dẫn Đạo vô song của Nhơn-loại,

một vị Chúa-tể cả Thánh Thần và loài người, Đấng ấy sẽ truyền lại cho

các con một mối Đạo vinh diệu buổi sơ khai. Vinh diệu buổi thạnh hành,

vinh diệu buổi kết cuộc. Đấng ấy sẽ xướng xuất một đời sống đạo-đức

hoàn toàn thuần khiết".

      b) Đạo Minh-Sư sáng lập hồi đời nhà Thanh bên Trung-Hoa, có hai

câu sấm, do các vị Tổ-Sư lưu lại như vầy :

             Cao như Bắc khuyết nhơn chiêm ngưỡng,

             Đài tại Nam-Phương đạo thống truyền.

      Nghĩa là : Đạo cao như Bắc-khuyết, người ta ngước mặt lên mà

kính mến. Nơi phát sanh ra Đạo là phương Nam (ám chỉ nước Việt-Nam) và

liên tục truyền bá không ngừng.

      c) Kinh Giác-thế có câu :

             Thánh Hiền Tiên Phật hi-hữu chi nhơn.

             Tam-Kỳ Phổ-Độ hi-hữu chi sự.

             Phi hi-hữu chi nhơn.

             Yên năng hành hi-hữu chi sự ?

       Nghĩa là : Thánh Hiền Tiên Phật là bậc có ít, cũng như Tam-Kỳ

Phổ-Độ là việc ít có. Không phải là bậc có ít, há làm được việc ít có

hay sao ?

      d) C̣n một bằng chứng hiển nhiên nữa là lúc bấy giờ, Ngài

Đốc-phủ Ngô-văn-Chiêu đă có thờ Đức CHÍ-TÔN và theo học Đạo từ năm

Giáp-Tư (1924).

      Nhờ những bằng chứng kể trên, chúng tôi lập được đức tin vững

vàng để theo học Đạo.

 

                   NỀN TÂN TÔN-GIÁO XUẤT HIN

 

      Sự truyền bá Đạo-lư, từ đó, đă bắt đầu xúc tiến ; Thiện-Nam

Tín-Nữ xin nhập môn càng ngày càng đông. Những người cầm giềng mối Đạo

muốn cho sự truyền giáo được dễ-dàng cho nên ngày 7 tháng 6 năm 1926,

có 28 vị gởi một tờ "Khai-Đạo" lên quan Thống-Đốc Nam-Kỳ (thời kỳ Pháp

thuộc), trong đó có chữ kư tên của tất cả 247 Đạo-hữu. Về mặc khác,

Đức CHÍ-TÔN dạy phải thiết Đại-lễ "Khai-Đạo" ; thành thử đến ngày 14

tháng 10 Bính-Dần, nhằm 18 tháng 11  1926, cuộc Đại-lễ khai đạo cử

hành tại Từ-Lâm-Tự, tỉnh Tây-Ninh. Nguyên lai ngôi chùa nầy do một vị

Ḥa-Thượng bên nhà Thiền đứng ra tạo tác mới vừa xong. Khi Ḥa-Thượng

nhập môn rồi, người bằng ḷng cho tạm ngôi chùa để làm lễ khai-đạo.

     Tại Từ-Lâm-Tự, trong ba tháng hành lễ, người xin nhập môn hằng

vạn. Đồng thời, Đức CHÍ-TÔN lập Pháp-Chánh-Truyền, phong thưởng

Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài, Cửu-Trùng-Đài tức lập Hội-Thánh và Đức Ngài

dạy nhóm Hội-Thánh lập luật Đạo. Ba tháng qua, Pháp-luật đă có th́

nghiểm nhiên Đạo thành một nền Tân Tôn-giáo chánh thức, danh gọi

Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ. Sau ba tháng hành-lễ tại Từ-Lâm-Tự, Ṭa-Thánh

được dời về chỗ bây giờ. Sự kiến thiết bắt đầu từ đó.

     Vậy đủ rơ Đại-Đạo do Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, tá danh Cao-Đài

Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát dùng huyền cơ, diệu bút mà lập thành ;

nhưng, người đời dựa vào Thánh-danh ấy mà gọi tắt là "Đạo Cao-Đài". Sự

thiệt, Thánh danh của Đức Giáo-Chủ Đại-Đạo có ư nghĩa là qui Tam-Giáo

(Thích, Đạo, Nho) thành một nền Đạo lớn, mục đích cứu rổi Chúng-sanh,

với một cách quảng đại. C̣n Đại-diện Đạo-đức tại thế-gian, để làm

gương lành cho người đời soi sáng th́ Đức CHÍ-TÔN lập ra một Hội-Thánh

gồm có ba Đài là : Bát-Quái-Đài, Hiệp-Thiên-Đài và Cửu-Trùng-Đài. Mỗi

Đài có phận sự đặc biệt, mà chúng tôi sẽ nói rơ trong quyển sách nầy.

      Có điều thần bí không thể nói rơ ra đượclà khi Đạo mới khai,

Đức CHÍ-TÔN ban huyền diệu cho người hành đạo nhiều lắm. Đại-để như

những bịnh điên, bịnh-tà, đến cầu th́ người hành-đạo cầu-nguyện và

thỉnh Âm-dương thủy (nước cúng trên bàn thờ)cho uống rồi bịnh nhơn

tỉnh liền ; măi đến ngày nay, những sự huyền diệu ấy c̣n truyền khẩu

trong Nhơn-gian.

 

                       CHƯƠNG THỨ HAI

                            ***

 

                      NỀN TẢNG ĐI-ĐO

                            ***

 

    Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là một nền Tôn-giáo, do Đức Thượng-Đế sáng

lập tại xứ Việt-nam. Nền tảng là qui nguyên Tam-giáo, hiệp-nhứt

Ngũ-Chi thành một Giáo-lư đại-đồng. Kế đấy, chúng tôi lần lượt giải

bày cho rơ nền "Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ", Đức Giáo-Chủ và sự qui hiệp

Tam-Giáo, Ngũ-Chi.

    Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là ǵ ?

    Theo lẽ thường, ai cũng biết rằng : hễ việc chi đă có lần thứ ba,

tất nhiên, trước kia đă có lần thứ nhứt và lần thứ nh́. Th́ Đại-Đạo

Tam-Kỳ Phổ-Độ là nền Đạo khai lần thứ ba, tất nhiên trước kia cũng đă có

hai lần rồi. Thế nên, chúng tôi xin kể sơ lược Đại-Đạo khai hai lần

trước, rồi sau sẽ giải đáp câu hỏi Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là ǵ ?

    Đại-Đạo Nhứt-Kỳ Phổ-Độ (Thượng-cổ thời-đại)

        Đức Nhiên-Đăng Cổ-Phật khai Phật-giáo

        Đức Hồng-Quân Lăo-Tổ khai Tiên-giáo.

        Đức Văn-Tuyên Đế-Quân khai Nho-giáo.

    Đại-Đạo Nhị-Kỳ Phổ-Độ (Trung-cổ thời-đại)

        Đức Thích-Ca chấn hưng Phật-giáo.

        Đức Lăo-Tử chấn hưng Tiên-giáo.

        Đức Khổng-Tử chấn hưng Nho-giáo.

    Ngoài Tam-Giáo, lại có Đức Chúa Jésus Christ lập Thánh-Đạo bên

Thái-Tây, Đức Khương-Tử-Nha chủ trương Thần-Đạo tại Trung-Hoa. Thật là

Trung-Cổ thời-đại, là thời kỳ văn-minh Đạo-đức cực thạnh, Giáo-pháp

hoằng khai, cho nên cũng gọi đó là thời kỳ Ngũ-chi Đại-Đạo phổ biến.

Thế đă rơ Đại-Đạo khai hai kỳ trước. Bây giờ xin giải đáp câu hỏi :

Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là ǵ ?

    Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ nghĩa là một nền Đạo lớn khai lần thứ ba,

Phổ-Độ Chúng-sanh với một cách rộng răi, tức là phổ-độ tất cả

Nhơn-Sanh, không phân biệt màu da, sắc tóc ; không phân biệt Tôn-giáo.

Hoặc nói trắng ra là đứng trước Đức Thượng-Đế, cả Chúng-Sanh đều là

con một Cha, đồng được Đại-Từ-Phụ cứu rổi như nhau.

    Nhưng, có điều nên lưu tâm là Đại-Đạo khai kỳ ba có khác với hai

kỳ trước về mặt h́nh-thức. Đại khái như Đức Giáo-Chủ của Đại-Đạo kỳ ba

là Đấng Vô-h́nh ; chớ không phải Giáo-chủ hữu-thể, như thời xưa. Đức

Ngài dùng huyền-diệu cơ-bút để dạy đạo. Đó là những điểm mà chúng tôi

cứu xét kể đây.

 

                      ĐỨC GIÁO-CHỦ ĐI-ĐO

 

    Ngày xưa, khai Tam-Giáo Đức CHÍ-TÔN phân tánh giáng trần mà lập

Đạo. Nay Đức Ngài không mượn phàm thể, mà lại dùng huyền-diệu Cơ-bút

để truyền Đạo. Ấy vậy nên Đức Giáo-Chủ Đại-Đạo là Đấng Vô-h́nh. Ngài

là Đấng Chủ-tể Càn-Khôn, Thế-Giái ; nhưng, không xưng danh "Ngọc-Hoàng

Thượng-đế", mà lại mượn tên "CAO-ĐàI TIÊN-ÔNG ĐạI B--TÁT MA-HA-TÁT".

Thánh-danh ấy có ư nghĩa qui nguyên Tam-Giáo ; đại để như sau :

    CAO-ĐàI chỉ về Nho-giáo, có nghĩa là cái Đài cao rất mực

(Thái-cực) ngôi của Đấng Chúa-tể Càn-khôn mà Nho-giáo sùng bái dưới

nhăn hiệu "Thượng-Đế".

    TIÊN-ÔNG chỉ về một vị Đại-giác Kim-Tiên trong đạo-giáo.

    Đại-B--TÁT MA-HA-TÁT chỉ về một vị Phật trong Thích-giáo.

    Vậy Thánh-Danh "Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát" là chỉ về

sự qui nguyên Tam-giáo thành một nền Đại-Đạo, nhưng người ta thường

gọi vắn tắt là "Đạo Cao-Đài".

    Vả lại, các v́ Giáo-chủ Tam-giáo ngày xưa vốn là người có

thân-thể, tu-hành đắc Đạo, rồi đem cái sở-đắc của ḿnh mà dạy Đời, cho

nên người đời tôn lên ngôi Giáo-Chủ. Mà hễ có thân-thể th́ tự-nhiên

biết một thứ tiếng bổn xứ mà thôi. Như thế, nếu đem tư tưởng của ḿnh

mà truyền-thọ cho người ngoại-quốc th́ có sự trở ngại về ngôn-ngữ bất

đồng. Có lẽ v́ lư-do ấy nên Tam-giáo ngày xưa không phổ-truyền rỗng

lớn chăng ! C̣n nay, Đức Giáo-Chủ Đại-Đạo là Đấng Vô-H́nh, dùng

huyền-diệu Cơ-bút để dạy dỗ th́ Dân-tộc nào cũng có thể học trực-tiếp

với Ông Thầy Trời, nếu họ biết dùng phép "Thông-Thần-lực" (Médiumnité)

để thông công. Thế th́ sự bất đồng ngôn-ngữ chẳng c̣n là một vấn-đề

thắc mắc nữa.

 

              TAM-GIÁO QUI-NGUYÊN NGŨ-CHI PHụC-NHấỨT

 

     Ngày 24 tháng 4 năm 1926 (Dương-lịch) Đức Chí-Tôn giáng cơ dạy

rằng :

     "Vốn từ trước, Thầy lập Ngũ-Chi Đại-Đạo là :

                      Nhơn-Đạo

                      Thần-Đạo

                      Thánh-Đạo

                      Tiên-Đạo

                      Phật-Đạo

     "Thầy tùy phong-hóa của Nhơn-Sanh mà gầy Thánh-Giáo, v́ khi trước

"Thế-giái chưa thông đồng. Nhơn-Sanh chỉ hành-đạo nơi tư-phương ḿnh mà

"thôi. C̣n nay, Thế-giái tận thức, Nhơn-loại hiệp đồng th́ Nhơn-Sanh

"lại bị nhiều Tôn-giáo mà sanh nghịch lẫn. Vậy nên Thầy nhứt định qui

"nguyên phục-nhứt.

      Theo Thánh-ngôn trên đây, Đức Chí-Tôn qui Tam-giáo, hiệp

Ngũ-Chi, là có ư muốn các Tôn-giáo liên-hiệp, để tận độ Chúng-Sanh và

đó cũng tỏ cho người đời hiểu rằng : Tôn-Giáo mặc dầu ở Phương-đông

hay Phương-tây, mặc dầu chẳng giống nhau về h́nh thức, về danh-từ ;

song tựu trung Tôn-giáo nào cũng sùng bái một Đấng Cao-cả, Đấng

Chúa-tể Càn-khôn Vơ-trụ, hóa sanh muôn loài, tức Ông Cha chung của

vạn-vật và các Tôn-giáo đều có một tôn-chỉ chung :"Dạy người làm lành

lánh dữ" mà thôi.

     Thiết tưởng, ngày nào Nhơn-loại nh́n nhau là anh em một Cha, bạn

học một Thầy, th́ ngày ấy Nhơn-loại sẽ ḥa-hiệp nhau để chung hưởng

hạnh-phúc của Đại-Từ-Phụ dành cho. Thiên-hạ thái-b́nh là một điều mà

Tín-Đồ Đại-Đạo cầu nguyện hằng ngày.

     Nói về giáo-thuyết Đức CHÍ-TÔN đă lập ra Qui-luật, Lễ-nghi thờ

cúng và Giáo-lư của một nền Tôn-giáo rồi Đức-Ngài c̣n dạy chúng ta

phải tham-khảo Tam-giáo và trích học những điểm có thể đồng hóa với

Giáo-lưcủa Đại-Đạo. Thế đủ hiểu nền tảng Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là

Tam-giáo qui-nguyên, Ngũ-chi Hiệp-nhứt. Nghi tiết thờ phượng nơi

Bát-Quái-Đài đủ chứng-minh điều ấy. C̣n Giáo-thuyết th́ tham bát cả

Tam-giáo, Ngũ-chi và chiết lấy những phần nào thích ứngvới tŕnh độ

tấn-hóa của Nhơn-Sanh để học-hành.

 

                       CHƯƠNG THỨ BA

                           ----

 

                      H̀NH THỂ ĐạI-Đạo

                            ***

 

    Đức Giáo-Chủ Đại-Đạo là Đấng Vô-H́nh, để đại-diện cho Đại-Đạo tại

Thế-gian, Đức Ngài lập một Hội-Thánh, gồm có ba đài kể như sau :

 

                      I.- BÁT-QUÁI-ĐàI

 

     Một ṭa Bửu-Điện kiến-trúc theo h́nh "Bát-Quái" để thờ Đức

Thượng-Đế và chư Phật, Tiên, Thánh, Thần, danh gọi Bát-Quái-Đài. Chúng

tôi xin kể nghi-tiết thờ phượng nơi Đài Bát-Quái.

 

     1/ Thánh-tượng thờ Đức CHÍ-TÔN.

     Trên ngôi cao ngất kia, thờ Thiên-Nhăn, vẽ lên trên quả Càn-Khôn

; chính giữa quả Càn-Khôn, thường đốt một ngọn đèn sáng. Đó là

tượng-trưng thờ Đức Thượng-Đế, ngự trên ngôi Thái-Cực. Đức Ngài là

Chúa-Tể Càn-Khôn, thống trị vạn-vật, nay chưởng-giáo Đại-Đạo Tam-Kỳ

Phổ-Độ, Đức Ngài tá danh " CAO-ĐàI TIÊN-ÔNG ĐI-B--TÁT MA-HA-TÁT", mà

chúng tôi đă giải bày nơi trang trước.

        a) Quả Càn-Khôn. Thánh-Ngôn.- "Quả Càn-Khôn h́nh tṛn như trái

"đất, bề kính tâm ba thước, ba tấc ; lớn quá ; song, phải vậy mới hạp

"với cơ mầu-nhiệm Tạo-Hóa.

     "Màu xanh da Trời, cung Bắc-Đẩu và các v́ Tinh-tú phải có đủ trên

"quả Càn-Khôn. Các con thể theo sách Thiên-văn, vẽ ngôi Bắc-Đẩu tỏ rơ,

"bên cạnh có hai bánh lái, trên ngôi Bắc-Đẩu vẽ Thiên-Nhăn mà thờ.

     "Đáng lẽ quả Càn-Khôn phải làm bằng pha-ly, chính giữa thường đốt

"một ngọn ThÁi-Cực đăng. Ấy là phép cầu nguyện chung cho cả Nhơn-loại

"nhưng, chưa kịp th́ các con tùy tiện mà làm. C̣n chư Thần, Thánh,

"Tiên, Phật lên cốt rồi cứ để dài theo phía dưới".

         b) Thiên-Nhăn

      Nay như hỏi tại sao thờ Thiên-Nhăn lài gọi là thờ Trời, th́

Thánh-Ngôn nói rằng :

                       "Nhăn thị chủ Tâm ;

                       "Lưỡng quang chủ-tể ;

                       "Quang thị thần ;

                       "Thần thị Thiên ;

                       "Thiên giă ngă dă.

      Nghĩa là : Mắt là chủ Tâm ; hai yếng-sáng trong mắt là Chủ-tể ;

yếng-sáng là Thần ; Thần là Trời ; Trời là Ta vậy.

     C̣n một lẽ nữa : cơ mầu nhiệm của sự đắc Đạo là Thần hiệp với

Khí-Tinh, tức Tam-bửu huờn nguyên th́ mới siêu phàm, nhập Thánh. Trái

lại, nếu có Tinh-Khí mà chẳng có Thần th́ không thể nhập cảnh

Hằng-sống. Thờ Thiên-Nhăn cũng là tiết lậu cơ đắc Đạo : bởi Thần là

món báu thứ nhứt phải có và phải hiệp với Tinh-Khí th́ người mới tạo

được Nhị-xác-thân mà vào cơi An-nhàn tự tại;

     Lại có Thánh-Ngôn của Đức CHÍ-TÔN dạy rằng :

     "Từ ngày Đạo bế, tu th́ nhiều mà người đắc Đạo vốn ít, v́ Thần là

"cơ mầu-nhiệm mà lại bị khiếm. Nay Thầy đến huờn nguyên Tam-bửu cho

"các con đắc Đạo. Các con hiểu Thần cư tại Nhăn th́ nên bố-trí cho

"Đạo-hữu các con hiểu với. Nguồn Tiên Phật yếu nhiệm tại đó".

     Vả lại, Đại-Đạo Nhứt-Kỳ và Nhị-Kỳ Phổ-Độ Đức Giáo-Chủ có phàm

thể, cho nên người ta dùng cốt tượng để thờ. C̣n nay khai Đại-Đạo

Tam-Kỳ, Đức CHÍ-TÔN không giáng trần, lại dùng phép huyền-diệu Cơ-bút

mà lập giáo. Ấy vậy sự thờ Thiên-Nhăn cũng chỉ về thờ Thần, mà Thần là

Trời vậy.

     2/ Tam-Giáo và Ngũ-Chi

     Nghi tiết thờ Tam-giáo, Ngũ-chi kể như vầy :

         a) Tam-giáo :

            Kế cận quả Càn-Khôn, thờ Đức Thích-Ca.

            Tả có Đức Lăo-Tử.

            Hữu có Đức Khổng-Phu-Tử.

         Đó là thờ ba vị Giáo-chủ Thích, Đạo, Nho.

            Đức Lư-Thái-Bạch là Nhứt-Trấn Oai-Nghiêm.

            Đức Quan-Âm là Nhị-Trấn Oai-Nghiêm.

            Đức Quan-Thánh Đế-Quân là Tam-Trấn Oai-Nghiêm.

         Ba vị nầy đại diện cho Tam-giáo trong cơ Phổ-Độ kỳ ba.

         b) Ngũ-Chi :

            Ngôi Giáo-Tông, Chưởng-Pháp, Đầu-Sư tượng-trưng Nhơn-Đạo

            Đức Khương-Thương tượng-trưng Thần-Đạo

            Đức Chúa Jésus-Christ tượng-trưng Thánh-Đạo.

            Đức Lư-Thái-Bạch tượng trưng Tiên-Đạo.

            Đức Thích-Ca tương trưng Phật-Đạo.

         Tóm lại, Bát-Quái-Đài là nơi hội Công-Đồng Tam-Giáo, Ngũ-Chi,

Đức Chí-Tôn vi chủ, cũng như Hồn-Đạo ; cả Giáo-pháp do Đài nầy truyền

ra.

 

                               *

 

                      II.- HIệP-THIÊN-ĐàI

 

     Theo danh từ mà cắt nghĩa : Hiệp-Thiên-Đài là cái đài hiệpvới

Trời, có phận sự làm trung gian, kết liên Bát-Quái-Đài và

Cửu-Trùng-Đài thành một Hội-Thánh. Có phận sự làm môi giới cho

Bát-Quái-Đài vô-vi và Cửu-Trùng-Đài hữu h́nh, thành thử Hiệp-Thiên-Đài

có hai nhiệm vụ là :

                1) Thiêng-liêng

                2) Phàm-trần

     1- Nhiệm vụ Thiêng-liêng.

     Hiệp-Thiên-Đài là nơi Đức CHÍ-TÔN ngự, tiếp xúc với Hội-Thánh

Cửu-Trùng-Đài, tức là nơi Đức CHÍ-TÔN và các Đấng Tiêng-Liêng giáng cơ

truyền-giáo. Điều quan trọng là nếu chẳng có Hiệp-Thiên-Đài th́

Cửu-Trùng-Đài không thông công với Bát-Quái-Đài hoặc nói rơ ra là :

nếu chẳng có Hiệp-Thiên-Đài th́ người chẳng có phương tiện thông công

với Trời. Thế nên Đức CHÍ-TÔN dạy :

     "Hiệp-Thiên-Đài là nơi Thầy ngự, cầm quyền Thiêng-Liêng mối Đạo.

"Hễ Đạo c̣n th́ Hiệp-Thiên-Đài c̣n. Lại nữa, Hiệp-Thiên-Đài là nơi

"Giáo-Tông đến tiếp xúc với Tam-thập-lục-thiên, Tam-Thiên-Thế-Giái,

"Lục-Thập-Bát-Địa-cầu, Thập-Điện-Diêm-Cung, đặng cầu siêu cho

"Nhơn-loại.

    2- Nhiệm vụ Phàm-trần.

    Hiệp-Thiên-Đài có ba chi :"Pháp-, Đạo, Thế". Đức CHÍ-TÔN dạy :

    "Hiệp-Thiên-Đài dưới quyền Hộ-Pháp chưởng quản. Tả có Thượng-Sanh,

"hữu có Thượng-Phẩm. Thầy lại chọn Thập-Nhị-Thời-Quân chia ra làm ba

"chi :

    "Hộ-Pháp chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài, kiêm chi Pháp dưới có :

                   Bảo-Pháp

                   Hiến-Pháp

                   Khai-Pháp

                   Tiếp-Pháp

     "Chi-Pháp lo bảo hộ luật Đời và luật Đạo, chẳng ai hành-động

"sai luật mà Hiệp-THiên-Đài không biết

     "Thượng-Phẩm chỉ-huy phần Đạo, dưới có :

                  Bảo-Đạo

                  Hiến-Đạo

                  Khai-Đạo

                  Tiếp-Đạo

     "Chi Đạo lo phần Đạo, nơi các Tịnh-thất, và các Thánh-thất, xem

"xét chư Môn-đệ Thầy, binh vực chẳng ai phạm luật, đến khổ khắc đặng.

     "Thượng-Sanh chỉ huy phần Thế, dưới có :

                  Bảo-Thế

                  Hiến-Thế

                  Tiếp-Thế

                  Khai-Thế

                  Tiếp-Thế

     "Thầy khuyên các con lấy tánh vô-tư mà hành-đạo. Thầy cho biết

"trước rằng : Có trọng quyền ắt có trọng phạt".

     Tóm lại, cả Giáo-Pháp của Đại-Đạo do Bát-Quái-Đài truyền ra.

Hiệp-Thiên-Đài có phận sự truyền-bá Giáo-Pháp cho Cửu-Trùng-Đài và

giữ-ǵn Giáo-Pháp ấy cho khỏi bị canh cải.

 

                               *

 

                     III- CỬU-TRÙNG-ĐàI

 

     Bát-Quái-Đài tỷ như Hồn-Đạo, cả Giáo-Pháp do Đài nầy truyền dạy.

     Cửu-Trùng-Đài tỷ như Thể-Đạo, cả Giáo-Pháp nương Đài nầy mà h́nh

dung Đạo-Đức ra Thế-gian để Đời soi sáng.

     Theo chữ mà cắt nghĩa : Cửu-Trùng-Đài là cái Đài thể theo

Cửu-Trùng-Thiên mà kiến trúc, có chín nấc : cao thấp khác nhau,

Cửu-Phẩm Thần-Tiên vâng lịnh Ngọc-Hư-Cung trị Thế-Giới vô h́nh, cũng

như Cửu-Trùng-Đài vâng lịnh Bát-Quái-Đài mà chưởng quản mối Đại-Đạo

tại Thế-gian, về mặt hữu vi. Vậy tất cả Chơn-linh trong Càn-Khôn,

Vơ-Trụ đều phải vào Cửu-Trùng-Đài và tuần tự theo đẳng cấp thấp cao để

đoạt vị Thiêng-Liêng của ḿnh;

     Cửu-Trùng-Đài do một Hội-Thánh quản trị, mạng danh là Hội-Thánh

Cửu-Trùng-Đài gồm có một phÁi Nam và một phái Nữ.

     Đức CHÍ-TÔN lập Pháp-Chánh-Truyền cho cả hai phái như vầy :

     1) Chức-sắc Nam-Phái.

        "GIÁO-TÔNG.- Là anh cả của các con, có quyền thay mặt cho Thầy

"d́u dắt các con, trong đường Đạo và đường đời. Có quyền về phần xác

"mà chẳng có quyền về phần Hồn. Giáo-Tông đặng phép thông-công cùng

Tam-Thập-Lục-Thiên và Thất-Thập-Nhị-Địa-Cầu rổi cho các con.

        "CHƯỞNG-PHÁP.- Ba vị Chưởng-Pháp của Tam-Giáo, tuy phân biệt,

"song trước mặt Thầy, coi như một, có quyền xem xét luật lệ, trước khi

"ban hành, hoặc nơi Giáo-Tông truyền xuống, hoặc dưới Đầu-Sư dâng lên.

"Nếu cả hai chẳng thuận, Chưởng-Pháp phải dâng lên Hộ-Pháp, đến

"Hiệp-Thiên-Đài, cầu Thầy sửa chữa, hay tùy ư lập luật khác.

"Chưởng-Pháp có quyền xem xét kinh điển trước khi phổ thông. Nếu có

"kinh điển nào làm tồi bại phong-hóa, Chưởng-Pháp có quyền trừ bỏ.

"Buộc cả Tín-Đồ phải giúp Chưởng-Pháp hành-sự. Trước luật Đời, Thầy

"khuyên các con rán giúp đỡ lẫn nhau. Chưởng-Pháp, mỗi vị có ấn riêng.

"Ba ấn phải đủ trên mặt luật, mới đặng thi hành.

        "ĐẦU-SƯ.- Ba vị Đầu-Sư có quyền cai-trị phần Đạo và phần Đời

"của chư Môn-Đệ. Đầu-Sư có quyền lập luật, song phải dâng lên cho

"Giáo-Tông phê-chuẩn. Muốn phê-chuẩn luật-lệ, Giáo-Tông phải giao cho

"Chưởng-Pháp xem xét trước, coi luật-lệ ấy quả thật có ích cho

"Nhơn-Sanh chăng ! Ba vị Đầu-Sư phải tuân lịnh Giáo-Tông truyền dạy.

"Thoảng có luật lệ nào quá hà khắc Tín-đồ, Đầu-Sư có quyền xin hủy

"bỏ. Thầy khuyên các con rán giúp Đầu-Sư trong khi hành-sự. ThẦy lại

"dặn các con, nếu có điều cần, nên nài xin nơi Đầu-Sư.

        "Ba chi tuy khác, song quyền hành như một. Luật lệ nào của

"Giáo-Tông truyền dạy, mà cả ba đồng bất tuân, th́ luật-lệ ấy phải

"trả lại Giáo-Tông, truyền lịnh cho Chưởng-pháp xem xét. Ba vị

"Đầu-Sư có ba ấn khác nhau. Mỗi giấy tờ phải có đủ ba ấn mới đặng thi

"hành.

       "PH-I-SƯ.- Mỗi phái có mười hai người, ba phái cộng lại thành

"36 vị. Trong số 36, tuyển ra ba vị Chánh Phối-Sư để thế quyền Đầu-Sư

"mà hành sự, song chẳng có quyền phá luật-lệ.

       "GIÁO-SƯ.- Giáo-Sư có 72 người, mỗi phái có 24 vị. Giáo-Sư là

"người dạy dỗ Tín-đồ trong đường Đạo và đường Đời. Buộc Giáo-Sư phải

"lo lắng cho Tín-đồ, cũng như anh lo cho em. Giáo-Sư cầm sổ bộ Tín-đồ,

"chăm nom việc tang hôn. Tại châu-thành lớn, Giáo-Sư có quyền cai quản

"Thánh-Thất, cúng tế Thầy, như Đầu-Sư và Phối-Sư. Giáo-Sư có quyền

"dâng sớ, kêu nài sửa đổi, hoặc chế giảm luật lệ nào quá hà khắc

"Nhơn-sanh. Giáo-Sư thân mật với mỗi đứa môn-đệ, như anh em một nhà,

"cần phải giúp đỡ.

       "GIÁO-HU.- Giáo-Hữu là người phổ thông nhơn Đạo, có quyền cầu

"xin chế giảm luật lệ. Ba ngàn Giáo-Hữu chia đều mỗi phái một ngàn,

"chẳng đặng tăng thêm, hay giảm bớt. Giáo-Hữu đặng phép hành lễ, khi

"làm chủ một ngôi Chùa trong mấy tỉnh nhỏ.

       "LỄ-SANH.- Lễ-Sanh là người có hạnh, lựa chọn trong hàng chư

"môn-đệ, để hành lễ, có quyền khai đàn cho Tín-đồ. Thầy dặn các con :

"Lễ-Sanh là người Thầy yên mến, chẳng nên hiếp đáp. Vào hàng Lễ-sanh

"mới mong bước qua Chức-Sắc ; trừ ra, Thầy phong thưởng riêng mới qua

"khỏi luật lệ ấy.

       CHÁNH PHÓ TR-SỰ và THÔNG-SỰ.- Pháp-Chánh-Truyền trên đây,

"thoạt tiên, dự định đến phẩm Lễ-Sanh thôi ; nhưng, về sau, Đại-Đạo

"ngày một phổ-thông, người nhập môn ngày một nhiều. Hội-Thánh thiếu

"người chăm nom phổ hóa, Đức Lư Giáo-Tông bèn đặt thêm hai phẩm

"Chức-việc nữa, là Chánh Phó Trị-Sự và Đức Hộ-Pháp đặt thêm phẩm

"Thông-Sự. Ba phẩm Chức-việc nầy có phận sự săn sóc Đạo-hữu ở rải rác

"khắp nơi, từ thôn-quê đến thành-thị và ḥa giải những tư-tưởng bất

"đồng giữa Tín-đồ.

 

                           LỄ-PhụC

 

      Lễ-phục hay y-quan mặc hành-lễ trong giờ cúng tế. Lễ phục của

Chức-sắc khác nhau, từ màu sắc đến kiểu mẫu.

      Màu-sắc.- Thích-giáo màu vàng ; Đạo-giáo màu xanh da trời ;

Nho-giáo màu đỏ điều. Người bàng-quan trông vào màu áo có thể biết vị

Chức-sắc kia thuộc phái nào.

      Kiểu mẫu.- Người bàng quan trông vào kiểu áo măo cũng có thể

biết vị Chức-sắc ấy lănh phận sự chi.

 

                               *

 

                    II.- CHứỨC-SẮC Nữ-PHÁI

 

      "ĐẦU-SƯ Nữ-PHÁI.- Nữ-phái có một vị Đầu-Sư d́u dắt. Đầu-Sư

"Nữ-phái đồng quyền với Nam-phái, tuân lịnh một Giáo-Tông và ba

"Chưởng-Pháp. Đầu-Sư Nữ-Phái cũng tùng chung một luật phân xử, trong

"đường Đạo và đường Đời và luật công-cử của Hội-Thánh ban hành.

      "Đầu-Sư Nữ-phái dùng lễ-phục như Đầu-Sư Nam-phái, song có đội

"măo Phương-Thiên và Ni-Kim-Cô, như các văi ở chùa ; trên chót có

"Thiên-Nhăn, bao quanh một ṿng Minh-Khí, choàng một đoạn lụa màu

"trắng, từ Kim-Cô thả xuống tới gót chân. Áo may bằng hàng trắng, chín

"vải, có thêu bông-sen, chưn đi giày vô-ưu, trên mũi có thêu chữ

"Hương".

       "PH-I-SƯ.- Phối-Sư mặc lễ-phục y như Đầu-Sư, song chẳng đội

"măo Phương-Thiên. Áo ba vải, trước ngực có Thiên-Nhăn bao quanh một

"ṿng Minh-Khí.

       "GIÁO-SƯ.- Giáo-Sư mặc áo ba vải, đội Kim-Cô hằng hàng trắng,

"chơn chẳng đi giày.

       "GIÁO-HU.- Giáo-Hữu mặc lễ-phục như Giáo-Sư, đầu không đội

"măo, nhưng có giắt bông sen, có thêu Thiên-Nhăn.

       "LỄ-SANH.- Lễ-Sanh mặc áo như Giáo-hữu, choàng ngang trên đầu

một đoạn vải mỏng, cột ra sau ót, thả một mí vắn, một mí dài, trên đầu

giắt bông sen.

       CHÁNH PHÓ TRI-SỰ và THÔNG-SỰ.- Hội-thánh Nữ-phái cũng có ba

phẩm và ba phẩm nầy có phận sự cũng như Nam-phái.

 

                            *

 

              LUậT CÔNG-CỬ CHUNG CHO CHỨC-SẮC

                      NAM Và Nữ-PHÁI

 

     Thánh-Ngôn.- "Đầu-Sư muốn lên Chưởng-Pháp, nhờ ba vị Đầu-Sư

"công-cử ; Phối-Sư muốn lên Đầu-Sư, nhờ 36 vị Phối-Sư công cử ;

"Giáo-sư muốn lên Phối-Sư, nhờ 72 vị công-cử ; Giáo-hữu muốn lên

"Giáo-sư, nhờ 3000 vị Giáo-Hữu công-cử ; Lễ-Sanh muốn lên Giáo-Hữu,

"nhờ cả Lễ-Sanh công-cử, trừ ra Thầy giáng cơ phong thưởng riêng

"người nào th́ người ấy mới ra ngoài luật lệ ấy.

      "Giáo-tông có hai phẩm đặng phép dự cử là : Chưởng-pháp và

"Đầu-sư, song phải chịu toàn Đạo công-cử. Trừ ra, Thầy giáng cơ

"phong thưởng riêng, mới ra ngoài luật lệ ấy.

       "Hiện nay, Chức-sắc chưa đủ số đă định, thành ra luật công-cử

"nầy chưa thi hành được. Hôm ngày 9 tháng 4 năm 1958 nhằm 21 tháng 2

"Mậu-Tuất, Đức Lư-Đại-Tiên, Nhứt-Trấn Oai-Nghiêm cho một điều luật, để

"thi hành tạm như sau :

        "Về việc ban thưởng Chức-Sắc, không phải có đủ 5 năm thâm-niên

"sắp lên là đủ điều-kiện cầu thăng và được thăng mà cần phải có những

điều kiện cần yếu khác nữa là :

                "Thứ nhứt : Phương-diện hạnh-đức.

                "Thứ nh́ : Tŕnh-độ học-thức.

                "Thứ ba : Tinh-thần phục-vụ

                "Thứ tư : Khả-năng giáo-hóa Nhơn-sanh.

         "Là v́, hễ đến bực Giáo-Hữu là thay mặt CHÍ-TÔN phổ-thông

"chơn Đạo, thành thử, chẳng phải người thường t́nh đặng, mà phải

"đáng mặt phi thường mới xứng. Kỳ nầy Lăo châm chế, chớ những kỳ

"cầu thăng sau, Chức-sắc mỗi cấp bực đủ 5 năm thâm-niên, hay hơn nữa

"chỉ được đem vào sổ cầu thăng với tỷ lệ bốn phần năm mà thôi,

"Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài phải cân phân phận sự xứng đáng của Chức-sắc

"do theo điều kiện của Lăo vừa chỉ và sau khi chọn lọc kỹ-lưỡng số tỷ

"lệ quy-định, giao qua cho Hiệp-Thiên-Đài kiểm soát lại, rồi mới dâng

"lên cho Lăo, Hiền-hữu Thượng-Sanh và chư vị Thời-quân nên lưu-tâm

"nghe !

        "Sự cầu-thăng của Nữ-phái cũng do theo nguyên tắc đó và Thánh

"Giáo nầy có hiệu lực cho đến ngày Cửu-Trùng-Đài thực hiện luật

"công-cử của Đạo.

    Nói tóm lại, Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài gồm có Chức-sắc Nam và Nữ,

như vừa kể qua, có phận chung là bảo tồn Giáo-pháp, Đạo-luật, và

phổ-thông quần-linh. Đức CHÍ-TÔN nói rằng : Khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ

Ngài chọn Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam-Thập-Lục Thánh, Thất-Thập Nhị-Hiền

và Tam-Thiên Đồ-đệ. Ấy là chỉ vào:

             Một Giáo-Tông

             Ba Đầu-Sư

             Ba mươi sáu Phối-Sư

             Bảy mươi hai Giáo-Sư

 Ba ngàn Giáo-Hữu

   Theo Đạo-học, hễ muốn độ người, trước phải độ ḿnh như nhà Phật

thường nói :"Tiên tự giác nhi hậu giác tha". Đây là một điểm khác nhau

ở giữa nhà Đạo-đức và Văn-sĩ. Nhà Đạo-đức, chẳng những phải học Đạo-lư

mà phải thi hành thế nào cho Đạo-lư biến thành Tâm đức của ḿnh nữa,

để rồi áp dụng vào đời sống thực tế. Người bàng quan xem vào cử chỉ

của người đạo-đức mà bắt chước. Trái lại, người văn-sĩ chỉ học cho

biết văn-chương và chơn-lư mà thôi.

    Ấy vậy, Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài phải học hành, tu luyện thế nào,

hầu đặng ḿnh có đủ tài đức, để nêu gương lành cho Đời soi sáng. Đó là

một lẽ, c̣n như thể theo danh-từ mà luận : Chức-sắc Hội-Thánh, tức một

vị Thánh-nhơn ở trong nhiều vị Thánh-Nhơn khác. Theo hai lẽ đó mà suy

rộng ra : một vị Chức-sắc, nếu chưa phải hoàn toàn là vị Thánh-nhơn,

th́ ít ra cũng phải có đủ tài-đức d́u dắt Nhơn-sanh trên đường Đạo-lư,

Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, sau nầy, hoặc thành, hoặc bại, đều tùy cử chỉ

và hành-vi của Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài mà ra cả ; v́ Đài nầy là h́nh

thể của Đại-Đạo.

 

                        CHƯƠNG THỨ TƯ

                            ----

 

                      LỄ-NGHI Và Đạo-LUậT

                            ----

 

     a)-LỄ-NGHI

 

                LỄ-NGHI THờ CÚNG NƠI ĐỀN-THÁNH

 

    Trong Bát-Quái-Đài có quả Càn-Khôn ; trên quả Càn-Khôn có

Thiên-Nhăn ; giữa quả Càn-Khôn thường đốt một ngọn đèn, tượng trưng

ngôi Thái-Cực. Tóm lại đó là tượng trưng thờ Đức Thượng-Đế ngự trên

ngôi Thái-cực.

    Khi cúng-tế, đốt hai ngọn đèn hai bên, danh gọi lưỡng nghi quang,

tượng trưng Âm và Dương.

    Giữa bàn thờ đốt năm cây hương, tượng trưng Ngũ-hành.

    Nghi lễ thờ phượng cúng tế nơi Bát-Quái-Đài, miêu tả được lư Đại

vô-vi ; vốn có Thái-cực biến sanh Âm-Dương, Ngũ-hành và Âm-Dương,

Ngũ-hành thuận-hành, nghịch chuyển mà định vị Trời đất, hoá sanh muôn

loài. Kẻ học, nếu biết quan sát th́ có thể ư hội được một bài học

Đạo-lư.

    Lễ-Nhạc.- Đức CHÍ-TÔN dạy chúng ta dùng lễ-nhạc để cúng tế như

xưa. Vậy sự hữu-ích của Lễ-Nhạc là làm sao, chúng ta cũng nên xét qua

cho rơ.

    Lễ.- Khi cúng tế, anh Lễ-sĩ áo măo chỉnh tề, hai tay nâng tế-phẨm

lên ngang mày, rồi từ từ theo nhịp nhàng của Âm-nhạc điện lễ đi lên.

Cái vẻ tề-chỉnh trang nghiêm ấy khiến người trông thấy phải sanh ḷng

kính. Thế th́ tinh-thần của LỄ là Kính.

   Nhạc.- Tiếng trống, chuông, đờn, kèn, tiêu, thiều, nhiều thứ âm

thinh khác nhau, đồng thời phát khởi một lượt. Đáng lẽ, chúng ta nghe

hổn loạn lắm ; nhưng sự thiệt lại khác hẳn. Tiếng lớn nhỏ, giọng phù

trầm, dường như nhịn nhường lẫn nhau, để cho mỗi nhạc cụ được thung

dung bày tỏ sở-năng của nó. Thế nên, người ta nh́n nhận tinh-thần của

Nhạc là ḥa. Sách Lễ-kư chép rằng : Lễ là trật-tự của Trời-Đất, Nhạc

là cái điều-ḥa của Trời-Đất (Lễ giă Thiên Địa chi tự, Nhạc giă Thiên

Địa chi ḥa). Sở dĩ nói như thế là v́ Thánh-Nhơn ngày xưa, quan sát

cảnh tượng Vơ-trụ, nhận ra luật trật-tự và thái-ḥa của Trời-Đất, rồi

theo đó mà chế thành Lễ-Nhạc, để cúng tế, làm cho đàn-tế trở nên

tôn-nghiêm và tạo ra một bầu không khí kỉnh ḥa, để cho mọi người

triêm-nhiểm cái tập-quán đạo-đức. Đó là một phương-pháp hàm-dưỡng tâm

tánh vậy.

     Thật Thánh-nhơn chế ra Lễ-Nhạc tế tự, có sức mạnh cảm hóa ḷng

người rất sâu xa. Tỉ như : khi vào chùa miễu th́ ḷng ta kính tín ;

c̣n khi thấy đám tang th́ ḷng ta bùi ngùi thương xót. Nay Đại-Đạo

Tam-Kỳ Phổ-Độ dùng Lễ-Nhạc cũng không ngoài ư cảm hóa ḷng người

khuynh hướng về đạo đức vậy.

 

                        Lễ Dâng Tam-Bửu

 

     Mỗi khi cúng đàn, chúng ta dâng Hoa-Rượu-Trà gọi là "Dâng

Tam-Bửu", có ư nghĩa thế nào ? Xin xem kế đây :

                HOA  : -  Tượng trưng TINH

                RƯợU : -  Tượng trưng KHÍ

                TRà  : -  Tượng trưng THẦN

     Lễ dâng Tam-Bửu là một cách tiết lậu cho người hiểu rằng : trogn

châu thân người vốn có TINH-KHÍ-THẦN. Ba món báu ấy phải huờn nguyên

hiệp nhứt th́ mới đắc Đạo.

    Lạy là ǵ ?

    Thánh ngôn nói :

    "Lạy là tỏ ra bề ngoài lễ kỉnh trong ḷng.

    "Chắp tay lạy là tại sao ?

    "Tả là Nhựt, hữu là Nguyệt, vị chi Âm-Dương ; Âm-Dương hiệp nhứt

"phát khởi Càn-Khôn, sanh sanh hóa hóa. Ấy là Đạo.

    "Lạy kẻ sống hai lạy là tại sao ?

    "Là nguồn gốc của Nhơn-sanh lưỡng-hiệp mà ra.

    "Vong phàm lạy bốn lạy là tại sao ?

    "Hai lạy phần người, một lạy Trời và một lạy Đất.

    "Lạy Thần Thánh ba lạy là tại sao ?

    "Là lạy Đấng ở vào thứ ba của Trời, và cũng chỉ về Tinh-Khí-Thần

"hiệp-nhứt. Ấy là Đạo.

    "Lạy Tiên Phật chín lạy là tại sao ?

    "Là lạy chín Đấng Cửu-Thiên Khai-hóa.

    "C̣n lạy Thầy 12 lạy là tại sao ?

    "Các con không hiểu đâu : Thập-Nhị Khai-Thiên là Thầy, Chúa-tể

"Càn-Khôn Thế-Giái, nắm trọn Thập-Nhị Thời-Thần vào tay. Số 12 là số

"riêng của Thầy;

 

                      Cúng Tứ-Thời

     Mỗi ngày, người Tín-đồ Đại-Đạo phải có bốn lần hầu lễ, gọi là

cúng Tứ-Thời (Tư, Ngọ, Mẹo, Dậu). Vừa xem qua th́ người bàng-quan lầm

tưởng : sự cúng tế là tại có tánh ỷ iại nơi Thần-quyền ; nhưng, sự

thiệt, đó là một phương pháp hàm-dưỡng Tâm-tánh rất nhiệm mầu.

     Xem như trước khi vào Đền-Thánh đặng chầu lễ CHÍ-TÔN th́ chúng ta

đă gạt bỏ những sự ưu tư, trần-tục ra ngoài. Đến khi nhập đàn, lần

lượt Nhạc Lễ phát khởi. Đồng-Nhi tụng kinh. Hoàn cảnh trang nghiêm

nầy khiến ḷng chúng yên lặng và chỉ có một ư niệm thành kính Trời

Phật mà thôi. Giá như chúng ta cứ giữ măi cái Tâm-trạng "Thành kính"

nầy th́ chúng ta sẽ giữ trọn vẹn nguồn Thiên-lư ở trong Tâm-gian của

ḿnh ; tức cũng như câu sách nói rằng :"Nhơn-dục tận tịnh Thiên-lư lưu

hành". Nghĩa là ḷng Nhơn-dục yên tịnh th́ Thiên-lư làm chủ Tâm-gian.

    C̣n một lẽ nữa là theo Đạo tự nhiên, Ngươn-khí Trời Đất, mỗi ngày

vượng bốn thời : Tư, Ngọ, Mẹo, Dậu. Thời nầy kẻ học đạo nên tịnh

tâm, tịnh thân của ḿnh, để hàm dưỡng khí riêng của Trời Đất.

   C̣n khi đến trước Thiên-bàn, chúng ta bắt ấn Tư và niệm Nam-mô

Phật, Nam-mô Pháp, Nam-mô Tăng ; ấy là ư nghĩa làm sao ?

      Nam-Mô Phật .- Miệng nói, tâm niệm th́ chúng ta nhớ rằng :

Bổn-phận chúng ta chẳng khá quên Đấng "Toàn-Tri". Ḷng ghi nhớ Đức

Ngài để rồi noi theo chơn đức Ngài mà tiến bước trên đường tu tỉnh.

      Nam-Mô Pháp. - Ấy là nhắc chúng ta nhớ lại rằng : Đạo-pháp

huyền-vi, nhưng quí báu vô ngằn, mặc dầu khổ hạnh, chúng ta phải gắng

sức làm theo ; chớ chẳng khá thối chí.

      Nam-Mô Tăng.- Hội-Thánh là một nhóm Lương-sanh đại-diện cho Đức

CHÍ-TÔN, để d́u dắt chúng ta. Vậy chúng ta phải tuân lời dạy dỗ của

Hội-Thánh, để tiến bước trên đường học Đạo.

     Tóm lại, trong sự cúng tế Trời Phật, tuy là h́nh thức mặc dầu,

song h́nh thức ấy đem lại nhiều kết quả tinh-thần như :

     a)- Trong lúc cúng tế th́ tinh-thần và vật thể của chúng ta đều

tịnh định ; mà hễ tịnh định   th́ chúng ta hàm-dưỡng được khí-thiêng

của Trời-Đất.

     b)- Trau rửa tâm hồn, về phương diện nầy đức CHÍ-TÔN dạy rằng

:"Trước khi vào lạy Thầy buổi tối, phải tự hỏi ḿnh coi phận sự ngày

ấy xong hay chưa và Lương-tâm có cắn rứt điều chi chăng ? Nếu phận sự

c̣n nét chưa rồi ; Lương-tâm chưa an-tịnh th́ phải biết cải quá, rán

chuộc lấy cái lỗi của ḿnh đă lầm th́ các con chẳng lo chi không b́

bực Chí-Thánh. Thầy mong rằng mỗi đức đều lưu ư về sự sửa ḿnh. Đặng

vậy th́ may mắn cho Đạo và các con sẽ đặng thung-dung mà nêu gương cho

kẻ khác".

      Vậy đủ rơ, cúng tế là một phương pháp tu tâm rất nhiệm mầu, cho

nên Thất-nương Diêu-Tŕ-Cung nói :

      "Lễ bái thường hành, Tâm Đạo khởi".

 

 

                     Thờ cúng Ông Bà nơi Tư-gia

 

    Thờ cúng Tổ-Tiên là lễ tỏ ḷng tôn kính nguồn gốc sanh thành

dưỡng-dục. Ḷng tôn kính ấy nơi người Việt-Nam, theo Nho-giáo thườgn

phát biểu với một phương-thức rẤt tôn trọng.

    Người Việt-Nam ấy giàu, cũng như nghèo, khi cất nhà xong th́ chọn

một chỗ tôn-nghiêm hơn hết, để lập bàn thờ Ông Bà.

    Ngày tế-tự, cả gia-tộc đều họp về nhà thờ, lo việc tế lễ. Hai ngày

Tiên-thường và Chánh-giỗ, những người họ hàng vui vầy có khi nhắc lại

sự tích Tổ-tiên, có lúc hỏi việc hàn huyên gia-tộc.

    Giờ cúng tế, mỗi người đều có ḷng thành kính rất mực. Khi ra vào,

lúc qua lại, trước bàn thờ, họ cúi đầu tỏ vẻ sợ sệt, dường như Ông Bà

đương ngự trên chỗ sở tôn. Giờ cúng tế ấy, hoàn cảnh im phăng-phắc,

người Trưởng-tộc hành lễ rồi con cháu theo thứ tự vái lạy nghiêm

trang.

     Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-độ giữ nguyên vẹn sự thờ cúng Ông Bà, như đă

nói trên. Vả chăng, đạo hữu đă có sẵn ḷng đạo-đức rồi ; nay đem ḷng

nhân đức ấy để thờ cúng Ông Bà th́ có lẽ cái phong tục xưa sẽ được

thêm phần thuần mỹ hơn nữa.

 

                            *

 

    Tóm lại, lễ-nghi, tế-tự đă kể qua : từ Đền-Thánh đến Tư-gia, thật

là một bài học thực hành giản-dị mà đem lại nhiều kết quả. Tỷ như việc

cúng tế đă đ̣i hỏi một ḷng thành kính rồi, lễ-nhạc và nghi-tiết bên

ngoài lại giúp cho ḷng thành kính được quảng-đại thêm lên. Đó là tạo

một không khí đạo-đức cho gia-đ́nh xă-hội, c̣n riêng về cá nhân th́ đó

là một phép hàm dưỡng Tâm-tánh rất đắc lực.

 

   b)- Đạo-Luật.

 

       Nhà nước có Quốc-pháp, cả Công-dân phải tuân hành đặng bảo-an

xă-hội. Tôn-giáo có Đạo-Luật, cả Tín-đồ phải tùng đặng vững bước trên

đườgn tu tỉnh. Quốc-pháp và Đạo-Luật, h́nh thức tương-đồng mà kết-quả

tương-dị. Nhà cầm quyền phạt kẻ phạm Quốc-pháp. Đạo-luật chẳng có

h́nh phạt, làm hậu thuẩn, song cách thưởng phạt rất công b́nh và

chặt-chẽ, bởi v́ Đạo-luật vốn là biến tướng Thiên-điều, nghĩa là

Đạo-luật do luật Trời mà làm ra, người làn lành tự nhiên có phước đức

trả lại, kẻ làm dữ tự nhiên có tai họa trả lại. Cách thưởng phạt lành

dữ một măy không sai chạy. Lưới Trời dường như thưa mà chẳng lọt một

mảy lành dữ. Ấy vậy nên kẻ học Đạo cần phải có đức-tin luật công-b́nh

Trời Đất th́ mới có dạ tuân-hành Đạo-luật.

     Tất cả Linh-hồn đều phải chịu dưới quyền thưởng phạt của Đấng cầm

cân Thiêng-Liêng là Thượng-Đế. Luật thưởng phạt, về nguyên tắc rất

đơn-giản, không có Ṭa-án, không có tra-vấn, thế mà kết-quả rất kỳ-diệu

; mỗi việc lành dữ đều có báo ứng phân minh,cho nên có câu nói :"Dối

người c̣n dễ, đối Trời được đâu".

    Có người sánh luật Trời như luật Hấp-dẫn (La Loi d'attraction) hay

luật Trọng-lực (La Loi de pesanteur). Linh hồn có tội lỗi, tự nhiên bị

hấp-lực của vật-chất mà phải giam hăm vào bánh xe luân-hồi sanh-tử.

C̣n Linh-hồn Thiện-mỹ, nhẹ nhàng tự-nhiên siêu thoát rangoài ṿng

Càn-khôn, một cách dễ dàng mau lẹ, cũng như lằn tư-tưởng xẹt đi kia

vậy.

    Mỗi tư-tưởng, mỗi lời nói và mỗi việc làm trong đời hiện tại đều

lưu-tồn phần tinh-anh ở trong Thể-phách, măi đến khi tử hậu. Thể-phách

bày ra một bản thống-kê, có đủ việc hay, việc dỡ, điều-lành, điều-dữ.

Trước bản thống-kê nầy, Linh-Hồn lặng lẽ ngắm xem tội-t́nh, phước-đức

của ḿnh và phán-đoán lẽ siêu-đọa cho kiếp vị-lai. Sự phán đoán đó do

Thần Lương-tâm của người mà cũng là Trời nữa ! Giờ nầy người mới hiểu

Trời ở bên cạnh Người. Pháp-luật của Đại-Đạo là biến-thể luật Trời ;

thành thử kẻ học, ngoài sự châm theo luật-pháp, c̣n phải kiên sợ luật

Nhơn-quả nữa.

    Đạo-luật của Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-độ kể như sau :

              Lập Họ-Đạo.

              Nhập Môn.

              Ngũ-giới-cấm.

              Tứ-Đại Điều-qui.

              Luật xử-thế

              Luật xuất-thế.

                            *

 

                        Lập Họ-Đạo

 

    Địa-phương nào có hơn năm trăm Tín-đồ, đặng phép lập riêng một

Họ-Đạo, đặt riêng một Thánh-Thất và Hội-Tháhn sẽ phái Chức-sắc đến

cai-quản.

    Muốn lập Học-Đạo phải xin phép Giáo-Tông. Chức-sắc cai-quản Họ-Đạo

và Thánh-Thất phải tuân mạng lịnh Giáo-Tông. Tín-đồ trong Họ-Đạo phải

tùng quyền vị Chức-sắc cai-quản Thánh-Thất ; chẳng aicó quyền canh cải

luật Đạo.

   Mỗi thánh có hai ngày Đại-lễ : Sóc và Vọng. Ngày Đại-lễ cả Tín-đồ

phải tựu về Thánh-Thất hầu lễ và nghe lời giảng giải Đạo-đức ; trừ ra,

người vắng mặt, với một việc đáng kể th́ mới đặng châm chế mà thôi.

   Chức-sắc cai-quản Thánh-Thất, mỗi ngày phải cúng bốn lần, gọi là

cúng Tứ-thời (Tư, Ngọ, Mẹo, Dậu). Bổn-Đạo ở gần Thánh-Thất, nếu tiện

th́ nên đến hầu lễ mỗi thời cúng nơi Thánh-thất sở tại.

 

                             *

 

                          Nhập-Môn

 

   Nhập-môn cầu Đạo chẳng có tốn kém lễ-lộc chi cả, nhưng phẢi có hai

người tiến dẫn. Người tiến dẫn có phận sự d́u dắt kẻ mới nhập môn trên

đường Đạo.

   Chức-sắc cai-quản Thánh-Thất, phải tự ḿnh, hoặc phải người thay

mặt, đến tận nhà người mới nhập môn, hành lễ thượng tượng và chỉ vẻ

cách thờ phượng cúng lạy, cách áp-dụng Đạo-luật, đặng sửa ḿnh theo

Đạo-Đức, nhứt nhứt cần giảng-giải cho minh bạch. Người nhập-môn rồi

gọi là Môn-đệ của Đức CHÍ-TÔN và là anh em với tất cả mọi người. Mà đă

là anh em th́ phải hết ḷng d́u-dắt, giúp đỡ lẫn nhau.

 

                              *

 

                       NGŨ - GIỚI - CẤM

 

    Kẻ tu-hành phải trai-giới. Vậy trai-giới là ǵ ?

    Trai tức là ăn chay, Giới tức là giữ giới cấm, đại để có năm

diều :

                       1 - Bất sát-sanh

                       2 - Bất du-đạo

                       3 - Bất tà-dâm

                       4 - Bất tửu-nhục

                       5 - Bất vọng-ngữ

 

                               *

 

                        Tứ Ứ Đại  Điều-Qui

 

    Ngũ-giới-cấm và Tứ-đại Điều-qui là khuôn thước của người học Đạo ;

chúng ta nương theo đó mà sửa ḿnh.

    a)- Vâng lời dạy bảo của người trên, không hở nghe lời khuyên của

kẻ dưới. Nếu có lầm lỗi phải thiệt ḷng cải quá lấy lễ ḥa người, lấy

lễ đăi người. Không yễm tài người hay, không che lấp lỗi ḿnh. Giữ-ǵn

lời nói, tư-tưởng và hành-vi luôn luôn ở trong khuôn viên Đạo-đức,

nhứt là nơi vắng vẻ lại càng phải cẩn mật hơn nữa.

    b)- Không khoe tài giỏi của ḿnh, không kiêu ngạo kẻ khác, phải

giữ dạ khiêm cung, dầu ở nơi nào cũng vậy. Thường quên ḿnh để làm nên

cho người, nhứt là giúp người thành Đạo.

    c)- Xử-sự tiếp-vật, nên lấy hạnh khiêm-cung làm đầu. Tinh-thần của

lễ là kính. Phàm kính người th́ luôn luôn hết dạ kính tin, dầu có mặt

hay không cũng vậy. Đừng thấy giàu mà trọng, chẳng thấy khó mà khinh.

Thường lấy lời nhỏ-nhẹ khuyên bạn làm lành. Phép nước luật Đạo, hết

ḷng kính giữ. Đó là phương pháp giữ ḿnh theo Đạo vậy.

 

                             *

 

                        LUậT XỬ-THẾ

 

    Cùng theo học một Thầy, tức thị anh em bạn đồng-môn, mà hễ anh em

th́ phải thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau trên đường Đạo và đường Đời.

T́nh đồng Đạo, nếu ngày trước có hờn giận nhau, ngày nay nên hỉ-xả.

Quên lỗi cũ đặng cùng nhau tạo một nền hạnh-phúc chung. Phải tránh

việc cải-cọ hiện tiền, lấy đức nhẫn-nhục đăi nhau. Trên dưới thương

nhau trên đường Đạo và đường Đời. Ấy là hiến lễ trân trọng cho

ĐI-TỪ-PHỤ vậy.

    Nhơn-đạo vốn có Tam-cang, Ngũ-thường, Tam-tùng, Tứ-đức là trọng.

Kẻ học Đạo lấy đó làm nền tảng cho cuộc đời ḿnh. Gốc đă thành lập

tự-nhiên ngọn nương theo mà sanh.

    Người Tín-đồ Đại-đạo không đặng có hầu thiếp,trừ khi đă bị chích

lẻ giữa đường, cần phải chấp nối. Hoặc giả, vợ chánh không con nối

hậu, th́ đặng phép cưới thiếp, song phải có vợ chánh ưng thuận mới

đặng. Vợ chồng chẳng đặng để bỏ, trừ ra, tội nặng như : ngoại t́nh,

thất hiếu, vân vân...

    Con nít phải có cha đỡ đầu, pḥng khi rủi bị thân côi. Con nít lên

bảy tuổi phải cho học Đạo, học chữ. Việc quan, hôn, tang, tế, anh em

chung lo với nhau như anh em ruột một nhà. Tang lễ không nên xa-xí,

không nên quàn Linh-cửu lâu ngày, không nên dùng đồ màu sắc, không nên

yến-ẫm. Việc cúng tế nên dùng đồ chay. Nhạc lễ theo Tân-luật,

tang-phục y như xưa.

    Quân-tử chi Đạo tạo-đoan hồ phu phụ, Đạo làm người khởi đầu tại

việc lập vợ chồng ; gốc nếu rủi lầm lỗi th́ sau ắt khó sửa chữa. Vậy

nên người Tín-đồ phải kết hôn với người đồng Đạo ; trừ ra, khi người

ngoại Đạo ưng thuận nhập môn trước, rồi sau mới kết thành vợ chồng.

    Trước lễ thành hôn tám ngày, chủ hôn trai phải dán bố cáo tại

Thánh-thất sở tại. Ấy là ngừa trắc trở về sau. Lễ sánh duyên phải cầu

chứng nơi Thánh-thất sở tại.

    Việc sanh nhai, phải chọn một nghề nghiệp nào không có ư sát sanh

hại vật, không bại tục tồi phong.

 

                             *

 

                         RĂN PHT

 

    Có luật tự nhiên có răn phạt ; nhưng cách răn phạt của Tôn-giáo

chẳng giống luật Đời, mà thật cốt-yếu là răn dạy. Đại-khái như :

    Kẻ nào phạm giới-luật, nếu có bạn khuyên can th́ phải vui ḷng

nghe theo mà cải quá. Nếu kẻ phạm đă có một hai lầm bị khuyên can rồi,

mà c̣n tái phạm nữa, th́ chúng bạn được đem việc ấy tŕnh bày với vị

Chức-sắc cai quản Thánh-thất sở tại. Nếu vị Đầu-họ-Đạo đă dứt bẩn rồi

mà kẻ ấy c̣n phạm tội nữa th́ việc lầm lỗi ấy, có thể đem đến

Hội-Thánh xem xét. Kẻ phạm luật Đạo, có thể bị trục-xuất, nếu tội lỗi

không thể tha thứ được.

 

                              *

 

                        LUT XUẤT-THẾ

 

   Tịnh-thất là một giáo-đường thâm nghiêm. Tín-đồ vào đó đặng

an-thần, dưỡng-trí, tu luyện đến công-viên quả-măn. Nơi đây, mỗi người

đặng thọ Bí-quyết của Đức CHÍ-TÔN truyền dạy và được d́u-dắt cho đến

siêu-thoát ra ngoài ṿng Càn-khôn.

   Hạng Tín-đồ nầy là bực Tối Thượng-Thừa, xong xuôi tất cả bổn-phận

làm người ; nghĩa là chẳng c̣n dính dấp với gia-đ́nh, xă-hội nữa, mới

đặng nhập Tịnh-thất. Hội-thánh sẽ xem xét kỹ-càng, trước khi thâu

nhận.

   Tịnh-thất có kỷ-luật riêng, ngày giờ công-phu, hoặc ă nghỉ, mỗi mỗi

đều nhứt định. Cấm người trong Tịnh-thất giao-tiếp với kẻ ngoài, hoặc

thơ-tín, hay bàn chuyện cũng vậy.

   Trong Tịnh-thất có luật riêng, kẻ ở Tịnh-thất nhứt nhứt phải tuân

theo kỷ-luật ấy. Đó gọi là luật Xuất-thế.

 

                              *

 

    Tóm lại : Lễ-nghi và Đạo-luật tuy h́nh thức khác nhau, nhưng đồng

đem lại một kết quả. Nghi lễ để trau giồi Tâm-lư, Đạo-luật để cầm vững

hành-vi. Cả hai đều giúp cho ng

 ười vững bước trên đường tu-tĩnh.

    Ấy vậy nên kẻ học phải biết quan sát, phải biết áp-dụng, hầu cho

ḿnh có một tinh-thần Kỷ-luật.

 

                        CHƯƠNG THỨ NĂM

                             ----

 

                          VƠ-TRỤ-QUAN

                              ---

 

                              ĐO

 

    Muốn bàn giải cái quan-niệm Vơ-Trụ, lẽ tất-nhiên, chúng ta phải

nói đến chữ "Đạo" ; bởi v́ Trời-Đất vạn-vật đều do Đạo mà sanh sống và

cũng do Đạo mà tấn-hóa đến chỗ Chí-thiện, Chí-mỹ, Chí-nhơn.

   Thế mà Đạo ra sao ?

   Đức CHÍ-TÔN có dạy rằng :

   "Khi chưa có Trời-Đất th́ khí Hư-vô sanh có một Thầy, và ngôi của

"Thầy là Thái-cực ; Thầy phân Thái-cực ra Lưỡng-nghi ; Lưỡng-nghi sanh

"Tứ-Tượng ; Tứ-Tượng biến ra Bát-quái ; Bát-quái biến hóa vô cùng mà

"lập thành Càn-khôn Thế-giái, rồi Thầy phân tánh Thầy mà sanh ra

"vạn-vật là : Vật-chất, Thảo-mộc, Côn-trùng, Thú-cầm và Người, gọi là

"Chúng-sanh" (Xem h́nh Bát-quái nơi trương 49)

   Bài Thánh-ngôn trên đủ khái-niệm cái "Đạo" xây-dựng Vơ-Trụ và sanh

hóa muôn loài ; nhưng, rất vắn tắt thành ra khó hiểu cho người ít đọc

Đạo-thơ. Thừa dịp nầy, chúng tôi xin phân tách và thuyết-minh cho rơ

thêm hơn như sau :

   a)- "Khí Hư-vô" mà Đức CHÍ-TÔN nói trên đây vốn vô-danh, vô-sắc.

Đức LĂO-TỬ tạm gọi là Đạo, rồi ngài giảng rằng :

   "Hữu nhứt vật hổn thành, Tiên Thiên địa sanh, tịch hề liêu hề, độc

lập nhi bất cải, châu hành nhi bất đải, khả dĩ vi Thiên-địa mẫu, Ngô

bất tri kỳ danh, tự chi vi Đạo". Có một Đấng tự sanh, chớ chẳng phải

giống chi sanh được, có trước Trời Đất, lặng yên một ḿnh ở trong cơi

Thái-hư mà không nghiêng đổ, lưu-hành khắp nơi mà không mệt mỏi ; Đấng

ấy khá gọi là nguồn sanh hóa Trời Đất ; Ta chẳng biết tên chi, song

mượn chữ gọi là Đạo.

   Vậy Đức Lăo-Tử quan niệm Đạo là Đấng Tạo Hóa, rồi Ngài mô tả chữ

Đạo đại lược như vầy : "Ta suy diễn th́ thấy Đạo lúc nào cũng có một,

không biết đâu là đầu đuôi, manh mối ; thế mà nơi nào cũng có Đạo. Ta

trông lên phía trên th́ không thấy phản-chiếu ánh-sáng, xem xuống phía

dưới th́ không thấy ẩn-khuất bóng tối, lâng lâng trong sạch, hồn nhiên

giản-dị mà chính Đạo là bản thể của Vơ-Trụ, Chúa-Tể của muôn loài.

    Cái Bản-thể của Vơ-Trụ nói đây, kinh Phật gọi là Chơn như và nói

rằng :"Chơn-như giă Vơ-Trụ chi bổn thể ; nải bất sanh, bất diệt, bất

tăng, bất giảm, vô thỉ, vô chung. Vơ-Trụ chi hiện tượng, hữu

sanh-diệt, hữu tăng-giảm, hữu thỉ chung, vị chi vạn pháp. Vạn-pháp tức

Chơn-như, Chơn-như tức Vạn-pháp". Nghĩa là Chơn-như là bổn-thể của

Vơ-Trụ, không sanh, không diệt, không tăng , không giảm, không thỉ,

không chung. C̣n Vơ-Trụ là hiện tượng của Chơn-như ; Vơ-Trụ có sanh

tử, có tăng giảm, có thỉ chung, nên kêu là Vạn-pháp. Vậy Vạn-pháp là

Chơn-như ; Chơn-như là Vạn-pháp.

    Muốn rơ thêm, chúng ta hăy xem lời của ông Chu-Liêm-Khê là một

Danh-nho đời Tống bên Tàu nói rằng :"Vô-Cự nhi Thái-Cực" ; nghĩa là

Vô-Cực là Thái-Cực. Tại sao ? Bởi v́ Vô-Cực là Tịnh-thể ; Thái-Cực là

Động-thể. Cái động-thể vốn do nơi tịnh-thể mà ra, cho nên nói Vô-Cực

với Thái-Cực là một. Ông lại nói rằng Vô-Cực, nguồn gốc của Vơ-Trụ ;

nó là không không và ở ngoài những cái mà loài ư hội được. Nhưng, tuy

nói là "Không" mà chẳng phẢi là Không hẳn, v́ Vô-Cực vốn tự tại, bất

sanh, bất diệt. Cái tự tại ấy chưa phát động th́ gọi là Vô-Cực ; c̣n

khi đă phát động rồi th́ gọi là Thái-Cực. Vậy Vô-Cực với Thái-Cực là

một gốc ; nhưng Vô-Cực th́ yên lặng mà Thái-Cực th́ phát động và

Hóa-sanh ra Thế-giái vạn-hữu.

    Tóm lại Tam-giáo đều quan niệm cái lẽ "Đạo" như nhau, nhưng cách

lập ngôn và dùng danh từ để giảng-giải th́ bất đồng. Đại để như nói

Vô-Cực hay khí Hư-vô vốn một thể với Thái-cực. Nhưng, Vô-Cực hay khí

Hư-vô th́ siêu-việt quá người ta không thể khái-niệm được mà chỉ

khảo-sát được Thái-Cực là cơ biến dịch hóa sanh Trời Đất vạn-vật mà

thôi. Lẽ nầy chẳng khác nào Kinh Phật nói : Chơn-như là Vạn-pháp ;

Vạn-pháp là Chơn-như. Nhờ tham khảo cơ biến hóa ấy mà người ta hiểu

được Đạo là khí Hư-vô, Vô-cực hay Chơn-như.

    b)- Câu thứ hai trong bài Thánh-nhôn trên kia nói rằng :"Thầy phân

"Thái-cực ra Lưỡng-nghi, Lưỡng-nghi sanh Tứ-Tượng, Tứ-tượng biến ra

"Bát-quái, Bát-Quát biến hóa vô cùng mà lập thành Càn-Khôn Thế-giái ;

"rồi Thầy phân tánh Thầy ra mà sanh ra vạn-vật là : Vật-chất, Thảo-mộc

"Côn-trùng, Thú-cầm và Người gọi là Chúng-sanh".

   Chỗ nầy, Ông Chu-Liêm-Khê nói rằng : Thái-cực có hai thể : Động và

Tịnh. Động th́ sanh Dương ; Tịnh th́ sanh Âm. Thái-cực chỉ có một Động

một Tịnh mà phân ra Lưỡng-nghi, tức Thái-cực sanh Âm-Dương nhị khí.

   Âm-dương có tánh tương-khắc mà lại tương-ḥa. Bởi tương-khác cho

nên Âm-Dương gặp nhau th́ xô-xát ; chính sự xô-xác ấy thành cơ biến

hóa. Mà xô-xác cùng cực rồi lại điều-ḥa ; chính sự điều-ḥa ấy là cơ

định vị Trời Đất. Thử hỏi Âm-Dương nhị khí xô-xát, điều-ḥa, cách nào

mà định vị Trời Đất ? Th́ sách chép rằng : Trong lúc Âm-Dương hỗn-độn,

khí nhẹ bay lên thành Trời ; khí nặng ch́m xuống thành Đất. Khi Trời

Đất định vị cao thấp rồi trong khoảng không gian ở giữa Trời Đất, khí

Âm khí Dương lại xô-xát điều ḥa nữa mà sanh hóa muôn loài. Vạn-vật

đến lượt chúng nó, khi đă trưởng thành th́ giống đực, giống cái

giao-cấu mà sản xuất thêm măi ; chỗ nầy, Kinh Dịch nói :"Thiên-Địa

nhơn huân vạn-vật hóa thuần ; Nam Nữ cầu tinh vạn-vật hóa sanh".

   Ông Chu-Chu-Liêm giải một cách khác hơn nữa rằng : Dương độn th́

biến hóa ra, Âm tịnh th́ tập hợp lại ; bởi sự biến-hóa ra và sự

tập-hợp lại mà Âm-Dương sanh ra Ngũ-hành là : Thủy, Hỏa, Kim, Mộc và

Thổ. Cái chơn của Vô-cực là Lư, cái Tánh của Âm-dương Ngũ-hành là khí.

Lư Khí diệu hợp mà quẻ Kiền sanh con trai, quẻ Khôn sanh con gái. Rồi

Âm-Dương giao cảm (Khí ḥa) mà hóa sanh vạn-vật ; Nam Nữ giao cảm

(h́nh ḥa) mà sanh sản vô cùng tậm. Cơ tạo hóa vạn vật giảng giải như

thế cũng khá rơ rồi. Bây giờ thử so sánh Đạo-học với Khoa-học.

   Khoa-học ngày nay cũng nh́n nhận cái thuyết Âm-Dương do Đạo-học

phát minh là đúng sự thật ; song, Khoa-học dùng danh từ khác. Đại-để

như nói rằng : Trong Vơ-Trụ bao-la, có những điện-tử vận hành măi măi,

không lúc nào ngừng, mà sự vận-hành của điện-tử luôn luôn điều-khiển

bởi một "Sức mạnh phi thường" (tức ám chỉ về Thượng-Đế). Trong

điện-tử, Khoa-học lại nhận thấy có hai thứ khác nhau là : Điện-tử Âm

và điện-tử Dương. Hai thứ điện-tử nầy dung hiệp làm một Nguyên-tử (1)

(Điện-tử-hệ). Nhiều Nguyên-tử dung hiệp thành một Tế-bào laé

nguyên-liệu sanh thành vạn-vật. So sánh hai thuyết nầy th́ chúng ta

thấy Khoa-học nói : Điện-Tử Âm và Điện-tử Dương hiệp thành nguyên-tử,

c̣n Đạo-học lại nói : Khí Âm và khí Dương diệu hiệp thành một

"Khí-cơ". Hai danh-từ tuy khác mà tựu-trung chỉ là một vật thôi.

   Thật khoa-học tiến một bước rất dài. Ước ǵ một ngày kia Khoa-học

và Đạo-học hiệp nhau thành một Học-thuật vừa tinh-thần, vừa vật-chất,

để đưa nhơn-loại tiến lên đường tiến hóa.

 

-----------

 

(1) Nguyên-tử.- Chất hơi, chất đặc, chất lỏng, vân vân... đều là

Vi-tế-bào (cellule) cấu thành. Trong mỗi Vi-tế-bào co& nhiều Nguyên-tử

(Atomes). Người ta phân tách nguyên-tử ra th́ có Điện-tử Âm và Điện-tử

Dương.

  Một hột Điện-tử Dương có nhiều hột Điện-tử Âm chạy chung quanh,

cũng như nhiều quả địa-cầu xoay chung quanh mặt Nhựt vậy.

 

   c)- Đó là bàn chung Vơ-Trụ Vạn-vật. Bây giờ, chúng ta xét trở lại

người ta đối với Đạo là thế nào ?

   Mặc dầu chúng ta nhờ Cha Mẹ (h́nh ḥa) mà sanh ra Nhục-thể ; sohn

phần Hồn (Lư) và Khí cũng vẫn c̣n liên đới với Đạo, rất chặt-chẽ.Đó là

chỗ mà Đơn-kinh nói rằng : Người là Tiểu-Thiên-Địa, tức người có đủ

Âm-Dương và Ngũ-Hành, y như Vơ-Trụ là Đại-Thiên-Địa vậy. Thế đủ hiểu

người ta nhờ Cha Mẹ mà có Nhục-thân, nhờ Vơ-Trụ mà có phần Khí và nhờ

CHÍ-TÔN ban cho một điểm Tánh-linh để làm Hồn ; gọi tóm tắt là

Tinh-Khí-Thần (Tam-bửu).

   Th́ đây, sự phản bổn hườn nguyên của người đời cũng chỉ có theo Đạo

mà trở về với Cội-Sanh ḿnh là Trời mà thôi ; chớ chẳng có con đường

nào khác. Hoặc nói trắng ra là một Chơn-linh đă đến cơi Trần rồi ; nay

muốn trở về với Thái-cực th́ phải nương theo sự vận-hành của cái máy

Âm-Dương mà trở về, chớ không có phép nào khác nữa. Đạo thơ nói đó là

phép "Luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hiệp Thần, luyện Thần hườn Hư"

vậy.

   Đại để như thế ; nhưng muốn công-phu có kết-quả mỹ-măn th́ phẢi dày

công khó nhọc lắm. Trưoéc nhứt phải có đức tin chơn chánh, để làm đuốc

dẫn đường và Trờ Phật d́u dắt, rồi c̣n phải tạo dựng Phước-đức vaé

Trí-huệ viên-măn th́ mới mong siêu-thoát được.

 

                   Quan niệm về Thiên-Triều

 

    Chúng ta trông thấy Vơ-Trụ bao-la ; trên có Trời, dưới có Đất, ở

giữa có Sơn-hà, Thảo-mộc, Thú-cầm và Người ta. Nếu suy-diễn ra nữa th́

trong cái Thế-giới Vạn-hữu nầy, c̣n có một Thế-giới Tinh-thần nữa.

Phần Thiêng-Liêng ấy do đức CHÍ-TÔN vi chủ và Thần, Thánh, Tiên, Phật,

hộ tŕ. Cái cơ-quan nầy chúng tôi tạm gọi là Thiên-Triều, tức

Triều-Thượng-Đế. Bà Bát-Nương Diêu-Tŕ-Cung giáng cơ dạy về

Thiên-Triều như vầy :

   Trong Vơ-Trụ bao-la, Không-gian ở trên là Thượng-từng Bí-pháp của

mọi quyền năng Thiêng-liêng, Đấng CHÍ-TÔN vi chủ. Thần, Thánh, Tiên,

Phật hộ tŕ. Thời gian ở dưới có đủ Khí-chất, để tạo dựng Vơ-trụ

hữu-vi và vật-chất hữu-h́nh. Phép nhiệm mầu vô biên ấy do quyền năng

tuyệt-đối của Đức CHÍ-TÔN vận chuyển, trụ lập Thiên-thơ, định thàhn

Thiên-Điều, khiến cho Không-gian phối hợp với Thời-gian mà xây dựng

Thế-giới vạn-hữu. Đó gọi là Thiên-Triều thống-trị cơ sanh hóa và đoạt

vị của Bát-hồn. Chúng tôi thể theo Thánh-ngôn trên đây mà kể sơ lược

như sau :

                               *

  a)- Cửu-Thiên.

      1- Hư-Vô Cao-Thiên là từng Trời phán ngự Càn-Khôn, do Đức

            CHÍ-TÔN vi chủ.

      2- Hạo-Nhiên Huyền-Thiên là nơi định pháp, do

            Đức Thái-Thượng Đạo-Tổ vi chủ.

      3- Phổ-Hóa Huyền-Thiên hay Phi-Tưởng Diệu-Thiên là nơi hóa

            độ quần linh, do Đức Nhiên-Đăng Cổ-Phật vi chủ.

      4- Tạo-Định Cao-Thiên hay Thượng-Thiên Hổn-Ngươn là nơi

             phân định Càn-Khôn, do Đức Hồng-Quân Lăo-Tổ vi chủ.

      5- Tạo-Hóa Huyền-Thiên là nơi sanh hóa Bát-Hồn, do

             Đức Phật-Mẫu vi chủ.

      6- Kim-Thiên là nơi phát sanh bổn chất của Chơn-thần, dưới

             sự điều-khiển của Tạo-Hóa Huyền-Thiên.

      7- Huỳnh-Thiên.

      8- Xích-Thiên.

      9- Thanh-Thiên là ba từng Trời lập định thứ bậc Tấn-Hóa của các

              Nguyên-Nhân, do Hiệp-Thiên-Cung vô-vi hành-hóa.

  b)- Thiên-Cung.

      Ngọc-Hư-Cung là ngôi của Đấng Chủ-tể Càn-Khôn Vơ-trụ, có sẵn

Thiên-Điều là luật thưởng phạt Bát-Hồn. Ngôi hành pháp là

Linh-Tiêu-Điện có đủ oai-linh của Thái-cực Thánh-Hoàng ban bố, để giữ

máy hành-tàng hư thiệt.

      Cực-Lạc Thế-Giái là ngôi chấp-chưởng luật Nhơn-quả, Luân-hồi,

định-vị cho Bát-Hồn, tức định phẩm trật cho cả Vạn-linh trên đường lập

vị Thiêng-Liêng.

      Luật "Tấn-Hóa" của Bát-Hồn do quyền năng vô đối của Đức CHÍ-TÔN

phán định. Chơn-pháp ấy vận hành từ vô-vi ra hữu tướng ; từ hữu-tướng

trở lại vô-vi, mỗi mỗi đều căn cứ vào :

         Hư-không là chuẩn-đích ;

         Vận-chuyển là hành-tàng ;

         Điều-ḥa là phương-pháp ;

         Chơn-chánh là phương-định.

                            *

  c)- Thiên-Thơ và Thiên-Điều.

      Thiên-thơ là hiến-pháp bất di, bất dịch, của cơ Tạo-đoan. Nguyên

khi định thành Càn-khôn rồi, Đức CHÍ-TÔN vi chủ ; chư Thần, Thánh,

Tiên, Phật ngự-trị th́ cả quyền năng hiệp lập Thiên-thơ, là nền tảng

cơ Tạo-thế.

      Thiên-điều là luật Trời, do Thiên-thơ mà lập thành, để giữ vững

giếng mối vận chuyển :"Không ra Sắc, Sắc trở lại Không". Luật

"Công-b́nh và Bác-ái" tại Thế-gian vốn là biến thể của Thiên-điều,

nhứt là luật Luân-Hồi và Nhơn-Quả mà Tam-giáo đă phổ biến từ ngàn xưa.

                             *

   d)- Luật Luân-hồi.

       Luân-hồi nghĩa là xoay vần măi, cũng như bánh xe lăn qua rồi

lăn qua nữa, không lúc nào ngừng. Về Đạo-pháp, chữ

 

 

            thiếu trang 46,47

 

 

    Muốn lập đức-tin chơn-chánh, chúng ta chớ vội tin những lời của

người nói, mặc dầu người ấy là một vị truyền-giáo, mặc dầu lời ấy đă

chép trong kinh sách của ai. Phải dùng lư-trí mà suy-nghĩ, với một

cách vô-tư, cho biết rằng : Việc ấy có đem lại hạnh-phúc cho cá-nhơn,

cho gia-đ́nh, cho xă-hội và tất cả loài Người chăng ? Nếu quả như vậy,

rồi chúng ta sẽ tin. Một khi đă có đức tin th́ cứ giữ một ḷng

tinh-tấn làm theo cho đến kết-quả. Tâm thần chúng ta luôn luôn phải

được lọc-lược thanh-khiết, cầu cho ḿnh có đủ sáng suốt, phân-biệt,

với một cách vô-tư, những lẽ chánh tà, phải quấy ; phải tránh nhứt là

sự làm nô-lệ cho kiến-văn, thành-kiến, do t́nh cảm gây ra. Đức-tin

phải có lư-trí xét đoán. Cái biết phải nhờ cái làm hoàn thành. Cả tri

hành hiệp nhứt mới có thể đưa người ta đến cảnh Quang-minh chánh-đại.

    Đức tin chơn-chánh rất hữu-dụng cho người đời, như đối với

gia-đ́nh, nếu người ta tin có Trời soi xét việc làm của người, để

thưởng phạt th́ ắt có người con làm tṛn đạo-hiếu, người anh em laém

tṛn nghĩa đệ huynh, c̣n đối với làng nước nếu người ta có đức tin

chơn-chánh th́, ngoài sự kiêng phép nước, người ta c̣n sợ luật Trời

nữa. Thiết tưởng mỗi người ăn ở như thế th́ ắt Gia-đ́nh, Xă-hội sẽ

được thái-b́nh. C̣n đối với hạng người Xuất-thế th́ đức-tin chơn-chánh

là ngọn đuốc rọi đường tu-tỉnh và đưa ḿnh đến Chơn-Thiện-Mỹ.

 

                        TIÊN THIÊN BÁT-QUÁI

 

                                Càn

                           Đoài      Tốn

                        Ly                Khảm

                           Chấn       Cấn

                                 Khôn

 

                           HU THIÊN BÁT-QUÁI

 

                                   Ly

                             Tốn        Khôn

                         Chấn               ĐOài

                             Cấn         Càn

                                   Khảm

 

          Sự tích Bát-Quái (Xem trương 39)

 

     Trong trương 39 có bài Thánh-giáo nói về Bát-Quái, chúng tôi theo

kinh Dịch kể sơ lược sự tích của Bát-Quái như sau, đỂ cho độc-giả biết

qua.

     Vua Phục-Hi sanh về đời tối cổ bên Tàu, là thời kỳ Thần-linh-học

phát triển đến cực-độ ở Á-Đông. Ngài là một ông vua Minh-quân : tài

cao, đức trọng,tinh-thần minh-mẫn, hàm dưỡng được Trí-Huệ của

Thượng-Đế ban cho ; thành thử, Ngài xem suốt cơi Vô-h́nh. Khi dạo chơi

nơi bờ sông Hà (ngày nay gọi là sông "Huỳnh-Hà", v́ sông ấy có cát

vàng). Ngài trông thấy một con vật ḿnh ngựa, đầu Rồng, danh gọi là

Long-Mă, trên lưng có 55 nút chấm. Vua Phục-Hi do đó mà lập ra

Bát-Quái (Tám quẻ) gọi là Tiên-Thiên Bát-Quái, hay Phục-Hi Bát-Quái.

 

    Long-Mă

    Theo sách Nho th́ Long-Mă có thân h́nh cao 8 thước, 5 tấc (thước

Tàu), xương cổ dài, chưn Ngựa, đầu Rồng và trên ḿnh có vảy như vảy

Rồng.

    Rồng là một vật trong số Tứ-Linh ; có đủ nơi ḿnh những cái tinh

túy của Vơ-trụ. Ngựa là vật chở người, chở đồ vật, đi mau lẹ. Tóm lại,

Long-Mă tượng trưng "Thời gian trôi qua mau lẹvà mang theo tất cA" sự

vật của Vơ-trụ", tức là chỉ vào "Thời gian lúc nÀo cũng luân chuyển ;

mang theo tất cả sự vật với một cách Thiêng-Liêng". Long-Mă gốm cả Thể

đức của hai vật Rồng-Ngựa (Âm-Dương) là vật linh mang chở cả cái

Thần-bí, tinh-túy của Trời đất để chan rưới khắp cơi đời sanh tồn.

    Kinh Dịch nói : Long-Mă là vật linh kết hợp bởi 8 cái tinh-túy

ở trong Thái-dương-hệ, hiển hiện dưới con mắt Thần của Vua Phục-Hi là

một Thánh-Vương coi được các Vật trong cơi Vô-h́nh, thấy rơ vật linh

của Trời Đất, mang chở những cái tinh-anh của Thái-dương-hệ.

 

    Lạc-thơ - Laé sách do sông Lạc mà lập thành. Nguyên vua Vơ, Thỉ-tổ

của nhà Hạ, khi nước lụt ra trấn nước ở sông Lạc. Khi nước cạn, Vua Vơ

thấy một con Linh-Qui đội cầu, trên lưng có số 9, Vua Vơ theo đó mà

sắp thứ tự thành ra Lạc-thơ hay Hậu-thiên Bát-Quái.

 

 

 

 

                           CHƯƠNG THỨ SÁU

                                ---

 

                           NHƠN SANH QUAN

                                ---

 

    Tâm :

    Ngư(c)i ta có một cái "Tâm". Cái cớ sở dĩ Nhơn-sanh tối linh ư

vạn-vật cũng chỉ v́ cái "Tâm" đó. Nếu có ngư(c)i hỏi Tâm do đâu mà có và

nó ra sao, th́ chúng ta trả l(c)i rằng :"Tâm" ngư(c)i ta là điểm tánh linh

của Thư(r)ng-Đế ban cho, và Tâm ngư(c)i cùng Tâm của Vơ-trụ đồng nhứt lư.

Muốn xác nhận điều nầy, xin xem kế đây :

   a)- Bài Thánh-Ngôn của Đức CHÍ-TÔN mà chúng ta đă khép trong trang

trước có một đoạn như vầy :"Khi tạo dựng Càn-Khôn Thế-giái rồi, Thầy

phân tánh Thầy mà sanh ra vạn-vật là :"Vật chất, Thảo-mộc, Côn-Trùng,

Thú-cầm gọi là Chúng-sanh".

   b)- ông Vương-Dương-Minh nói :

       "Tự kỳ h́nh giả vị chi Thiên ; chủ tể giả vị chi Đế, lưu hành

giả vị chi mạng ; phú quí nhơn giả vị chi tánh ; chủ ư Thân giả vị chi

Tâm". Nghĩa là nhắm vào h́nh tư(r)ng th́ gọi là Tr(c)i, nhắm vào Chúa-Tể

Vơ-Trụ th́ gọi là Đế, tức Thư(r)ng-Đế ; nhắm vào sự lưu-hành trong

Vơ-trụ th́ gọi là mạng, phú cho ngư(c)i th́ gọi là Tánh, làm chủ của

Thân phàm th́ gọi là Tâm.

   c)- Sách xưa có câu nói rằng :"Nơi Tr(c)i th́ gọi là Mạng, nói ngư(c)i

th́ gọi là Tánh, nơi sự th́ gọi là Lư, làm chủ Thân-phàm th́ gọi là

Tâm. Tuy Mạng, Tánh, Lư, Tâm khác danh từ song cả thảy là một mà thôi

(Tại Thiên vi Mạng, tại Nhơn vi Tánh, tại Sự vi Lư, chủ ư Thân vi Tâm,

kỳ thật nhứt giă). Thế đủ rơ Tr(c)i với Ngư(c)i tương-liên mật-thiết là

dư(c)ng nào ! Và cũng v́ cái lẽ tương-liên ấy, cho nên ngư(c)i phải theo

Đạo mà sanh sống và tấn-hóa. Trái lại, ngư(c)i nào càng xa Đạo bao

nhiêu, th́ càng phải chịu thống khổ bấy nhiêu, cho nên Đạo-đức-Kinh

nói :

      "Thiên đắc nhứt dĩ thanh ; Địa đắc nhứt dĩ ninh ; Thần đắc dĩ

"linh ; vạn-vật đắc nhứt dĩ sinh. Kỳ trí chi nhứt giă, Thiên vô dĩ

"vi thanh ; tương khủng liệt ; Địa vô dĩ vi ninh, tương khủng phiệt ;

"Thần vô dĩ vi linh, tương khủng kiệt, vạn vật vô dĩ vi sinh, tương

khủng diệt".

     Nghĩa là Tr(c)i đặng Một (Đạo) th́ trong sáng ; Đất đặng Một th́

bền-v"ng ; Thần đặng Một th́ linh-thiêng ; muôn loài đặng Một th́ sanh

sống và tấn-hóa. Đến như số Một nói đây, tức Đạo, nếu Tr(c)i chẳng đặng

nó, để làm cơ-sở trong sáng th́ e Tr(c)i phải tối ; Đất chẳng đặng nó,

để làm cơ-sở bền-v"ng th́ e Đất phải sụp đổ ; Thần chẳng đặng nó, để

làm cơ-sở linh-thiêng th́ e Thần phải kiệt ; muôn loài chẳng đặng nó,

để làm cơ-sở sinh-tồn th́ e muôn loài phải tiêu diệt.

    Theo lẽ nầy mà suy ra th́ thấy rằng Chúng-sanh nếu không lấy Đạo

làm cơ-sở cho đ(c)i sống th́ phải chịu thống-khổ và đi làm đến chỗ diệt

vong.

    Bây gi(c) th́ thử hỏi tại sao mà Chúng-sanh không theo đư(r)c Đạo ?

    Vả lại, Đạo vốn vô-vi ; Tâm ngư(c)i ta lúc ban đầu cũng vô-vi như

Đạo ; cho nên nói : Tâm tức Đạo, Đạo tức Tâm. Nhưng khi làm chủ

Phàm-thân, Tâm bị Phàm-thân kích-thích mà Tâm biến-sanh một trạng-thái

thứ nh́ n"a, mạng danh là Thức-tâm hay Thức-tánh. Chính cái Thức nầy

là một động-lực làm cho Tâm mất cái lư Vô-vi, thành ra con ngư(c)i phải

xa Đạo.

    Giảng-giải sự biến thiên của Tâm, Ông Vương-Dương-Minh nói rằng

:"Thân chi Chủ-tể tiện thị Tâm ; Tâm chi sở phát tiện thị Ư ; Ư chi

bổn-thể tiện thị Trí ; Ư chi sở tại tiện thị Vật". Làm chủ của Thân

thiệt gọi là Tâm ; phát động của Tâm thiệt gọi là Ư ; bổn thể của Ư

thiệt gọi là Trí ; Ư để chỗ nào th́ chỗ ấy là Vật (việc). Ví-dụ : như

hiếu với Cha Mẹ. Vậy Ư ngưng chỗ ch" hiếu ; cho nên hiếu là một việc.

    Theo đó, chúng ta có thể tóm tắt như vầy :

                        Tâm

                        Tánh

                        Ư

                        Trí

                        Vật hay việc

   Tâm là cái Thông-danh, hổn-hàm cả Tánh bổn-nhiên và Thức-tánh, tức

là Ư, Trí, Vật như đă nói trên.

   Phật-giáo cũng mô-tả Thức-tánh rất rơ ràng lắm. Chúng tôi xin chép

bài "Bát-thức" kế đây để mở rộng tầm suy nghĩ của ḿnh.

 

                         Bát-thức

   Nói về Thức-tánh biến-thiên muôn vạn t́nh-thức khác ; nhưng Phật

gọi tóm tắt là Bát-thức kể như sau :

   Giai đoạn thứ nhứt.- Nói về sáu thức bên ngoài.

   Khi Phàm-thân khôn lớn th́ khuynh hướng về vật-chất cầu sự nuôi

sống và giúp vui ; v́ nó thuộc vật-chất phải nh(c)-vă nơi vật-chất. Nhơn

đó mà Lục-căn của Phàm-thân tiếp xúc Lục-trần mà sanh ra Lục-thức.

Xem bản thống-kê Lục-thức kể đây :

 

                       Bản thống-kê Lục-thức

 

         Lục-Căn              Lục-Trần            Lục-thức

 

          Nhăn                  Sắc               Nhăn-thức

          Nhĩ                   Thinh             Nhĩ-thức

          Tỉ                    Hương             Tỉ-thức

          Thiệt                 Vị                Thiệt-thức

          Thân                  Xúc               Thân-thức

          Ư                     Pháp (tức sự      Ư-thức

                                    vật ở đ(c)i)

 

     Năm thức trên do Ngũ-quan tiếp xúc với ngoại-vật mà sanh. Tuy mỗi

thức có cái biết riêng của nó. Mắt biết sắc ; tai biết tiếng ; Mũi

biết mùi ; Lư"i biết vị ; Thân biết cảm xúc ; nhưng năm thức ấy biết

mà không có tư-lương, suy-nghĩ ; đến chừng chúng nó truyền cái biết

vào Ư-thức th́ cái Thức thứ sáu nầy mới phân-biệt tốt xấu, hơn kém.

Ḷng ham muốn vật-chất do đó mà sanh. Từ đó về sau t́nh-dục đua nhau

mà làm loạn Bổn-tâm.

    Ví dụ : Anh X muốn có một chiếc xe du lịch.

    Ḷng ham muốn giục thúc anh ta phải lo liệu, làm lụng, thế nào cho

có tiền để mua xe. Nếu mua đư(r)c chiếc xe th́ vui mừng, thỏa thích, rồi

lại đâm ra s(r) mất, s(r) hư, mà phải lo ǵn gi" chăm nom. Trái lại, nếu

thất vọng th́ anh X buồn rầu phiền năo, rồi âm mưu, tính kế, làm ra

tiền, có khi anh ta dám làm việc ích-kỹ hại nhơn n"a.

    Nh"ng t́nh-dục ở trong Thức thứ sáu (Ư-thức) cứ theo Nhơn-duyên

bên ngoài mà hoạt động. Ngư(c)i ta, sở dĩ, khổ năo lắm, chỉ v́ T́nh-dục

ấy.

 

   Giai đoạn thứ hai.- Thức thứ bảy và thứ tám.

   T́nh dục ở nơi Ư-thức, hoạt động măi hoạt động măi đến khi hết cơ

duyên rồi nó lại ngấm theo Thức thứ bảy, mạng danh là Truyền-Tống-Thức

(Manas) mà vào Thức thứ tám, mạng danh là Hàm-Tàng-Thức (Alaya). T́nh

dục ẩn núp trong Hàm-Tàng-Thức để ch(c) cơ duyên thuận tiện khác mà hoạt

động lại n"a : T́nh dục ấy, về sau, thành ra tánh tự nhiên của ngư(c)i.

Lúc vô sự, nó yên lặng như không, nhưng khi gặp cơ hội th́ nó dấy động

mau lẹ, cũng như Lương-tri, hay Lương-năng. Ngư(c)i ta, nếu không nghĩ

lại th́ nhận lầm nó là Bản ngă của ḿnh, rồi lấy đó mà làm then chốt

cho đ(c)i sống. Chúng ta thấy có ngư(c)i đương vui mà bỗng nhiên buồn,

đương giận mà bỗng nhiên lại thương, vân vân... Ấy là tại ngư(c)i ta

sống theo Bản ngă giả hiệp đó vậy.

    Nói tóm lại Bát-thức là :

                   Nhăn-thức

                   Nhĩ-thức

                   Tĩ-thức

                   Thiệt-thức

                   Thân-thức

                   Ư-thức

                   Manas thức (Truyền-Thống-Thức)

                   Alaya-thức (Hàm-Tàng-Thức).

   Sáu thức trên đă giải đư(r)c rồi, bây gi(c) xin giải rơ hai Thức sau.

   Thức thứ bảy, theo danh từ Truyền-Thống-Thức mà định-nghĩa, th́ nó

là cái Thức truyền các cái Thức bên ngoài vào trong Hàm-Tàng-Thức.

Trái lại, nó cũng truyền tống nh"ng ư niệm của Hàm-Tàng-Thức ra ngoài

Thức thứ sáu kia n"a. Thức thứ tám (Hàm-Tàng-Thức) nghĩa là nó ngậm

chứa cả các Thức. Nó cũng có tên khác là "Chủng-Tử-Tạng", nghĩa là cái

Tạng chứa đủ cả các hột giống. Chúng sanh, sở dĩ, làm Chúng sanh hay

làm Phật, cũng do nó mà ra, cho nên gọi nó là hột giống Luân-hồi.

Nghĩa là cái Bản-ngă giả-hiệp nầy, khi sanh tiền, th́ lưu ẩn trong

Hàm-Tàng-Thức mà hoạt động theo vật-chất, để cầu l(r)i cho Nhục-thân ;

măi đến khi tử-hậu th́ nó trở về "Bạch-Tịnh-Tạng" để di chuyển sanh

kiếp khác n"a. Thế nên trong lúc Nhục-thân nầy đương tiêu tan dưới mồ

th́ nó lo sửa soạn kết tạo Thể-thân khác cho kiếp vị-lai. Và cứ thế mà

sanh-tử tử-sanh măi, không bao gi(c) ra đư(r)c, nếu ngư(c)i ta không tự giác

ngộ.

   Ngư(c)i trí-giả đă rơ cái lư do thống-khổ, rồi ngư(c)i ta t́m phương

giải khổ. Phương pháp ấy th́ nhiều, mỗi ngư(c)i quan niệm một lối. Th́

đây, cái lối của chúng ta, là "Minh-tâm Kiến-tánh", có sáng suốt đư(r)c

Tâm của ḿnh để phân biệt đâu là Vọng, đâu là Chơn ; rồi sau mới đi

lần đến sự thông sáng hoàn toàn là cái năng-lực đưa ngư(c)i siêu thoát

ra ngoài ṿng sanh-tử.

 

                      CHƯƠNG THỨ BẢY

                           ---

 

                   SỰ GIÁO-HÓA CỦA ĐI-ĐO

 

   Đức Chí-Tôn giáng cơ dạy rằng :

   "Ta v́ ḷng Đại-từ, Đại-bi, lấy đức háo-sanh dựng nên mối Đại-Đạo

"Tam-Kỳ Phổ-Độ, tôn chỉ là : vớt kẻ h"u phần vào nơi địa vị cao thư(r)ng

"để tránh khỏi số mạng Luân-hồi, và nâng đở kẻ có tánh-đức, bước vÀo

"cơi nhàn, cao hơn phẩm hèn khó ở cơi Trần-thế nầy".

    Thể theo Thánh-ngôn trên đây, Tân-luật Đại-đạo ấn định Tín-đồ của

Đại-Đạo chia ra hai bậc :

                      Thư(r)ng-thừa

                      Hạ-thừa

    Thư(r)ng-thừa là ngư(c)i xuất Thế-gian, nghĩa là ngư(c)i đă phế Đ(c)i,

theo Đạo, họ chẳng c̣n bận rộn về thế sự, mà chỉ lo tự-giác để rồi đem

cái sở-đắc của ḿnh mà giúp cho ngư(c)i khác cùng đư(r)c khai sAng như

ḿnh, tức Tự-giác giác tha. Tân-luật lại định rằng Chức-sắc của

Hội-thánh từ Giáo-h"u dẫn lên, phải chọn trong hàng Thư(r)ng-thừa.

   Hạ-thừa là ngư(c)i c̣n ở Thế, vừa làm Nhơn-sự, vừa học Thiên-đạo.

Tân-luật qui định cho lớp nầy phải làm tṛn bổn phận ngư(c)i, như bổn

phận đối với xă-hội, gia-đ́nh, bổn-thân, Hội-thánh, ngư(c)i đồng-đạo vân

vân...

    Phương pháp học hành của hai bậc nầy sẽ giảng rộng nơi chương

Tám và chương Chín sau đây ; bây gi(c) xin bàn trước cách học-đạo và

hành-đạo.

    Hai ch" "Học-Hành" chúng ta phải phân tách cho rành mạch châu đáo,

hầu tránh sự nông nỗi của ḿnh, bởi v́ học là một việc, hành là một

việc khác n"a. Hai phép "Học-Hành" hiệp lại th́ nó mới có thể đem lại

cho ngư(c)i học cái kết quả mỹ-măn. Ấy vậy nên chúng ta chia học-hành ra

làm hai giai-đoạn để giải thích cho rơ :

                       Lư-thuyết

                       Thực-hành

                           *

 

                        Lư-thuyết

 

    Phần Lư-thuyết, ai cũng biết rằng : khi mới khai Đạo, Đức CHÍ-TÔN

giáng cơ lập Pháp-luật, Qui-điều, Lễ-nghi, Phư(r)ng-th(c), Tế-tự và dạy

chúng ta học : từ Nhơn-đạo đến Thiên-lư. Và trước khi ngưng cơ bút,

Đức CHÍ-TÔN c̣n dặn rằng :"Kinh-điển của Tam-giáo vẫn c̣n ẩn-tàng một

phần Chơn-truyền yếu-lư, mà chúng ta cần phải tham-khảo tinh tư(c)ng, để

làm sáng thêm Giáo-lư của ḿnh ; bởi v́ nền tảng của Đại-Đạo Tam-kỳ

Phổ-Độ qui nguyên Tam-giáo.

    Xem đó th́ biết Giáo-lư của Đại-Đạo cao thâm, hoằng-viễn là ngần

nào ; nhưng, chúng ta nên biết rằng học lư thuyết chưa đem lại kết quả

nào đáng kể cho kẻ tu hành. Tỉ như, mỗi ngày, chúng ta đều tụng kinh

"Huỳnh-Đ́nh", tụng không vấp một ch", tụng đến thuộc ḷng mà không

thực hành th́ sự thuộc ḷng ấy chưa đem lại cho chúng ta đức hạnh chói

rạng. Ấy vậy nên hễ muốn thành Đạo th́ chúng ta phải thực hành giáo-lư

n"a. Tức là  chúng ta phải học và phải làm thế nào cho giáo-lư nhập

tâm và biến thành đức-tánh, để rồi áp dụng vào đ(c)i sống thực tế của

ḿnh. Đó là phương tu tâm luyện tánh vậy. Về phương diện thực hành

Giáo-lư, Đức CHÍ-TÔN có lập tại Thế-gian một trư(c)ng Công-quả ; cả

Môn-đệ của Ngư(c)i phải theo đó mà tập luyện.

    Vậy Công-quả là ǵ ?

    Ngư(c)i Nông-phu cày cấy là làm công, tới mùa anh ta gặt lúa, là hái

quả. Hễ cày cấy nhiều th́ lúa thóc nhiều, cày cấy ít th́ lúa thóc ít.

Đó gọi là công-quả của ngư(c)i Nông-phu. Kẻ tu-hành cũng vậy. Nghĩa là

kẻ tu-hành cũng phải làm công rồi sau mới hưởng quả.

    Nay muốn cho hiểu rơ thế nào là công-quả của kẻ tu-hành, chúng tôi

tạm chia công-quả ra hai mặt là : Công-quả nội và Công-quả ngoại.

    Công-Quả nội.- Cũng gọi là công đức ; phương-pháp thực hành

Công-đức là Học-giả phải gia công học hỏi cho thấu triệt Chơn-lư, cố

gắng thực-hành thế nào cho chơn-lư biến thành đức hạnh, để rồi áp dụng

vào đ(c)i sống thực tế của ḿnh, như đă nói trên.

    Tại sao kẻ học phải thực hành công-đức ?

    Vả chăng, tâm tánh chúng ta từ khi nhập Thể-cuộc đến bây gi(c), đă

trước nhiễm nhiều vọng-chấp : nào là chánh-kiến, nào là tật xấu, nào

là nết hư ; nhứt là thói ích-kỷ là một trở ngại lớn trong công cuộc

cảm-ứng ở gi"a Tr(c)i và Ngư(c)i. Như vậy, nếu chúng ta chẳng dụng công

tinh-luyện, đả phá thật sạch cái màn vô-minh ấy, th́ làm thế nào mà đi

đến cảnh Toàn-giác. Đó là nói về thực-hành công-đức. C̣n như hỏi phải

làm thế nào cho ḿnh trở nên ngư(c)i có đức ? Th́ chúng ta phải học cho

hiểu đạo-lư ; hỏi cho rơ điều ng(c) vực, suy nghĩ cho thông tỏ cái lư đă

học ; biện-bạch cho tinh-tư(c)ng và cố gắng làm cho tật xấu biến thành

tánh tốt. Nói tóm lại là học, vấn, tư, biện và hành. Làm năm phương

pháp nầy, để lập đức của ḿnh.

    Nói rút lại : về công-phu lập đức kẻ học phải làm cho thành, phải

nói cho Thánh. Công-thành, Ngôn-thánh th́ đức mới rạng. Trái lại, nếu

công chẳng thành th́ l(c)i nói không đư(r)c bảo đảm ; mà l(c)i nói không

đư(r)c bảo đảm th́ Đức chẳng có chỗ nương, để chói rạng. Làm đư(r)c điều

ấy tức là lập Công, lập Ngôn và lập Đức vậy.

    Công-Quả Ngoại.- Là phụng-sự cho Chúng-sanh. Chúng ta nh(c) tu

công-đức mà tâm-tánh trở nên thuần-nhiên Thiên-lư ; lúc bấy gi(c), ḷng

Bác-ái của chúng ta đư(r)c mở rộng. Chúng ta biết thương ngư(c)i, biết mến

vật. Rồi chúng ta nương theo cái ḷng vị-tha ấy, mà giúp ngư(c)i, giúp

vật, đư(r)c an vui theo lẽ Đạo ; nhứt là độ dẫn ngư(c)i đồng chủng đư(r)c

mau tiến bước trên đư(c)ng tấn-hóa thiên-nhiên là một việc lành lớn, mà

chúng ta nên chú ư cho lắm.

    Tại sao chúng ta phải phụng sự cho Chúng-sanh ?

    Vả lại, cả Chúng-sanh đều thọ sanh nơi một nguồn, học chung một

Thầy và cùng nhau đồng đi trên một đư(c)ng về Cội-sanh ḿnh là Tạo-hóa,

thành thử trên đư(c)ng sanh-tồn, học-vấn cả Chúng-sanh đều có thiếu n(r)

lẫn nhau. Ngư(c)i ta cũng vậy, nghĩa là, ngư(c)i ta cũng phải chịu sự vay

trả, trả vay, như các Chơn-hồn khác. Đại để như : từ buổi đă đư(r)c kết

tạo trong Thai-bào, mỗi Chơn-linh đă phải chịu n(r) tiền-khiên rồi, tức

là n(r) kiếp trước, đến lúc chào đ(c)i và trưởng thành, th́ lại nặng n(r)

Xă-hội, Nhơn-quần, như : ơn cấp-dư"ng thức-ăn, chỗ ở, đồ mặc. Đó là sự

nh(c) vă lẫn nhau trên đư(c)ng sanh nghiệp. Ấy vậy, nên mảnh thân phàm của

ngư(c)i đến Thế-gian nầy, chẳng phải để làm việc riêng cho ḿnh, mà v́

sự liên-đới với vạn-vật ; thành thử, chẳng có một cá nhân nào có quyền

sống riêng, mà trái lại, phải đem kiếp sống mà phụng sự cho Chúng-sanh

toàn thể, hoặc với cách nầy, hoặc với phương khác.

    Nghiệp quả ấy, nếu biết, th́ có thể trả xong trong ṿng một kiếp ;

c̣n như chẳng biết, th́ con ngư(c)i ấy phải chịu luân chuyển trong biển

tử-sanh, cùng đà sanh hóa, mà cũng chưa ắt kham.

    Nói rút lại : hai phần công quả kể trên th́ nhiều, nhưng Kinh Phật

tóm tắt như vầy :

               Chư ác mạc tác ;

               Chúng thiện phụng hành ;

               Tự tịnh kỳ ư ;

               Thị chư Phật giáo ;

    Nghĩa là mọi việc ác chẳng khá làm ; nhiều việc l

ành cũng phải

vâng theo. Tự ḿnh trừng ư cho đư(r)c thanh-tịnh. Đó thiệt là giáo-luật

của Phật vậy.

    Công-quả đối với kẻ tu-hành rất quan-trọng. Bài Thánh-ngôn của Đức

CHÍ-TÔN kế đây đủ chứng minh sự quan-trọng ấy.

    Thánh-ngôn.

    "Ngư(c)i ở Thế-gian muốn giàu phải t́m phương thế mà làm ra của. Ấy

"là về phần vật-chất ; c̣n Thánh, Tiên, Phật muốn đắc Đạo th́ phải

"công-quả. Thầy đến độ rỗi các con, Thầy lập thành một trư(c)ng công-đức

"to cho các con nên Đạo. Vậy đắc Đạo cùng chăng, là tại các con muốn,

"cùng chẳng muốn. Thầy nói cho các con nghe : nếu chẳng đến trư(c)ng Thầy

"mà đoạt thủ địa-vị th́ chẳng đắc Đạo bao gi(c)."

    C̣n một lẽ n"a là theo lư đương nhiên : hễ có học th́ phải có thi

để rơ tài đức của Học-sinh. Th́ sự tu-hành cũng không ngoài công-lệ

ấy ; nghĩa là : kẻ học phải chịu thử thách, coi phải ḿnh là kẻ đạo

đức chơn thật chăng. "Vàng có lửa trui th́ mới rơ vàng mư(c)i."

    Trong sự thực-hành đạo-đức, từ trước đến gi(c) : từ một vị

Đại-Thiên-Phong đến một em Đồng-nhi, ai cũng biết qua một phần nào rồi

vậy. Hơn n"a, điều ấy Cổ-nhơn đă trải qua và c̣n lưu l(c)i nói trong

kinh-điển như vầy :

    "Vô Ma-khảo bất thành Đạo-Đạo." Không Ma-khảo th́ Đại-Đạo không

thành. Lại nói :"Đạo cao nhứt xích, Ma cao nhứt trư(r)ng, Đạo cao nhứt

trư(r)ng, Ma thư(r)ng đầu nhơn." Đạo cao một thước th́ Ma cao một trư(r)ng,

Đạo cao một trư(r)ng th́ Ma lên khỏi đầu ngư(c)i.

    Có ngư(c)i nói : sự tu-hành để giải thoát kiếp luân-hồi thật khó

khăn lắm vậy. Tuy thế mặc dầu, mà từ xưa đă có biết bao nhiêu ngư(c)i đă

thành công đắc quả. Mà hễ một việc nào đă có ngư(c)i làm đư(r)c th́ việcấy

dễ ; chớ chẳng khó.

    Than ôi ! việc tu-hành kẻ nói khó, ngư(c)i nói dễ, không biếtđâu mà

lư(c)ng ; nhưng theo kinh nghiệm, chúng tôi hiểu rằng : khó hay dễ đều

do ḿnh cả. Nếu chí tâm hành đạo th́ việc khó hóa ra dễ ; c̣n như chán

nản th́ việc dễ cũng thành khó.

    Tóm lại :

    1)- Giáo-lư về mặt lư-thuyết, tức là đọc sách tụng kinh, mà không

áp dụng vào đ(c)i sống thực tế th́ không có kết quả đáng kể.

    2)- Nhắc lại sự thực hành Giáo-lư, tức làm công-quả-nội vaé

công-quả-ngoại đă nói trên. Mục-đích làm cho học-viên biết sự "Tri

hành hiệp nhứt" mà phải áp dụng ngay, khi học bài.

    Thêm n"a, chúng ta đă hiểu rằng Chúng-sanh có can hệ mật-thiết với

Đạo, như đă nói trong trương trước ; nghĩa là Chúng-sanh phải nương

theo Đạo mà sanh sống và tấn-hóa ; cho nên, khi hóa sanh vạn-vật rồi ;

Đức CHÍ-TÔN : hoặc phân tánh giáng sanh, hoặc phái một vị Tiên, Phật

giáng Trần lập Đạo, giáo-hóa, làm cho Chúng-sanh biết phương pháp sửa

ḿnh theo Đạo ; v́ thế mà chúng ta thấy hiện gi(c) có nhiều Tôn-giáo và

mỗi Tôn-giáo có một h́nh-thức khác thật ; nhưng tựu trung Tôn-giáo nào

cũng dạy Chu&ng-sanh tu hành theo Chánh-Đạo hầu trở về với Cội-sanh

ḿnh là Tr(c)i. Nay Đức CHÍ-TÔN, dùng huyền-diệu cơ-bút lập Đại-Đạo ba

kỳ, Tôn-chỉ cũng không ngoài sự giáo-hóa Chúng-sanh : một là biết

bổn-phận làm ngư(c)i, hai là biết phương phÁp tu-hành đặng giải-thoát

kiếp luân-hồi sanh-tử. Cách học-hành sẽ nói sau ; bây gi(c) chúng tôi

xin nhắc sự ăn chay và kiêng rư(r)u ; đó là th(c)i kỳ chuẩn bị nhập môn

hành-đạo.

 

                          ĂN CHAY

 

    Ăn chay nghĩa là chúng ta dùng lê-hoắc và ngũ-cốc mà thôi. Tại sao

kẻ học-đạo phải ăn chay ? Xin xem kế đây :

    Khoa-học lấy trí-thức làm căn-bổn : suy nghĩ, khảo-cứu vật-chất

bên ngoài. Chung cuộc khoa-học thâu hoạch kết quả, để bồi bổ vào cuộc

đ(c)i sống thực-tế. C̣n Đạo-học có mục-đích thâm-viễn hơn, là cầu

giải-thoát kiếp luân-hồi, đặng vào cơi chẳng sanh chẳng già. Muốn đạt

mục-đích ấy, học-giả phải thâu thập cả tánh mạng luyện thành một khối

tinh thần khương-kiện sáng-suốt, tên gọi là Chơn-thần ; nó phải nhẹ

nhàng hơn Không-khí mới vư(r)t ra khỏi ṿng Càn-khôn. Tại sao ? Bởi v́

trong Không-khí có điển-lực ; nếu kẻ ăn mặn mà luyện Đạo, khi xuất

Thần th́ Chơn-thần ấy vẫn c̣n trư(r)c khí lẫn-lộn, mà trư(r)c-khi& vốn là

vật-chất, hay tiếp điển (bon conducteur d'électricité). Khi ấy, nó

chưa ra khỏi lằn Không-khí th́ đă bị sét đánh tiêu diệt rồi. Ấy là một

lẽ mà kẻ học đạo phải ăn chay.

   Lẽ thứ hai : theo luật hấp dẫn, nếu Chơn-thần c̣n trư(r)c khí khi

xuất ngoại phải bị hấp-lực của cơi Trần vật-chất giam-hăm trong ṿng

sanh-tử. Như thế nếu kẻ tu-hành không ăn chay th́ làm thế nào mà

giải-thoát kiếp luân-hồi.

   Lẽ thứ ba : Phép vệ-sinh dạy chúng ta phải ăn ở sạch-sẽ. Sạch-sẽ

nói đây, chúng ta phải hiểu rộng hơn là : chẳng nh"ng gi" ǵn sạch-sẽ

bên ngoài, mà c̣n phải sạch sẽ bên trong n"a. Ăn chay dễ tiêu hóa, tức

là ǵn gi" sạch sẽ bên trong tạng phủ.

   Thêm một lẽ thứ tư n"a là thực-hành ḷng "Bác ái". Theo cái lư

"Thiên địa vạn-vật nhứt thể", chúng ta cùng các loài sinh-vật là anh

em với nhau ; nghĩa là cả Chúng-sanh đều do một nguồn Tạo-hóa sanh

thành. Quan niệm ấy không cho phép chúng ta giết mạng để ăn thịt.

   Vả lại, ngư(c)i ta có hai thức ăn để bồi-dư"ng thân thể là :

Vật-chất-thực và Huyền-vi-thực. Vật-chất-thực là : Ngũ-cốc và các món

ăn mư(c)ng tư(r)ng như thế, do miệng vào t́ vị. Huyền-vi-thực là thanh-khí

ở trong Vơ-trụ ; ngư(c)i ta nh(c) hô-hấp tiếp nạp thanh-khí vào thân-thể,

để bồi-dư"ng sức khỏe. Nói tỷ : mỗi ngày chúng ta phải cần sáu cân đồ

ăn, để bổ-dư"ng thân thể. Trong sáu cân đồ ăn đó ; chia ra ba cân

Huyeến-vi-thực và ba cân Vật-chất-thực. Ấy vậy, nếu chúng ta thêm

Huyền-vi-thực và bớt Vật-chất-thực, càng bớt bên kia, càng thêm bên

nọ ; chung cuộc, mỗi ngày chúng ta cũng có đủ sáu cân đồ ăn, để bồi

dư"ng thân thể. Công phu ấy tiến lên n"a th́, về sau quen rồi, chúng

ta có thể sanh sống với Huyền-vi-thực đư(r)c. Đó là cứu cánh phép

tu-hành ; nhưng, chúng ta là kẻ ở Thế-gian, đă quen dùng vật-chất để

nuôi sống ; nay thoạt nhiên, đổi món ăn cấp kỳ, e tạng phủ chưa quen

mà phải sanh rối loạn. Bởi thế, nên ngư(c)i tu-hành phải tập lần. Ban

đầu, mỗi tháng ăn chay sáu lần, rồi mư(c)i ngày, rồi mư(c)i lăm ngày,

trư(c)ng trai, rồi sau sẽ tập n"a cho quen dùng Huyền-vi-thực. Nhưng,

phải hiểu rằng tuyệt-thực là một ư nghĩa cứu cánh, ngư(c)i thư(c)ng như

chúng ta chưa có thể làm đư(r)c. Khuyên ai chớ nên dục tốc mà phải lâm

hại.

 

                         KIÊNG RƯỢU

 

    Vấn đề kiêng rư(r)u sẽ theo vấn-đề ăn chay mà giải quyết ; mặc dầu

vậy, chúng tôi cũng chép bài Thánh-ngôn của Đức CHÍ-TÔN dạy về sự

kiêng rư(r)u, để cho rơ đại-ư.

    Thánh-ngôn.- V́ sao phải giới tửu ?

    "Thân-thể con ngư(c)i là một khối Chơn-linh hiệp thành ; Chơn-linh

"ấy hằng sống. Ngũ-tạng, Lục-phủ cũng là khối sanh vật tạo nên. Phận

"sự của chúng nó : Hoặc hiểu biết, hoặc không, đều tùy lịnh Thầy phán

"đoán. Vậy Thầy lấy h́nh chất xác phàm để giảng dạy.

     "H́nh chất con ngư(c)i cũng như h́nh chất thú, phải ăn uống mới

"sống đư(r)c. Rư(r)u vào t́ vị ; chạy khắp ngũ-tạng, lục-phủ. Trái tim là

"chủ động của bộ máy sanh sống ; mà trái tim bị rư(r)u thâm nhập, khiến

"cho nó rung động quá mực thiên nhiên đă định ; thôi thúc huyết mạch

"vận hành một cách quá mau lẹ. Sanh-khí nơi phổi không có đủ ngày gi(c)

"nhuận huyết ; rồi trư(r)c khí thối nhập trong thân thể, truyền thống

"chất độc vào trong nh"ng sanh vật. Mỗi khối sanh vật ăn rồi phải bịnh,

"càng ngày càng tăng thêm lên, rốt cuộc hết sanh lực, cốt tủy lần lần

"phải chết, thân thể tự nhiên chết theo. Nhiều kẻ bị liệt hết nửa thân

"h́nh, cũng v́ rư(r)u.

     "Thầy nói sự hại cho phần Hồn : Thầy nói Chơn-thần là khí chất

"bao bọc thân thể của các con. Trung tim nó là óc, cửa xuất nhập là

"mỏ ác, ch" gọi là Vi-hộ, Hộ-pháp hằng đứng gi" ǵn các con, khi luyện

"đạo, đặng giúp cho Tinh hiệp với Khí, rồi đưa Khí đến Chơn-thần.

"Tinh-Khí-Thần hiệp nhứt mới siêu phàm nhập thánh. Óc là nguồn cội của

"sanh-khí, mà óc cũng v́ huyết mạch vận chuyển vô chừng, đến đỗi tán

"loạn. Thế rồi Chơn-thần an tịnh thế nào đặng. Thân thể phải chịu ngây

"dại, trở lại thú tánh, thú chất. Như vậy th́ mất hết nhơn-phẩm rồi,

"c̣n mong chi đến địa vị Thần-Tiên. Lại n"a, trong buổi loạn Thần, cửa

"để trống, tà-mị thừa cơ xung-nhập, giục các con làm quấy gây nên tội

"t́nh mà phải chịu nhơn quả luân hồi muôn kiếp.

      "Vậy Thầy cấm các con uống rượu".

      Vấn đề kiêng rượu nầy, có lẽ trong hàng anh em chúng ta, người

nào cũng có bị một lần say rượu. Vậy sự kinh nghiệm ấy đă dạy chúng ta

biết với một cách rơ ràng, rằng say rượu chẳng phải loạn trí năo, mà

ngũ-quan cũng không c̣n giữ được chơn lực nữa. Thế th́ giới tửu là một

điều cấm quan trọng vậy.

 

Hạ Thừa

 

Dẫn giải.- Tân-luật Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ định rằng : Hạ-thừa là hạng người giữ  đạo, c̣n ở Thế, có vợ chồng, làm ăn như thường ; song, phải giữ trai kỳ, hoặc sáu hoặc mười ngày trong mỗi tháng, phải giữ Ngũ-giới-cấm, Tứ-đại điều-qui và tuân theo " Thế luật " của Đại-Đạo. Chúng tôi theo thứ tự trên đây mà giảng giải, để làm phương châm cho sự học tập.

 

 

NGŨ-GIỚI-CẤM

 

   Cấm "sát sanh" là không được giết hại mạng sống.

   Cấm "trộm cướp" là không được trộm cắp của người.

   Cấm "tà dâm" là không được thông gian.

   Cấm "uống rượu " là không được uống rượu say sưa

   Cấm "nói dối" là không được nói láo xược, hoặc nói mà chẳng giữ lời

(xem năm bài giới cấm).

 

TỨứ  Đại Điề Qui

 

            1) - Phải tuân lời dạy dỗ của người trên ; chẳng hổ chịu cho kẻ thấp hơn điều độ. Lấy lễ ḥa người ; lở lầm lỗi phải ăn năn chịu thiệt.

            2 ) - Chớ khoe tài, đừng cao ngạo, quên ḿnh để làm nên cho người; giúp người nên Đạo ; đừng cừu riêng ; chớ che lấp người hiền.

            3) - Bạc tiền xuất nhập phân minh, đừng mượn vay không trả. Đối với người trên, kẻ dưới đừng lờn dễ ; đối vớ kẻ dưới, người trên chẳng khá khinh khi ; trên dạy dưới lấy lễ ; dưới gián trên chớ thất khiêm cung.

            4) - Trước mặt sau lưng đều xử một mực, đừng kính trọng trước mặt mà khinh lờn sau lưng.

 

SANH KẾ

 

Người  trong đạo chẳng được làm nghề nghiệp có sát hại sanh mạng ; chẳng được làm nghề nghiệp có phạm đến sự tồi phong bại tục ; chẳng được soạn hay ấn hành những truyện sách ái-t́nh, hoa nguyệt, chẳng đặng buôn bán các thứ rượu mạnh và á-phiện, là những vật độc, làm giảm sức con người.

Chương "Thế-luật" Đại-Đạo gồm có hai mươi bốn điều, kể đủ những cự quan, hôn, tang, tế, mà người bổn đạo phải thù-tạc văng-lai, để giúp đỡ nhau khi hữu sự ; nhứt là câu : Trai phải Tam-cang, Ngũ-thường ; Gái phải ǵn Tam-tùng, Tứ-đức ; đó là căn-bản đạo người; chúng tôi sẽ giảng rộng sau đây :

 

Phận Trai

 

Tam-cang - Ngũ-thường

 

   Tam-cang.- Tam-cang là ba giềng mối chánh trong đạo làm người:

              Quân-thần cang tức bổn phận làm vua và làm tôi

              Phụ-tử cang tức bổn phận làm cha và làm con

              Phu thê cang tức bổn phận làm chồng và làm vợ

 

Quân-thần-cang

Giềng mối Vua-tôi.

Quốc-trưởng là bậc Đế-vương, đứng đầu trong nước, khôn ngoan hơn thần dân, chúng ta không nghị luận đến, mà chỉ nên nhắc nhở nhau, những bổn phận làm quan và làm dân thôi ; bởi v́ trong hàng anh em chúng ta, có người làm quan mà cũng có kẻ làm dân.

 

Bổn phận làm quan

Quan là người thay mặt cho Vua, thay quyền cho chánh-phủ, cai-trị dân. Trị-dân : nghĩa là : dạy dân, giữ dân được an-cư lạc-nghiệp. V́ vậy nên người làm quan phải thương dân, như cha mẹ thương con, thế mới hợp với câu "Dân chi phụ mẫu".

Người làm quan, trên giữ dạ ngay thờ chúa, dưới lấy đức chăn dân lo tṛn phận sự để nêu danh tốt về sau ; chớ chẳng khá bắt chước nh"ng con giặc, tôi-loàn, trên dối Vua, dưới gạt dân ; mà mang điều nhục-tổ hổ-tông.

Làm quan nên lập đức :"Thanh-liêm, Cần-mẫn, Chánh-trực".

Thanh-liêm : th́ không tham của hối-lộ mà hại dân lành. Nên nhớ rằng nhà nước tin-cậy, giao mạng sống của dân trong tay ta ; nếu ta v́ của bất chánh mà làm việc bất công : chuyện phải làm quấy, việc quấy làm phải, điều ấy có thể dấu được lịnh Vua, chớ luật Trời đâu dễ che lấp. Thế nên làm quan phải giữ đức thanh liêm.

            Cần mẫn : là siêng năng. Thi hành bổn phận nhà quan, ta nên siêng năng : một là ngừa kẻ gian-manh trộm cướp, hai là ngăn kẻ ỷ chúng, hiếp cô, để cho lương dân được sống yên dưới bầu Trời an-tịnh.

            Chánh-trực : là một đức lớn của nhà quan. Kẻ bất chánh,th́ không hay làm được việc công-b́nh ; mà bất công th́ làm sao trị dân.

 

Bổn Phận Làm Dân

            Làm dân th́ phải lo tṛn bổn phận Công-dân. Trên phải tuân lời quan, dưới thuận cùng đồng loại. Quan là người thay mặt cho Vua ; tuân lịnh quan tức trung với Vua. Thuế sưu lo tṛn, không nên lập đoàn, hiệp-lũ mà gây ra trộm cướp, phá xóm, phá làng ; ấy là thương yêu ṇi giống.

 

PHU TỬ CANG

 

            Giềng mối cha con.

Làm cha phải lành (Từ) ; làm con phải thảo (Hiếu).

Vi nhơn phụ chỉ ư từ. Chữ Từ (Lành) chỉ về nghĩa vụ làm cha mẹ, phải nuôi con cho nên vai, nên vóc, dạy dỗ con cho nên người hữu dụng.

            Người cha mẹ lành cũng có khuyên con, răn con, nghĩa là cũng có la rầy, đánh mắng, làm thế nào cho con bỏ cái dở, theo cái hay ; chớ chẳng phải lành là chiều theo ư con muốn làm ǵ th́ làm. Tại sao người cha không để cho con được tự do hành động. Bởi v́ con c̣n thơ ấu, trẻ ḷng, non dạ. Nói tóm là con chưa đủ sáng láng, để phân biệt phải quấy và chưa đủ tinh thần cứng rắn, để vượt qua những vật dục cám dỗ. Ấy vậy nên người cha mẹ phải d́u dắt con trên đường đạo đức quang minh. Gia đ́nh giáo-dục là căn bản đạo người.

            Đối với con, cha mẹ cũng có quyền, như : nhờ con nuôi dưỡng lúc về già, nhờ con giúp đở việc nặng-nề. Cổ-nhơn nói :"Dưỡng nhi đăi lăo". (Nuôi con để nhờ lúc về già). Nhưng, cha mẹ muốn dùng quyền ấy, trước phải làm xong nghĩc vụ ḿnh, tức là nuôi con, dạy con, cho nên người. Trái lại, nếu cha mẹ không làm tṛn bổn phận ḿnh, mà cứ sai con, mắng con, như thế là thất phận cha mẹ.

            Vi nhơn từ ư chi hiếu. Thảo là đạo làm con, chẳng những không ai được từ khước, mà ai cũng phải coi đó là bổn phận của ḿnh nữa. Cổ-nhơn nói :"Nhơn sanh bá hạnh, Hiếu vi tiên". người đời có trăm nết, song Hiếu đứng đầu.

            Tại sao người ta phải hiếu với che mẹ ?

            Ôi ! Công sanh thành dư"ng dục kể sao cho hết, nào là mười tháng cưu mang, ba năm bú móm ẵm bồng, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. C̣n cha là phải dày công dạy-dỗ, cực nhọc, tảo-tần, dầu trăm cay ngàn đắng, dầu vào cảnh nguy nan, người cha cũng không từ ; miễng là làm ra cơm tiền, để nuôi con th́ thôi. Công cha như núi Thái sơn.

Nghĩa mẹ công cha như thế, hỏi vậy ở đời, có người nào mà chẳng thương mến chăng ? Ắt không. Nhưng, thương mến chưa đủ, nghĩa vụ làm con bắt buộc người ta phải tṛn đạo Hiếu.

            Thực hành đạo Hiếu, trướt nhứt là nuôi cha mẹ. Sự nuôi ấy cốt ở ḷng thành kỉnh, giàu nuôi theo giàu, nghèo nuôi theo nghèo ; ngoài miếng ăn, miếng uống, tấm áo, manh quần, c̣n phải hết ḷng vui vẻ trong phận sự, để cho cha mẹ được vui ḷng. Một hôm Thầy Tử-Du hỏi ch" Hiếu ; Đức Khổng-Phu-Tử đáp :"Ngày nay người ta bảo hiếu là biết nuôi cha mẹ ; nhưng, đến như giống chó ngựa kia cũng có người nuôi. Nếu nuôi cha mẹ mà không kính, th́ lấy ǵ để phân biệt với sự nuôi cầm thú". Vậy đủ biết nuôi cha mẹ quí tại ḷng thành kính. Chẳng nên bắt chước câu :"Giàu th́ đặng thảo ngay, nghèo th́ mất trung Hiếu" lời ấy chẳng qua là nói để che lỗi của ḿnh mà thôi. Trái lại, nên nhớ câu :"Nhà nghèo mới có con thảo, nước loạn mới có trung thần". từ xưa, những gương trung hiếu tiết liệt, phần nhiều xuất hiện trong nhà nghèo khó.

Khi ở chung với cha mẹ, không nên làm buồn ḷng của cha mẹ, nếu ḿnh có việc buồn riêng, cũng chẳng nên tỏ sắc giận hờn cho cha mẹ thấy. Khi cha mẹ quở trách th́ phải tự xét ḿnh mà chừa lỗi ; chớ chẳng khá buồn.

Cha mẹ già phải coi chừng sức khỏe, nghĩa là nuôi cha mẹ phải xem đến chỗ chưa nói kia. Tại sao ? Bởi v́ có nhiều khi cha mẹ sợ con lo buồn mà chẳng tỏ ra những việc người cần.

Cha mẹ lúc sanh tiền chẳng nên đi xa ; nếu cần đi vắng th́ phải cho biết chỗ, để người nhà t́m cho dễ, khi hữu sự. Cha mẹ đau ốm, kẻ làm con phải tận tâm chạy thuốc, chạy thầy, chính ḿnh phải lo liệu mọi phương ; nếu giao cho kẻ khác, biết đâu, người ấy, v́ sơ sót làm thêm bịnh cho cha mẹ ḿnh. B́nh nhựt cũng phải xem chừng : nếu cha mẹ khỏe th́ vui mừng, mệt th́ lo lắng.

Ḷng hiếu thảo ai cũng có, nhưng, có một ít người xao lảng, v́ ham mê sắc dục, hoặc tiền của, rồi sanh ngỗ nghịch. Vậy ai là người làm con, nên thận trọng bổn phận của ḿnh.

Nhưng đạo Hiếu không phải nhắm mắt phục tùng cha mẹ ; mà trái lại, phải xem xét cái ǵ của cha mẹ đă làm ; nếu hay th́ theo, c̣n lầm mỗi th́ ôn tồn khuyên can, sửa đổi. Nếu cha mẹ không nghe th́ lại kính mà không trái lễ, nghĩa là lần lần lựa cách nói cho cha mẹ nghe lẽ phải, để sửa đổi ; có khi cha mẹ giận mà đánh đập cũng không hờn oán.

Cha mẹ mất th́ phải tang chế. Cổ nhơn bảo :"Tang tắc trí kỳ ai". Tân-luật Đại-Đạo định rằng : viêc tang chế không nên xa xí, không nên quàn linh c"u lâu ngày, không nên dùng đồ Âm-công ḷe-loẹt, không nên đăi đằng rần rộ mà mất sự nghiêm tịnh ai bi.

Đức Khổng-Phu-Tử cho sự thờ cha mẹ rất Hiếu là :"Kính kỳ sở tôn, ái kỳ sở thân, sự tử như sự sanh, sự vong như sự tồn. Hiếu chi chí dă". Kính những người cha mẹ đă tôn trọng, yêu những người cha mẹ đă mến, thờcha mẹ lúc chết cũng như khi sống, mất cũng như c̣n. Ấy là Hiếu rất mực vậy. Theo đó th́ suy ra th́ khi cha mẹ chết rồi kẻ làm con cũng tưởng như khi cha mẹ c̣n sống, chuyên tâm tŕ chí làm tṛn bổn phận, thỉ chung như nhứt.

 

                  Bổn phận làm Anh Chị và làm Em .

                  Anh thi gương mẫu, Em th́ kính trọng .

Anh em, chị em, đồng thọ sanh nơi một cha mẹ. Tục ngữ nói :"Một cục máu xắn làm năm ba". Đồng cốt nhục, đồng bào thai, và từ lúc nhỏ dại : ở chung một nhà,ăn chugn một mâm, nằm chung một chiếu ; vui có nhau, buồn có nhau, nhứt nhứt đều chung cùng với nhau. Vậy cái t́nh thương yêu khắn-khít ở giữa anh chị và em không t́nh nào hơn được . 

Muốn giữ cái t́nh máu mủ ấy măi măi, th́ người anh chị phải biết bổn phận ḿnh là thuận yêu, kẻ làm em phải biết bổn phận ḿnh là cung kính.

            Khi cha mẹ vắng mặt, người anh chị phải quyền huynh thế phụ, nghĩa là người anh chị có trách nhiệm khuyên răn em, sai khiến em ; nhưng, muốn dùng quyền ấy th́ người anh chị phải làm tṛn nghĩa vụ của ḿnh, là thay mặt cho cha mẹ nuôi em, dạy em. Cổ-nhân thường khuyên nhau rằng trước phải làm nghĩa vụ rồi sau mới dùng quyền lợi, là lẽ như vậy.

Theo lư thường nhiên, lúc thành nhơn th́ mỗi người đều có gia thất. Mặc dầu xa cách nhau, nhưng anh em, chị em phải giữ cái t́nh cốt nhục duy nhất ấy măi măi ; nghĩa là phải thương yêu, giúp đỡ nhau : việc nhỏ cũng như việc lớn ; mà muốn giữ tṛn cái t́nh cốt nhục ấy, phải tránh những tiếng to, tiếng nhỏ ; của vợ con hay chồng con. Theo thường t́nh, những em chồng, chị dâu, em rễ, anh vợ, hay chinh nghiêng lẫn nhau ; v́ những việc nhỏ mọn.

Bổn phận anh chị, hay em út phải sáng suốt mà phân định, để tránh cái vạ chia ĺa. Anh em, chị em là di-hài của cha mẹ, bất ḥa là phá hoại cái di-hài ấy. Anh em, chị em như tay chơn, bất ḥa là chia ĺa thủ túc người nào xử được đạo Hiếu-đễ nghiêm trang trong gia-đ́nh, th́ người ấy có tinh thần ḥa-kỉnh. Hiếu-thuận là gốc Đạo xử-thế, ấy vậy nên người trọn thảo thuận th́ có ḷng trung-quân, ái-chủng.

 

                Bổn phận con cháu đối với ông bà .

  Ông bà là đấng sanh thành, dưỡng-dục cha mẹ, lại là đấng mà cha mẹ thương mến quí trọng. Đạo-hiếu buộc người làm con phải kính trọng những người mà cha mẹ thâm giao. Ấy đó là những người bàng-quanmà c̣n phải xử trí như thế, huống chi ông bà là ruột thịt của chúng ta, mà chúng ta lại dễ-duôi sao ?

   Ấy vậy khi ông bà sanh tiền, chúng ta phải thay mặt cha mẹ mà chăm nom giúp đỡ, những việc nào mà chúng ta có thể làm được. C̣n khi ông bà qua đời th́ lại thay mặt cha mẹ mà thờ phượng, cúng-tế.

Luân-lư cổ-truyền của người Việt Nam dạy rằng : ngày tế-tự, cả gia-tộc hợp về nhà thờ,lo việc tế-lễ. Hai ngày : Tiên-thường và Chánh-giỗ, những người họ hàng vui vầy : có khi nhắc lại sự tích Tổ-tiên, có lúc hỏi việc hàn-huyên gia-tộc. Giờ cúng tế mỗi người đều có ḷng thành kỉnh rất mực. Khi ra vào, lúc lại qua trước bàn thờhọ cúi đầu tỏ vẻ sợ sệt, dường như Ông Bà đương ngự trên chỗ sở-tôn. Gi(c) tế-lễ ấy, hoàn-cảnh yên lặng, người Trưởng-tộc hành lễ, rồi đến con cháu cứ theo thứ tự vái lạy trang nghiêm.

 

Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ giữ nguyên vẹn cái lễ thờ cúng Ông Bà đó. Vả chăng, đạo-hữu đă sẵn có đạo-tâm, nay đem loéng đạo-đức ấy mà thờ cúng Ông Bà th́ có lẽ cái phong tục cổ-truyền sẽ được tăng phần thuần-mỹ nữa.

 

                   Bổn phận đối với Cậu Cô Chú Bác .

    Cậu cô chú bác là anh em ruột thịt với cha mẹ, kẻ làm con chẳng những phải yêu mến, mà c̣n quí trọng, như cha mẹ nữa. Nếu vô phước mồ côi, th́ chính cậu cô, chú bác, là người thay mặt cha mẹ mà nuôi ḿnh. Đó đủ thấy rằng kẻ làm con phải thương mến quí trọng cô cậu, chú bác như cha mẹ.

Khi thành gia thất rồi, tự-nhiên ai cũng có cậu cô, chú bác bên chồng, cũng như bên v(r). Kẻ làm con cháu cũng không v́ lẽ ǵ mà chẳng thân ái những người ấy.

 

 

PHU-THÊ-CANG

 

Giềng mối chồng vợ .

Chồng ḥa, vợ thuận .

Trai lớn lên th́ có vợ ; Gái lớn lên th́ có chồng. người ở đi, ai ai cũng phải có đôi bạn, rồi sau mới lập gia đ́nh. Cái định luật ấy từ xưa đến nay, vẫn không thay đổi. Trong đạo vợ chồng, có điều tốt nhứt là hai người ấy được thuận ḥa, ăn ở với nhau, từ tóc xanh, đến đàu bạc. Mà muốn được vậy th́ mỗi người phải biết bổn phận của ḿnh và phải hành-vi trong phạm-vi ấy.

Chồng là rường cột của gia đ́nh, phải đảm đương mọi việc bên ngoài, để tạo hạnh-phúc cho gia-đ́nh, nghĩa là phải làm lụng cho có cơm, có tiền để nuôi dưỡng gia-đ́nh no-ấm ; kế đó, sẽ nói đến việc lễ-nghi đạo đức, tức là bày ra việc dạy dỗ. Cổ-nhơn nói :"Giáo-phụ sơ lai, giáo-tử anh hài". Nghĩa là dạy vợ lúc ban sơ mới về, dạy con lúc c̣n thơ ấu. Mà muốn dạy người, trước phải sửa ḿnh. Giả tỉ như người chồng biếng nhác, không lo làm ăn, quanh năn cứ lêu-lơng chơi-bời, cờ bạc. Chồng như thế mà bảo vợ nên người, th́ không thể được ; hoặc giả cha như thế mà bảo con đừng cờ bạc, rượu trà cũng không sao được. người chồng chẳng những phải lo làm lụng để tạo hạnh-phúc cho gia đ́nh, mà c̣n phải có tinh-thần ḥa-ái nữa.

Về tâm lư, nên biết rằng vợ là bạn trăm năm, cha mẹ sắm cho. Đàn bà là người yếu đuối, nương dựa nơi ḿnh, gởi thân cho ḿnh, để cùng nhau lo việc trăm năm gia thất. Hơn nữa, vợ chồng lại là người đầu ấp, tay gối với nhau, vui chung vui, buồn chung lo, nghèo chung chịu, giàu chung hưởng. Ḷng có nghĩ như thế th́ mới có dạ yêu đương và đùm bọc.    

Người chồng có quyền khuyên lơn, dức bẩn người vợ, nhưng, trước phải làm xong nghĩa vụ của ḿnh, như nói trên, rồi sau mới dùng đến quyền. Tuy nói rằng có quyền, nhưng, người chồng, lúc nào, cũng lấy tinh-thần ḥa-ái làm cốt. Nghĩa là có khuyên lơn, dức bẩn người vợ th́ cũng chỉ trong ṿng lễ nghi, kính-mến ; chớ chẳng khá đang tay đánh đập, như kẻ vơ phu.

Người vợ phải có tinh-thần thuận-tùng, nghĩa là phải biết dung-ḥa với chồng, để tạo hạnh phúc gia-đ́nh. Bát trong sóng c̣n động, huống chi vợ chồng ăn ở với nhau cả đời, làm thế nào tránh khỏi một đôi khi bất đồng ư kiến. Giả tỉ như có trường hợp ấy xảy ra, th́ vợ chồng nên nhịn nhục lẫn nhau, chồng nói vợ nghe, vợ nói chồng nghe, để phân trần điều hơn lẽ thiệt. Tương-y, tương-ỷ mà sanh sống trong ṿng lễ-nghi đạo đức ; điều đó là tốt nhứt ; chẳng nên bắt chước phường hỗn-ẩu, chồng một lởi đi, vợ năm bảy tiếng lại. Thế rồi sanh việc bất-ḥa ; mà chồng vợ bất-ḥa th́ gia-đ́nh tan nát.

Phận gái trọng nhứt là trinh-tiết ; bởi vậy người phụ-nữ có thân phải giữ lấy thân ; mỗi ngày phải làm tăng giá-trị của ḿnh thêm cao lên măi. Tục ngữ nói :"Đi ngang đám dưa không nên sửa dép ; đi ngang cây lư không nên sửa mũ ". Đại ư câu nầy khuyên người ta phải hành-vi, ăn nói, đi đứng trang-hoàng, nhứt là phải tránh những cử chỉ nào làm người khác ngờ vực, cũng như đi ngang đám dưa th́ không nên sửa dép, hoặc đi ngang cây lư không nên sửa mũ, v́ làm như thế ngờ rằng ḿnh bẻ trộm dưa, hay hái trộm lư.

   Nội trọ là bổn phận đàn bà, cho nên người vợ phải chăm lo việc nhà : thiếu đủ phải biết, c̣n hết phải hay, sắp đặt đâu đó an bày, ăn cần ở kiệm, phải trọng tiền của chồng làm ra. Tục ngữ nói :"Ăn nhịn qua ngày, ăn vay mắc nợ". Của chồng công vợ, chồng vợ cộng tác, để tạo hạnh phúc gia-đ́nh.

Tóm lại, đạo vợ chồng cần nhứt là phải thuận-ḥa, chồng chẳng nên ỷ quyền mà hiếp đáp vợ, vợ không nên cậy thế mà hỗn-ẩu với chồng. Đồng vợ đồng chồng tát biển đông cũng cạn !

Tân-luật Đại-Đạo nói :"Hôn nhơn là việc trọng trong đời người. Phải chọn hôn trong người đồng đạo, trừ ra khi nào người ngoài ưng thuận nhập-môn th́ mới được kết làm giai-ngẫu".

Đó là có ư ngừa sự bất đồng tâm lư về sau.

Tân-luật lại cấm người đàn ông không đặng cưới hầu thiếp. Rủi có chích lẻ nửa đường, mới được chắp nối. Thoảng như vợ lớn không con nối hậu th́ được phép cưới hầu thiếp ; song chính ḿnh Chánh-thê đứng cưới mới đặng. Người đạo cũng chẳng được để bỏ nhau, trừ ra ngoại t́nh, hay bất hiếu với công-cô.

 

Ngũ-thường

 

Đổ lên là Tam-cang, c̣n Ngũ-thường là ǵ ?

Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín gọi là ngũ thường, tức là năm đức thưng, để xây dựng một phẩm vị làm người ; mà chúng tôi giảng kế đây :

NHÂN : Người ta ai cũng có bẩm thọ của Trời một điểm Linh-quang để làm tự-tánh của ḿnh ; người đời gọi đó là nguồn Thiên-lư ở trong người. Nhân là cái phát động của nguồn Thiên-lư ấy ; cho nên Cổ-nhân nói : Nhân là hột-giống hóa-sanh đức-tánh tốt.

   Chữ "NHÂN" đem ra mà ứng dụng vào đời sống th́ nó gồm tất cả nghĩa vụ làm người; thành thử, có câu nói : "Nhân là đạo người " (Nhân giả nhơn dă). Thực hành ch" "NHÂN" tức là áp dụng Thiên-lư vào đời sống thực-tế. Thế nên muốn làm "NHÂN" phải gi" ḷng cho ngay thẳng ; nghĩa là chẳng cho tư-dục xen vào Tâm, để cho nguồn Thiên-lư ở trong Tâm ung-dung phát-triển theo lẽ tự-nhiên của nó, rồi người ta cứ theo đó mờà làm cho hết bổn phận của ḿnh. Đó là làm "NHÂN" vậy. C̣n như muốn biết rộng ra nữa th́ chúng ta nên xem Cổ-nhơn dạy phương pháp làm "NHÂN" như sau :

Có người hỏi phương-thức làm Nhân là thế nào th́ Đức Khổng-Phu-Tử nói :"Kỹ dục lập nhi lập nhơn" ; kỹ dục đạt nhi đạt nhơn". Năng cận thủ tỷ khả vị Nhân chi phương". Nghĩa là ḿnh muốn lập thân thế nào th́ cũng giúp người cùng lập thân như ḿnh ; ḿnh muốn thông đạt đến đâu th́ cũng giúp người cùng thông đạt như ḿnh. Ai hay làm những điều đó là làm Nhân vậy.

Thầy Tử-Trương hỏi Nhân, Đức Khổng-Phu-Tử nói :"Hăy làm năm điều nầy trong Thiên-hạ là Nhân, rằng : Cung, Khoan, Tín, Mẫn, Huệ. Cung th́ không khinh lờn, Khoan th́ được ḷng người , Tín th́ được người tin cậy. Mẫn th́ có công, Huệ th́ đủ khiến được người ".

Cũng có nhiều ngư(c)i khác hỏi cách làm Nhân, Đức Khổng-Phu-Tử tùy căn cơ kẻ hỏi mà trả lời, để khai hóa sở học của họ. Đạo Nhân rất rộng răi, v́ nó gồm tất cả đạo làm người.

Người có Nhân lúc nào cũng có thái độ ung dung tự-tại, b́nh-tĩnh yên lặng, mà trong ḷng luôn luôn có một năng lực Trực-giác mẫn-thiệp ; việc đến th́ họ biết ngay, với một cách mau chóng. Họ làm việc ǵ cũng thích hợp Đạo-lư. Họ thật-thà chất-phác mà giàu t́nh-cảm ! Đối với gia-đ́nh th́ hiếu-đễ, đối với xă-hội th́ thuận-ḥa, đối với từng người, từng vật th́ yêu thương giúp đỡ. Trên thuận ḷng Trời, dưới ḥa với Chúng-nhơn, cử chỉ hành-động hằng khích lệ trên nền tảng "Vạn-vật nhứt-thể" việc lợi danh ở đời, họ không phải lánh hẳn ; nhưng, họ chẳng bỏ đạo-Đức để cầu lợi-danh. Đạo-đức với lợi-danh, nếu phải bỏ một th́ họ rất vui ḷng bỏ danh-lợi, để cầu Đạo-đức.

Đạo Nhân có thứ bậc như : thương cha mẹ th́ khác với thương người láng giềng, thương anh em bậu bạn th́ khác với thương cầm thú. Kịp đến sự giúp đỡ cũng vậy ; nghĩa là nuôi cha mẹ th́ khác với nuôi trâu ḅ. Đó là chỗ Đạo Nhân không giống với Bác-ái. Bác-ái dạy người ta phải thương trùm vạn-loại. Người cũng như vật, thân cũng như sơ. Bác-ái dành cho người xuất-thế, ly-gia ; c̣n Đạo Nhân th́ thích ứng với người ở Thế, để thi hành Nhơn-đạo từ trong gia-đ́nh đến ngoài xă-hội.

Thử hỏi tại sao ở đời lại có ngươi nầy hiếp kẻ nọ ? Th́ đó chẳng qua là tại ḷng oán-ghét lẫn nhau. Nếu cha con ghét nhau th́ mất từ-hiếu ; vợ chồng ghét nhau th́ mất thuận-ḥa ; anh em ghét nhau th́ mất yêu đương ; người trong thiên-hạ ghét nhau th́ người mạnh hiếp kẻ yếu, người giàu lấn kẻ nghèo. Muốn tránh ḷng oán ghét, chúng ta cứ mở ḷng thương yêu (Nhân) cho rộng, rồi tự-nhiên ḷng oán-ghét không có chỗ nương mà phải đi ra khỏi Tâm-gian của ḿnh, cũng như ḥa-b́nh làm hết chiến tranh vậy.

                 

NGHĨA.- Nghĩa là cử chỉ tác-Động theo đạo-lư. Đối với bổn thân : Nghĩa làm cho người thành đức ; c̣n đối với người khác và vật th́ Nghĩa giúp người và vật được an vui theo lẽ Đạo. Ch" Nghĩa, nếu theo sau chữ Nhân th́ nó giúp chữ Nhân phát biểu đạo-đức ra ngoài. tỉ như chúng ta thấy kẻ nghèo th́ chạnh ḷng thương, đó thuộc về Nhân. Ra công giúp đỡ kẻ nghèo, đó thuộc về Nghĩa. Trường hợp nầy th́ hai chữ Nhân Nghĩa phải đi kèm nhau mới thành đạo-đức. Trái lại, nếu có Nhân mà không có Nghĩa th́ đạo-đức thiếu h́nh thức ; c̣n như có Nghĩa mà không Nhân th́ đạo-đức thiếu tinh-thần. Giả như chúng ta thương kẻ nghèo mà không ra công giúp đỡ, th́ ḷng Nhân không thực hiện, c̣n như ra công giúp người nghèo mà không có ḷng thương th́ sự giúp đỡ ấy lại v́ một ư ǵ khác ; chớ không phải là Nhân.

Nhưng phải hiểu rằng ḷng dục lời của người ta mạnh lắm ; cho nên muốn làm Nghĩa phải ngăn ḷng dục lợi, để cho ḷng Nhân phát triển tự nhiên mới được. Cổ-nhơn thường khuyên nhau :"Tiền Nghĩa vị hậu lợi", tức là phải làm nghĩa rồi sau sẽ cầu lợi là lẽ như vậy.

 

            LỄ .

Lễ trước duéng để tế tự, sau lan rộng đến nền nếp xử-sự, tiếp-vật mà nhơn-quần Xă-Hội thừa nhận. Chữ Lễ lại đồng-thể với chữ Lư ; cho nên nó phải tùy thời mà biến đổi, càng ngày càng tốt hơn, chớ chẳng khá cố-chấp mà phải sa vào cái hủ lậu.

Về phương diện tế tự. Lễ có mục phiêu thứ nhứt là làm cho đàn-tế được tôn nghiêm ; mục phiêu thứ nh́ là đào-tạo cho người tâm-lư kính và thành. Có kính th́ mới giữ được bản tánh của ḿnh ; có thành th́ mới cảm ứng được với Trời. Đó là LỄ giúp người hàm dưỡng tâm-tánh.

Ḷng người lúc nào cũng có t́nh-cảm ; mà t́nh cảm xấu sanh nhiều hơn t́nh-cảm tốt. Lễ dùng để hạn chế t́nh cảm xấu và giúp cho t́nh-cảm tốt chóng thành. Sách Lễ-kư chép rằng :"Ḷng người ta lúc nào cũng có sự ham ăn uống, trai-gái và sợ cái nạn tử-vong, bần-khổ ; nếu người ta không nghĩ lại th́ Thiên-lư ở trong người (tức Bổn-tánh) sẽ tiêu-diệt hết". Lễ giúp người giữ vẹn phần Thiên-lư ấy.

Trên đường giao-tế, Lễ phải có Nghi làm h́nh thức . Giả tỉ như chúng ta gặp người Trưởng-thượng, th́ chúng ta đem ḷn kính, đó thuộc về Lễ. Rồi chúng ta nghiêng mũ cúi chào, tỏ ḷng kính ra ngoài ; đó thuộc về NGhi. Thế nên nói : Nghi tùy Lễ mà chế. Hai chữ "Lễ-Nghi" thiếu một th́ không thành qui-tắc. Giả tỉ như : Chúng ta có kính trong ḷng, mà không nghiêng mũ cúi chào, th́ ḷng cung kính không chỗ nương, để phát biểu. Trái lại, trong ḷng không kính mà bên ngoài làm ra vẽ cúi chào. Nghi không Lễ th́ chỉ là một h́nh thức khô-khan mà thôi.

Lễ-Nghi dùng để phân định ngôi thứ : tôn ti, thường hạ. Giả T́ trong đám hội đàm : người lớn cứ sổ-sàng ăn nói, sổ-sàng hành-động ; kẻ nhỏ th́ hỗn-ẩu, không kính nễ người lớn. Thế th́ làm sao mà hiệp nhau được; cho nên nói rằng : thất Lễ th́ loạn.

Học Lễ không phải khó khăn, như có người ta lầm tưởng. Bởi v́ Lễ thuận ḷng người mà dấy ; chớ không phải cưởng-bách. Cổ-nhơn thường khuyên nhau : trước học Lễ, rồi sau mới học Văn, tức là học Đạo-lư trước rồi sau sẽ học các khoa khác. Luật dùng để răn người phạm tội. Lễ để ngăn t́nh-cảm xấu, thế mà người ta sợ Luật hơn sợ Lễ ; đó là tại Luật có hậu thuẩn là h́nh-phạt.

Nói về giữ Lễ th́ khi đi đứng, nằm, ngồi, lúc nào cũng chẳng khá dễ-duôi. Ở thường th́ cung, làm việc th́ kỉnh, giao-thiệp th́ hết ḷng. Ba điều ấy, dầu ở chung với kẻ mọi rợ, cũng chẳng khá quên. Ra khỏi cửa th́ kính, như hầu khách quí ; sai khiến kẻ dưới th́ kính như thừa hành lịnh trên ; nhứt cử, nhứt động, đều có Lễ, đó là người lịch sự. Hành-vi, lời nói và tư tưởng, mỗi mỗi đều có trước sau, là người có tiết. Hành-vi, lời nói và tư-tưởng, mỗi mỗi đều thích trung, là người có độ. Tiết-độ là mực thước của người, cũng như nhịp trường-canh của âm-nhạc. Lễ là khuôn thước định ra tiết-độ ấy.

 

TRÍ

 Biết phân biệt điều lành để theo, điều dữ để tránh là người Trí. Hoặc giả nói rằng :" Người Trí biết đạo-đức, để hoán-cải điều-ác thành điều-thiện, mỗi ngày càng làm cho ḿnh trở nên người có giá trị thêm hơn.

Muốn thành người Trí, chúng ta phải học hành. Vậy học-hành để mở trí ; mở Trí để biết làm người. Ấy vậy nên sự học, trước nhứt phải chánh-tâm và thành-thật làm theo Chơn-lư, mà chúng ta đă học được.

Học và Hành phải đi đôi mới gọi là biết. Nói tỉ : chúng ta biết thờ Trời là một việc rất hữu ích ; nhưng biết thờ Trời chưa đủ, thành thử chúng ta phải tế-lễ Đức CHÍ-TÔN hằng ngày, để tập cho ḿnh có ḷng thành kính. Ḷng thành kính tức là Chơn-tâm, nó sẽ giúp cho chúng ta trừ khử Vọng-tâm và cảm thông với Thiên-lư. Thờ Trời, Tế Trời là một phương pháp làm sáng đức sáng của ḿnh.

Thầy Tuân-Tử nói :"Chẳng nghe không bằng có nghe ; có nghe không bằng trông thấy ; trông thấy không bằng biết rơ ; biết rơ không bằng làm được. Học để biết, biết để làm. Thế th́ cái đức sáng của ḿnh càng ngày càng sáng suốt thêm lên.

Sự học có nhiều lối : học với kinh nghiệm và học với trí nghĩ. Ví dụ : Chúng ta chưa biết lửa có tánh nóng. Nay v́ có một duyên cớ ǵ, chúng ta chạm nhằm lửa mà phải phỏng tay. Thế là chúng ta nhờ bài học kinh nghiệm, để biết lửa có tánh nóng.

Đời người là một cuộc học. Nếu chúng ta rủi bị phiền năo v́ một việc ǵ, th́ chúng ta chẳng khá trách Trời, chẳng khá trách người, chẳng khá trách sự vật, mà trái lại, phải tự xét ḿnh t́m cho ra cái nguyên nhân nào làm cho chúng ta phải phiền năo. Phải chăng : tại không biết, tại trễ-nải, tại tức giận. Khi đă thấy nguyên nhân tạo ra phiền-năo rồi, chúng ta nên t́m phương giải-quyết, để cho cách xử sự lần sau được khá hơn.

Trí người là một trường hành-động. Khoa-học, ngày nay, nhờTrí mà phát minh biết bao nhiêu cơ-khí kỳ xảo. Chúng ta nên dùng Trí của ḿnh, để t́m biết đời sống của ḿnh : Đại để như nh́n ra Vơ-trụ bao la, biết bao nhiêu Thế-giái vận chuyển không ngừng, lại nh́n đến vạn-vật yên lặng, trang nghiêm, rồi nghĩ đến thân phận người ta ở đời : Sống như vậy rồi chết ra sao ? Và c̣n biết bao nhiêu nh"ng việc huyền bí trong Vơ-trụ mà chúng ta chưa biết được.

Vậy chúng ta nên chép những vấn đề ấy, để rồi suy nghĩ, khám phá sự liên lạc của người với Trời, người với người, người với vật. Một khi

chúng ta khám phá những lẽ bí-mật của Tạo-vật rồi, ắt chúng ta sẽ giải quyết được đời sống của chúng ta với một cách xứng đáng. Theo lư đương nhiên, đời sống chẳng phải t́m nơi sự lư nhỏ mọn trong ṿng vật-dục, mà phải vượt ra ngoài, để rồi sống với Đạo, sống với Thượng-Đế và sống với Chúng-sanh.

Mục-đích của người Trí là biết Đạo, thế nên kẻ học phải kiên-tâm, tŕ chí. Cách học phải mở cho rộng, hỏi cho kỹ, nghĩ cho cùng, phân biệt cho rơ và hết sức làm theo để thành toàn cái biết của ḿnh. Mỗi ngày xét ḿnh ba lần và bền ḷng làm măi cho đến một ngày kia, chúng ta sẽ có Tâm trọn lành.

Trí đă phát khởi, thấu hiểu Chơn-lư của cái thiện-ác và biết giới hạn của t́nh-dục rồi. Lúc bây giờ, chúng ta ung dung cảm thông với Thiên-lư mà sống với một thái độ thuận-ḥa, b́nh-tĩnh, theo Đạo Tự-nhiên.

 

TÍN

Tín là tin. Thủ tín là điều quí trọng của người; nhứt là kẽ tu-hành.

Lời nói của ḿnh thốt ra phải trọng nó ; nói ra rồi phải nh́n nhận, nếu nói không chắc một lần th́, về sau, mặc dầu chúng ta nói thiệt, người ta cũng không tin. "Nhơn vô Tín bất lập". Người không đặng tín-nhiệm th́ chẳng làm nên được.

Đối với ḿnh lại phải cần thủ tín nhiều hơn nữa. Chúng tôi xin nhắc lại câu sách Đại học nói rằng :"Sở vị thành kỳ ư giả vô tự khi dă". Nghĩa là : cái chỗ gọi là sửa ư thành thật cốt-yếu ở chỗ ḿnh chẳng tự dối. Đại để câu nầy nói rằng nếu người ta tự dối ḿnhth́ ḿnh không làm nên được.

Vị dụ : Chúng ta hứa với ḿnh "học cho giỏi". Thế mà rồi ít lâu lại quên mất, không làm được như lời hứa ; đó là tại sao ? Tại ḿnh tự dối ḿnh. Mà kẻ tự dối ḿnh tức là dối Lương-tâm ; mà dối Lương-tâm là dối Trời. Thử hỏi Trời có nên dối chăng ?

Những kẻ bội ước, bất trung, nói rồi chối, hoặc điên-đảo xảo-ngôn, là kẻ xúc-phạm đến Thần-minh. Kẻ ấy thế nào cũng phải chịu tội. Mất ḷng tín nhiệm của người, lại mất ḷng tự-tín của ḿnh, kẻ ấy thành ra một nhân-vật khả-ố. Nó hăm ḿnh vào nơi khốn nạn. Kẻ học Đạo phải tự ḿnh bó buộc ḿnh : nói thiệt và thủ tín, v́ khoản nầy rất khó dung chế.

 

Nói tóm lại, Ngũ-thường là năm đức thường để người ta noi theo mà sửa ḿnh, hầu trở nên người đạo-đức ; trên thuận cùng Đức CHÍ-TÔN, dưới ḥa ḿnh với Nhơn-loại. Ngũ-thường dùng sửa người thành đạo-đức, cũng như thước quí, dùng để làm ra h́nh tṛn, thước cũ dùng để làm ra h́nh vuông. Nếu muốn làm h́nh tṛn và h́nh vuông mà chẳng có thước qui, thước cũ, th́ làm sao nên được ; cũng như muốn sửa ḿnh ra đạo-đức mà chẳng theo Ngũ-thường th́ biết đâu mà học tập.

Theo cái thuyết "Thiên địa vạn vật nhứt thể" th́ giữa chúng ta cùng vạn vật có một giây liên lạc, kết chặt t́nh đồng thể. Đạo nhân dạy chúng ta phải thương yêu và giúp đỡ các loài ; hầu cho muôn loài chung hưởng cái hạnh phúc thái b́nh của Trời dành cho chúng vật.

Phương pháp xử thế th́ thiên h́nh vạn trạng, nghĩa lư vô cùng, kể không xiết, nhưng rút lại chỉ do Tâm mà thôi. Mà muốn bảo tồn Tâm chánh, học giả phải giữ năm đức thường : Nhân là thương xót ; Nghĩa là lẽ phải ; Lễ là hợp lư ; Trí là thông đạt và Tín là tŕ thủ. Ấy vậy nên chúng ta làm việc ǵ dầu lớn, dầu nhỏ, cũng phải hỏi lại Tâm ḿnh, tức vị Thần-minh, ở trong người của chúng ta. Như thế, nếu chưa được chí-thiện như Thiên-lư ; nhưng không đến nỗi sai xa.

 

PHN GÁI

 

"Tam-tùng - Tứ-đức"

 

Mặc dầu trai hay gái đều có bổn phận làm người; đại để như đă nói trong trương trước ; nhưng riêng về Nữ-phái, Cổ-nhơn đă vạch sẵn một con đường :"Tam tùng, Tứ đức" mà kẻ Hậu-tấn nên noi theo.

            Có người nói Thế-kỷ 20, văn minh vật chất đă phổ truyền. Phụ nữ từ Tây sang Đông, từ thành thị đến thôn quê, người người đều chen lấn trên đường "Canh tân", nếu đem cái thuyết cũ kỹ "Tam tùng, Tứ đức" mà hô hào, thế có phải là đi ngước chiều Tấn-hóa chăng ? Không. Bởi v́ Luân-lư  cổ truyền của người Việt Nam vốn ở trong Nho-giáo, mà v́ Thánh-sư của Nho-giáo là Đức Khổng-Phu-Tử có nói rằng :"Luân-lư pháp luật phải tùy thời mà sửa đổi cho thích nghi với tŕnh độ tấn hóa của Nhơn-sanh". Câu sách Trung-dung sau đây đủ chứng minh điều ấy rằng :"Trọng-Ni tổ thuận Nghiêu-Thuấn, hiến chương Văn-vơ, thường luật Thiên-thời, hạ tập Thủy-thổ". Nghĩa là đức Trọng-Ni (Khổng-Phu-Tử) thuật lại Đạo Vua Nghiêu, Vua Thuấn, bắt chước Vua Văn, Vua Vơ ; trên theo thời Trời mà quyền biến ; dưới tùng Thủy-thổ mà an vui. Văy chúng ta nên lược lại những qui-luật cổ-truyền, như cái thuyết "Tam tùng, Tứ đức" rồi chăm chước sửa đổi cho vừa lằn tấn hóa ; nghĩa là chúng ta giữ những cái "Hay" bỏ những cái "Dở" để đưa đoàn Em đi đến con đường "Mỹ-tục thuần phong". Nghĩ như thế, nên chúng tôi yên trí soạn lại như sau.

                              *

    TAM TÙNG.- Tam tùng là ǵ ?

    Tam-tùng chỉ về người Phụ-nữ có ba chỗ theo là : Tại gia tùng phụ ; Xuất giá tùng phu ; Phu tử tùng tử ; để làm cho ḿnh trở nên đứa con thảo, người vợ hiền, bà mẹ tốt.

1.- Tại-gia tùng-phụ.- Nghĩa là khi c̣n thơ ấu, ở với cha mẹ th́ phải tùng cha mẹ. Bổn-phận làm con đối với Cha mẹ th́ phải thảo. Đạo Hiếu không phân biệt trai hay gái, đại khái nói trong những trương trước. Riêng về phận gái chủ "Tại gia tùng phụ" có ư nghĩa đặc biệt là

:

Khi c̣n thơ-ấu, ở với Cha mẹ, mặc dầu ḿnh có học thức đến đâu cũng chưa có kinh nghiệm ở đời, chưa hiểu nhơn t́nh thế-sự, cho nên những việc quan hệ đến đời ḿnh th́ nhứt thiết phải tuân lời cha mẹ. Nên biết rằng trong đời, chẳng ai thương chúng ta bằng cha mẹ ; chẳng ai lo cho chúng ta bằng cha mẹ. Từ xưa đến nay, chưa có người cha mẹ nào làm hại con. Vậy cha mẹ chúng ta cũng như muôn vàn người khác, hằng chăm lo cho con nên người. Chúng ta chẳng v́ lẽ chi mà không tuân lời người. Thoảng như cha mẹ có dạy điều chi chẳng vừa ư,th́ ḿnh cũng nhỏ nhẹ xin sửa đổi, chớ không nên cải cọ mà thành ra ương-ngạnh.

Gần đây mới xuất hiện phong trào "Tự do kết hôn". Vấn đề nầy có thể chắp thuận về nguyên tắc. Bởi v́ vợ chồng là bạn trăm năm. Đôi bên cần phải tâm đầu ư hiệp, th́ mới o nên hạnh phúc gia đ́nh. Trái lại, nghĩa là kẻ trâu trắng, người trâu đen, th́ cả hai đều phải chịu khổ trọn đời. Ấy vậy nên trước khi cưới nhau, người Trai và người Gái cần biết qua tâm lư của đôi bên.

Chúng tôi nói :"Chấp thuận về nguyên tắc". Nghĩa là phận gái được quyền chọn lựa người bạn trăm năm của ḿnh ; nhưng trước khi quyết định, phải chờ lịnh cha mẹ. Biết đâu : chúng ta v́ trẻ ḷng non dạ mà không phân biệt trắng đen ; biết đâu chúng ta măi t́m hạnh phúc mà lại sa vào cạm bẫy tai hại. Việc tạo lập gia thất là việc lớn của người Đàn bà. Nói tỉ như chúng ta rủi lạc-lầm lần đầu tiên th́ chúng ta phải chịu vô phước cả một đời.

   Đó là chỗ mà phận gái phải dè dặt cho lắm.

C̣n kẻ làm cha mẹ, không nên ỷ quyền cha mẹ mà ép con. Ngạn ngữ nói :"Ép dầu, ép mở, ai nở ép duyên". Có người gả con mà không giạm hỏi ư con, về sau, thành ra vô t́nh mà hại một đời của con. Đương môn, đói hộ, là một điều tốt, nhưng nó đứng vào hàng thứ nh́. Duy có điều : chọn dâu, chọn rễ kia, mới thật là trọng yếu.

Quyền cha mẹ, nghĩa làm con, đôi bên phải dung ḥa với nhau, để đào tạo hạnh phúc cho con hơn hết. Nếu rủi cha mẹ qua đời th́ phận gái cũng nên nghe lời người nuôi dưỡng như Cô, Cậu, Chú, Bác, v.v...

                            *

2.- Xuất giá tùng phu.- Khi có chồng rồi, phậ

n gái phải ở với nhà chồng, cả một cuộc đời mới đó phải thi-hành ; nào là bổn phận đối với cha mẹ chồng,anh em bên chồng, nào là xử sự với kẻ ăn ở trong gia đ́nh và người láng giềng ; mỗi mỗi phải cư xử cho trọn đạo ; nhứt là đói với chồng phải giữ ǵn trinh tiết ; bởi v́ người đàn bà mất trinh th́ mất giá trị (xin xem bài Phu-Thê-Cang).

3.- Phu tử tùng tử.- Rủi chồng chết th́ phải theo con ; khi con thơ ấu th́ một ḷng lo nuôi dưỡng giáo-hóa, c̣n khi con nên người th́ một ḷng sống với con cho tṛn bổn phận của bà mẹ hiền.

Sách Nho chép chuyện bà thân sanh của Mạnh-tử chọn xóm ở, để cho con ăn học ; có lần Mạnh-Tử biếng nhác, Bà chặt khung cửi, làm cho con biết sợ mà lo học. Nhớ mẹ hiền mà thầy Mạnh-Tử trở nên bậc Á-Thánh. Đoàn Hậu-tấn nên noi theo gương làm cha mẹ đó mà lập thân ḿnh.

 

Tứ Ứ-ĐỨức

 

Công, Ngôn, Dung, Hạnh .

            CÔNG.- Những việc văn chương, cung kiếm, như bậc anh thư th́ chẳng nói chi, người Phụ-nữ c̣n có Nữ-công thường thức cần phải thuần-thục, để làm tṛn bổn-phận nội-trợ, như : may vá, nấu nướng, sắp đặt việc nhà có thứ tự. Vả chăng, nội trợ là bổn phận đàn bà, nếu người phụ-nữ không biết những việc thường ngày đó th́ mất giá trị của ḿnh ; cho nên phải siêng năng rèn tập.

NGÔN.- Ngôn là lời nói, người bàng quan do lời nói của ḿnh mà đoán ra tâm lư. Tại sao ? Bởi có trong ḷng mới tỏ ra ngoài ; thành thử lời nói năng phải cẩn thận. Không nói lả lơi, hoa nguyệt, không nói xằng, nói bậy ; không ngồi lê đôi mách, không nói dối. Muốn được vậy th́ tập cho có thói quen rằng :"Suy nghĩ trước, rồi sau mới nói", tức ngôn đoái hạnh, hạnh đoái ngôn.

DUNG.- Dung là dung nhan, diện mạo. Cần phải sạch sẽ, vẽ-vang, đi đứng trang hoàng, h́nh-dung yểu-điệu tự-nhiên, nghĩa là không phải sửa cách đi đứng, v́ có ư sửa là mất tự-nhiên, mà mất tự nhiên th́ không đẹp.

   Hạnh .- Hạnh là nết, mà nết lại do Tâm mà ra, cho nên muốn có hạnh, trước phải giồi mài bổn Tâm. Luân-lư dạy rằng phận gái phải hiền lành, ḥa-nhă. Hiền lành th́ ngăn được phóng tâm, ḥa-nhă th́ khỏi phải hỗn-ẩu, kiêu-căng. Trên đường giao-tế ; hoặc đối với người nhà hay người láng giềng, nhứt nhứt phải giử ư thành thật trước hết. Có thành thật mới được người yêu mến tin dùng.

Nói rút lại, Tam-tùng, Tứ-đức, nếu người Phụ-nữ lấy đó làm kỷ-cương ở đời th́ ḿnh sẽ được danh thơm là : con thảo, vợ hiền và mẹ tốt.

                                *

Tóm luận, thi hành khoản đạo người trên nền tảng Tam-cang, Ngũ-thường, Tam-tùng, Tứ-đức, chúng tôi xin tạm một câu sách Đại-học để làm bài kết luận như sau :

Xưa kia, người ta muốn làm sáng cái đức sáng của ḿnh trong Thế-gian, trước hết phải làm tṛn bổn phận đối vối với nước ḿnh (Trị-quốc) ; muốn trị-quốc, trước phải sửa xong việc nhà ḿnh (Tề-gia) ; muốn tề-gia trước tu-thân ḿnh ; muốn tu thân ḿnh trước phải chánh-tâm : muốn chánh-tâm trước phải sửa ư ra thành thật (thành ư) ; muốn thành-ư trước phải khai hóa đến cùng tột cái biết của ḿnh (trí-tri) ; mà trí-tri tại sự cách vật. Hoặc nói đảo lại là : Cách-vật rồi sau mới trí-chí ; tri-chí rồi sau mới ư-thành ; ư-thành rồi sau mới tâm-chánh ; tâm chánh rồi sau mới thân tu, thân-tu rồi sau mới gia-tề ; gia-tề rồi sau mới quốc-trị ; quốc-trị rồi sau thiên-hạ thái-b́nh.

Trên đây là bổn chương tŕnh Xă-hội-học mà người Á-Đông đă chăm theo tự ngàn xưa. Chương-tŕnh ấy nhắm vào mục-đích ḥa-b́nh Thế-giái, thức là mỗi người thảo luận với mọi người từ trong gia-đ́nh đến ngoài xă-hội. Mà muốn đi đến mục-đích ấy, trước phải sửa ḿnh. Đạo tu-thân bắt đầu từ cách-vật, trí-tri, đến thành-ư, chánh-tâm. Vả lại, Tâm với Tánh tuy có hai danh-từ, song vốn một, tức là nguồn Thiên-lư Trời phú cho người. Hễ người có Tâm-chánh, th́ tự nhiên phần Thiên-lư sáng tỏ. Như trước kia đă nói Thiên-lư ở trong người phát động là Đạo-nhân, mà Đạo Nhân là Đạo làm người vậy.

Ấy vậy nên người nào giữ trọn năm đức thường là : Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín đă nói trước kia th́ theo được Đạo Trời và cùng vạn-vật đồng thể. Làm người mặc dầu trai hay gái đều phải biết Đạo Nhân, tức cái phát-động của nguồn Thiên-lư ở trong người, rồi sau sẽ theo đó mà làm bổn phận ḿnh. Được như thế th́ trên không phạm luật trời, dưới lại ḥa cùng mọi người. Vậy há chẳng phải an vui lắm sao !

 

 

CHƯƠNG THỨỨ CHÍN

 

 

Thượng Thứa

 

    Dẫn-giải.

    Thượng-thừa là lớp học dành riêng cho người đă rảnh rang Nhơn-đạo, chỉ c̣n lo tu-học Thiên-đạo, để độ ḿnh và độ người đồng giải thoát ra ngoài ṿng Sanh-Tử. Đó cũng gọi là phương học Xuất-thế. Tân-luật của Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ ấn định :"Chức sắc Hội-thánh, từ Phẩm Giáo-Hữu dẫn lên, phải chọn lựa trong hàng Thượng-thừa, Thượng-thừa phải trường trai, giới-sát, để tóc, để râu, vân vân ... Vậy Chức-sắc Hội-Thánh phải là người xuất-thân trong hàng Thượng-thừa.

Phương-pháp tu-học của bực Thượng-thừa xem xuyên qua Tam-giáo th́ thấy nhiều lắm, như : Phật-giáo Đại-thừa có đến bảy Tông, mỗi Tông có một giáo-thuyết ; Đạo-giáo và Nho-giáo cũng chẳng kém. Nếu tổng-hợp tất cả giáo-thuyết hiện-hữu th́ kể sao xiết. Đây chúng tôi chỉ nói một phép "Minh-tâm Kiến-tánh" mà thôi. Nghĩ v́ học Đạo nên lo tu-luyện Tâm-tánh trước, gốc đă lập rồi th́ ngọn theo đó mà sanh.

Minh-tâm.- Đă hay rằng Tâm là một điểm Minh-linh của Trời phú cho người ; ở trong Tâm có cả Tánh và T́nh. Hoặc nói cách khác là : Tâm tịnh th́ gọi là Tánh ; c̣n Tâm động th́ gọi là T́nh. Hoặc nói cách khác nữa là Tâm tịnh th́ Thiên-lư lưu hành ; Tâm động th́ Nhơn-dục sôi nổi. Ấy vậy nên nói rằng : Tâm là cái Thống-dah của Tánh-t́nh, tức là Tâm chứa cả hai Tịnh và Động.

Tuy Tâm-thân có hai danh-từ, song sự linh-động của Tâm và Thân vốn một. Như tai nghe, mắt thấy, miệng nói, tứ chi cử động,mà sự thật là Tâm làm chủ việc ấy ; chớ chẳng phải Thân. Nếu như nói : Thân nghe thấy, nói năng, cử động, tại sao người chết không làm được những điều ấy. Thế th́ đủ chứng minh rằng : nếu chẳng có Tâm th́ Thân bất quá là một vật vô hồn mà thôi. TrÁi lại, nếu có Tâm mà chẳng có Thân như : chẳng có tai mắt, mũi miệng, tứ-chi th́ Tâm dầu có cũng như không ; nghĩa là Tâm chẳng nghe thấy, nói năng, cử động được. Thế th́ Tâm và Thân không thể xa nhau và cũng v́ lẽ ấy mà kẻ tu-hành phải tinh-luyện cả Tâm và Thân th́ mới thành Chánh-quả.

Về phương-pháp tu-luyện, chúng tôi lấy "Thập-giới" để d́u-dẫn ba-căn Thân vào cảnh Chơn trước, rồi sau mới thu-liễm Tâm vào chỗ Chơn-chánh được.

    Có ba giới cấm kềm dẫn "Thân căn" vào cảnh Chơn là :

                    Cấm sát sanh

                    Cấm du-đạo

                    Cấm tà-dâm

    Có bốn giới cấm kềm dẫn "Khẩu căn" vào cảnh Chơn là :

                    Cấm vọng-ngữ (nói dối)

                    Cấm lưỡng-thiệt (nói đâm thọc hai đầu)

                    Cấm ác-khẩu (lời nói ác)

                    Cấm ỷ-ngữ (dùng lời khôn khéo khiến

                               người làm quấy)

    Có ba giới cấm kềm dẫn "Ư-căn" vào cảnh Chơn là :

                    Cấm tham-dục (ham muốn)

                    Cấm sân hận

                    Cấm si-mê

            Xin thưa trước rằng : chúng tôi lấy thứ tự "Thập-giới" làm cốt cho sự giảng-giải ; nhưng, chúng tôi lại tham bát cả Thánh-ngôn của Đức CHÍ-TÔN và Học-lư của Tam-giáo ; để giúp sự giảng-giải được tỏ rơ thêm lên.

 

 

BA GIỚI-CẤM "THÂN-CĂN" Vào CẢNH "CHƠN"

 

NHƯ  SAU :

a)         CẤM SÁT SANH.- Nghĩa là chẳng đặng giết mạng sống.

Thánh-ngôn :"Thầy đă nói : Khi chưa có Trời Đất, Khí Hư-vô sanh có một Thầy và ngôi Thầy là Thái-cực ; Thầy phân Thái-cực ra Lưỡng-nghi, Lưỡng-nghi sanh Tứ-tượng, Tứ-tượng biến ra Bát-quái, Bát-quái biến hóa vô cùng mà lập Càn-khôn Thế-giái,rồi Thầy lại phân Tánh Thầy mà sanh ra vạn-vật là : Vật-chất, Thảo-mộc, Côn-trùng, Thú-cầm, Nhơn-loại gọi là Chúng-sanh. Vậy các con đủ hiểu mỗi vật hữu sanh nơi Thế-gian nầy đều do Chơn-linh Thầy mà ra. Có sống ắt có Thầy; Thầy là Cha sự sống, v́ thế, nên ḷng Háo-sanh của Thầy vô cùng tận.

Mạng sống của cả Chúng-sanh cũng như nhành cây trong cội, phải có đủ ngày giờ Thầy định, để nở bông sanh trái, đặng trồng nữa,biến hóa thêm ra ; nếu kẻ nào làm hại nửa chừng là sát hại một kiếp sanh, không cho biến hóa. Mỗi mạng sống đều hữu căn, hữu kiếp đến Thế nầy hoặc lâu, hoặc mau, đều có định trước, nếu ai giết một mạng sống, phải chịu quả báo. Mạng sống là Thầy, mà giết Thầy không phải dễ. Các con ráng dạy Nhơn-sanh điều ấy !

            Chú-thích.- Đoạn trên đă chú giải trong trương trước rồi, không cần phải lập lại nữa. C̣n đoạn sau từ câu : Mạng-sống của cả Chúng-sanh, vân vân... Xin chú thích như sau :

Đức CHÍ-TÔN thí dụ cả Chúng-sanh đối với CHÍ-TÔN cũng như nhành cây trong cội ; khi chia ĺa khỏi cội th́ nhành cây ấy cần phải có đủ ngày giờ để nở bông, sanh trái, đặng trồng nữa ; nếu kẻ nào làm hại nhành cây nửa chừng, tức làm hại một kiếp sanh, không cho nó biến hóa, th́ kẻ ấy phải chịu quả báo. Mạng sống là CHÍ-TÔN ; mà giết CHÍ-TÔN không phải dễ.

Muốn cho Thánh-ngôn của Đức CHÍ-TÔN nhập Tâm và biến thành đức hạnh của ḿnh, chúng ta nên suy tưởng, nghiền ngẫm những điểm nầy :

            1)- Vơ-trụ Vạn-vật do nơi Đức CHÍ-TÔN tạo-hóa. Thế th́ Vơ-trụ Vạn-vật đồng một thể với nhau. Nếu chúng ta sát hại một vật, mặc dầu nhỏ mọn, như con ong, con kiến, cũng đều có rúng động đến Trời Đất, vạn-vật và chúng ta nữa. Việc hệ trọng như vậy, chúng ta há đang tâm làm hay sao ?

2)- Chúng sanh đối với Đức CHÍ-TÔN, như nhành cây trong cội ; nghĩa là Chúng-sanh do Đức CHÍ-TÔN mà sanh ra, để rồi sản xuất thêm ra nữa. Nếu ai giết một mạng sống, tức là ngăn trở sự sanh hóa của Trời Đất. Thử hỏi có người nào dám làm trái luật Trời chăng ?

3)- Mỗi mạng sống đều có căn, có kiếp ; nếu ai giết mạng sống nửa chừng th́ phải chịu quả báo. Mà mục đích của kẻ tu-hành là giải-thoát kiếp Luân-hồi ; mà kiếp Luân-hồi, sở dĩ có là tại Quả-báo. Th́ thử hỏi kẻ hành giả có ai dám tạo nghiệp Sanh-tử cho ḿnh không ?

4)- Đức CHÍ-TÔN có nói :"Mạng sống là Thầy mà giết Thầy không phải dễ". Câu nầy đủ rơ rồi, khỏi phải nghị luận thêm nữa.

Chúng ta cứ suy ngẫm mấy điều đă nói trên, lâu ngày, nó sẽ nhập tâm ḿnh, rồi chúng ta biết sợ luật Trời mà chẳng dám sát hại

Sanh-vật. Thế là chúng ta tránh được cái vạ Sát-sanh. Mà không Sát-sanh là một việc, c̣n phải lo mở rộng ḷng Bác ái, để biết thương yêu muôn vật, như thương thân ḿnh. Nếu có phương tiện, chúng ta nên đem ḷng vị tha, để giúp người và dùng lối phóng sanh, để cứu vật.   

Chúng ta cùng muôn loài là anh em. Thế th́ chúng ta phải mở rộng ḷng thương xót, để cho những vật hèn mọn nương theo t́nh thương của ḿnh mà tiến bước trên đường về với Đức CHÍ-TÔN. Ḷng Bác-ái của chúng ta nên phỏng theo đức Háo-sanh của Trời mà khai hóa nó, đỂ giúp vào việc hóa-dục của Trời đất.

                              *

    b)-CẤM DU ĐO.- Nghĩa là cấm trộm cắp.

    Thánh-ngôn.- "Ôi ! Thầy sanh các con ! Thầy yêu các con ! Thầy cho các con đến Thế nầy với một Thánh-thể Thiêng-liêng, y như h́nh ảnh của Thầy : không ăn mà sống, không mặc mà lành. Các con không chịu, lại  nghe lời cám dỗ, luyến-ái Hồng-trần.

Ăn cho phải bị đày, Dâm cho phải bị đọa, rồi các con phải chịu dưới cái nạn áo cơm.

Lợi, Thầy để dành cho các con chung hưởng ; nhưng, v́ ḷng tham : đứa giựt nhiều, đứa phải chịu kém. Quyền, Thầy ban cho các con, y như Thầy đă ban cho Thần, Thánh, Tiên, Phật để các con có đủ phương tiện kềm chế lẫn nhau, đặng giữ vẹn Thánh-thể của Thầy. Thế mà cái quyền ấy lại thành một món lợi khí, buộc trói các con trong ṿng tội lỗi. Ôi ! Cái thất-vọng của ThẦy rất nên đau đớn.

Các con có hiểu, v́ sao Nhơn-sanh có ḷng tham-gian chăng ? Th́ cũng v́ muốn có nhiều kẻ phục tùng dưới quyền lợi của ḿnh. Vả lại, người đời cần nhứt là cơm với áo. Nay muốn có nhiều kẻ phục tùng ; không chi bằng nắm chặt quyền phân phát áo cơm, phải dùng đủ mưu chước quỷ-quyệt thâu đoạt : lợi lộc, thế quyền. V́ vậy mà Đời trở nên trường hổn-độn tranh-đấu, giựt-giành, mạnh được yếu thua, mất hẳn công-b́nh thiên-nhiên Tạo-hóa.

            Ấy vậy phải biết rằng : tham lam vào Tâm, Tâm hết đạo-đức ; tham-lam vào nhà, nhà hết chánh giáo ; tham-lam vào nước, nước hết chơn-trị ; tham-lam rộng khắp Thế-giới, Thế-giới hết Thần Tiên. Ḷng  tham có thể giục các con lỗi Đạo cùng Thầy.

Chú thích.- Thánh-thể Thiêng-liêng y như h́nh ảnh của Thầy nói đây, tức là điểm Linh-quang của CHÍ-TÔN ban cho mỗi người. Nó chẳng cần ăn mà sống, chẳng cần mặc mà lành ; nhưng trên đường sanh sống người đời lại cần có lợi quyền : cho nên ḷng ích kỷ muốn tóm thâu lợi quyền về cho ḿnh, thành ra trong trường Đời mới có tranh đua, giành-giựt. Đó là cái mầm sanh ra ghét hại lẫn nhau ; cho nên Đức CHÍ-TÔN nói : Tham-lam vào Tâm th́ Tâm hết đạo đức ; vào nhà th́ hết Chánh-giáo ; vào nước th́ hết Chơn-trị ; lộng khắp Thế-giới th́ Thế-giới hết Thần Tiên". Chúng ta nên nghiền-ngẫm lẽ nầy cho nhập Tâm, lâu ngày thành đức Tánh của ḿnh, rồi sau mới khỏi va vào vạ tham-lam trộm cắp.   

Phải biết rằng : tài vật của người : dầu ít nhiều, dầu lớn nhỏ, đều do người làm nhọc nhằn mới tạn ra được. Nay chúng ta trộm cắp của người, để làm của ḿnh, dầu cách nầy, hay cách khác, cũng đều là một việc thái ư bất công. Bất công th́ chẳng những phạm luật Trời, mà mích ḷng người nữa. Muốn trán sự trộm cắp, th́ đừng tham lam ; mà muốn tránh sự tham-lam, chúng ta nên biết Tri-túc và Bố-thí.

Tri-túc là biết đủ, tức là cho rằng ḿnh đủ ăn, đủ mặc th́ thôi, chớ chẳng nên vọng cầu những của phi nghĩa. Nếu chẳng Tri-túc th́ ḷng tham sẽ nổi lên mà xúi chúng ta vơ-vét của cải và đem về cho ḿnh, rồi lại c̣n để cho con cháu ḿnh nữa. Ngạn-ngữ nói :"Túi tham không đáy, chứa bao nhiêu cũng không đầy".

Bố-thí : chúng ta nên tùy phương tiện của ḿnh mà th́ tài, thí pháp. Bố th́ mà không nên cầu người ta trả lại. Muốn cho cái đức ấy được tỏ rạng, phải mở ḷng vị tha, nghĩa là v́ người mà bố-thí.   

Kẻ xả thân hành Đạo th́ học ḥa ḿnh với Đạo, ḥa sống với chúng sanh. Thử nghĩ thân c̣n chẳng có thân riêng, huống chi là tài sản. Suy tưởng, ngẫm nghĩ như thế, th́ ḷng Vị-tha sẽ khai quát, để thay thế cho Tánh ích-kỷ.

                              *

    c)- Cấm Tà-Dâm .- nghĩa là chẳng đặng phạm đến việc loạn luân

    Thánh-ngôn. - "V́ sao Tà-dâm là trọng tội ?

Nguyên xác-thân con người, tuy mắt phàm xem như một, tựu trung chất chứa vàn vàn, muôn muôn sanh vật. Sanh-vật ấy cấu kết nhau thành Tế-bào (Formation des cellules). Nó có Tánh-linh. Chất dưỡng sanh nó là rau cỏ, bông trái, lúa gạo. Thử hỏi những Lương-vật nầy, nếu chẳng có chất sanh và chẳng hàm chứa sanh lực th́ thế nào nó tươi đặng ? Hoặc giả, nếu nó có khô rũ th́ nó phải chết ; mà các con có ăn vật khô héo bao giờ. C̣n như dùng lửa nấu ; bất quá tẩy trược mà thôi kỳ thật sanh-vật bị nấu chưa hề chết.

Vật ăn vào t́-vị tiêu-hóa ra Khí. Khí biến ra Huyết. Nó có thể hườn thành Nhơn-h́nh ; v́ vậy, nên mới có cơ sống chết của chúng-sanh. Một giọt máu là một khối Chơn-linh, nếu các con dâm quá độ, tức là sát hại nhiều Chơn-linh ; khi các con thoát-xác ; nó đến Nghiệt-cảnh-đài mà kiện ; các con chẳng hề chối tội được.

Vậy các con phải ǵn giới cấm nầy cho lắm .

                            *

      Theo Thánh-ngôn trên đây, chúng ta đă hiểu sự dâm dục có hại cho kẻ Hành-giả là dường nào !

Vả lại, Phàm-thân do Nhơn-duyên cầu sanh, mà hễ có sanh th́ tự nhiên có tử. Mà hễ tử rồi th́ nó phải tan rả và trở về với đất, nước, gió và lửa. Thế th́ nhục thân có trường-tồn đâu, mà phải cầu khoái lạc nhứt thời cho nó, để rồi gây ra tội t́nh Nhơn-quả cho phần Hồn phải chịu muôn năm ; nhứt là : Quyến rủ vợ con người vào đường quấy là phá hại gia-cang người, lại là một việc tồi phong bại tục, rồi chung qui phải trả quả. Tà dâm là một việc ác đứng đầu trong muôn việc ác khác.

Gia dĩ, dâm-dục sát hại nhiều Chơn-linh. Khi thoát xác, chúng nó kiện nơi Nghiệt-cảnh-đài th́ chúng ta không chối tội được. Vậy kẻ tu hành có nên ham vui một thuở mà hại cả Hồn-Xác muôn đời hay sao ?                           

Tóm lại thân của người chẳng khác nào thân của Động vật. Điều chính của nó là hành-động ; mà hành-động của nó lại khuynh hướng về tư-kỷ bỏ nhiều hơn, cho nên chúng ta phải cố gắng ǵn-giữ giới cấm nầy, để trị thân và đem nó trở về đường Chánh-đạo. Nhứt là ngăn ngừa Ngũ-quan.

     Đức Khổng-Phu-Tử khuyên rằng :

                  Mắt chẳng nên xem sắc vô lễ ;

                  Tai chẳng nên nghe lời vô lễ ;

                  Miệng chẳng nên nói tiếng vô lễ ;

                  Tứ-chi chẳng nên cử động vô lễ.

Khắc kỷ phục Lễ, ép ḿnh theo Đạo, hầu đem ḿnh về Đạo Nhân. Thật vậy, nếu Ngũ-quan không tŕ trục trong sự ham muốn vật chất vô lễ, th́ Tâm ắt được Chánh.

 

 

D́u Dẫn "KHẨU-CĂN" Vào Cảnh  "Chơn"

 

     Có bốn giới cấm kể như sau :

                    Cấm Vọng-ngữ,

                    Cấm Lưỡng-thiệt,

                    Cấm Ác-khẩu

                    Cấm Ỷ-ngữ.

    a)- Cấm Vọng-ngữ.

        Thánh-ngôn.- "Nơi thân phàm các con, Thầy cho một Chơn-linh theo ǵn giữ. Chơn-linh ấy vốn vô tư, đặng phép giao thông cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật và các Đấng Trọn-lành nơi Ngọc-Hư-Cung, nhứt nhứt việc lành, việc dữ, đều có ghi ; vậy nên một mảy không sai, lành dữ đều có trả.

Lại nữa, Chơn-linh ấy có Tánh Thánh nơi ḿnh, chẳng phải ǵn giữ các con, mà c̣n dạy dỗ nữa. Đời thường gọi lẫn là Lương-tâm. Thánh xưa nói rằng : Khi Nhơn tức khi Tâm, khi Tâm tức khi Thiên, khi Thiên đắc tội, hoạch tội ư Thiên vô sở đảo. Như các con nói dối, điều ấy chưa dối đặng người, mà các con đă dối Lương-tâm ḿnh rồi. Một lời nói, tuy chưa thi hành, song tội t́nh cũng đồng thể, như đă có làm.

Thầy dặn các con : phải cẩn ngôn, cẩn hạnh, thà các con làm tội, mà chịu tội cho đành, chẳng hơn nói tội mà phải chịu trọng h́nh đồng thể.     

Theo giới cấm nầy, người tu không được nói dối, dầu việc lớn hay nhỏ, trọng hay khinh cũng vậy. Cổ-nhơn nói :"Nhơn bất tín bất lập".

Đối với Thể-nhơn, ḿnh mất tín nhiệm c̣n không làm nên được, huống chi đối với Trời Phật, cho nên phải nói chơn thật và khi nói ra rồi phải giữ lời.

Người tu chẳng những không nói dối, mà c̣n phải nói chơn chính nữa. Nếu gặp sự th́ phải theo sự mà nói thành thật, để cho người nghe tin dùng ; nếu gặp lư th́ phải tùy lư mà nói minh bạch, để cho người hết nghi.

    b)- Cấm Lưỡng-thiệt

      Người ta không được đem việc đầu nầy mà nói với đầu kia, làm cho người nầy giận kẻ nọ, mà sanh ra đôi co, căi-cọ.

      Phải lánh xa những việc nói xấu kẻ khác, tức là nói hành.

    c)- Cấm Ác-khẩu.

      Người tu không được nói lời hung dữ, như chưởi rủa. Trái lại, phải dùng lời nói hiền lành để bàn việc hữu ích, phải dùng lời dịu ngọt, để an-ủi người khốn khó. Nếu gặp người nói hung dữ như : mắng lộn, chưởi lộn, th́ phải dùng lời êm thấm mà khuyên dứt đôi đường. Nếu gặp người làm việc ǵ mà thối chí, ngă ḷng, th́ nên dùng lời nghĩa lư mà khuyên nhủ cho họ khởi ḷng Tinh-tấn.

d)- Cấm Ỷ-ngữ.

Người tu không được dùng lời khôn khéo, để khêu gợi nguyệt hoa, không được dùng lời bóng bảy để xuyên tạc kẻ khác. Trái lại, phải nói ít và thiệt-thà.

Bốn giới cấm để kềm dẫn Khẩu-căn vào cơi thanh-tịnh. Người tu chẳng ai mà không biết ; nhưng, biết th́ dễ mà thực hành th́ khó, mà nếu không thực hành được th́ cũng như không biết. Đó là chỗ nói rằng :"Học mà không hành th́ cũng như không học". Vậy chúng ta khuyên nhau gắng gượng tiến lên đường đạo-đức thực hành.

Ban đầu chúng ta nên tập ít nói, để có ngày giờ suy nghĩ trước khi thốt ra lời. Về sau quen rồi th́ việc khó hóa dễ.

 

D́u Dẫn "Ư-CĂN" Vào Cảnh "Chơn "

 

            Có ba giới cấm là :

                  Cấm Tham-dục,

                  Cấm Sân-hận,

                  Cấm Si-mê.

    a) Cấm Tham dục, tức là cấm ham muốn việc trái Đạo-lư.

     Ư-căn sanh Ư-thức là thức thứ sáu trong số Bát-thức. Nhắc lại khi năm thức ngoài truyền cái biết của chúng nó vào Ư-thức chấp giữ, suy lường và phân biệt hơn kém, xấu tốt. Ḷng ham muốn theo đó mà sanh. Chính ḷng ham muốn là cái mầm sanh ra t́nh-dục, làm loạn Tâm.    

Chúng ta thử t́m cho rơ nguyên nhơn chánh sanh ra ḷng ham muốn, để rồi theo đó mà ngăn ngừa nó. Th́ chỉ v́ người ta cố chấp thân Ngũ-uẩn của ḿnh rồi sanh ra ham muốn sự vật ở cơi đời, để làm lợicho thân ấy. Vậy Ngũ-uẩn ra sao, chúng ta cần xét cho rơ.

Ngũ-uẩn là : Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức.

1- Sắc-uẩn.- Tức là h́nh tướng màu sắc, như Nhục-thân chúng ta vốn do Tứ-đại (Địa, Thủy, Hỏa, Phong) cấu thành. Mà hễ có Nhục-thân th́ có lục-căn, rồi lục-căn cảm nhiễm Lục-trần mà sanh ra Lục-thức. Theo đó mà suy ra th́ thân thể của chúng ta là do Nhơn-duyên cấu sanh, nó chẳng có cái thực-thể thường trụ, cho nên nó không phải là cái "Ta chơn thật" của ḿnh ; kịp đến chư pháp (sự vật ở đời) cũng vô thường, v́ nó cũng do Nhơn-duyên cấu sanh như thân thể của chúng ta vậy.

    2- Thọ-uẩn.- Tức là cảm giác. Tất cả những sự đau khổ, khoái lạc phát sanh là v́ Giác-quan tiếp xúc ngoại vật.

    3- Tưởng-uẩn.- Tứclà sự hau biết do Giác-quan tiếp xúc với ngoại cảnh mà sinh ra tưởng tượng.

    4- Hành-uẩn.- Tức là sự ưu-tư, tác động tâm lư, nơi phân biệt thiện ác, nó tạo ra thiện nhơn, hay ác nghiệp.

    5- Thức-uẩn.- Tức là phân biệt, hiểu biết rồi theo đó mà chấp pháp, chấp ngă, duy tŕ sự sống của cái Thân giả hiệp.

            Vậy cái "Ta" mà Chúng sanh dùng làm chủ-động của đời sống vật chất kia chẳng phải là cái "bổn ngă chơn thật" mà là cái "Ta giả hiệp", cũng gọi là "Ngă Ngũ-uẩn" ; v́ nó do Ngũ-uẩn mà sanh. Mà Ngũ-uẩn vốn là Giác-tánh biến h́nh, cho nên chung qui, nó cũng tan rả theo Phàm-thân, vật-thể. Chúng-sanh v́ vô-minh, nhận lầm cái giả làm cái chơn, thành thử quanh năm cứ tŕ-trục trong ṿng ham muốn vật-chất, rồi gây ra tội t́nh mà phải ch́m đắm măi trong biển Sanh-tử ; nay muốn giải-thoát kiếp luân-hồi th́ phải bỏ cái giả và trở về cới cái chơn, tức là phải t́m cái "Bổn-tánh" Trời phú cho ḿnh, để làm "Bổn Ngă chơn thật", rồi cứ theo đó mà hành động ; đó là con đường giải-thoát kiếp Sanh-tử. Chư Phật nhờ đó mà thành công. Mà muốn đạt mục-đích ấy, Hành-giả nên thực hành phép "Bất tùy phân biệt".

    Bất tùy phân biệt.

    Bất tùy phân biệt nghĩa là chẳng chạy theo sự vật,để t́m hiểu tốt xấu, hơn kém của nó, như :

           Mắt chẳng phân biệt Sắc-Trần (Vật có h́nh tướng màu sắc)

           Tai chẳng phân biệt Thinh-Trần.

           Mũi chẳng phân biệt Hương-Trần.

           Lưỡi chẳng phân biệt Vị-Trần.

           Thân chẳng phân biệt Xúc-Trần.

           Ư chẳng phÂn biệ Pháp-Trần.

    Lục-căn không tiếp nạp Lục-trần, th́ Lục-thức chẳng sanh. Thế là Ư-tịnh.

Đức Lăo-Tử khuyên người ta nên tri-túc và Ngài tự thuật như vầy :"Chúng-nhơn tranh sự Thực, riêng Ta cầu lấy cái Hư. Chúng-nhơn giành quyền-lợi, giàu sang, riêng Ta lúc nào cũng cho là đủ (Tri-túc) nghĩa là đủ ăn no, mặc ấm mà thôi. Chúng-nhơn cầu phước lộc, riêng Ta thu h́nh về chỗ vô-vi, cầu sự vô tội. Ta đă hiểu rằng trên đường danh-lợi, kẻ nào Tri-túc th́ khỏi nhục ; kẻ nào biết dừng chơn, đứng ngoài ṿng tranh giành th́ khỏi nguy hại. Thế nên Ta vui ḷng chịu thiếu thốn, để theo Đạo".

Thật vậy, Thế-giái vạn-hữu, mặcdầu đối với Thân-phàm là vật-chất để uôi sống, giúp vui thật ; nhưng, đối với Chơn-lư nó là Vô-thường, phú uí như phù vân, người đời như khách qua đường, sống ở thác về. Văy húng ta cần chi phải ham muốn vật-chất ; cần chi phải dấn tha-n vào sự cạnh tranh mộng-ảo, để rồi phải chịu đắm đuối trong biển Sanh-tử vô cùng kia.

                             *

   b)- Cấm Sân-hận tức là kiêng sự nóng giận.

            Nhắc lại, trước kia chúng tôi đă có nói rằng : Khi ham muốn một vật th́ ḷng ham muốn giục-thúc người ta phải lo lường, làm lụng thế nào, để thâu hoạch vật muốn về tay ḿnh. Nếu đem vật muốn về tay được, th́ vui mừng, rồi lại sợ mất, mà phải lo bảo tồn vật ấy. Trái lại, nếu thất vọng th́ đâm ra phiền năo, hờn giận, oán-ghét, có khi dám làm điều bất chánh là khác. Phải biết rằng t́nh dục sôi nổi th́ loạn Tâm, nhứt là hờn-giận oán-ghét, chẳng những nó là mối loạn Tâm ḿnh mà là mũi giặc của gia-đ́nh và xă-hội nữa. Ấy vậy nên kẻ học Đạo phải gắng sức hoán-căi những t́nh cảm xấu xa biến thành t́nh cảm tốt lành. Ví dụ như : đổi sự oán ghét ra thương xót chẳng hạn.

Công phu tu tập nên thực hành như vầy : Lúc rảnh rang, chúng ta ngồi nghĩ rằng người đời ai cũng phải chịu trong ṿng Tứ-khổ (sanh, lăo, bệnh, tử). Nay như cha mẹ, vợ con, hay người thân tộc của chúng ta bịnh tật th́ chúng ta đau khổ. Vậy khi chúng ta thấy người đồng-loại bịnh tật th́ chúng ta nên tùy phương tiện của ḿnh mà tế-độ. Thương xót là liều thuốc trừ tật oán ghét, hờn giận.

Trời sanh mỗi bịnh đều có một thứ thuốc trị ; y học đă biết dùng thuốc nào để trị bịnh nấy, th́ chúng ta cũng nên dùng t́nh-cảm tốt, để thay thế cho t́nh cảm xấu. Mỗi ngày một ít măi rồi Tâm chúng ta sẽ không c̣n tật xấu mà chỉ trơ trọi những tánh tốt lành.

                            *

    c) Cấm Si-mê.

Cấm Si-mê tức là khuyên chúng ta cố gắng ǵn giữ Tâm-linh không mờ tối, hoặc nói rằng phải đă phá cái màn "Vô-minh" cho sạch, để cho Tánh Thiên-nhiên chủ trương hành-vi, lời nói và tư-tưởng của ḿnh. Phương pháp ấy gọi là "Chuyển Mê khải Ngộ". Theo lẽ đương nhiên, hễ muốn trừ cái "Tối" th́ phải dùng cái "Sáng". Mà thế nào là "Tối", thế nào là "Sáng" ?

Vả chăng, Tánh Thiên-nhiên của người cũng đồng-thể với Tánh Phật, nghĩa là nó sáng suốt, có thể quán-triệt Càn-Khôn vạn-vật, như Tánh Phật, nhưng khi ở trong Nhục-thân, Tánh Thiên-Nhiên bị vật dục sở tê, khí bẩm sở cầu, mà biến sanh Tánh-khí-chất, hằng khuynh hướng về Phàm-trần, buông lung, phóng túng theo vật chất, làm cho Tánh thiên-nhiên rối loạn, chính Tánh-khí-chất ám ảnh TÁnh Thiên-nhiên, cũng như mây che mắt người Trần-tục ; mù mịt, không phân biệt đâu là Nhơn-dục, đâu là Thiên-lư. Đó là cái "Tối" (Vô-minh). Lẽ như vậy, cho nên nói :"Mê là Chúng-sanh".

Nay muốn trừ cái "Tối", th́ phải dùng cái "Sáng". Mà phải làm sao để đem cái "Sáng" đến với ḿnh ?

Phải học hành Đạo-lư, phân biệt Chánh-tà, rồi dốc ḷng bỏ Tà theo Chánh. Chánh-lư đến với Tâm th́ tâm sáng, mà hễ tâm sáng th́ Vô-minh tiêu tan. Đó là phép dùng cái Sáng để trị cái Tối. Hễ hết Tối tức là Sáng, mà Giác là

Phật vậy. Sau đây chúng tôi chép vài cách học hành để làm mẫu.

Học với kinh sách.- Chọn kinh cao, sách Thánh, mỗi ngày đọc chừng một trang và lưu tâm suy nghĩ, t́m hiểu kỳ được Chơn-lư ẩn tàng trong bài kinh sách. Đọc sách và suy nghĩ phải đi đôi, th́ sự học mới có kết quả. "Đọc kinh cầu lư". Nói tỷ như chúng ta đọc sách nhiều quá mà không suy nghĩ, th́ chẳng những không ghi nhớ Đạo-lư, mà có khi hiểu lầm nữa. Đa thơ loạn Tâm. Hoặc giả chúng ta nghĩ nhiều quá mà không đọc sách th́ chẳng những tư tưởng của ḿnh không siêu việt mà có khi quanh quẩn trong ṿng Nhơn-dục nữa.

Nên biết rằng kinh sách chỉ ghi được những tư tưởng thô sơ, thiển-cận mà thôi. Chúng ta dùng kinh sách, để mở đường suy gẫm của ḿnh ; cũng như người ta dùng ch́a khóa mở kho Chơn-lư ; c̣n biết được Chơn-lư hay khônglà do công-phu suy nghĩ của người thôi. Chấp nhứt bất thông.

Học với sự vật.- Những việc thực tế xảy ra chung quanh chúng ta hằng ngày th́ phiền phức lắm thật, nhưng sự vật nào cũng có gốc ngọn, trước sau của nó. Nếu chúng ta chịu khó t́m kiếm, th́ sẽ rút được nhiều bài học kinh nghiệm trong khi xử sự tiếp vật.

Người đời, sở dĩ, không biết việc đời, hoặc biết việc đời với một cách nông nổi, là tại người ta không chịu t́m kiếm, hoặc không nhận xét, hay nhận xét cẩu thả. Nay muốn phá cái Mê ấy th́ không chi bằng tập quan sát, tập suy-gẫm, và tập phán-đoán Chơn-chánh. Lâu ngày bên "Ngộ" càng thêm, th́ bên "Mê" càng bớt. Công-phu "Chuyển Mê khải Ngộ" là thế. Ấy vậy, nên khi đối với việc đời, dầu khinh trọng, dầu nhỏ lớn, chúng ta cũng phải b́nh tĩnh phân tách từng môn, từng loại, t́m hiểu kỳ được cái nguyên nhơn chánh của nó.

Xem như người ta dùng kiến hiển-vi, thâu áng sáng mặt trời lên trên tờ giấy, trong giây lát th́ tờ giấy phát lửa. Nếu chúng ta tập trung cả Thần-khí, Ư-chí, để cứu xét một vấn đề, th́ ắt chúng ta sẽ có một tâm lực mạnh mẽ, để giải đáp vấn đề được, cũng như ánh sáng mặt trời tập trung nhiều lại thành lửa, đốt cháy tờ giấy kia vậy.

Ở đời chẳng có việc ǵ Thần-bí, nếu người ta chịu khó t́m hiểu.

Học với Chơn-tâm.- Chơn-tâm với Bổn-tánh tuy hai danh từ khác nhau, song sự thiệt Tâm với Tánh là một, tức là điểm Linh-quang của Đức CHÍ-TÔN ba cho mỗi người. Nhắc lại khi điểm Linh-quang ấy ĺa khỏi Đức CHÍ-TÔN, rồi nó luân chuyển khắp Thế-giới, mà hễ đến đâu th́ hấp thụ khí chất của cảnh-giới ấy, để tạo cho ḿnh một thân thể thích nghi với hoàn-cảnh. Thế nên Thông-Thiên-Học nói :"Người ta có bảy xác thân". Nay muốn t́m biết Chơn-tâm, đáng lẽ chúng ta phải t́m biết từng bảy xác thân kia, nhưng nghĩ v́ sự t́m học ấy rất phiền phức ; nên chúng tôi chỉ nói rằng Chơn-tâm là cái "Bổn ngă chơn thật" của ḿnh, nhưng nó bị Nhục-thân kích-thích bèn sinh ra Vọng-tâm.

    Bây giờ chúng ta nên phân biệt thế nào là Vọng ; thế nào là Chơn ; rồi cứ giữ ṛng một cái Chơn-tâm ấy là được.

    Theo danh-từ mà định-nghĩa th́ Vọng-tâm là cái năng-lực hay vọng-động ; v́ nó do khí-chất mà biến sanh, cho nên thường hay khuynh hướng về Phàm-trần, ham muốn vật-chất. Trái lại, Chơn-tâm th́ tịch chiếu, tức là lặng-lẽ mà sáng suốt.

   Người nào biết được Chơn-tâm của ḿnh th́ quán thông vạn-vật. Tại sao ?Bởi v́ vạn-vật giai bi ư ngă hỷ, phản thân nhi thành, lạc mạc đại yên (Mạnh-tử). Nghĩa là muôn vật đều có ở trong Tâm người ta. Ta tự xét ḿnh Ta cho thành thực th́ có cái vui thú nào lớn hơn nữa.

   Ấy vậy nên hễ chúng ta phân biệt được Chơn-tâm à Vọng-tâm rồi, chúng ta cứ một mực loại trừ Vọng-tâm, một mực hàm dưỡng Chơn-tâm, để cho Chơn-tâm làm Chủ-tể Phàm-thân th́ ắt chúng ta khỏi sa vào ṿng vật-dục nữa. Đó là học với Chơn-tâm vậy.

                             *

   Tóm lại, chúng ta đă dùng Thập-giới để d́u-dẫn Thân, Khẩu, Ư vào đường Chánh-đạo, cũng như người kỵ-mă dùng dây cương bắt buộc con ngựa phải theo đường của nó đă định trước ; nhứt là giới thứ mười "Cấm Si-Mê" tức là thực-hành cái thuyết "Chuyển Mẹ khải Ngộ" th́ chúng ta phải dùng cái "Giác" để trừ cái "Mê". Mà muốn có "Giác" đến với ḿnh, th́ cần phải suy nghĩ thật châu đáo mọi lẽ, phân biệt kỳ được Chơn và Vọng.

   Lại nữa, thói quen là Tánh tự-nhiên thứ nh́ của người ta ; nó lẫn lộn với Tánh Thiên-nhiên. Nay muốn đả phá cái Tánh thứ nh́ bất chánh kia th́ cũng phải dùng lắm công phu mới nên được. Ấy vậy nên mỗi tư-tưởng, mỗi lời nói, mỗi hành vi, nhứt nhứt phải chờ Chơn-tâm suy xét trước, rồi sau sẽ thi-thố. Làm được như thế lâu ngày thành thói quen tốt rồi ḿnh tự chủ được .

 

Kiến-Tánh

 

Đến đây, chúng ta đă hiểu rằng người ta ai cũng có bẩm thọ của Trời một điểm Linh-quang để làm tự Tánh (Thiên mạng chi vị Tánh). Cái Tánh nầy, Nho-giáo gọi Bổn-tánh, Thích-giáo gọi Phật-tánh, Đạo-giáo gọi Linh-quang, tiếng thông thường gọi Linh-hồn. Danh-từ tuy khác mà tựu-trung vốn một. Tánh bổn-nhiên vốn lành và sáng, cũng gọi là nguồn Thiên-lư ở trong người. Nó vốn không h́nh-tướng, không sanh-diệt, cho nên kinh Phật dạy rằng : Nếu Hành-giả muốn biết Phật-tánh th́ phải xa ĺa cái tướng Tâm-duyên, cái tướng Ngôn-thuyết, cái tướng Danh-từ (Ly Tâm-duyên-tướng, ly Ngôn-thuyết-tướng, ly Danh-tự-tướng). Tuy thường nói Phật-tánh là Không ; nhưng chẳng phải Không hẳn như cây, như đá, mà thật nó có một cái "Chiêu-minh linh-giác" của Trời phú cho Người. Lẽ ấy nên người ta lại nói "Có". Sở dĩ người ta nói Tánh "Không" là nhắm vào bản thể yên lặng của nó, c̣n sở dĩ nói Tánh "Có" là nhắm vào cái "Chiêu-minh linh-giác", thường hay biến thiên kia vậy. Cái lẽ nói Có Không, nói Không Có nầy phải dùng phép "Tâm lănh Thần hội" để giác-ngộ th́ mới rơ được.

   Tánh bổn nhiên huyền-diệu lắm ; nhưng khi người ta nhập Thế-cuộc, Phàm-thân mỗi ngày một khôn lớn, sự giao-tiếp với hoàn cảnh bên ngoài, mỗi ngày một lan rộng ; nhơn đó rồi Phàm-thân sanh ḷng ham muốn vật chất, kích-thích Tánh bổn-nhiên biến sanh một trạng-thái thứ nh́, mạng danh là "Tánh Khí-chất".

   Tánh Khí-chất.- Theo danh-từ mà cắt nghĩa th́ Tánh nầydo sự cảm nhiễm Khí-chất mà sanh, cho nên nó khuynh hướng về Phàm-trần, cầu sự ích-lợi cho Nhục-thân. Những cái Mê-chấp như : Ngă-tướng, Nhơn-tướng, Chúng-sanh-tướng, Thọ-giả-tướng ban đầu th́ nó là tư-tưởng, nhưng về sau lại thành tướng ở trong Tâm-gian và chính những Tâm-tướng Mê-chấp nầy che khuất nguồn Thiên-lư ở trong người, cũng như mây che mặt Nhựt kia vậy.

  Kiến Tánh nghĩa đen là thấy Tánh ; nhưng đây có nghĩa là đả phá tất cả Vọng-tâm, làm cho Chơn-tâm trở lại tự nhiên nhi nhiên. Công-phuấy gọi là Minh-tâm ; mà Minh-tâm được th́ kiến-tánh cũng như mây đen tan hết th́ mặt Nhựt tỏ rạng. Trong bài trước, chúng ta đă dùng phép Tŕ-giới mà kềm dẫn ba căn Thân vào cơi Chơn, tức là từ bỏ được một phần Thô-tướng do bên ngoài truyền vào. Tuy vậy mặc dầu mà cái Mê-chấp đă thành Tâm-tướng rồi, và chúng nó vẫn c̣n lưu-ẩn trong Tâm-gian.Nay muốn phá sạch những cái Tâm-tướng Mê-chấp ấy, th́ chúng ta phải thực-hành những phương-pháp dưới đây :

                      Huờn-hư,

                      Thủ-nhứt.

                      Tịnh-định,

                      Trí-huệ.

Huờn-hư.- Người sanh ra tự nhiên có cái năng-lực "biết", mà hễ biết th́ nhớ, nhớ th́ chứa. Bởi cái chứa ấy nên Tâm bị cái Ngă-chấp, Pháp-chấp tê-tắc. Huờn-hư nghĩa là đem Tâm trở về cảnh Không, để quên những cái Mê-chấp đó, tức là đả phá những cái Mê-chấp-tướng.

Phương-pháp thực-hành : Trước hết chúng ta nên ở vào chỗ vắng vẻ. Bên ngoài Ngũ-quan không tiếp xúc ngoại cảnh ; bên trong Tâm ở yên vào cảnh Không ; mà hễ Không được rồi phải Không nữa, cho đến Không Không cốt yếu làm cho Tâm với Cảnh nhứt tề yên lặng. Lúc bấy giờ chúng ta sẽ quên. Quên vật, quên người, quên trong, quên ngoài, quên đến cái Ta-giả-hiệp nữa. Quên được như thế là đă vào cảnh Không, rồi đặt vào cảnh Không ấy điểm "Chiêu-minh Linh-giác" của Tánh bổn-nhiên, tứclà Thủ-nhứt.

    Thủ-nhứt.

    Tâm vốn là năng-lực hay biết ; mà cũng v́ hay biết, cho nên Tâm mới phân biệt tốt xấu, lành dữ. Nói tóm lại, bởi cái ǵ Tâm cũng biết, cho nên Tâm phải tán loạn.

Thủ-nhứt nghĩa chánh là đặt cái "Chiêu-minh linh-giác" vào giữa Tâm không, cầu Thiên-lư chủ-trương cách hành-vi động-tác của ḿnh ; nhưng Tâm đă tán loạn từ trước, như chúng ta đă biết ; hễ tư-tưởng nầy dứt th́ có tư-tưởng khác nổi lên mà tiếp tục, cũng như những làn sóng trên mặt biển, hết làn nầy th́ có làn khác liên-tiếp không lúc nào gián-đoạn. Người ta thường thí-dụ Vọng-tâm như Vượn chuyền cây ; đương ở nhánh nầy lại chuyền đến nhánh khác, chẳng hề ngừng nghĩ. Tâm đă quen như thế ; nay nghiễm nhiên cầm nó lại một chỗ th́ chưa phải dễ dàng. Ấy vậy nên ban đầu phải tập trung cả Thức-thần, Trí-ư về một chỗ, rồi lần hồi vỗ-về cho Tâm được yên-lặng ; mà hễ Tâm yên lặng, rồi phải yên lặng nữa cho đến tịnh cực th́ cái "Chiêu-minh Linh-giác" xuất hiện tức là thực hành phép Tồn-tâm của Nho-giáo. Mạnh-tử nói :"Học vấn chi Đạo vô tha, cầu kỳ phóng Tâm nhi dĩ hỷ". Nghĩa là cái phép học vấn chẳng có việc ǵ khác hơn là đem lại cái Tâm đă sổ kia mà thôi. Thế là bước đầu trong công-phu "Thủ-nhứt".

    Phải hiểu rằng Tâm mới vừa an trụ ; bên trong vẫn c̣n lưu ẩn những cái Tế-tướng (Ngă-tướng, Nhơn-tướng, Chúng-sanh-tướng,Thọ-giả-tướng), nhứt là ḷng tham tài, háo sắc, háo danh càng ẩn núp trong chỗ sâu kín ; thành thử, khi đă Tịnh được được Tâm rồi, phải Tịnh nữa và trong giờ đại tịnh nầy, nếu có một Vọng-niệm nào mạnh khởi th́ chúng ta phải ngăn nó tức th́. Đơn kinh dạy rằng : Ŕnh nó như mèo ŕnh chuột, hễ thấy lố dạng th́ đánh đổ ngay, đừng cho nó thành h́nh. Ngăn rồi th́ lại phải theo chưn nó mà t́m đến nguồn gốc, để đả phá cho thật sạch.

    Đây lại phải cần đến phép Quán-tưởng.

    Ví-dụ : Ta có tật háo-sắc.

Trong giờ tịnh-định, nếu có một tư-tưởng háo-sắc dấy lên, th́ chúng ta đánh đổ ngay và phải nghĩ rằng : Nhục-thân vốn do Tinh cha, Huyết mẹ cấu sanh, và nhờ công dưỡng dục mẹ cha mà thành ; măi đến khi tử hậu th́ Nhục-thân thúi hôi và tan rả : xương thịt th́ trả về đất ; máu huyết th́ trả về nước, vân vân ... Khí chất tụ gọi là sanh ; Khí chất tán gọi là tử.

Vậy thân thể là vô thường, chớ không phải vĩnh viễn ! Thế mà Chúng sanh ngộ nhận Nhục-thân là chơn thật rồi lo củng cố nó, cầu cho nó sung sướng và sống lâu, để rồi gây ra phiền năo cho muôn đời. Mỗi việc mỗi quán tưởng như thế cho đến đầu đuôi manh mối của nó ; lâu ngày th́ Chơn-tâm sanh nhàm-chán vật-chất mà Tánh bổn-nhiên an-trụ vào chỗ Chơn-không, rồi giữ lấy cái Chơn-không ấy gọi là Thủ-nhứt vậy.

 

Tịnh-định

Tịnh-định là Tâm yên lặng ; không suy nghĩ, không tư-lự ; nhưng phải có cái Linh-giác vi chủ. Tịnh cũng như phép Huờn hư ; Định cũng như phép Thủ-nhứt. Tịnh-định tức là hai phép Huờn-hư và Thủ-nhứt hiệp thành một công phu.

     Trước kia chia công phu nầy ra hai phép, để cho dễ nhận định Tâm-trạng. Bây giờ lại hiệp hai phép thành một công phu, để chỉ rằng Tâm lúc bây giờ phải Hư-nhứt ; nghĩa là Tâm Không, mà ở trong cái Không ấy có một cái Biết, tức là cái Chiêu-minh Linh-giác của Trời phú cho Người, để chủ-tể Phàm-thân. Nên hiểu rằng : cớ sở dĩ nói "Không" là không Thức-tánh, không H́nh-tướng ; c̣n cớ sở dĩ nói "Có" là có mộ điểm Chiêu-minh Linh-giác ở trong Tánh thiên-nhiên xuất hiện, vừa sáng-suốt, vừa Thiêng-liêng. Hoặc nói rơ ra là Tâm không, nhưng trong cảnh Không ấy lại có một cái Biết hồn-nhiên, cũng như ḷng dạ của đùa trẻ sơ sinh kia vậy. Đơn-kinh gọi đó là "Xích tử chi Tâm". Mạnh-tử nói :"Bậc Đại-nhơn chẳng hề bỏ mất cái Tâm hồn nhiên của đứa trẻ thơ vậy". (Đại-nhơn giả bất thất kỳ Xích tử chi tâm giă dă).

    Tịnh-định là theo con đường Trung-đạo để rồi nương cái Hữu-vi mà t́m hiểu cái vô-vi, nương cái vô-vi mà t́m hiểu cái Hữu-vi, rồi vượt lên trên cái nhận thức của giác quan, th́ mới có thể giác ngộ được Bổn-tánh. Thế gọi là Kiến-tánh hay Dưỡng-tánh.

    Giữ được Tâm trạng nầy lâu lâu th́ Tâm thu về một mối "Mặc nhiên", rồi cái "Mặc nhiên" nầy sẽ chiếm một địa vị ưu-tiên ; nó chẳng bị tư-tưởng khác xóa nḥa, hay lôi cuốn. Nhờ cái "Linh-giác" đó mà người ta nhận-định rơ cái Ngă-chấp và Pháp-chấp, để rồi loại trừ ra ngoài. Chỗ nầy Trang-Tử nói rằng :"Dùng Thần mà cảm thông chớ chẳng phải lấy Trí-thức mà cứu xét".

Công-phu đến đây là hoàn-thành Minh-tâm Kiến-tánh. Sở-dĩ nói như thế là v́ lúc bấy giờ trong ḷng chẳng c̣n những tật hư, nết xấu. Và bốn tướng (Ngă-tướng, Nhơn-tướng, Chúng-sanh-tướng, Thọ-giả-tướng) đưu Không. Trong cơi Chơn-tâm chỉ có cái Tánh bổn-nhiên chủ trương mà thôi. Đó là chỗ mà Nho-giáo gọi là Nhơn-dục tận tịnh Thiên-lư lưu hành. Nghĩa là ḷng Nhơn-dục yên tịnh th́ Thiên-lư lưu hành.

Người ta vốn có một cái Biết, mà cái Biết ấy lại do hai lối : một là Trí-thức hai là Trí-huệ Trí-thức là một năng-lực nhờ học-vấn, tư lự để mở mang ; nó là ngọn đuốc dẫn đường, chỉ nẻo cho chúng ta t́m lẻ phải, điều quấy. Thành thử học-vấn càng ngày càng phải mở mang cho thật rộng, để thâu thập kiến-văn, càng nhiều càng hay. Khoa-học vật-chất nhờ Trí-thức phát-minh biết bao cơ-khí cực-kỳ tinh-xảo ; nhưng, đối với Đạo-học, Trí-thức chưa đủ thông-đạt lẽ tinh-vi chơn-lư, thành thử phải nhờ đến Trí-huệ nữa, mới có thể cảm thông với Trời Đất, đặng lănh hội lẽ mầu-nhiệm của Tạo-vật.

     Trí-huệ là ǵ ?

Trí-huệ là cái năng-lực vô h́nh ảnh, vô phương-sở ; nó là cái Chiêu-minh Linh-giác ở trong Tánh Bổn-nhiên, tức là nguồn Thiên-lư ở trong người. Ông Vương-dương-Minh nói rằng : Bổn-thể của Tâm là Tánh, cũng gọi là Thiên-lư, cái Chiêu-minh Linh-giác của Thiên-lư là Lương-tri, tức Trí-huệ vậy. Trí-huệ tự-nhiên cảm-ứng mà biết ; chớ chẳng phải suy nghĩ, rồi sau mới biết, như Trí-thức. Trí-thức nhờ học-vấn để khai-hóa ; c̣n Trí-huệ lại nhờ lặng lẽ làm phương xuất hiện.

 Đức CHÍ-TÔN giáng cơ dạy rằng :"Khi tạo dựng Trời Đất, rồi Đức Ngài phân tánh mà sanh ra vạn-vật". Theo câu nầy mà suy rộng ra, th́ chẳng những người ta có một điểm Tánh của Trời ban cho, mà cả vạn-vật cũng đều có nữa. Câu Thánh-ngôn nầy cũng như Phật nói :"Nhứt thiết Chúng-sanh giai hữu Phật tánh". Cái Phật Tánh nầy vốn tự-nhiên tự-tại : ở nơi Phật, nó không tăng ; ở nơi Chúng-sanh nó không giảm ; nhưng, Chúng-sanh sở dĩ chẳng được sáng suốt như Phật chỉ v́ vật-dục sở-tế, khí bẩm sở-câu mà Phật Tánh bị che khuất. Th́ công-phu "Minh-tâm Kiến-tánh" trước kia đă làm cho Trí-huệ xuất-hiện, rồi bây giờ chúng ta phải giữ nó cho c̣n măi măi, để làm đuốc thiêng rọi đường cho ḿnh.

Mà muốn bảo thủ Trí-huệ, phải làm sao ? Th́ cũng không ngoài phương pháp Tịnh-định đă nói trong đoạn Minh-tâm Kiến-tánh.

    Xin xem lời của Đức Lăo-quân kế đây th́ rơ rằng : Muốn có Huệ cần phải giữ Tâm thanh-tịnh vô-vi, tức là phương-pháp "Tịnh-định" đă nói. "Vô danh Thiên địa chi thỉ ; hữu danh vạn vật chi mẫu. Cô thường "vô dục dĩ quang kỳ diệu ; hữu dục dĩ quang kỳ Khiếu. Thử lưỡng-giả "đồng xuất chi vị danh ; đồng vị chi Huyền, huyền chi hựu huyển chúng "diệu chi môn". Nghĩa là cái không tên th́ có trước Trời Đất ; cái có tên là nguồn sanh vạn-vật. Bởi vậy nên người nào chẳng có ḷng ham muốn th́ mới sáng được cái diệu (tức Trí-huệ), c̣n kẻ có ḷng ham muốn th́ chỉ sáng cái Khiếu (tức Trí-thức) mà thôi. Cả hai năng-lực nầy đồng do một nguồn mà ra ; nhưng khác tên (Trí-thức và Trí-huệ). Cả hai đều là mầu-nhiệm ; nhưng cái nhiệm-mầu ở trên cái mầu-nhiệm kia mới thật là tinh-vi hơn hết.

    Thế đủ hiểu rằng : muốn di-dưỡng Tánh bổn-nhiên th́ phải giữ Tâm vô-dục. Đạo học cốt ở chỗ khai thông Trí-huệ đó ; ngoài cái Chánh-pháp ấy chẳng c̣n phép nào khác nữa. Bậc chơn tu châm châm làm cho trí-huệ minh-mẫn đến cùng cực, để phân biệt điều thiện, điều ác, mà làm theo, hay xa lánh ; ở đời, họ coi người, coi vật cũng như thân họ, coi việc nước cũng như việc nhà họ và coi tất cả Trời Đất vạn-vật như một Thể. Đời sống của họ điềm đạm theo Thiên-lư, chớ không dùng Trí-thức mà cưỡng-chế Đạo-tâm.

 

DƯỠNG-KHÍ

 

Lời dẫn giải.- Người ta ai ai cũng có một phần thể-xác, một phần Khí và một phần Hồn. Ba phần nầy hợp với nhau th́ người ta mới có sự sống ; Đạo thơ gọi ba phần nầy là Tinh-Khí-Thần (Tam-bửu) mà chúng tôi giảng giải kế đây :

Tinh.- Là bổn-chất của vạn-vật ; nguyên nó là một chất hơi nước bàng bạc lưu chuyển trong không gian. Mỗi loài vật phải hàm súc một phần Tinh ấy trong thân thể ḿnh th́ mới sống và sanh hóa thêm ra. Ủại khái như ở trong Sanh-vật, Tinh là một năng-lực sanh-sản ; ở trong Thảo-mộc, Tinh là một sức mạnh đâm chồi, trổ trái. C̣n như ở trong thân thể người ta, Tinh thường bốc lên một thứ hơi, mạng danh là Khí.

Khí.- Theo văn-chương học mà cắt nghĩa, Khí là một thứ hơi, như hơi thở người ta, hay hơi gió thổi trong không trung. Người ta nhờ có Khí trong châu thân mới sống, mới có sức khỏe và sức mạnh. Khí là chất hơi của Tinh phát tiết. Bên trong, nó điều ḥa Ngũ-khí của năm Tạng ; bên ngoài, nó bao bọc chung quanh thân thể. Người ta có Huệ-nhăn trông thấy nó và định được kẻ dữ, người lành với những màu sắc của nó. Khí bị động th́ Khí ấy thành ra một thứ hơi của thân thể tiết ra ; cho nên gọi là vật-chất-khí. Lẽ ấy, hễ thân thể trược th́ Khí trược ; thân thể trong sạch th́ Khí thanh-khiết. C̣n như người biết theo Đạo-học, hàm dưỡng khí th́ Khí có năng lực giúp cho Giác-tánh vững vàng minh-mẫn ; và nếu công-phu tinh-tiến nữa th́ Khí có thể cấu hợp với Giác-tánh mà tạo thành Chơn-thần, tức nhị xác thân của nguèời Chơn-tu.

Thần.- Là nguyên lư thông minh ; người ta nhờ nó mà học hỏi được sự nầy, lư nọ ; nói tắt là người ta nhờ Thần mà được khôn ngoan và đứng đầu trong vạn-vật. Nếu người ta theo Đạo-học mà dưỡng Thần th́ người có thể cảm thông với Trời Đất mà quán triệt Càn-khôn vạn-vật và, ngày sau, người ta cũng nhờ đó mà giải-thoát kiếp Luân-hồi Sanh-tử. Trái lại, nếu để cho vật-thể lôi cuốn, Thần khuynh hướng theo vật-chất, gây ra tội lỗi th́ người phải bị đọa trong ṿng Sanh-tử. Thất-t́nh tuy do thân-thể phát sanh, song chủ-động của Thất-t́nh là Thần. Đó là chỗ mà kẻ tu hành cần lưu-tâm ḍ xét cho lắm để tự chủ lấy ḿnh.

Tóm lại Tam-bửu : Tinh-Khí-Thần ở trong châu thân người ta, có thể làm ra phiền khổ, mà cũng có thể tạo nên hạnh phúc. Bởi v́ theo lẽ tự-nhiên, nếu người ta chẳng theo Đạo Trời mà tu dưỡng ba món nầy th́ không những kiếp Hiện-tại chẳng được an nhàn, mà khi chung qui, kiếp Vị-lai cũng phải đắm đuối trong luật Nhơn-quả Luân-hồi nữa. Trái lại, nếu người ta biết theo Đạo-học mà luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hiệp Thần, th́ người ta đặng sáng suốt mọi lẽ Thiện-Ác để theo hoặc tránh, và nếu công-phu tinh-tiến nữa th́ người ta có thể huờn Nhị-xác-thân để vân-du Thiên-ngoại. Nhưng đây, chúng tôi chỉ nghị-luận phép "Dưỡng-khí" để giúp nguồn Chơn được vững vàng sáng suốt, tức là thực-hành phép Tự-giác thôi.

    Vậy Khí ra sao ?

Ngoài những lời lẽ mà chúng tôi giải-thích trong trương trước, Thầy Mạnh-Tử gọi phần Khí ở trong thân-thể người ta là Hạo-nhiên-khí ; nguyên lai khí ấy là một phần Khí Âm-Dương Trời-Đất chia cho ; nó rất khó giảng-giải ; nhưng Ông miễn cưỡng nói rằng :"Kỳ vi Khí giả chí đại, chí cường, dĩ trực dưỡng nhi vô hại, tắc tắc hồ Thiên địa chi gian". Nghĩa là cái ở trong người mà gọi là Khí đó rất lớn, rất mạnh, nếu người ta khéo nuôi mà chẳng hại, th́ nó có thể đầy khoảng Trời Đất.

    Đại-ư câu nầy nói rằng Khí Hạo-nhiên có thể đầy khoảng Trời Đất là v́ Khí ấy nguyên lai là Khí Tiên-thiên (Khí có trước Trời Đất) phân tán ra. Khi ở trogn châu thân người ta th́ Khí ấy trở nên trọng trước hơn, mạng danh là Hậu-thiên Khí (Khí có sau Trời Đất). Nay, nếu người ta biết theo Đạo-pháp mà lọc-lược th́ Khí Hậu-thiên sẽ đồng hóa với Khí Tiên-thiên mà trở nên rất mạnh và rất lớn. Đó là cái thuyết Âm-Dương của Nho-giáo truyền dạy từ ngàn xưa.

    Kế đây, chúng tôi xin chép bài báo nói về "Con người trong Vũ-trụ" của Bác-sĩ Nguyễn-văn-Ba, ấn hành trong "Tập chí Bách-khoa" số 6, ngày 6-161957, để chứng minh rằng Khoa-học Tây-phương ngày nay đă công nhận cái thuyết Âm-Dương của đạo-học Đông-phương.

Bài báo như vầy :

Con người, cục đất, miếng sắt, khúc gỗ, quyển sách ta cầm, không khí ta thở, Mặt trời chiếu sáng, tất cả đều do một thể mà ra, do Điện-tử cấu thành. Điện-tử cấu tạo muôn loài vạn-vật chỉ có một mà thôi, nhưng do cách sắp đặt của Điện-tử mà chất khác nhau,c̣n thể thiếu có một. Quan niệm vạn-vật nhứt thể của Phương-Đông được hoàn toàn nh́n nhận, từ khi trái bom nguyên-tử đầu tiên nổ tại HIROSHIMA. Vậy chớ Điện-tử là ǵ, Nguyên-tử là ǵ, mà có liên-quan đên sự nghiên-cứu y-lư của ta ?

Một con vụ đang quây tít trước mắt, bỗng nhiên càng nhỏ, càng nhỏ lại quây tít càng mau hơn, nhỏ đến đỗi phải sắp như vầy :

100.000.000.000.000.000.000.000.000 con số liên nhau nối dài như thế và mau đến nỗi một giây đồng hồ nó tự quây được 1.000 triệu lần. Hột Điện-tử là con vụ nhỏ như thếmà quây mau như thế đó. Mănh lực Điện-tử xô đẩy, hay thâu hút nhau, gọi là Điện (électricité) ; áp lực Điện-tử tạo chung quanh nó gọi là Từ-điện (magnétisme). Có Điện-tử-âm và Điện-tử-dương : hột Điện-tử-dương ở giữa, một hoặc nhiều Điện-tử-âm chạy chung quanh, như hành-tinh xoay chung quanh mặt Trời, là một Điện-tử-hệ thường gọi là Nguyên-tử. Điện-tử-âm chạy chung quanh Điện-tử-dương với tốc-lực 150.000 cây số một giây đ̣ng hồ, nếu phá được Nguyên-tử th́ hột Điện-tử sẽ bị bắn tung ra, với tốc-lực tương đương, tạo nên một sức mạnh lạ thường, gọi là Nguyên-tử-lực.

Số 1 với 28 con 0 nguyên-tử là thành một người, cũng như số 1 với 28 con 0 người th́ to bằng Mặt Trời, đang chiếu chúng ta : con người ở giữa đường Mặt Trời và Nguyên-tử ; của đại-khối và tiểu-khối vậy. Đông-y chúng ta dạy :"Nhơn tho Thiên-địa chi trung dĩ sanh . Thật không phải là ngoa chút nào  .

Vậy chúng ta hiểu rằng hai cái nguyên-tố Âm-Dương tạo dựng Vơ-trụ sanh hóa vạn-vật kia, Khoa-học gọi Điện-tử Âm và Điện-tử Dương hiệp thành Nguyên-tử ; c̣n Đạo-học th́ gọi Khí-Âm và Khí-Dương hiệp thành Khí-cơ. Danh-từ tuy khác mà tựu-trung vốn một. Kẻ học Đạo ngày nay nhờ Khoa-học mà xác nhận Chơn-lư với một cách rơ ràng. Ấy thật là công-đức của Khoa-học không phải nhỏ vậy.

 

Phép Dưỡng-Khí

 

    Bây giờ, xin bàn đến phép Dưỡng-khí, ông Mạnh-Tử nói rằng :"Thị tập nghĩa sở sanh giả, phi nghĩa tập nhi thủ chi". Nghĩa là phép Dưỡng-khí là cứ thực-hành Đạo nghĩa hoàn-toàn rồi cái tinh-thần đạo nghĩa hợp mà sanh Khí ; chớ chẳng phải dùng sức mạnh để chụp lấy Khí.

    Theo câu nầy mà suy rộng ra, chúng ta hiểu rằng kẻ học nếu muốn Dưỡng-khí th́ bắt đầu hoán cải Tâm-lư của ḿnh từ sự ăn ở, hành-động hằng ngày, mỗi mỗi phải có tiết-độ, mọi cách xử sự, tiếp vật phải thích nghi đạo đức, rồi c̣n phải tập ăn chay, kiêng hút á-phiện, kiêng uốn rượu mạnh, cà-phê, nước trà đậm, hút thuốc lá, nhai trầu, vân vân... nhứt là phải tiết dục và tuyệt dục, để tích trử Tinh-ba được đầy đủ ; v́ Tinh-ba là chất nước sẽ hóa ra Khí. Nói rút lại kẻ học phẢi làm tṛn Nhơn-đạo và thực-hành những phép Tŕ-giới, Huờn-hư, Thủ-nhứt, Tịnh-định đă nói trong trương Hạ-thừa và Thượng-thừa trước kia, để gột rửa những tật hư, nết xấu cho thật sạch và tập rèn tánh tốt, hạnh lành cho đầy đủ. Tu tánh xong rồi, Mạng, (tức là Khí) sẽ theo đó mà sanh trưởng ; cho nên sách Kim-Tiên trực-chỉ nói rằng :"Tánh phận chi công thiệt thị phụ Mạng chi cực". Nghĩa laé công-phu tu Tánh trước thiệt là phép tu Mạng rất mực vậy.

    Tại sao ?

    Bởi v́ Tánh với Mạng tuy là hai vật ; song sự tác-động vốn một ; thành thử hễ Tánh tu th́ Mạng sẽ theo đó mà kết liễu.

    Có điều nên nhận-định cho rơ là thay v́ nói hai chữ Tánh Mạng, ông Mạnh-Tử lại dùng hai chữ Chí và Khí để giảng luận. Ông nói rằng :"Chí giă Tâm chi chỉ dă". Nghĩa là Tâm ngừng chỗ nào th́ Tâm-trạng đó gọi là Chí. Thế th́ chữ "Chí" chữ "Tâm" chữ "Tánh" vốn một chớ chẳng phải khác ; c̣n chữ Mạng th́ ông gọi là khí Hạo-nhiên ở trong thân người ta. Đó là ông Mạnh-tử dùng danh-từ riêng biệt của Ông mà thôi. Kẻ học chớ khá lầm lẫn.

    Chí với Khí là hai vật, nay như hỏi tại làm sao hai vật lại có sự tác động như một ? Th́ Ông Mạnh-Tử bảo rằng : Chí là tướng Soái của Khí ; hễ Chí đến th́ Khí sẽ theo mà đến. Xem như "Chí nhứt tắc động Khí ; Khí nhứt tắc động Chí dă. Kim phù quệ giả, xu giả, thị KHí giă, nhi phản động kỳ Tâm". Nghĩa là hễ Chí chuyển nhứt th́ động đến Khí ; Khí chuyển nhứt th́ động đến Chí. Nay, giả tỉ như vấp té, chạy mau, ấy thuộc về Khí ; nhưng lại động đến Tâm.

    Đó đủ chứng minh Chí Khí liên hệ với nhau rất mật thiết ; cho nên hễ muốn Dưỡng-khí th́ phải : Tŕ kỳ Chí nhi vô bạo kỳ Khí. Nghĩa là phải giữ Chí cho kiên cố mà cũng đừng giục thúc Khí mau lớn . Đại-ư nói rằng chúng ta cứ bền ḷng cho phép "Tịnh-định" đă nói trước kia mà tập rèn cho được viên măn, th́ Khí tự nhiên theo đó mà sanh.

    Phép Dưỡng-khí lâu lâu th́ có ấn chứng ; nhưng mặc dầu biết có "Khí sanh" mà chu&ng ta chẳng khá điều chỉnh nó, Tâm chẳng khá động mà cũng chẳng khá hối thúc cho Khí mau trưởng thành (Tất hữu sự yên chi vật chánh, Tâm vật động, vật tự trưởng dă) Mạnh-Tử.

            Người nước Tống trồng lúa ; anh ta muốn cho lúa mau lớn ; cho nên mới ra đồng nhớm gốc lúa. Làm như vậy là anh ta muốn cho lúa mau lên cao ; nhưng sự thật là anh ta hại lúa chết hết. Th́ phép dưỡng khi cũng giống như cái thuật trồng lúa vậy. Thuật trồng lúa th́ phẢi bón phân, nhổ cỏ, rồi tự-nhiên lúa theo thời tiết mà cao lên ; chớ chẳng phải nhớm gốc cho nó chóng lớn. Phép Dưỡng-khí cũng vậy ; kẻ học cứ ung dung làm việc đạo-đức, ung-dugn tịnh-dưỡng Khí-Thần, rồi Khí sẽ theo lẽ tự nhiên mà sanh trưởng, chớ chẳng khá bức bách cho Khí chóng lớn.

            Tóm lại : theo ư của ông Mạnh-Tử th́ người nào "Tŕ chí Dưỡng-khí" viên mănn th́ họ có tinh-thần đồng-nhứt với Vơ-trụ : họ đứng trước giàu sang không bị mê hoặc ; nghèo hèn không dời đổi, uy-vơ không khuất-phục. Thật quả vậy, người nào đă có tinh-thần ấy th́ mới có thể vượt qua khỏi ṿng Trần-trục mà sống với cái thuyết "Thiên-địa vạn-vật nhứt thể".

            Như gương trước đă nói về Tam-bửu : nếu người ta biết theo Đạo-pháp, luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hiệp Thần mà huờn nguyên Nhị-xác-thân, th́ bậc Chơn-tu ấy có thể xuất Chơn-thần vân-du Thiên-ngoại. Đó là cái lẽ "Thân hữu ngoại thân" của người xua ; nhưng, đây chúng tôi bàn cái phép "Dưỡng-Khí" cầu cho Tâm-hồn được sáng suốt và tinh thần đạo-đức được lành mạnh, đủ làm người truyền giáo mà thôi.

 

Bảo Thủ Đạo Tâm

 

   Chúng ta tạm câu khẩu quyết của Nho-giáo, để làm bài kết luận phương pháp "Minh-tâm Kiến-tánh"" và chúng ta cũng nương theo thứ tự đó mà Bảo-Thủ Đạo-Tâm của ḿnh cho được trường-tồn, vĩnh-viễn.

   Khẩu-quyết :

                Nhơn tâm duy nguy.

                Đạo tâm duy vi

                Duy tinh, duy nhứt.

                Doăn chấp quyết trung.

 

 Giảng-lư.

             Người ta vốn có một cái Tâm để làm chủ Thân-phàm mà thôi ; nhưng, khi Tâm c̣n tự-nhiên nhi nhiên th́ gọi là Đạo-tâm. Nó vốn không hương sắc mùi vị ; cho nên gọi là Nhỏ (Đạo-tâm duy vi). Đến chừng Tâm trước nhiễm vật-chất, lại gọi là Nhơn-tâm. Tŕnh-Tử nói :"Đạo-tâm là Thiên-lư ; c̣n gọi Nhơn-tâm là Nhơn-dục". Đó là chỗ chia hai đường siêu đọa, nếu người ta cứ theo cái Tâm bất chánh là Nhơn-dục mà hành động, th́ chẳng những đời hiện tại không được an-nhàn, mà kiếp vị-lai cũng c̣n phải chịu những quả-báo chẳng lành nữa ; cho nên nói Nhơn-tâm là nguy hại (Nhơn tâm duy nguy).

                 "Duy tinh, duy nhứt"

   Chữ "Duy tinh" chỉ về kẻ học phải giữ phần tinh-túy của cái Tâm, tức Đạo-tâm. Chữ "duy nhứt" chỉ về sự chuyên lấy một, tức Trí-huệ. Đại-để cũng như phép "Huớn hư, Thủ nhứt" đă giảng trong bài trước. Huớn-hư là đem Tâm về cảnh Không, để t́m lại phần tinh-túy của Tâm. Mà hễ Tâm hư-không th́ Tánh bổn-nhiên xuất-hiện. Thủ-nhứt tức là chuyên giữ cái Một (Tánh bổn nhiên, hay Thiên-lư, hay Trí-huệ).

                 "Doăn chấp quyết trung"

            Đại-ư nói rằng kẻ học phải tuân theo Đạo "Trung" th́ mới "Duy tinh, duy nhứt" được.

            Mà Đạo-Trung ra sao ?

            Không thiên bên nầy, không thích bên kia, gọi là "Trung". Nghĩa là Tâm chẳng chịu thiên về thái-quá, chẳng lịch về bất cập th́ mới ở theo đúng Đạo "Trung". Hoặc nói rơ ra là Tâm chưa có mừng, giận, thương, vui, khuấy nhiễu th́ gọi là "Trung". Trong cái Tâm hư không ấy, nếu phát lên một cái Biết, th́ cái Biết ấy do Thiên-lư tự-nhiên ; duy cái Biết trúng tiết nầy mới phải là phương pháp đạt Đạo "Trung" nghĩa là Biết do Tánh bổn-nhiên phát động mới hạp với Đạo Trời.

   Nhắc lại, bài trước đă nói phép Tịnh-định. Tịnh tức là làm cho Tâm hư-không, Định tức là trong Tâm chỉ có một cái Biết Hồn-nhiên vi chủ. Đơn kinh gọi là "Xích tử chi Tâm". Trong cái Tâm Xích-tử ấy có một năng lực trực-giác huyền-diệu, tức là Huệ vậy. Kẻ học phải cố giữ gién nguồn Thiên-lư ấy ; để làm bổn-ngă Chơn-thật của ḿnh. Mạnh-Tử nói :"Bậc Đại-nhơn chẳng hề bỏ mất cái Tâm hồn-nhiên của Trẻ thơ". Đạo nhơn giả bất thất kỳ xích tử chi Tâm giă dă.

   Vả lại, công-phu "Dưỡng-khí" mới vừa thành tựu, đạo-tâm mới vừa hồi-phục, ḷng Nhơn-dục mới vừa đánh tan, nói tóm lại là tinh-thần đạo-đức mới phát-khởi, chớ chưa được vững chắc, cũng như Chim non, tuy ra khỏi vỏ cứng rồi ; song chưa có thể tung mây, lướt gió được ; thành thử chúng ta phải lưu tâm bảo tồn Đạo-Tâm cho đến ngày viên-măn. Nên biết rằng : Người Truyền-giáo c̣n phải lặn lội trong cơi đời để độ thế ; nếu hờ-hững th́ sẽ bị vật-dục lôi-cuốn, Nhơn-tâm sống lại, đàn áp Đạo-tâm. Thiên-lư phải v́ đó mà lu lờ tiêu diệt. Như thế là uổng công tu niệm ngày trước.

   Vậy phải làm thế nào để Bảo-Thủ Đạo-Tâm ?

   Nhứt là phải giữ Tâm tịnh-định, như đă nói trong bài trước. Nhưng tịnh tâm th́ lúc nào cũng phải tịnh ; Định-tâm th́ lúc nào cũng phải định. Nghĩa là lúc đi đứng, nằm ngồi, khi ăn, khi làm; nhứt thiết phải tịnh-định ; chớ chẳng nên bắt chước những người tinh-định trong giờ ngồi Thiền ; c̣n khi ra ngoài th́ Tâm phóng như Vượn chuyền cây. Hễ Tâm định-tịnh vững vàng, th́ Khí theo mà đến sau. Tâm-khí nương nhau mà thành một tinh-thần đạo-đức sáng suốt vững vàng.

 

Tổng Luận

 

   Tín-đồ Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ chia ra hai bậc : Hạ-thừa và Thượng-thừa.

   Hạ-thừa là hạng người c̣n ở thế, có gia-đ́nh, lo làm những bổn-phận làm người, như : đối với gia-đ́nh ; đối với quốc-gia, Xă-hội ; đối với người bổn-đạo, vân vân ... Kỷ cương làm người, Tân-luật Đại-Đạo định là Tam-cang, Ngũ-thường, Tam-tùng, Tứ-đức. Về mặt Tôn-giáo, người Tín-đồ phải chăm theo Ngũ-giới-cấm, Tứ-Đại Điều-Qui, với người trong Đạo phải thù tạc văng lai với nhau trong những việc quan-hôn tang-tế.

Chương Thế-đạo của bổn Tân-luật Đại-Đạo đă qui định cách giao-thiệp rơ ràng mà người Tín-đồ phải tuân hành. Mục-phiêu của bậc Hạ-thừa là lấy Đạo Trời làm khuôn mẫu để sửa Đạo Người, cầu cho người có một phẩm giá đạo-đức thanh cao, tức như cận kim người ta thường nói hạng người "Chân thiện Mỹ" kai vậy.

    Thượng-thừa là hạng người Thế-gian, họ chẳng c̣n bận rộn Nhơn-sự mà chỉ lo tu học Thiên-đạo để độ ḿnh và độ người, tức tự-giác, giác-tha. Phương pháp tu-học đại-để là sửa ḿnh theo Đạo Trời, để cùng vạn-vật tấn hóa theo luật thiên nhiên ; và cùng Chúng-sanh sanh sống đại đồng trong t́nh huynh, nghĩa đệ. Mà muốn đi đến mục đích ấy, kẻ học phải bài trừ những thành kiến hủ-lậu, những tật hư nết xấu ; nhất là Tánh ích-kỷ đê hèn. Nói tóm là làm cho Nhơn-dục tận tịnh, và nguồn Thiên-lư ở trong người xuất-hiện, làm chủ cho đời sống của ḿnh và khích lệ nó trên nền tảng "Vạn vật nhứt thể". Cứu cánh là giải-thoát kiếp Luân-hồi đặng vào cội an nhàn tự-tại.

   Mà muốn theo phương pháp tu học nói trên, kẻ hành giả phải có đùc tin Trời Phật, hằng chăm nom giúp đỡ ḿnh, phải có đức-tin luật Nhơn-quả, Luân-hồi hằng báo-ứng tội phước cho người Trần-gian.Làng th́ thăng, dữ th́ đọa. Đức CHÍ-TÔN c̣n lập ra Hội-Thánh gồm có ba đài, như đă kể bên trong ; nhứt là "Nhị hữu h́nh đài" Hiệp-Thiên-Đài và Cửu-Trùng-Đài có phận sự dạy dỗ, dắt d́u Tín-đồ được ung-dung lập đùc trên đường Đạo.

    Kể sơ lược Giáo-lư, Đại-Đạo, Tam-kỳ Phổ-Độ là như thế ; nhưng nền Tảng của nền Tân Tôn-giáo nầy là Qui-nguyên Tam-giáo (Thích Đạo Nho) thành một Giáo-lư đại đồng. Vậy Tam-giáo ra sao, chúng ta cẦn phải bàn qua cho rơ. Cái ư-nghĩ nầy khiến chúng tôi phải "Lược-khảo Tam-giáo" như sau, để bồi bổ học-lư của ḿnh ; nhưng, Kinh-sách của Tam-giáo hiện giờ tàu chở không hết ; chúng tôi chỉ tham-khảo một cạnh Giáo-lư về "Tâm-linh-học" mà thôi. Mong rằng quyển sách nhỏ nầy giúp cho người học đạo một phần nhỏ mọn nào.

 
Ṭa Thánh Tây-ninh ngày 20 tháng Hai năm Hỷ-Hợi (1959)