Thượng Đầu Sư
THƯỢNG SÁNG THANH
(1888-1980)

 
Sau đây xin chép lại nguyên văn Bản Tuyên Dương Công Nghiệp của Ngài Thượng Ịầu Sư Thượng Sáng Thanh, do Ịại diện của Hội Thánh CTỊ (Ngài Ịầu Sư Ngọc Nhượn Thanh) đọc trước Liên đài của Cố Thượng Ịầu Sư :

" Nhân danh Ngọc Ịầu Sư, Ịại diện Hội Thánh ỊỊTKPỊ, tôi xin trân trọng tuyên dương công nghiệp hành đạo của Ngài Thượng Ịầu Sư Thượng Sáng Thanh vừa qui Thiên, hưởng thọ 93 tuổi.

A. Phần lai lịch hành đạo :
Ngài Thượng Ịầu Sư Thượng Sáng Thanh, thế danh là Trần ngọc Sáng, sanh năm 1888 tại làng Ịông Ḥa, tổng Thuận B́nh , tỉnh Mỹ Tho, người quốc tịch Việt Nam.
Nhập môn ngày 16 tháng 11 năm Bính Dần (1926) tại chùa G̣ Kén,Tây Ninh. Sau ngày nhập môn tùng giáo, Ngài giữ trọn phận sự tín đồ Ịại Ịạo, xứng đáng là môn đệ yêu dấu của Ịấng Chí Tôn.
- Ngày 21-5-Ịinh Măo (1927), trong một đàn cơ tại Thánh Thất Hữu Ịạo (Mỹ Tho), có Ịức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt chứng đàn, Ngài thọ phong phẩm Giáo Hữu phái Thượng, do Ịức Chí Tôn giáng cơ phong Thánh.
- Từ ngày đắc phong vào hàng Thánh Thể, Ngài xả thân hành đạo, tận tụy với nhiệm vụ thiêng liêng của Hội Thánh giao phó trong sứ mạng Thể Thiên hành hóa.
- Năm Ịinh Măo (1927), Ngài đắc lịnh hành đạo tại Mỹ Tho, nơi Thánh Thất của Ông Phối Sư Thái Ca Thanh để phổ độ nhơn sanh trong tỉnh.
- Năm Mậu Th́n (1928), đảm nhiệm Ịầu Họ Ịạo Mỏ Cày, đồng thời đi phổ độ và truyền giáo ở các tỉnh Rạch Giá, Cà Mau, Bạc Liêu, Long Xuyên.
- Năm Kỷ Tỵ (1929), đắc lịnh đi quan sát t́nh h́nh Ịạo sự ở 5 tỉnh Hậu Giang.
- Năm Canh Ngọ (1930), đảm nhiệm Ịầu Tỉnh Ịạo Long Xuyên , và mỗi tháng về Ṭa Thánh dạy Hạnh Ịường 10 ngày, trong suốt gần 2 năm trường.
- Ngày 15-10-Nhâm Thân (1932), Ngài được thăng phẩm Giáo Sư.
- Năm Quí Dậu (1933), kiêm nhiệm Ịầu Tỉnh Ịạo Mỹ Tho.
- Năm Giáp Tuất (1934), đảm nhiệm Ịầu Tỉnh Ịạo Sa Ịéc.
- Năm Ất Hợi (1935), đảm nhiệm Khâm Trấn Ịạo Biên Ḥa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Bà Rịa, Vũng Tàu.
- Năm Kỷ Măo (1939), đảm nhiệm Khâm Trấn Ịạo Mỹ Tho, G̣ Công, Bến Tre.
- Năm Canh Th́n (1940), đảm nhiệm Khâm Trấn Ịạo Chợ Lớn, Gia Ịịnh, Tân An,
- Năm Tân Tỵ (1941), về Ṭa Thánh hành đạo.
- Năm Quí Mùi (1943), Chánh quyền Pháp bắt đày ra Côn Ịảo trong 2 năm, cho đến ngày Ịảo Chánh 9-3-1945 mới được trả tự do trở về xứ.
- Năm Bính Tuất (1946), đảm nhiệm Khâm Trấn Ịạo Ịịnh Tường.
- Năm Ịinh Hợi (1947), về Ṭa Thánh dạy Hạnh Ịường, khóa Huấn Luyện Lễ Sanh.
- Năm Mậu Tư (1948), kiêm nhiệm Quyền Thượng Thống Lại Viện.
- Ngày 7-4-Mậu Tư (1948), Ngài được thăng phẩm Phối Sư.
- Năm Kỷ Sửu (1949), đảm nhiệm Quyền Thượng Chánh Phối Sư.
- Năm Tân Măo (1951), kiêm nhiệm Quyền Thái Chánh Phối Sư.
- Năm Ất Mùi (1955), Ngài được thăng phẩm Thượng Chánh Phối Sư Chánh vị, do Quyền Chí Tôn tại thế phong thưởng.
- Năm Quí Măo (1963) thăng phẩm Quyền Ịầu Sư.
- Năm Giáp Th́n (1964), thăng phẩm Ịầu Sư Chánh vị, nhưng phải tạm hành quyền Thượng Chánh Phối Sư.
- Năm Bính Ngọ (1966), Ngài chỉ hành quyền Ịầu Sư sau khi có Thánh giáo của Ịức Lư Ịại Tiên, Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông ỊỊTKPỊ giáng cơ phong thưởng vị Phối Sư Thượng Tửng Thanh, lănh nhiệm vụ Quyền Thượng Chánh Phối Sư.

B. Phần công nghiệp khổ hạnh :
- Năm Tân Mùi (1931), Ngài bị nhà chức trách Pháp bắt giam tại Sa Ịéc, giải xuống Vĩnh Long, xét vô tội nên được thả.
- Năm Nhâm Thân (1932), Ngài cùng với Ịức Quyền Giáo Tông đi hành đạo tại Chợ Mới Long Xuyên, bị kẻ nghịch đạo vu oan, khiến nhà chức trách bắt Ngài cùng Ịức Q. Giáo Tông, giải ra Ṭa Long Xuyên xét xử được trắng án.
- Năm Giáp Tuất (1934), Ngài đi dự Lễ Khánh Thành Thánh Thất tại Tân Khánh Tây Sa Ịéc, bị vị Chủ Quận Châu Thành Sa Ịéc ố đạo, bắt giải ra Ṭa Sa Ịéc xét xử, được trắng án.
- Năm Quí Mùi (1943), Chánh Phủ Pháp bắt Ngài đày ra Côn Ịảo, nơi đây do ân huệ thiêng liêng tiền định, Ngài cảm hóa được dân chúng địa phương nhập môn tùng giáo, mà phần đông là nhân viên chánh quyền buổi ấy, khuyến khích họ tạo dựng được một ngôi Thánh Thất sở tại mà hiện nay di tích Thánh Thất nơi Côn Ịảo vẫn c̣n.

C. Phần công nghiệp ban khen :
- Trong những năm dài hành đạo tại Sa Ịéc, Ngài chịu nhiều cực nhọc và khổ hạnh, v́ bị quyền Ịời buổi nọ gây khó khăn, tuy nhiên, Ngài vẫn một ḷng tận tụy với nhiệm vụ, không một lời than thở, chí nguyện tận trung với Ịạo, tận hiếu với Thầy mà thôi.
Cảm đến công khó của Ngài, nên Ịức Bát Nương DTC có giáng cơ đề nghị với Ngài Khai Pháp Chơn Quân, lúc ấy đang đảm nhiệm Quyền Ngọc Chánh Phối Sư, cấp Ban Khen cho Ngài về tinh thần phục vụ, có chí đảm đương, gánh chịu sự khó khăn nơi tỉnh Sa Ịéc. Hội Thánh có lập Tờ Ban Khen đọc tại Ịền Thánh và cũng có lời Ban Khen của Ịức Quyền Giáo Tông khi Ngài hành đạo tại Long Xuyên.
- Năm Tân Măo (1951), Ngài Chủ Tọa Ịại Hội Nhơn Sanh được Ịức Phạm Hộ Pháp gởi văn thư để lời Ban Khen Ngài đă ngoan khéo cầm quyền chủ tọa, đủ trí, vững tâm, nắm oai quyền ǵn giữ Chơn pháp của Ịạo, nên Ịại Hội Nhơn Sanh được kết quả hoàn toàn.
- Năm Tân Măo (1951), Ngài vâng lịnh Hội Thánh đi chứng Lễ An Vị Thánh Thất Bạc Liêu, được Ịức Cửu Nương DTC về cơ khen ngợi lập được kỳ công đắc thắng và để lời cám ơn Ngài có chút từ tâm để khêu ngọn đuốc huệ cho nhiều nhân vật đạo đức nơi tỉnh Bạc Liêu theo đường Chánh giáo.

D. Tổng Luận :
Ôn lại quá tŕnh 55 năm hành đạo của Ngài, chúng ta nhận thấy :
- Ngài là một Chức sắc Ịại Thiên phong tiền bối đạo hạnh và gương mẫu.
Ngài đă v́ chúng sanh, v́ Ịạo, mà 4 lần lâm vào ṿng lao lư. Nhưng không v́ khổ hạnh ấy mà Ngài thối bước ngă ḷng. Khó nhọc không màng, gian nan chẳng quản, Ngài để bước ta-bà khắp Lục Tỉnh Nam Kỳ buổi trước để hoằng dương nền Chơn pháp của Ịức Chí Tôn theo Thiên ư. Với sứ mạng Thể Thiên hành hóa, Ngài là một trong những sứ giả tiền bối, mang lời châu tiếng ngọc của Ịức Chí Tôn và các Ịấng thiêng liêng gieo vào cân năo nhơn sanh, để giục thức các bậc nguyên căn hữu phước tỉnh giấc mộng trần, qui tùng Chánh giáo, hầu chung hưởng hồng ân của Ịại Từ Phụ trong buổi Chuyển thế khai Nguơn Thánh Ịức.
Với đức tánh từ ḥa, khiêm nhượng, rộng lượng, khoan hồng, giàu ḷng bác ái, Ngài thu phục được nhơn tâm, cảm hóa được ḷng người, khiến toàn đạo ai cũng cảm mến, kính yêu.
Ịối với bề trên, Ngài một mực kính ngưỡng.
Ịối với bạn đạo đồng hành, Ngài trọn t́nh trọn nghĩa, hữu thủy hữy chung.
Ịối với đàn em, Ngài hết dạ thương yêu, đùm bọc và nhất là hết ḷng d́u dắt, nâng đỡ, an ủi, vỗ về những đứa em lạc bước.
Toàn đạo thường ca tụng Ngài là :
- Hiện thân của sự thương yêu, từ nhượng.
- Một bậc đại đức chơn tu, mẫu mực hoàn toàn.
Tóm lại, chúng ta thấy cuộc đời hành đạo của Ngài luôn luôn gắn bó với nghiệp Ịạo trên 50 năm qua. Với chí hy sinh v́ Ịời thọ khổ, Ngài đă miệt mài và tận tụy với Thiên trách, cùng gánh vác chia xẻ những nỗi vui buồnvinh nhục với Hội Thánh và toàn đạo trong những lúc cơ Ịạo thăng trầm.
Trên 15 năm cầm quyền Thượng Ịầu Sư, thuộc cấp lănh đạo Hội Thánh CTỊ về mặt hữu vi, Ngài tỏ ra luôn luôn ôn ḥa và khéo léo d́u dắt Chức sắc đàn em đi trong khuôn viên luật pháp chơn truyền của Ịại Ịạo.
Với đức độ từ ái của Ngài, toàn đạo đều hết ḷng chiêm ngưỡng, công nghiệp lớn lao của Ngài sẽ ghi đậm nét son nơi thanh sử muôn đời lưu dấu và ngời sáng ánh huệ quang cho hậu tấn soi chung.
Mấy năm sau nầy, v́ niên kỷ quá cao, sức phàm hữu hạn, mặc dù tinh thần Ngài vẫn c̣n tráng kiện, sáng suốt, song thể xác theo định luật của Tạo đoan phải lần lượt hao ṃn, đi đứng khó khăn, yếu ớt, nên Ngài phải trở về tư gia tịnh dưỡng cho con cháu được thỏa niềm hiếu đạo. Mặc dầu Hội Thánh hằng lui tới viếng an và gia đ́nh tận t́nh lo lắng cho Ngài, nhưng mạng căn và Thiên số đă định, sức khỏe của Ngài kiệt dần, nên ngày mùng 6 tháng Giêng năm Canh Thân, Hội Thánh rước Ngài vào biệt điện Nam Ịầu Sư Ịường an dưỡng, chờ giờ về Thầy, cho đến lúc 11 giờ 30 phút khuya đêm mùng 8 rạng mùng 9 tháng Giêng năm Canh Thân (1980), Ngài nhẹ nhàng viên tịch, hưởng thọ được 93 tuổi.
Hôm nay, Thiên mạng đă xong, nợ trần giũ sạch, công viên quả măn, Ngài trở về bái mạng Ngọc Hư. Hội Thánh và toàn đạo ngậm ngùi thương tiếc. Từ đây, Hội Thánh vắng bóng h́nh một bậc Chức sắc Ịại Thiên phong tiền bối lăo thành rất dày công cùng Ịạo nghiệp."
" Nhưng công nghiệp đặc biệt nhất của Ngài là :
1. Công cuộc truyền giáo Ngoại quốc.
2. Việc phổ độ nhơn sanh ở Côn Ịảo, nơi mà Ngài chịu cảnh lưu đày tù tội.
- Về mặt truyền giáo Ngoại quốc, với cương vị Thượng Chánh Phối Sư có trọng trách về phần Ngoại giao, Ngài vâng lịnh Ịức Hộ Pháp và Hội Thánh, đi dự Ịại Hội Tôn giáo Quốc Tế tại Nhựt Bổn. Nơi đây, Ịạo kỳ của Tôn giáo Cao Ịài được phất phơ trên Kỳ đài quốc tế, triết lư và tôn chỉ của Ịại Ịạo được xương minh mạnh mẽ, chủ thuyết "Tứ hải giai huynh đệ" hay là " Ịại đồng huynh đệ" của Ịại Ịạo nhận định : " Bốn biển đều là anh em, tất cả loài người là đồng bào, do một nguồn cội, một gốc thiêng liêng mà ra ", được Ịại Hội Tôn giáo Quốc tế chân thành tán dương nhiệt liệt.
Ịây là một thắng lợi tinh thần đáng kể của Ịạo Cao Ịài trên vũ đài quốc tế mà chính Ngài đạt được kỳ công đó.
- Mặt khác, Chánh phủ Pháp bắt Ngài lưu đày ra Côn Ịảo, những tưởng nơi đây xa xứ biệt nhà, với cảnh trời nước bao la, núi cao rừng rậm, biển cả mênh mông, hết trông ngày qui hồi cố quốc, và có thể gởi xương nơi đất khách. Nào ngờ đâu, chính nơi đây, do ơn huệ thiêng liêng chan rưới và tiền định, trong lúc tiếp xúc với dân chúng địa phương trong các công tác tù nhân hằng ngày, Ngài cảm hóa được họ nhập môn cầu đạo khá đông đảo, trong đó đa số là nhân viên chánh quyền buổi ấy, khuyến khích họ tạo dựng thành công một ngôi Thánh Thất, mà hiện nay di tích vẫn c̣n.
Thật là một việc hy hữu, một kết quả hiếm có bất ngờ, ngoài sự ước muốn của Ngài. Âu đó cũng là một diễm phúc mà Ơn Trên đă dành để đặc biệt cho Ngài đó vậy.
(Trích trong bài Ịiếu Văn của Ngài Ngọc Ịầu Sư Ngọc Nhượn Thanh, đọc trước Liên đài trước khi nhập bửu tháp).
Ngài Ịầu Sư Thượng Sáng Thanh có làm Tờ Di Ngôn để lại căn dặn các con của Ngài như sau :
" Từ trước tới giờ, Ba hành đạo không muốn làm hao tổn của Hội Thánh và nhơn sanh, nên chừng nào Ba có về Thiêng liêng th́ các con làm y như Má các con buổi trước, nghĩa là : Từ điếu và mọi việc mua sắm quả phẩm cúng tế như bánh trái, rượu, trà, . . . làm hao tốn của nhơn sanh, chỉ dùng bông hoa tươi một ít để cúng tế mà thôi."
Tờ Di Ngôn nầy được các con của Ngài gởi đến Hội Thánh, và Hội Thánh thông truyền cho Chức sắc, Chức việc và toàn đạo nên nghiêm chỉnh tuân hành di ngôn đáng kính trên đây và cũng để chư vị ái nữ của Cố Thượng Ịầu Sư giữ được trọn lời căn dặn cuối cùng của thân sinh.
Bài Thài hiến lễ Ngài Ịầu Sư Thượng Sáng Thanh :
 

SÁNG đèn cánh bướm phải điêu tàn,
Phải biết gần quan mới hiểu quan.
Thinh thế mượn con tua trả lại,
Thử chơn danh mối đạo t́m đàng.

 
Bài thi 4 câu trên đây là của Ịức Chí Tôn ban cho Ngài Ịầu Sư vào năm 1926 (Bính Dần) khi Ịức Chí Tôn thâu nhận Ngài làm môn đệ, nay lấy bài thi nầy làm bài thài hiến lễ Ngài trong Tang lễ