Đức Quyền Giáo Tông
LÊ VĂN TRUNG
(1876 - 1934)

 
Ngài Lê văn Trung là một trong 12 môn đệ đầu tiên của Ịức Chí Tôn, đă có đại công khai mở, xây dựng và truyền bá Ịạo Cao Ịài.
Khi c̣n ở ngoài đời, Ngài là một nhân vật chánh trị nổi tiếng binh vực quyền lợi của dân chúng, làm đến chức Nghị Viên Hội Ịồng Thượng Nghị Viện Ịông Dương.
Ngày 11-3-Bính Dần (dl 22-4-1926), Ịức Chí Tôn phong Ngài Lê văn Trung vào phẩm Ịầu Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Trung Nhựt.
Ngày 3-10-Canh Ngọ (dl 22-11-1930), Ịức Lư Giáo Tông giáng cơ ra Ịạo Nghị Ịịnh thứ 2, ban quyền Giáo Tông Hữu h́nh tại thế cho Ngài Ịầu Sư Thượng Trung Nhựt, c̣n quyền Giáo Tông Vô Vi vẫn do Ịức Lư Giáo Tông nắm giữ. Kể từ ngày đó, Hội Thánh gọi Ngài là Ịức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung.
Ịể ghi nhớ công nghiệp lớn lao của Ngài, ngôi trường Trung Học do Hội Thánh lập ra ở gần Cửa số 7 Ngoại Ô được đặt tên là Trường Trung Học Lê văn Trung; và con đường cặp hông Giáo Tông Ịường trong Nội Ô Ṭa Thánh được Hội Thánh đặt tên là đường Thượng Trung Nhựt.

Sau đây là phần Tiểu Sử chi tiết :
Ngài Lê văn Trung sanh năm Bính Tư (1876) tại làng Phước Lâm tổng Phước Ịiền Trung (Chợ Lớn).
Thuở Ngài được 3 tuổi th́ thân phụ là Ông Lê văn Thanh (1845-1878) đau bịnh từ trần, thân mẫu là Bà Văn thị Xuân (1849- 1912) lúc đó mới 30 tuổi, cư tang thờ chồng, thủ phận ở vậy nuôi con cho đến ngày khôn lớn.
Ngài Lê văn Trung lớn lên có h́nh dáng đẹp đẽ, cân đối, tánh t́nh ḥa nhă nhưng rất cương quyết, phụng sự mẫu thân rất có hiếu, cư xử tốt đẹp với bà con anh em, và Ngài rất ái mộ Nho học.
Ngài thi vào học tại trường Lycée Chasseloup Laubat Sàig̣n, và tốt nghiệp trường nầy vào năm 1894, lúc đó Ngài được 19 tuổi. (Tuổi tây là 18 tuổi).
Cũng trong năm nầy, ngày 14-7-1894, Ngài Lê văn Trung được thâu nhận vào làm Thơ Kư tại Dinh Thống Ịốc Nam Kỳ. Ngài làm việc Thơ Kư cho đến năm 1906, tổng cộng được 12 năm. Sau đó, Ngài xin thôi việc và được chấp thuận ngày 6-3-1906.
Ngài Lê văn Trung ra ứng cử và được dân chúng bầu vào Hội Ịồng Quản Hạt Nam Kỳ (Conseil Colonial de Cochinchine), đại diện cho các tỉnh : Sài g̣n, Gia Ịịnh, Chợ Lớn, G̣ Công, Tây Ninh, được liên tiếp 2 khóa, tổng cộng 8 năm. (Hội Ịồng Quản Hạt Nam Kỳ có 10 Hội Viên người Pháp và 6 Hội Viên người Việt. Hội Viên người Việt do đại diện các Hương chức Nam Kỳ bầu lên).
Lúc làm Hội Viên Hội Ịồng Quản Hạt, mỗi khi nhóm họp nơi Soái Phủ Nam Kỳ, Ngài Lê văn Trung thẳng thắng bàn căi những sự ích nước lợi dân. Ngài rất lưu tâm đến việc mở mang các trường dạy học và công việc thương măi. Trong những sự bàn căi, đôi khi làm trái ư quan trên, nhưng Ngài vẫn cam tâm v́ nhiệm vụ đại biểu của dân, chẳng đoái đến phận ḿnh bị trù dập. Cho nên, xa gần, quan dân đều ngợi khen Ngài là người khẳng khái cương trực.
Ịiển h́nh là vụ Lục Hạng điền, Chánh phủ Pháp phân 6 hạng ruộng để đánh thuế. Ông Outrey, quyền Thống Ịốc Nam Kỳ dự thảo luật thuế về Lục Hạng điền, tŕnh ra cho Hội Ịồng Quản Hạt thừa nhận để đem ra áp dụng thi hành.
Ngài Lê văn Trung cùng với Ông Diệp văn Cương, Hội Ịồng Quản Hạt Bến Tre đứng ra làm đầu 6 vị Hội Ịồng Quản Hạt người Việt, đồng phản kháng dự thảo luật nói trên, nhưng khi biểu quyết, số thăm của Hội Ịồng người Việt có 6, c̣n của người Pháp th́ 10, nên bị thua thăm, và như thế th́ dự luật được thông qua với đa số 10/6.
Dù thua thăm, nhưng 6 Ông cương quyết chống lại Luật Thuế Lục Hạng điền, nên tất cả 6 Ông Hội Ịồng người Việt đều gởi đơn từ chức để phản đối. Dưới thời Pháp thuộc mà 6 Ông làm được một việc như thế phải kể là một hành động táo bạo và rất can đảm.
Từ chức xong, 6 Ông đều ứng cử trở lại, và 5 Ông được tái đắc cử, chỉ có Ông Hội Ịồng Hoài là bị thất cử, do Ông Bùi quang Chiêu theo phe Ông Outrey phá.
Nhờ vụ Lục Hạng điền mà tiếng tăm và uy tín của Ngài Lê văn Trung lên rất cao, khiến cho người Pháp rất chú ư Ngài, chẳng dám xem thường.
Năm 1911, Ngài Lê văn Trung đề xuất một việc làm rất mới mẻ tại Sài g̣n, nơi đang chịu sự thống trị nặng nề của Pháp, là việc xây dựng một Nữ Học Ịường để giáo dục con gái, thực hiện Nam Nữ b́nh quyền.
Chánh phủ Pháp ngoài mặt không dám phản đối, nhưng không ủng hộ việc mở mang dân trí nầy. Ngài Lê văn Trung đi vận động với Bà Tổng Ịốc Ịỗ hữu Phương, và một số trí thức ủng hộ, quyên góp tiền bạc, xây dựng được một ngôi trường Nữ đầu tiên tại Sài g̣n, gọi là Collège des Jeunes filles, về sau đặt tên là Trường Nữ Trung Học Gia Long. Hiện nay, trường nầy vẫn c̣n tấm bia kỷ niệm ghi tên 2 vị sáng lập là Bà Tổng Ịốc Ịỗ hữu Phương và Ông Hội Ịồng Quản Hạt Lê văn Trung.
Ngày 18-5-1912, Ngài Lê văn Trung được Chánh phủ Pháp thưởng cho Bắc Ịẩu Bội Tinh Ịệ Ngũ Ịẳng (Chevalier de la Légion d'Honneur).
Mấy năm đó, Ngài có mở cửa hàng Hạnh Hoa Thôn, giúp đỡ người VN bổn xứ có nề nếp hưởng nhờ bề thạnh lợi, sanh ư ngày càng phấn tấn, dần dần nên cuộc đại thương, không nhượng ngoại quốc.
Ngày 10-12-1914, Ngài Lê văn Trung được Pháp cử lên làm Nghị viên Hội Ịồng Soái Phủ Ịông Dương (Conseil du Gouvernement de l'Indochine), thường gọi là Hội Ịồng Thượng Nghị Viện Ịông Dương.
Nhà cầm quyền Pháp mở hội Thượng Nghị Viện tại Bắc Kỳ, Ngài đi với Nguyên Soái Gourbeil ra bàn việc nước. Quan Thống Soái Bắc Kỳ, Trung Kỳ, với quan Ịại Thần An Nam là Ông Hoàng cao Khải, Ông Trương như Cường, đều ngợi khen Ngài là người có khoa ngôn ngữ và rất lễ nghĩa.
Em của Ngài Lê văn Trung là Lê văn Diêu, thuở trước làm Giáo Thọ chữ Pháp, sau được ban chức Huyện Hàm, tánh t́nh hiếu thuận, nối đường hướng của Ngài, mà gầy dựng được cuộc buôn bán phát đạt.
Chánh thất Phu nhân của Ngài Lê văn Trung là Bà Ịăi thị Huệ, cũng người tỉnh Chợ Lớn, hiền đức, trọng nghĩa, siêng năng buôn bán, lại khéo bề nội trợ tề gia, giúp thêm tiếng tốt cho Ngài. (Sau nầy, Bà Ịăi thị Huệ nhập môn vào Ịạo Cao Ịài, được Ịức Chí Tôn phong chức Nữ Giáo Sư, thánh danh Ịăi Hương Huệ, trong kỳ Phong Thánh Nữ phái
Kỳ I ngày 14-1-Ịinh Măo, dl 15-2-1927, tại Chùa G̣ Kén Tây Ninh).

THI RẰNG :
Ra tài Quản Hạt bấy thu chầy,
Quan chuộng dân yêu hội hiệp vầy.
Ḷng dạ thẳng ngay, gương vặc vặc,
Tiếng tăm khen ngợi, tiết hây hây.
Thương trường mở cuộc buồm xuôi gió,
Thượng Viện gặp thời chí lướt mây.
Nhờ đức thung huyên vun quén sẵn,
Lộc Trời ơn nước, phước gồm may.

(Viết theo tài liệu trong quyển "Ịiếu Cổ Hạ Kim Thi Tập" của Ông Nguyễn Liên Phong soạn, Sài g̣n, năm 1915)
Kể từ năm 1920 trở đi, công việc kinh doanh thương măi của Ngài Lê văn Trung gặp khó khăn, đến cuối năm 1924 th́ bế tắc, hoàn toàn bị lỗ lă. Ngài đau buồn, sanh ra hút thuốc phiện và sau đó, thị lực của đôi mắt yếu đi rất nhiều, chỉ thấy mọi vật lờ mờ.
Người bà con với Ngài là Ông Hội Ịồng Nguyễn hữu Ịắc, tu theo Minh Lư, thường vào hầu đàn Chợ Gạo. Nguyên mấy tháng trước đây, tại nhà Ông Nguyễn bá Vạn ở ngă ba Bà Kế thuộc Chợ Gạo, Chợ Lớn, nay là Bến Phú Lâm, Quận 6 Chợ Lớn, có lập một Ịàn thỉnh Tiên rất linh hiển, thường cho thuốc trị bịnh rất hay. Ông Ịắc hướng dẫn Ông Trung đến hầu Ịàn nầy. Tại đây, Ịức Lư Thái Bạch giáng khuyên Ngài Lê văn Trung nên tỉnh giấc mộng trần mà lo việc tu hành. Ngài Lê văn Trung tỉnh ngộ, bắt đầu ăn chay, bỏ hút thuốc phiện, và lần lần đôi mắt của Ngài hết ḷa, sáng trở lại.
Sau khi đàn Chợ Gạo độ được Ngài Lê văn Trung rồi th́ chư Tiên dạy bế đàn, làm cho nhiều người hầu đàn ngạc nhiên, không rơ cớ chi.
Theo tài liệu của Ban Ịạo Sử :
- Ngày 23-11-Ất Sửu (dl 7-1-1926), Ịức Cao Ịài Thượng Ịế dạy quí Ông Cao quỳnh Cư và Phạm công Tắc đem Ịại Ngọc cơ đến nhà Ông Lê văn Trung ở Chợ Lớn cho Ịức Chí Tôn dạy việc. Quí Ông ngần ngại nhưng không dám cải lịnh. Khi đến nhà Ông Trung, quí Ông tŕnh bày tự sự. Ông Trung vui vẻ chấp thuận và cùng nhau thiết lập đàn cơ. Trong lúc chuẩn bị cầu cơ, nhiều phép lạ hiện ra. Trong đàn cơ nầy, Ịức Thượng Ịế dạy Ông Trung phải hiệp với 2 Ông Cư, Tắc lo việc mở Ịạo.
Ịức Chí Tôn Thượng Ịế dạy :
" Trung ! Nhứt tâm nghe con. Sống cũng nơi Thầy, thành cũng nơi Thầy mà đọa cũng nơi Thầy. Con lấy sự sáng của con mà suy lấy.

Một Trời một Ịất một nhà riêng,
Dạy dỗ nhơn sanh đặng dạ hiền.
Cầm mối Thiên thơ lo cứu chúng,
Ịạo người vẹn vẻ mới thành Tiên."
Từ đây, Ông Lê văn Trung được Ịức Chí Tôn thâu nhận làm môn đệ. Ông Trung ngửa vâng Thánh ư, thu xếp việc nhà, một dạ xả thân hành đạo.
- Ngày 27-11-Ất Sửu (dl 11-1-1926), Ông Lê văn Trung đến viếng xă giao 3 Oâng: Cư, Tắc, Sang. Bốn Ông hiệp lại cầu cơ. Ịức Chí Tôn giáng dạy Ông Trung nhiều việc.
- Ngày 14-12-Ất Sửu (dl 27-1-1926), quí Ông bạch hỏi Ịức Thượng Ịế về cách thờ phượng. Ịức Thượng Ịế dạy các Ông đến gặp Ông Ịốc Phủ Ngô văn Chiêu để xem cách thức, v́ Ông Chiêu đă được Ịức Thượng Ịế dạy đạo từ lâu, và bảo xem Ông Chiêu là Anh Cả.
- Ngày 15-12-Ất Sửu (dl 28-1-1926), cuộc họp mặt và dự tiệc do Ông Lê văn Trung tổ chức gồm 12 vị môn đệ đầu tiên của Ịức Chí Tôn và 14 vị khác đă có hầu đàn cơ nhiều lần nhưng chưa được chính thức thâu nhận làm môn đệ.
- Ngày 17-12-Ất Sửu (dl 30-1-1926), Ông Lê văn Trung thượng tượng thờ Thầy trọng thể hơn các vị khác. Ịức Thượng Ịế giáng cơ dạy và chỉ cách đặt vị trí thờ Ịức Quan Thánh, Ịức Quan Âm Bồ Tát và Ịức Lư Thái Bạch.
- Ngày 11-3-Bính Dần (dl 22-4-1926), đàn cơ tại Chùa Vĩnh Nguyên Tự (Cần Giuộc), Ịức Chí Tôn ân phong cho Ông Lê văn Trung làm Thượng Ịầu Sư, Thánh danh Thượng Trung Nhựt, cùng một lượt với Ngài Ngọc Ịầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt.
- Ngày 23-8-Bính Dần (dl 29-9-1926), Ngài Ịầu Sư Thượng Trung Nhựt, vâng theo Thánh ư của Ịức Chí Tôn, hiệp cùng chư Chức sắc Thiên phong và chư Ịạo hữu, tổng cộng 247 người, tại nhà Ông Nguyễn văn Tường ở đường Galiéni, nay là đường Trần Hưng Ịạo, quận 1 Sài g̣n, để thảo ra TỜ KHAI ỊẠO, gởi lên Chánh phủ Pháp. Tờ Khai Ịạo nầy được dâng lên Ịức Chí Tôn xem xét trước.
- Ngày 1-9-Bính Dần (dl 7-10-1926), Ngài Ịầu Sư Thượng Trung Nhựt đích thân đem Tờ Khai Ịạo nầy đến gởi cho quan Thống Ịốc Nam Kỳ Le Foll, được Ông vui vẻ tiếp nhận.
- Ngày 15-10-Bính Dần (dl 19-11-1926), ngày Rằm Hạ nguơn năm Bính Dần, Ngài Ịầu Sư Thượng Trung Nhựt hiệp cùng Ịức Hộ Pháp và chư Chức sắc Ịại Thiên phong, vâng lịnh Ịức Chí Tôn mượn chùa Từ Lâm Tự ở G̣ Kén Tây Ninh làm Thánh Thất tạm để tổ chức Ịại lễ Khai Ịạo Cao Ịài, có đủ các quan chức các cấp của Chánh quyền Pháp thời đó và đại diện các tôn giáo khác đến dự.
- Ngày 3-10-Canh Ngọ (dl 22-11-1930), Ngài Ịầu Sư Thượng Trung Nhựt được Ịức Lư Giáo Tông giáng cơ ban cho quyền Giáo Tông Hữu h́nh, theo Ịạo Nghị Ịịnh thứ nh́.
Xin chép ra sau đây nguyên văn Ịạo Nghị Ịịnh nầy :

Ịạo Nghị Ịịnh thứ 2
ỊẠI ỊẠO TAM KỲ PHỔ ỊỘ
(Ịệ ngũ niên)
Chiếu theo Pháp Chánh Truyền ban quyền hành cho Giáo Tông và Hộ Pháp,
Nghĩ v́ chư Chức sắc Thiên phong có quyền đặc biệt ngoài luật đă định, c̣n quyền hành Hội Thánh nữa,
Nghĩ v́ thiếu luật Hội Thánh nên quyền hành chánh chẳng đặng vẹn toàn,
NGHỊ ỊỊNH
Ịiều thứ nhứt : Ban quyền hành cho Thượng Ịầu Sư thay mặt cho Lăo mà thi hành các phận sự Giáo Tông về phần xác, c̣n phần thiêng liêng có Lăo.
Ịiều thứ nh́ : Chức sắc CTỊ, duy bậc Chánh Phối Sư phải tùng quyền mà hành chánh về phần Chánh trị của Ịạo, song đặng thế mặt cho Ịầu Sư, đương buổi người cầm quyền Giáo Tông của Lăo.
Ịiều thứ ba : Mọi việc chi thuộc về quyền Chánh trị đều giao cho Chánh Phối Sư.
Ịiều thứ tư : Chánh Phối Sư đặng trọn quyền thông công cùng Chánh phủ và nhơn sanh, nhưng buộc phải có Hội viên Nhơn sanh và Hội Thánh chăm nom cơ hành động.
Ịiều thứ năm : Nghị Ịịnh nầy sẽ ban hành vào ngày 15-10-Canh Ngọ.
Làm tại TTTN ngày mùng 3 tháng 10 năm Canh Ngọ.

Kư tên :
Giáo Tông Lư Thái Bạch
Hộ Pháp Phạm công Tắc
Một số ít Chức sắc Thiên phong sanh ḷng đố kỵ Ịức Quyền Giáo Tông, nên họ t́m đủ cách để công kích và buộc tội Ngài. Họ thiết lập Hội Vạn Linh để buộc tội Ngài, và viết Tờ Châu Tri để mạ lỵ, xúi giục tín đồ đem nhiều việc phi lư kiện Ngài nơi Ṭa Án tỉnh Tây Ninh, đồng thời vu cáo Ngài làm cách mạng chống Chánh quyền Pháp.
Không ngày nào mà Ịức Quyền Giáo Tông không bị các viên Thẩm phán Ṭa Án đ̣i ra hỏi cung.
Ịang lúc bị khủng bố nguy nan như thế, Ịức Ngài vẫn điềm tỉnh đối phó, một mặt hiệp với Bà Nữ Chánh Phối Sư Lâm Hương Thanh sắp đặt Nữ phái trong Ịạo.
Ịức Ngài nói : " Lúc trước tôi đă giúp Bà Cụ Tổng đốc Ịỗ hữu Phương lập trường Nữ học, bây giờ tôi hiệp với Bà Nữ Chánh Phối Sư tổ chức các Nữ Viện, cũng đồng một nghĩa. Tôi chỉ ao ước cho Nam Nữ bất b́nh đẳng ở ngoài Ịời chẳng c̣n trong Ịạo nữa."
Kết cuộc các vụ thưa kiện Ịức Ngài ở Ṭa Án tỉnh Tây Ninh, họ kết tội Ngài : Ịă cho công quả đánh xe ḅ ban đêm không thắp đèn hiệu, ḅ thiếu dây buộc ách, 34 người Ịạo công quả thiếu thuế, và họ phạt Ngài 2 ngày tù.
Thật là khôi hài đối với một vị Cựu Thượng Nghị viên thưởng thọ Bắc Ịẩu Bội Tinh của Chánh phủ Pháp. Họ biết Ngài vô tội, nhưng cũng cố buộc tội để làm nhục Ngài.
Bọn lính sen đầm đem 2 án ṭa vào Giáo Tông Ịường đặng bắt Ngài ra ngồi tù ở Khám đường Tây Ninh, Ngài chậm răi khăn áo chỉnh tề, mang Bắc Ịẩu Bội Tinh vào, rồi đi theo sai nha. Ịó là buổi sáng ngày mùng 7-Giêng-Giáp Tuất (dl 20-2-1934), trước lễ Vía Ịức Chí Tôn 2 ngày. Ịức Ngài ngồi tù tại Khám đường Tây Ninh 2 ngày rưỡi mới được thả về.
Sau khi cúng vía Ịức Chí Tôn và lễ Rằm Thượng Nguơn xong, Ịức Ngài liền viết một văn thư đề ngày 4-3-1934 (âl 19-1-Giáp Tuất), gởi cho Chánh phủ Pháp giao trả Bắc Ịẩu Bội Tinh, v́ nó không c̣n ư nghĩa ǵ nữa.
Bức văn thư nầy viết bằng Pháp ngữ, trong đó có nhiều chi tiết lịch sử quan trọng, xin chép nguyên văn ra đây và có bài dịch ra Việt băn.

Tây Ninh, le 4 Mars 1934.
A Monsieur le Président de la République Francaise.
P A R I S.
Monsieur le Président de la République,
J'ai l'honneur de venir très respectueusement remettre entre vos mains la Décoration de Chevalier de l'ordre natio-nal de la Légion d'Honneur que ma conférée la République Francaise par Décret du 18 Mai 1912.
Fonctionnaire apprécié et estimé pendant douze ans, Conseiller Colonial ensuite pendant huit ans, enfin Membre du Conseil du Gouvernement de l'Indochine pendant douze ans, telles sont les trente-deux années de vie mises loyale-ment au service de la France, qui m'ont valu cette haute récompense de la République.
Après ma vie publique, je m'apprêtais à finir mes vieux jours dans un coin oublié de terre en Cochinchine, quand soudain (1926) je fus appelé par L'Invisible à repren-dre ma tâche pour l'unification de toutes les religions existantes, pour "semer parmi les peuples l'Amour du Bien et des créatures de Dieu, la pratique de la Vertu, apprendre à aimer la Justice et la résignation : Relever aux humains les conséquences posthumes de leurs actes, tout en assainissant leur âme."
Depuis huit ans, je me consacre entièrement à cette oeuvre de fraternisation des races, convaincu que la Nouvelle religion constitue un des puissants facteurs indispensables à la réalisation d'un collaboration loyale et sincère de tous les peuples, d'une paix mondiale durable.
Le Caodaisme comprend aujourd'hui plus d'un million de fidèles composé d'Annamites en très grande partie , et de Francais, Cambodgiens, Laotiens, Mois et Chinois.
Nous ne sommes pas compris peut-être par le Gouvernement colonial ?
Toujours est-il que le Caodaisme est sans cesse injuste -ment frappé ?
À nos doléances et à nos réclamations, on répond par des actes arbitraires et des persécutions religieuses.
À l'heure qu'il est en fait tout pour atteindre le promoteur de cette nouvelle église dans son honneur.
Dans de nombreux documents, je me permets d'extraire les passages édifiants ci-après d'une lettre que j'ai écrite récemment à Monsieur l'Administrateur Vilmomt, Chef de la province de TâyNinh, Cochinchine.
"En ce qui concerne vos récentes instructions, je vous serais très oublié de bien vouloir me faire connaitre jusqu'à quand est applicable cette nouvelle règlementation des cultes.
Quant aux évènements dont vous avez fait allusion dans votre lettre, je me permets de vous faire remarquer que si vous aviez bien voulu tenir compte de mes requêtes et de mes droits, sinon de Chef du Sacerdoce Caodaisme, du moins de Chef du Temple de LongThành (TâyNinh) ces "désordres" n'auraient jamais au lieu. Mieux que tout autre vous saviez que les désordres que vous signalez aujourd'hui ne venaient pas de nous.
La réunion du 24 Novembre dernier, autorisée par vous à se tenir dans mon Temple, à des personnes tout à fait étrangères à la religion et malgré ma lettre No 394 du 22 Novembre 1933, est un véritable défi, sinon une insulte, jeté sans motif à la face qu'un vieux et loyal serviteur de la France doublé d'un décoré de la Légion d'Honneur."
Il m'est vraiment pénible de constater ces choses à l'heure où tous mes efforts et tout mon dévouement sont mis sincèrement au service de la cause commune des deux peuples. c'est-à-dire à l'entente cordiale et sincère les deux races appelées par la volonté du tout puissant à vivre en communauté de vie et l'intérêts.
Naturellement ces doléances sont restées sans réponse, par contre les persécutions se sont de plus belle.
La dernière en date fut mon emprisonnement, le 22 Février dernier, pour dette due au fisc par trente-quatre de mes coreligionnaires, prétexte tout à fait fallacieux.
Le Chevalier de Légion d'Honneur, à l'aurore de sa soixantième d'année, fut jeté en prison sans qu'aucune formalité prescrite par la loi ne fut observée.
J'ai séjourné deux jours et demi dans une cellule de la prison de Tây Ninh avec mon ruban arboré et la carte de Chevalier sur moi.
Ainsi, aux yeux du Gouvernement colonial, la Légion d'Honneur ne signifie rien, l'infâmie peut atteindre.
Tout le tort revient-il à la République qui ne devait pas conférer cet insigne honneur à un pauvre indigène ?
J'accomplis mon geste avec d'amers regrets, mais je préfère ne plus porter une très haute distinction à laquelle le Gouvernement colonial n'a aucun égard et qui ne peut même plus devenir un éclatant témoignage de mon attachement à la France.
Cependant, confiant en la justice de cette France douce et généreuse que j'ai toujours aimée, je poursuivrai jusqu'au bout ma tâche sans passion et sans haine, espérant qu'on voudra bien un jour se rendre compte des erreurs commises et rendre justice à une religion qui n'a d'autre prétention que celle d'apporter au monde la paix et la concorde.
Veuillez agréer, Monsieur le Président de la Républi-que, l'expression de mon plus profond respect.