Thư Gởi
Chư Đại-Đức
Toàn Thể Các TÔN-GIÁO
 Kính bạch Chư-Đại-Đức,
 
Tiêm nhiễm các Đạo giáo, Tổ phụ ta từ trước bao phen đă chịu thống khổ v́ kính trọng tôn sùng tự do Tín-ngưỡng, nếu không nói rằng: chủng tộc của ta đă bị làm nạn nhân của tư tưởng Đạo giáo hơn là củng cố vận mạng Tổ-Quốc giống ṇi, nghĩa là ta đă chịu không biết bao phen Ngoại Bang đă dùng Tín ngưỡng ấy lệ thuộc Tổ-Quốc và Giống-Ṇi. V́ cớ mà Đạo Cao-Đài từ buổi xuất hiện thọ hưởng di truyền của tổ phụ để lại trong nền văn minh tối cổ của ta là Đạo Khổng-Mạnh, nên các đối phương coi Đạo Cao-Đài như kẻ thù địch, bởi cho rằng nó là phương pháp phục cựu. Hại nỗi khi nó mới sản xuất nên h́nh th́ thời cuộc lại biến thiên làm cho nó phải tùy thế tùy thời bảo trọng tinh thần quốc hữu đặng giữ ǵn Đại-nghiệp của Tổ-phụ đă để lại về phần vật chất lẫn tinh thần .
Thời cuộc hôm nay lại đến cùng một giai đoạn rất nên khắc khe và nguy hiểm cho tương lai số phận của Việt Nam là nước phân đôi chia hai chủng tộc dưới ảnh hưởng của hai khối đặng gây cuộc Nam Bắc phân tranh cốt nhục tương tàn, nồi da xáo thịt. Họ đă muốn lợi dụng xương máu của ṇi giống ta đặng định quyền bá chủ của họ. Hiển nhiên giờ phút này, đồng bào ta đang bị lệ thuộc của hai khối chớ không tự do độc lập chi cả. Đây rồi nội chiến sẽ v́ ngoại bang mà bùng nổ, mà ta không thể đề pḥng.
 
Chúng ta là người tu hành, chư vị Đại-Đức cũng thế,
 mà Bần Đạo đây cũng thế, không lẽ khoanh tay ngồi đợi và thấy cái
 thảm trạng ấy. Bởi chiều theo Thiên ư, chúng ta t́m một phương pháp
 hay, chấm dứt cuộc tương tàn tương sát. Đương nhiên thật ra ta là nạn
 nhân của hai tư tưởng, của hai quyền lực, đồng bào ta toàn quốc bị
 tiêm nhiễm mà xu thời theo hai Chánh sách, dân tâm bất nhứt.
Bản Cương Lĩnh của GIẢI PHÁP H̉A-B̀NH CHUNG-SỐNG của Bần Đạo cốt để giác ngộ quốc dân đặng họ biết thiệt dụng quyền hành của họ. Bởi cớ mới có ba mục tiêu chánh yếu là : V̀-DÂN, PHụC-Vụ-DÂN, Lập-QUYỀN-DÂN, chỉ do nơi Dân mới cứu văn đặng t́nh thế nguy hại cho tương lai Tổ-Quốc và giống ṇi. Chúng ta phải làm thế nào bền vững Ḥa-b́nh hạnh-phúc dầu cho các nước liệt cường quốc tế biến thiên thay đổi thế nào. Nếu ta không khôn ngoan mà chung hợp, nhứt tâm,
 nhứt trí bảo vệ toàn vẹn Ḥa b́nh quốc nội của ta th́ khi Đại chiến thứ ba bùng nổ th́ chủng tộc sẽ làm con sanh vật hy sinh xương máu cho ngoại bang tranh quyền bá chủ của Thế Giới.
Xin chư Đại-Đức v́ Đạo-tâm, v́ lân tuất thương sanh, v́ nước nhà nguy biến, chung sức bảo vệ Ḥa-b́nh Hạnh-phúc cho Tổ- Quốc Giống-Ṇi, dầu ta phải chịu muôn cay ngàn đắng, như thế mới là Đạo.
 
Xin kính trọng chào chư Đại-Đức niệm t́nh suy đoán.
 

Kiêm-Biên, ngày 1 tháng 10 Bính-Thân
(DL, 3-11-1956)
Hộ-Pháp

 

BỨC THƯ TÂM HUYẾT
KÍNH GỞI TỔNG-THỐNG

 
Từ ngày Bần Đạo ra khỏi nước tới nay, Bần Đạo chưa hề gởi thư cho Tổng-Thống về mục đích của Bần Đạo muốn đạt đến chỗ nào. Bần Đạo v́ tin nơi ḷng đạo đức và trí thức cao thượng của Ngài nên để Ngài t́m hiểu và suy đoán.
Tổng-Thống và Bần Đạo chẳng phải là người xa lạ với nhau về tinh thần Ái quốc và vị chúng, Bần Đạo bỏ công chức hồi Pháp thuộc cũng như Ngài đă bỏ quan trường buổi ấy. Hai tâm đức cũng như nhau bởi đau khổ thấy giống ṇi đă bị lệ thuộc, làm tôi đ̣i thiên hạ và nước chịu nạn thống trị của ngoại bang. Trường hợp tranh đấu của chúng ta dẫu khác đường lối mà trí ư có lẽ cũng đồng. Vậy tinh thần đôi ta cũng một khuôn khổ, một ư chí.
Chỉ có một điều Ngài có thể phiền trách Bần Đạo đặng, là mọi hành vi của Bần Đạo đối cùng Ngài từ khi Ngài nắm chánh quyền đến giờ, đều là âm thầm, kín đáo chớ chẳng như ai kia xưng hô công nghiệp đặng thân cận cùng Ngài.
Bần Đạo không muốn chính ḿnh Ngài hiểu biết nữa mà chớ.
Hôm nay Bần Đạo viết thư này v́ thấy đủ bằng cớ rằng chính phủ Ngài họa ảnh của Bần Đạo với một vẻ lầm lạc vụng về, thô kém từ h́nh trạng lẫn tinh thần. Dẫu rằng đôi ta đă nhiều dịp gặp nhau, hiểu biết nhau từ buổi hội đàm tay ba cùng Đức Bảo-Đại tại Paris, trước khi Ngài về nước đảm nhận trọng quyền. Thêm nữa, chúng ta có nhiều lần mặt nh́n mặt, tay bắt tay, hội đàm cùng nhau mật thiết. Bởi cớ mà Bần Đạo lầm tưởng Ngài biết rơ tâm tính của Bần Đạo hơn ai hết mới thờ ơ như thế.
Ngài cũng nên hồi tưởng lại, nhớ kỹ càng mọi lẽ, mọi hành vi rồi định thử coi Bần Đạo là người ơn hay người oán. Vậy Bần Đạo xin tiếp tục tưởng rằng hay trạng thái h́nh dung của Bần Đạo chẳng phải chính tay của Ngài, mà là tay của ngoại lai có lẽ.
Bần Đạo xin nói rơ và thú thật cùng Ngài rằng Bần Đạo không thể nào ngồi xem Tổ-Quốc và giống ṇi bị ngoại bang lệ thuộc một phen nữa. Chẳng phải chịu bị quyền lực ngoại bang của một nước như Pháp buổi nọ mà lại bị hai khối : Đế Quốc Thực Dân Tư Bản và Cộng Sản Quốc Tế đua nhau tranh quyền bá chủ hoàn cầu. Bần Đạo xuất ngoại cốt để đủ quyền tự do của Bần Đạo đặng đầu cáo hội nghị Genève đă chủ định chia hai đất nước từ vĩ tuyến 17, Bần Đạo cho đó là một hành động áp bức, bất công như bức thơ số 20/HP-HN ngày 26 tháng 3 năm 1956 mà Bần Đạo đă gởi cho Liên Hiệp Quốc và các Liệt Cường Quốc Tế.
Nếu Bần Đạo c̣n ở trong nước th́ chắc rằng Ngài không cho Bần Đạo làm việc ấy.
Việc làm này Ngài đă đặng biết trước v́ khi hội nghị Genève dưới quyền Thủ tướng của Tứ Cường, Bần Đạo đă đánh một bức điện văn, mà bức điện văn ấy, Bần Đạo đă cầu Ngài cùng kư tên với Bần Đạo, Ngài cho lịnh nội bộ chính phủ của Ngài trả lời rằng theo thủ tục tức Ngài không thể kư bức điện văn ấy chung cùng Bần Đạo và biểu Bần Đạo tùy tiện gởi đi. Bức điện văn ấy cốt để làm ngưng cuộc Tổng Tuyển Cử ngày 20 tháng 8 năm 1956 cho đến ngày toàn dân giác ngộ, biết rơ chủ quyền của họ rồi mới định đoạt. Nếu thi hành liền th́ không tránh khỏi nội loạn.
Nghe ra dường như Ngài đă phiền trách Bần Đạo đă làm CHỦ TịCH ĐOàN Mặt Trận TOàN LỰC QUỐC GIA, điều ấy là một điều mà Bần Đạo vẫn măi c̣n ân hận. Khi ở Genève, sau khi Việt Minh đă thắng trận Điện Biên Phủ và hội nghị Genève đă định chia đôi đất nước, th́ Bần Đạo đă biết trước rằng họ đă gieo một tai hại lớn lao cho tương lai đất nước Tổ Quốc, nên hội diện cùng phái đoàn Việt Minh cốt để hiệp đồng tâm đức đặng thống nhứt nước nhà với phương pháp ḥa b́nh, hầu tránh nạn chiến tranh tàn khốc do ngoại bang xúi giục. Nhưng Bần Đạo đă bị thất bại v́ sự khinh rẻ khối quốc-gia và Việt-Minh, cho rằng chính phủ Quốc-Gia vô quyền hành, vô năng lực mà họ gọi là chính phủ bù nh́n. Thật ra chính quyền buổi nọ không căn bản, không năng lực v́ nạn đảng phái tương tranh, nhơn tâm bất nhứt, nên không thể đương đầu đối diện cùng họ. Cái khuyết điểm trọng hệ hơn hết là chánh phủ Quốc-Gia buổi nọ không hiến pháp và Quốc-Hội làm hậu thuẫn. Không biết bao phen Bần Đạo đă than thở cùng linh đệ của Ngài là ông Ngô-Đ́nh-Nhu về lẽ ấy, Ngài có thể hỏi chứng nơi ông th́ dư rơ.
Bần Đạo đă cầu khẩn Quốc-Trưởng Bảo-Đại ban cho ta một khí cụ cần thiết ấy, song Ngài vẫn chần chờ không quyết định, lại ra lệnh cho chánh phủ Nguyễn-Văn-Tâm lập một Quốc-Hội bù nh́n như Ngài đă biết.
Năng lực tranh đấu cùng Việt-Minh đă thất thế cùng mọi mặc về chính trị và quân sự. Khi họ thắng trận Điện-Biên-Phủ, đánh bại Pháp quân th́ họ đă quá hănh diện, khinh khi chánh phủ Quốc-Gia.
Họ quyết định kư ḥa ước với chánh phủ Pháp mà thôi, chớ không kể rằng ta có mặt.
Bởi hổ nhục ấy nên Bần Đạo mới tầm phương thống nhứt Quân Lực các đảng phái đặng hiệp một cùng Quân lực Việt Quốc-Gia thành một lực lượng duy nhất, đủ uy tín, oai quyền hầu ăn nói với họ.
Hại nỗi, trong khi Bần Đạo cầu nài cho Trung Tướng NGUYỄN-VĂN-HINH buổi nọ là Tổng-Tham Mưu-Trưởng Quân-Đội Quốc-Gia cùng Trần- Văn-Soái, Nguyễn-Thành-Phương, Lê-Văn-Viễn hội hiệp cùng nhau liệu phương thống nhất. Bởi tin tưởng rằng sở vọng ấy đắc thành mới xin phép chánh phủ Ngài đi giao du nơi Đài-Loan, Nhựt-Bổn và Triều-Tiên đặng hiểu rỏ t́nh h́nh quốc tế, khi trở về, th́ thấy sự nghiệp ấy đă tan vỡ bởi ngoài tranh chấp uy tín đă chia đôi họ, trở thành thù địch. Điều ấy có lẽ chẳng cần nói mà chính Ngài cũng đă dư hiểu.
Có lẽ Ngài c̣n nhớ, Bần Đạo đến Genève làm quan sát viên với một ủy ban do Đức Bảo-Đại chỉ định, khi đă hay biết quă quyết rằng hội nghị đă quyết định chia hai nước th́ Bần Đạo đă tuyên bố, mà lời tuyên bố đă làm xáo động cả dư luận Quốc Tế rằng : Nếu Việt Minh và Pháp quân tuân lịnh hội nghị chia nước ra làm hai, không có sự chấp thuận của toàn dân Việt Nam, th́ ta sẽ đương đầu cùng cả hai bên hết thảy.
Lời Tuyên bố ấy của một người Đạo như Bần Đạo nghĩ ra cũng quá đáng v́ không lẽ Bần Đạo làm điều ấy đặng. Đến nay, Bần Đạo phải nh́n nhận công nghiệp ấy đă về Ngài v́ Ngài đă thắng Pháp với một đường lối chính trị hay khéo. Ước mong rằng Ngài cũng thắng Việt Minh với một đường lối ấy th́ kỳ công của Ngài sẽ đặng hoàn toàn trọn vẹn.
Bần Đạo chỉ lo âu có một điều là sau 80 năm bị Pháp thuộc, dân tộc đă quật cường với biết bao xương máu mà ta lại c̣n phải chịu cảnh lưu huyết của ta một cách oan uổng, cốt nhục tương tàn, nồi da xáo thịt thêm nữa. Chủng tộc ta dân số chẳng hơn ai mà trót trên 10 năm tranh đấu, hy sinh sanh mạng, tài sản đă quá nhiều, Quốc Dân đă quá đau khổ với nạn chiến tranh, nên trong bức thơ số 21/HP-HN ngày 26-3-1956 của Bần Đạo gởi cho Ngài và Hồ-Chí-Minh, cầu khẩn nơi ḷng ÁI-QUỐC nồng nàn đă sẵn có của hai Ngài, đặng giải nạn diệt vong cho đồng bào và Tổ -Quốc.
Kết luận là Bần Đạo tưởng quả quyết rằng mọi hành động của Bần Đạo đều là công khai và hợp pháp, chẳng một điều chi bí mật, dối gian, v́ các hành động ấy điều xuất hiện do nơi ḷng ÁI-QUỐC nồng nàn và lương tâm Bần Đạo ra lịnh thi thố.
Ngài dường nghe chi những lời sàm nịnh của kẻ hầu cận bên Ngài cho rằng Bần Đạo muốn lập uy tín riêng ḿnh hầu mong mỏi đoạt thủ chính quyền, lập thành chánh phủ, thoảng như t́nh thế biến thiên thế nào đi nữa th́ cũng là tuồng cũ soạn lại mà thôi, chớ không chi khác cùng Bần Đạo hết, sự hay khéo của ta là làm thế nào bảo thủ toàn vẹn cả các thắng lợi mà toàn thể chúng ta thâu hoạch được đặng may múng thành h́nh, một đường lụa dệt mà mỗi tay thợ thay đổi mối cắt đứt rồi khởi đầu lại nữa th́ đường lụa ấy không thể nên h́nh, càng thay tay, càng rối rấm. Bần Đạo đă hiểu rơ như thế nên định phận ḿnh chỉ biết giúp đỡ cho mỗi chánh phủ từ trước tới giờ, chớ rất gớm ghê những phen thay đổi. Thật ra nếu Bần Đạo có tham vọng chiếm đoạt chánh quyền th́ đă làm rồi trước khi ĐỨC QUỐC-TRƯỞNG và Ngài về nước. Trong đạo sử của ta chưa từng thấy một vị giáo chủ ra tranh đoạt để giành chủ quyền đời. Ấy là điều đại kỵ của Bần Đạo. Bởi vậy nên mới chính ḿnh đi Hương Cảng hội đàm đặng rước ĐỨC BẢO-Đ[1]I về nước cầm quyền QUỐC-TRƯỞNG trong buổi nước nhà nguy biến, chớ Bần Đạo không chịu ngó vào nội bộ chánh quyền.
Cả đời Bần Đạo đă nguyện hy sinh đặng làm bạn và làm tôi tớ cho những tâm hồn đau khổ, cho những kẻ dốt nát nghèo hèn. Ngoài ra không có một điều chi tham vọng, không công danh, không quyền lợi, mới sanh một cách bất ngờ, một tâm t́nh không nịnh hót, không bợ đỡ, không cầu thân, không sàm nịnh, dường như đă thành kiêu căng, tự tin. Với tánh đức ấy nên muốn cho kẻ hèn hạ đặng nên danh, người vinh hoa đặng công chánh. Bằng cớ hiển nhiên mà cả chủng tộc điều thấy rơ Bần Đạo dám can đảm nâng đỡ binh vực, dạy dỗ những hạng cùng dân nghèo hèn, dốt nát ra thi thố cùng đời không hơn không kém, đă hy sinh nửa kiếp sống tạo nghiệp chung cho nơi cửa đạo, cho họ đủ sang trọng, vinh hiển, chớ chẳng kể chi đến gia nghiệp riêng rẽ của ḿnh.
Bắt chước hạnh chúa là thương yêu, nuôi dưỡng kẻ nghèo khó, cơ hàn, nhịn ăn chia áo cho họ. Tuy vào Đạo CAO-ĐàI mà trước mặt kẻ tín-đồ, Bần Đạo chưa hề chối Đạo CÔNG-GIÁO. Một điều có thể làm cho kẻ gian ác, xảo trá, tà tâm, oán ghét hơn là theo lời CHÚA dạy : chẳng nên đem bánh trẻ con đặng đem cho kẻ nghèo khổ bần cùng là con yêu dấu của CHÚA. Một điều đáng buồn cười hơn hết là những hạng dốt nát thường thường có tinh thần bội phản. Khi nó đă lập được thân danh, coi ḿnh là trọng, không biết nhơn nghĩa là ǵ bởi thiếu học, nó trở lại phản phúc là kẻ thường t́nh không chi làm lạ. Thường người tu v́ TỪ BI mà đă bị làm nạn nhơn của kẻ gian hùng ấy nhiều hơn hết. Bần Đạo tiếc rằng Ngài không t́m hiểu rơ Bần Đạo, mà đă ra lịnh cho chánh phủ của Ngài làm nhiều điều không hay đối cùng Đ[1]O và Bần Đạo đă làm cho t́nh thâm cảm giữa đôi ta một phần tiêu giảm quá nhiều rất nên đáng tiếc.
Bần Đạo nhứt quyết ngày trở về nước là ngày thấy đủ rơ ràng bằng cớ là Chánh phủ miền Nam khỏi bị khối Mỹ và Chánh phủ miền Bắc khỏi bị khối Nga, lệ thuộc với bất cứ với phương pháp nào một cách trực tiếp hay gián tiếp cũng vậy.
Sự đ̣i hỏi này chắc ngài cũng biết rằng Bần Đạo chẳng phải xin xỏ cho thân danh cá nhân của Bần Đạo mà là cho Ngài và cho cụ Hồ Chí Minh rơ rệt.
Nếu Bần Đạo muốn cầu danh lợi cho Đạo và cho riêng Bần Đạo th́ chắc hẳn không phải đường lối như thế, dám đủ can đảm ôm thù thiên hạ nơi ḿnh đặng cứu Vận-Mạng Tổ-Quốc giống ṇi, cử chỉ như thế không lẽ bị Ngài ghét bỏ. Trường hợp của Ngài cũng như của Bần Đạo, thời thế đă gây nên cho đôi ta cái hại phân chia nhau. Điều ấy do đâu mà đến chớ chẳng phải do nơi đôi ta đào tạo, cổ tục ta có nói : Thời thế tạo anh hùng, mà cũng không nhắc để cái phản ảnh của nó là : Anh hùng tạo thời thế. Hai điều ấy Ngài đủ sức lực, đủ can đảm, đủ quyền hành thi thố, thực hiện cả hai. Bần Đạo mong ước và cầu khẩn nơi Đức CHÍ-TÔN và các đấng thiêng liêng pḥ hộ Ngài, giúp đỡ Ngài thành công trong sứ mạng cứu nước, cứu giống ṇi trong lúc Quốc-Gia nguy biến. Ta c̣n có ngày gặp gỡ nhau nữa.
Bần Đạo gởi lời thân ái chào Ngài.
 
NAM-VANG ngày 10 tháng 10 Bính Thân
(DL. 12-11-1956)
 Hộ-PHÁP PHẠM-CÔNG-TẮC
 

BẢN DI NGÔN
GỞI HOàNG-THÂN NORODOM SIHANOU

 

Thưa Điện-Hạ,
Bần Đạo gởi những ḍng chữ này đến Điện-Hạ trên giường bịnh của Bần Đạo (bịnh viện Calmette). Sức khoẻ của Bần Đạo càng ngày càng suy giảm và Bần Đạo nghĩ không c̣n sống bao lâu nữa.
Vậy Bần Đạo gởi lần cuối cùng đến Điện-Hạ và Chánh-Phủ Hoàng-Gia Cao-Miên tất cả lời cảm tạ chân thành về sự khoản đăi rộng răi của Điện-Hạ và Chánh-Phủ Hoàng-Gia dành cho Bần Đạo với đoàn tùy tùng và cho tất cả tín- đồ của Bần Đạo.
Bần Đạo thành tâm cầu nguyện Thượng-Đế Cao-Đài và Phật-Tổ ban hồng ân che chở Vương-Quốc Cao-Miên và cho Điện-Hạ để chóng thực hiện và nhất là thành công vẻ vang chánh sách Ḥa-B́nh Trung-Lập và Ḥa- B́nh-Chung -Sống, chánh sách đặc biệt ưu ái của Bần Đạo và v́ nó mà Bần Đạo phải hao tổn sức khoẻ và cuộc đời của Bần Đạo mà không thể thực hiện được.
Bần Đạo thành tâm ước mong rằng Tổ-Quốc thân yêu của chúng tôi, nước Việt-Nam, có thể đeo đuổi theo Chính sách ấy trong một ngày gần đây, tay bắt tay cùng đi với nước Cao-Miên trong đường lối thương yêu và cộng đồng giữa các sắc dân và nhất là giữa hai dân tộc Miên-Việt.
Bần Đạo sẽ hoàn toàn sung sướng được yến kiến lần cuối cùng với Điện-Hạ để tỏ bày tất cả những lời cám ơn của Bần Đạo, nhưng Bần Đạo không biết sức khoẻ của Bần Đạo c̣n chờ được hay không ngày về của Điện-Hạ.
Dầu sao t́nh thân hữu thâm niên của chúng ta, nhơn danh t́nh yêu thương và t́nh huynh đệ giữa hai dân tộc Cao-Miên và Việt-Nam và nhất là nhân danh tương lai bất khả phân ly của hai nước chúng ta, Cao-Miên và Việt-Nam, Bần Đạo cung kính xin Điện-Hạ như một ân huệ đặc biệt và cuối cùng cho Thánh-Thất chúng tôi khỏi chịu dưới lịnh phá hủy, để giữ kỹ niệm độc nhất của Bần Đạo nơi đất Miên.
Để giúp Điện-Hạ có một ư niệm đứng đắn về t́nh h́nh qua, Bần Đạo trân trọng gởi đến Điện-Hạ một bản sao đơn khẩn cầu của Bần Đạo vừa chuyển đến Hoàng-Thượng.
Bần Đạo phải thoát kiếp nơi đây, Bần Đạo xin thỉnh cầu Điện-Hạ cho phép Bần Đạo tạm gởi thi hài ở nơi đất Miên dưới sự bảo vệ tối cao của Hoàng-Gia Cao-Miên. Ngày nào tổ quốc thân yêu của chúng tôi là nước Việt-Nam đă thống-nhứt, sẽ theo chánh sách ḥa-b́nh trung-lập, mục phiêu đời sống của Bần Đạo, tín đồ của chúng tôi sẽ di thi hài về Ṭa-Thánh Tây-Ninh.
Bần Đạo khẩn cầu Điện-Hạ và Chánh-Phủ Hoàng-Gia, sau khi Bần Đạo thoát xác, dành cho đoàn tùy tùng và cả thiện nam tín nữ của Bần Đạo, sự khoản đăi rộng răi và các sự dễ dăi như trước để tu hành theo tôn giáo của chúng tôi.
Biết rằng Điện-Hạ sẽ chiếu cố đến đơn thỉnh cầu này, Bần Đạo sẽ thanh thản nhắm mắt đem theo cái kỷ niệm dịu dàng nhất trong đời của Bần Đạo, cung kính xin Điện-Hạ chấp thuận ḷng tri ân vĩnh viễn của Bần Đạo.

 

Nam Vang ngày 14-5-1959
Hộ-Pháp