Thiên Thai Kiến Diện

Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc

 

Lời Kính Tŕnh

 Tập thi trường ca Thiên Thai Kiến Diện . Nhân dịp kỷ niệm ngày sinh nhựt  100 năm " 1890-1990 " của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc . Ban Đạo Sử Cao Đài Âu Châu tái bản thi phẩm Thiên Thai Kiến  Diện để dâng lên những thành tựu mới và ghi nhớ công ơn của NGƯỜI .

         Và Ban Đạo Sử Cao Đài Âu Châu chuẩn bị xuất bản những tác phẩm của Đức Hộ Pháp mà từ lâu vẫn c̣n trong tư liệu, nay điều kiện cặp

 nhựt hóa Kinh điển, tư liệu đang hoàn tất, cùng là mối ưu tư cần thiết về ấn loát, hy vọng toàn Đạo chuẩn bị việc trên và đừng để những ǵ của Đạo bị mai một hay mất biến, Kinh điển là điều hệ trọng cần phải bảo vệ nguyên bổn Chơn Truyền và nhu cầu truyền giáo đ̣i hỏi đến khả năng chuyên môn mạch huyết ấn loát .

         Toàn Đạo đă thấy đó, có rất nhiều nơi đang lưu nhưng không truyền v́ vậy sợ những ấn phẩm của Đạo vô t́nh làm thất lạc nguyên bổn Chơn Truyền .

        Ta hăy nhớ c̣n Chơn Truyền là c̣n gốc Đạo và Kinh điển c̣n là nhân loại hóa sinh, bởi thế người tín đồ Cao Đài hăy trang trọng ǵn giữ văn hóa Đạo, dù cho bao cuộc chinh nghiêng văn hóa Thiêng Liêng vẫn giữ được một nền tảng bền vững .

        V́ mục đích ấy, Ban Đạo Sử nay ấn loát trường ca Thiên Thai Kiến Diện của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc là để khởi đầu cho công tŕnh lưu truyền di sản Đạo .

        Ban Đạo Sử kính tŕnh ước nguyện nầy xin gửi đến toàn Đạo cùng đồng tâm công qủa, hầu lưu truyền Kinh điển trên b́nh diện rộng và tạo ra điều kiện như sức hấp lực bảo vệ di sản văn minh Cao Đài, cho mỗi ngày truyền giáo thêm viên măn và tăng tốc .

                                Paris 1990

                        Ban Đạo Sử Cao Đài Âu Châu

 

               Lời Tŕnh Dâng

 

        Thi phẩm Thiên Thai Kiến Diện của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc sáng tác vào năm 1930, thể thơ đường luật, bút pháp sáng tạo, lời thơ tuyệt ư và uyên thâm, âm điệu thi ca phản chiếu vi diệu truyền xa cơi đời, mang hương liệu nguồn sinh nối liền miền vô nhiễm .

       Lời thơ của Đức Hộ Pháp đă là một họa phẩm giá trị cho muôn đời và hóa thành thương ca chân lư Cao Đài, mở ra một nhịp cầu không gian đi tới tận cùng nơi miền thênh thang bờ cơi nhẹ bồng như:

        " Luân hồi Thánh ngữ để lưu truyền ,

        Đời chẳng tin mà cũng chẳng kiên .

        Năm Đạo nhiệm mầu răn thế giái ,

        Chí Trời yếu trọng độ nhơn duyên .

        Lời lành dầu gét, ngơ tai điếc ,

        H́nh dữ cũng ngừa để dạ kiên .

        Đui, điếc, thiệt, hơn tai mặt bít ,

        Thà ngu, hơn trí ư không hiền "

        Tâm đức thi ca đă vượt khỏi thời gian ngữ luận học để bước vào cơi giới Đại đức, lời thơ vi diệu sắc thái bao dung, đơn thuần tính Đạo, chan ḥa và cảm xúc, lời thơ cao vọi, trong veo như tiên thi nhập thế .

        Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc khi c̣n niên thiếu qủa là một thi nhân vang bóng một thời với bút hiệu Ái Dân, lời thơ của NGƯỜI đă thể hiện vầng chân pháp, chuẩn bị khai mở những giá trị tương lai cứu rỗi .

        Thiên Thai Kiến Diện là định luật của dấu ấn liên hợp cho đời nầy cùng Thiêng Liêng đồng ước hẹn, thơ ca của NGƯỜI là Kinh trí tuệ chảy ra và thấm vào nhơn sanh, đây là một khám phá mới đến từ chân trời quyền năng .

        Thi phẩm Thiên Thai Kiến Diện cho toàn Đạo một ẩn hiện kiến trúc Ṭa Thánh Tây Ninh ngày thành tựu, Thiên Thai Kiến Diện chỉ rơ giá trị chân thiện mỷ và những gần nhau không khoảng cách, lời thơ truyền giảng cải ác thành thiện, và để từ chối những hệ lụy d́m sâu trong lưu đày cơi sống .

        Lẽ hay và đẹp trong thi phẩm Thiên Thai Kiến Diện là yếu tố trung tâm hồn thơ, như một bức tranh cuộc đời nhiều mặt sống, bản sắc lời thơ đối thoại với bao tâm t́nh cộng sinh và đồng giă từ duy ngă để tiến vào ngưỡng cửa vinh danh Thượng Đế, bởi thế người Đạo hăy để hiểu ḷng :

        " Thà ngu, hơn trí ư không hiền "

        Chúng tôi đọc thi phẩm Thiên Thai Kiến Diện để tự răn và hiểu ḿnh có một chỗ đứng trang trọng trong cơi đời ô trọc nầy và Thiên Thai Kiến Diện đến với Đạo trong tinh thần đại hạnh vô ngă. Chúng tôi cảm ơn NGƯỜI,  và viết lời nầy với tư cách tŕnh dâng bởi ḷng thành

 vào dịp kỷ niệm ngày sinh nhựt 100 Đức Ngự Mă Thiên Quân .

 

 " Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc 1890-1990 "

Viết tại Thư Viện Cao Đài France

Paris 1990

Huỳnh Tâm

 

 

 

 

Thiên Thai Kiến Diện

Ngoài án Đào-nguyên sấn bước vào ,

Thiên thai Tiên đảnh trước cao-cao .

Mây lành che động làm khuôn cửa ,

Ṭng râm bao cung giống mặt rào .

Hạt Đạo đón đưa bay xạo-xự ,

Nai Tăng tiếp rước chạy lao xao .

Lừng Trời lửng đửng ngàn muôn kẻ ,

Cười nói mừng vui lến miệng chào .

*

* *

Miệng chào lại nhủ mặc Tiên-y ,

Mời đến rừng tre hội cuộc kỳ .

Bảy lăo nhắc t́nh già dẹo cẳng ,

Ba Bà hỏi việc mụ ham thi .

Đài Trăng chị Nguyệt đem cho ngọc ,

Cửa gió chàng Liêm dạy khải Tỳ .

Cúc, Trước, Mai, Lan hầu thiết đải ,

Tiêu-thiều nhạc trổi khách nâng ly .

*

* *

Nâng ly vừa cạn Hạt reo vang ,

Rằng chiếu đ̣i Ông đến điện vàng .

Buổi hiệp chưa cùng lời ấm lạnh ,

Cơn ĺa khó nín lụy ḥa chan .

Đưa chơn c̣n để câu căn dặn ,

Nương bước đường quen mắt ngó ngàng .

Ḱa túi Càn-Khôn vừa hé miệng ,

Làu-làu tứ hướng hóa giang san .

 

Tam Thập Lục Thiên Kư Bút

Xăm-xăm năm ngựa có mây đưa ,

Ba bực vừa lên thấy kẻ ngừa .

Con gậy tay cầm, râu tóc bạc ,

Cái nhà lá lợp cửa song thưa .

Cờ vàng quấn măng màu y-đạo ,

Nai trắng nương lưng gót vơ lừa .

Rằng chiều Ngọc-Hư sai mở ngỏ ,

Đại-Thần chầu chực tiếp người xưa .

*

* *

Người xưa quen thuộc đến vầy-vầy ,

Phong cảnh như ḿnh có ở đây .

Muôn xóm trông xa ḷi nóc lũy ,

Ngàn dâu đứng cận rơ ḿnh cây .

Thú cầm mập-mạp bầy thông-thả ,

Non nước trong veo trái vẫy-đầy .

Người có vợ chồng con cháu đủ ,

Rần-rần rộ-rộ góc trời Tây .

*

*          *

Trời Tây măn nhăn ngó qua Đông ,

Nhà ít người thưa bỏ ruộng đồng .

Gái lịch trai thanh nên đạo cốt ,

Mụ thơ lăo trẻ rất tiên phong .

Thanh thao nhạc phụng trên dưng liễu ,

Chát-chúa kèn nai dưới bóng ṭng .

Vật thực đủ mùi không khí hứng ,

Có ăn có mặc rất thong dong .

*

* *

Giang san in vẽ đẹp như thêu ,

Ngảnh lại trung-ương thấy chẳng đều .

U-ám mịt mờ màn thảm đạm ,

Thúi-hôi nhơ-nhớp cảnh đ́u hiu .

Một làn ác khí bao ràng-rịt ,

Muôn xác tinh ma nhảy dập d́u .

Nghĩ sợ hỏi đon c̣n ngợ vọng ,

Nơi nầy phép Phật gọi danh kêu .

*

* *

Danh kêu là Tục cuộc Trần hoàng ,

Ác-khí làm giềng buộc trái oan .

Ma thịt quỉ hồn chôn xác chết ,

Tà thần tinh quái nuốt xưng tan .

Bờ sông chín ngọn c̣n in dấu ,

Cửa ngục mười đ́nh khó đặt an .

Chờ bóng Thái dương lên chính giữa ,

Soi vào địa nghiệt mới tiêu tàn .

*

* *

Tiêu tàn tận thế ắt đời rồi ,

Nghe sợ hải hùng phải nín hơi .

Mở mệt nửa say rồi nửa tĩnh ,

Ngẩn ngơ ḥa đứng lại ḥa ngồi .

Thương người nghĩ bạn ḷng chưa xót ,

Tưởng vợ v́ con dạ ngậm ngùi .

Nài nĩ xin đ́nh ngày tận diệt ,

Hầu lo độ rỗi phỉ t́nh tôi .

*

* *

T́nh tôi lai láng lụy tuông dầm ,

Vừa ngoái lại nh́n cảnh tối tăm .

Một kẻ tiểu đồng pḥ Phất-chủ ,

Đôi nàng Tiên nữ quạt hương trầm .

Xe mây bốn chỗ vừa người dựa ,

Ngựa tuyết năm con thiếu kẻ cầm .

Đổ tiếng chuông khua muôn tiếng biểu ,

Lên đường không khí lướt xăm-xăm .

*

* *

Thong dong trở mặt ngó qua Nam ,

Người chẳng phải Tiên ắt chẳng phàm .

Muốn đắc lọc Trời lời chẳng thốt ,

Toan thâu của Đất sức không làm .

Một câu khẩn nguyện công đầy đủ ,

Trăm họ an nhàn lợi hết tham .

Núp phướn tiêu diêu làm chủ quỉ ,

Chiếm quyền bốn hướng một ḿnh cam .

*

* *

Cam day hướng Bắc xét cho cùng ,

Thấy lửa lẩy lừng trận khói ung .

Cảnh vật bể khua lợi cốp cốp ,

Thành đài hư nổ tiếng đùng đùng .

Trên lầu chúa quỉ người ba mặt ,

Dưới ngỏ âm hồn tướng bốn lưng .

Cây, cỏ, thú, người đều trở ngược ,

Gươm đâm tên bắn chết trùng trùng .

*

* *

Trùng trùng oan quỉ chạy lao xao ,

Thấy khổ ḷng ta bắt nghẹn ngào .

Cơi tục can qua dầu phải rứa ,

Xứ thần tai ách có vầy sao ?

Ḍm quanh buồn kiếm ông ǵa xọm ,

Ngó trái mừng nghe tiếng má đào .

Ngước mặt nh́n tuờng người chẳng lạ ,

Hộ Pháp: Hỏi rằng bạn đến trước hồi nao ?

*

* *

Hồi nao chàng hỏi chị bên kia ,

Bạch-Y Tiên-Nữ: Sản sốt day qua, ủa lạ ḱa !

Thật qủa tri âm cười chúm chiếm ,

Vội nh́n cố hữu hỏi lia lia .

Rằng nơi trần thế chàng không đoái ,

Noi bước non Tiên thiếp chẳng ĺa .

Ba lượt thiên thai cầu mở lối ,

Từ đây thảm sớt với buồn chia .

*

* *

Buồn chia thảm sớt chẳng nên hồi ,

Vinh hiển nay ḿnh đă đặng ngôi .

Bỏ lúc nhớ thương quên nhắc đến ,

Gặp khi hội ngộ vội khuyên ngồi .

Mây bay rửa mặt mưa tuông đổ ,

Ngựa chạy vùng ḿnh nước cuộn trôi .

Gío lạnh trầm hương hơ ấm áp ,

Thân dầm Phất-chủ quạt khô rồi .

*

* *

Khô rồi xe thoát đến Trời vàng ,

Bên mặt nghiêng ḿnh mới hỏi han .

Hộ Pháp: Phong cảnh hỏi qua xin khá tơ ,

Bạch-Y Tiên-Nữ: Rằng ngôi địa chủ lo sanh hoạt .

Ấy phẩm Thần Hoàng định loạn an ,

Lành dữ thưởng răn coi qủa báo .

Rồi đây ta rơ máy hành tàng .

*

* *

Hành tàng ví biết lẽ cao sâu ,

Đến phẩm Nhơn Thần cũng chẳng lâu .

Ba hiệp trời vừa qua tối sáng ,

Bốn phương mây lại biến thành lầu .

Trước thềm có Lăo ưa nương gậy ,

Bên cạch thêm người đứng vuốt râu .

Mở tượng âm dương đưa dủ xuống ,

Rơ ràng cảnh vật khắp đâu đâu .

*

* *

Đâu đâu thiên địa cũng đồng khai ,

Rảo bước xuống xe đến Dịch đài .

Đài ngắn tư bề ngăn đủ chín ,

Thấp cao ba bực nóc chia hai .

Đưa lên một phép thâu Đài thấp ,

Thấy trước nhiều ông bận áo dài .

Binh khí quanh ḿnh khua rổn rổn ,

Mỗi viên hầu hạ một vài trai .

*

* *

Vài trai đến gọi nói chi chí ,

Vội rước ai ai đến tức th́ .

Biết mặt tánh danh chưa nhớ chắc ,

Tưởng ḿnh quen thuộc cũng e khi .

Mấy người nhắm dạng đều oanh liệt ,

Bốn đứa đi xe cóm róm qú .

Mau miệng khuyên rằng đừng quá lễ ,

Hể cao phẩm vị ắt cao nghi .

*

* *

Cao nghi đ́nh bước trước ḥa sau ,

Như các viên quan buổi tựu trào .

Đài thượng đồng xem qua Bắc đẩu ,

Ngôi sao sáng chói thấu Nam tào ,

Hàng hàng binh ngóng tờ Thiên chiếu .

Ngủ ngủ quân hầu tướng một đao .

Rộn rực tới lui xem lố-xố ,

Da vàng sắc nước giống người Tàu .

*

* *

Người Tàu lại có lộn người Tây ,

Một việc xuôi mưu đến bốn thầy .

Liệng giáo buông khiêng binh đỗ dữ ,

Sa cơ thất trận tướng ra ngây .

Đói cơm khát nước hơi than dậy ,

Kiếm vợ t́m con máu đổ đầy .

Có kẻ nhỏ trai răng trắng đến ,

Nơi nơi lặng lẽ hết đua tài .

*

* *

Đua tài bay nhảy giữa thanh không ,

Nam hướng xôn xao biết mấy rồng .

Phun sáng hào quang mây trổ trắng ,

Chiếu vàng độ thể đất nên hồng .

Lộng tàng vui rước người ba miệng ,

Nghi trướng hoan nghinh " Mắt " một tṛng .

Vùng vụt câu tiên hươi mỗi hướng ,

Nhơn sanh khâm phục khắp Tây-Đông .

*

* *

Tây Đông đến học chữ thanh nhàn ,

Nắm đặng oai quyền chiếm một phang .

Đạp đất thành vàng nên của báu ,

Thổi tro cất lủy sửa nhà an .

Thảnh thơi biển rộng ngư mừng nước ,

Thanh tịnh rừng sâu thú lập làng .

Người hưởng Thái b́nh cơm cứng miệng ,

Nam mô xúm tụng tiếng nghe vang .

*

* *

Nghe vang tiếng sấm nổ phương Tây ,

Dị điểu bay lên liệng cả bầy .

Mỏ ngậm lửa hồng lôi điển nhoáng ,

Đuổi lừa thủy quái vơ phong gầy .

Chờn vờn xé đất yêu gài rọ ,

Lẫn bẫn ngăn sông quỉ đống chài .

Túng thiếu lại cầu người chẳng tiếp ,

Giao long chín miệng cắn nhai thây .

*

* *

Nhai thây c̣n sót cũng nhiều người ,

Bị trận mê hồn chết ngộp hơi .

Lễnh nghễnh thây phơi nằm chật đất ,

Loi nhoi hồn chạy khóc long Trời .

Có người đầu khỉ mang đai sắt ,

Hóa phép Thiên lung chiếu bóng người .

Che bớt nạn tai người sống rốn ,

Đem vào Nam gởi để an nơi .

*

* *

An nơi Tây lại trở xem Đông ,

Cửa nát nhà tan đă chập chồng .

Biển lặng bốn phương thành nhốt cá ,

Nước tràn khắp hướng núi đoanh rồng .

Thuyền trôi lố-xố người trần lổ ,

Tuyết bủa giăng giăng thấy lạnh lùng .

Sấm nổ động Trời xoi đất lủng ,

Tiêu tàn cảnh vật ngó không không .

*

* *

Không không Nam hiện tướng cầm cung ,

Đẹp đẽ như gương chiếu khí hùng .

Vỗ cánh cơi Đông qua thoát thoát ,

Đưa tay tướng mạnh đến trùng trùng .

Lấp tên bắn biển loài người phục ,

Trổi tiếng kêu non cảnh vật tùng .

Cầm ấn Tử vi đưa chói rạng ,

Đem giao quyền phép một người lùn .

*

* *

Người lùn vừa thọ, tướng vừa tiêu ,

Cảnh vật u-thâm giống cảnh chiều .

Ngao ngán trầm hương bay phưởng phất ,

Lạnh lùng gió tuyết thổi đ́u hiu .

Bồi hồi ngước mặt trông người hỏi ,

Dịu ngọt khuyên ḿnh có tiếng kêu .

Bốn mặt quen nh́n c̣n đủ bốn ,

Bao nhiêu khách lạ mất đều đều .

*

* *

Đều giăng tay dắt xuống thang lầu ,

Đồng bước lên xe mới ngó nhau .

Cuộn cuộn mây vần bay thoát thoát ,

Lia lia vó ngựa nhảy mau mau .

Đạm màu xe tuyết dường sơn đỏ ,

Ngó mặt Tiên nương ửng má đào .

Vui miệng hỏi rằng thần phẩm ấy ,

Quyền hành chuyển thế mới ra sao ?

*

* *

Ra sao chẳng kẻ thốt nên lời ,

Nàng bận áo xanh trước vỉ hơi .

Thanh-Y Tiên Nữ: Danh tiếng đă thừa cùng mặt đất ,

Nghề trây muốn trải nửa lừng trời .

Hộ Pháp: Thưa rằng quen thói e hư nết ,

Dọa bợm làm nghiêm sợ chán đời .

Nghĩ cơi Bồng lai xưa mấy mặt ,

C̣n tôi bao nă dám làm hơi .

*

* *

Làm hơi hại mầy mặt hồng nhan ,

Ghẹo kẻ riêng thương đặng phụ phàng .

Dưới bóng trăng thanh dầu lánh tội ,

Trước gương " Minh Cảnh " có liên can .

Đảnh mê tính rửa bao hàng lệ ,

Biển ái bỏ trôi mấy đoạn tràng .

Thánh chất v́ trên không đở vững ,

Bên ḿnh đeo đuổi mấy hồn oan .

*

* *

Hồn oan mấy chị trước ra sao ?

Hai thiếp nay đây có khác nào .

Những ước giao lê nhè đổi kệ ,

Mong nguyền đổi phụng lại ngồi lao .

Nhớ ơn giải cứu trao gươm huệ ,

Chặt mối oan khiên trở động đào .

Tuy biết phàm duyên là tục trái ,

Nay nh́n tạng mặt nghĩ c̣n đau .

*

* *

Bạch-Y Tiên Nữ: C̣n đau chị lại nói ra chi ,

Nông nổ em đây mới gọi kỳ .

Cơi thọ nay vinh câu phước hạnh ,

Non thề xưa lắng chuổi ai bi .

Màu hồng chàng nhuộm cho nên trắng ,

Ngọc quí người quăng đến phải t́ .

Dệt gấm Hồi-văn chưa, đă mấy ,

Hơn ngồi trươu nuốt tấm t́nh si .

*

* *

Hộ Pháp: T́nh si hai chị đổi bao sầu ,

Trở trách chi anh sải trọc đầu .

Giấc điệp toan phương cây tùy giác ,

Cầu lam đổi nhịp sửa Ngân cầu .

Sông Tương đổ ngọc làm cam lộ ,

Đảnh giáp trao châu cất phụng lầu .

Chia miếng muối dưa chưa đủ Đạo ,

Thà dâng thế giái đứng chung bầu .

*

* *

Chung bầu nay mới đặng chung xe ,

Đừng nói chi chi phép nấu chè .

Hỏi phẩm nhơn thần dấu chẳng nói ,

Chác nghề thổ-táo quyết không nghe .

Thanh-Y Tiên Nữ: Rằng quyền thay đổi là nhân sự ,

Gia đạo hưng suy nghĩa bạn bè .

Nghiệp đế cơ vương gầy đảng phái ,

Văn tài trí sĩ lập nên phe .

*

* *

Nên phe Thần tướng kéo đi đâu,

Hể đến ngang xe cúi gật đầu .

Khí vơ hùng hào mang măo giáp ,

Oai phong lẫm liệt xách qua mâu .

Linh quang chiếu diệu ḿnh pha ngọc ,

Pháp lực cao cường gót phụng châu .

Quân lịnh nghiêm trang hàng ngũ chỉnh ,

Ngựa voi rần rộ trót giờ lâu .

*

* *

Giờ lâu mới thấy dạng lầu đài ,

Phép tắc " Ông Ǵa " gẫm thiệt hay .

Đứng chót tháp cao ngờ dạng vắn ,

Thấy xe vừa cận trổi cười dài .

Khương-Thượng: Rằng râu tóc bạc tuy ra lăo ,

Nghĩ sức anh hùng cũng sánh trai .

Lập bản Phong-Thần ta chủ khảo ,

Càn khôn biết mặt gậy cùng nai .

*

* *

Nai vừa chạy nhảy giữa thanh không ,

Hộ Pháp: Bát-Quái-Đồ xây đủ chín ṿng .

Từ hướng trung ương hầu Ngủ nhạc ,

Thiên-binh thần tướng đến ngàn trùng .

Sáng ḷa sấm nổ hào quang chiếu ,

Luân chuyển khí dời trận gió giông .

Bát-Quái-Đài phủ vây bửu pháp ,

Đứng trên điều khiển có lôi công .

*

* *

Lôi công trở ngoắt ngựa xe bay ,

Đem bốn đứa tôi đến chót đài .

Rằng trước cho coi quyền giúp nước ,

Rồi sao tỏ rơ phép giao tài .

Kim-Quang hiền hữu tua ra sức ,

Điển-Mẩu muội-nương khá trổ tài .

Phút chút Càn Khôn nên sáng suốt ,

Máy linh cơ-tạo thảy đều khai .

*

* *

Khai rồi Ngài múa cập roi thần ,

Chớp nhoáng hào quang chiếu sáng trăng .

Thế giái ba ngàn qua có lớp ,

Địa hoàng bảy lẻ đến từ tầng .

Bộ châu bốn cơi người đều đủ ,

Điện ngọc cửu viện Thánh đứng tuần .

Xin trước xem Nam cho thỏa mằt ,

Rồi sau các hướng tới lần lần .

*

* *

Lần lần thế giái xẹt kim quang ,

Bát-Quái-Đài xây giống địa bàn .

Vừa đứng lại ham nh́n cảnh vật ,

Thoạt trông qua mừng vẽ giang san .

Cảnh vui thú đẹp người hiền hậu ,

Nghiệp khéo nghề hay nước lạc nhàn .

Một mối thương tâm c̣n buộc dạ ,

V́ nhiều kẻ khó rách lang thang .

*

* *

Lang thang lưới thưới bắt đau ḷng ,

Kêu đứng Phước Thần hởi bớ Ông .

Ông nắm quyền ban, ban chẳng khắp ,

Ông cầm phép thưởng, thưởng không đồng .

Để qua các hướng xem ba chỗ ,

Gây lộn hai ta tính một ṣng .

Cười nói phước nầy thường ghét lộc ,

Cho hay lộc phước chẳng đồng công .

*

* *

Đồng công khó hiệp Đạo cùng Đời ,

Nhơ xác tinh thần hết tốt tươi .

Ví tính cầm quyền toàn trái đất ,

Đừng lo nâng phận một phương Trời .

Nghiệp nghề đợi lỗ trao cô thể ,

Lợi lộc phương Nam hưởng cấp thời .

Như tưởng lời khuyên c̣n hiếp bụng ,

Đạo đem đổi lộc dễ như chơi . " Cười "

*

* *

Như chơi lời nói rất kỳ khôi ,

Đem lọc mua Tiên thấy mấy hồi .

Vùn vụt tiếng roi quơ nhấp nhoáng ,

Mờ mờ cảnh vật thụt thùi lui .

Vỗ tay tiếng biểu c̣n suy nghĩ ,

Gây gổ trí quên hết nhớ lời .

Thấy cảnh đẹp sinh điền đất rộng ,

Trải nằm ngửa mặt giống tranh bồi .

*

* *

Tranh bồi trước cửa kẻ kỳ h́nh ,

Bị đoạt lại rồi tính muốn xin .

Hung bạo ngoài gian lo lấy trộm ,

Nhân từ trong sải cúi làm thinh .

Giữa tờ sơn thủy vừa xôm cẳng ,

Sa chiếc lang châu đánh nát ḿnh .

Cơi Bắc ồn ào nghe tiếng ré ,

Ghe phung tên lửa bắn tiêu binh .

*

* *

Tiêu binh cảnh vật hiện nguyên h́nh ,

Thiên hạ thái b́nh dứt chiến chinh .

Thầy sải ngồi ca kinh cứu khổ ,

Học tṛ xúm tụng kệ Quỳnh-đ́nh .

Trên đầu rực rở vô vi khí ,

Trước ngực sáng ngời huệ nhăn tinh .

Tà-quái sau lưng đeo mắt vẻ ,

Đánh thoi bổn Đạo cũng làm thinh .

*

* *

Thinh không tiếng sấm nổ đùng đùng ,

Tà quái té nhào nhảy tứ tung .

Sót một yêu lồi nằm sấp cật ,

Thêm hai tiểu quỉ đứng bên hông .

Đức cầm đùi đục thằng nghiên mực ,

Cậu bận áo nâu chú khố hồng .

Thấy mặt lung yêu toan đến gở ,

Bút linh chiếu phép hóa côn trùng .

*

* *

Công trùng c̣n đoạt được nhơn duyên ,

Ngũ bộ lôi công địng sát liền .

Sét đánh nát thây ra đất cát ,

Đời mừng dứt giống kết oan khiên .

Ngũ Lôi: Xưa người chẳng sợ điều nghe bóng ,

Nay Phật cho xem cuộc nhăn tiền .

Ví biết vạn căn thường qủa báo ,

Chưa vào Phật vị cũng Thần Tiên .

*

* *

Thần Tiên từ trước độ loài người ,

Ô-trược nay gần sợ hổ ngươi .

Nam-nhạc cho xem h́nh trị thế ,

U-minh hiểu phỏng luật răn đời .

Dứt lời vội giục đôi roi phép ,

Hiện tượng liền sanh một cảnh Trời .

Trông núi xa xa nhà lố xố ,

Ṭa mây Nam nhạc ở trên khơi .

*

* *

Trên khơi nghe tiếng khóc pha cười ,

Có kẻ dị h́nh, kẻ tốt tươi .

Quỉ dắt âm ty th́ rống khóc ,

Thần d́u tiên cảnh lại reo cười .

Bọn dân địa phủ h́nh đen nám ,

Tốp khách thiên-môn xác sáng ngời .

Chồng thấy vợ thành chồng chắt lưỡi ,

Vợ xem chồng hiển vợ than cười .

*

* *

Trời cho thành đặng dể chi đâu ,

Trước xuống sông Ngân rửa sạch sầu .

Ḷ tạo lửa thiêu Thần hết trược ,

Cảnh minh sáng chiếu khí tinh màu .

Nam-Tào đến học cho nhầm lễ ,

Bắc-Đẩu vào xin đặng phép mầu .

Đắc lịnh Hư-cung chầu Bạch Ngọc ,

Mới tường căn cội của ḿnh đâu .

*

* *

Ḿnh đâu đặng dịp thấy như vầy ,

Xin phép xem tường phía hướng Tây .

Xây trái Đài-Thần vừa rúng trở ,

Sấp lưng ai nấy cũng đền day .

Kim-Quang Điểm Mẩu đi tuần tới ,

Văn Khúc Long Vương ở giữa ngày .

Xách búa lổ ban đương chỉ vẽ ,

Xây thành cảnh đẹp rất nên hay .

*

* *

Nên hay Thần phẩm xuống cùng lên ,

Dạy dổ nhơn sanh phép Địa-Tiên .

Hồn trí ngao du trên đảnh núi ,

Xác linh dao động cúi đầu truyền .

Thâu cơ Tạo hóa chưa vừa sức ,

Thủ máy Càn khôn gẩm đủ quyền .

Xứ đẹp người sinh giàu có lớn ,

Buồn trông ít thấy bực người hiền .

*

* *

Người hiền trước có đức thương sanh ,

Nay đến cháu con ở chẳng lành .

Vinh hiển hưởng thừa dư chút sót ,

Tội t́nh chất để đă nên thành .

Chờ xem Thiên luật không tư kỷ ,

Mới rơ Thần minh chẳng vị t́nh .

Vừa chỉ roi thần ra trước mắt ,

Cảnh vui đổi thảm thấy mà kinh .

*

* *

Mà kinh v́ thấy cửa nhà tan ,

Thành lũy trở ra đống bụi tàn .

Dưới Đất trồi lên thằng quỉ chúa ,

Trên Trời khóc dậy lũ hồn oan .

Đoạt gươm Điển Mẩu làm binh khí ,

Múa búa Lỗ ban lấp chiến tràng .

Bảo cọp thành chiên đời tận diệt ,

Dời non đổi biển hại nhơn gian .

*

* *

Nhơn gian đương chịu khổ đao binh ,

Thấy một Nàng ra nói cứu ḿnh .

Áo kết trăm hoa thân thể đẹp ,

Mảo thừa muôn ngọc mặt mày xanh .

Dịu dàng tay mặt lầu xâu chuổi ,

Yểu điệu tay kia nắm tấm h́nh .

Đưa tượng Bạch-My ra hiển hiện ,

Chúng sanh xúm lại gọi chơn linh .

*

* *

Chơn linh gẩm cũng thật linh thay ,

Cái sắc tà tinh phép qúa tài .

Lũ qủi đến nh́n thần trí loạn ,

Loài ma xem thấy tánh tâm say .

Để chơn trên đất đen ra trắng ,

Ngó mắt đến người gái hóa trai .

Giọng hát giọng đờn làm kệ sám ,

Phồn hoa xây lập khắp trong ngoài .

*

* *

Trong ngoài đă măn tới đền thờ ,

Nàng cũng không từ để bước nhơ .

Ướm hỏi thánh linh đâu vắng dạng ,

Mở lời miệng ngợ nói u-ơ .

Nam phương bay tới ngàn đầu cánh ,

Tây-thổ trương lên một lá cờ .

Chính giữa linh quang xem thấy Phật ,

Việc nàng đuổi quỉ cũng thiên cơ .

*

* *

Thiên cơ chưa rơ máy huyền vi ,

Hộ Pháp: Muốn hỏi việc sau sự tức th́ .

Ngũ Lôi: Rằng nếu tỏ tường cơ bí mật ,

Phương nào thấu rơ phép tiên tri .

Cửa quyền Tây-nhạc kia xem thử ,

Mặt luật Phong-đô nọ phải tùy .

Phú quí lợi danh đời gọi phước  ,

Nào dè là cội cửa ai-bi .

*

* *

Ai bi giọng thảm kể vang vầy ,

Hồn kẻ bể đầu kẻ quẹo tay .

Xúm kiện Long vương rằng ác nghiệt ,

Đều thưa Lôi-Chấn ở không ngay .

Thằng hờn đá đánh ông Quan-Vơ ,

Đứa giận ném quăng miếng đính bài .

Oan quỉ không h́nh la hét ó ,

Chữ " Công " hiện sáng ngó nhăn mày .

*

* *

Nhăn mày lũ khác, khóc hu hu ,

Trong đó có vài lăo sải tu .

Mổ bụng độn vàng quăng phổi ruột ,

Xẻ đầu nhét sách ốm h́nh thù .

Xương tàn sọ thúi gần người trí ,

Thuốc độc gươm trường, cận đứa ngu .

Giành-giựt trước sau tranh giỏi dở ,

Chữ " Danh " ngó thấy mắt đui mù .

*

* *

Đui mù hiếm kẻ cẳng ḍ đường ,

Ṃ cát kiếm vàng thấy thảm thương .

Cắt xẻ thịt người đem đổi bán ,

Sớt-sang máu chúng đựng cân lường .

Cần cù dấu của trong khuôn sọ ,

Lẩn bẩn tô nhà với bột xương .

Nghĩ nhơ gia tài xưa khóc măi ,

Trên đầu chữ " Phú " chiếu như gương .

*

* *

Như gương nhiều kẻ dẹp xinh thay ,

Cũng đội măo cao mặc áo dài .

Oan quỉ chạy theo đ̣i trả mạng ,

Cô-hồn níu lại hỏi xin thây .

Trong đài các thấy đầy xương chất ,

Ngoài áo măo xem máu dẩy đầy .

Xẻ thịt quỉ ma làm tiệc lớn ,

Ánh ḷa chữ " Qúi " dọi vào ngay .

*

* *

Hộ Pháp: Ngay gian hai lẽ biết sao thông ,

H́nh luật thiêng liêng mới giữ pḥng .

Một khuyết một đầy không đổ đủ ,

Một lui một tới khó cân đồng .

Sang nhờ có khó sang nên mặt ,

Khó chịu nương sang khó bận ḷng .

Đời tỷ sợi dây đôi trẻ kéo ,

Một đường thâu đặng một đường buông .

*

* *

Buông là tại dở yếu cam đành ,

Đă phải tội d́ giỏi mạnh lanh .

Ai cũng thủ thân nơi hổn độn ,

Đời là chiến trận lúc đua tranh .

Dở hay nào để chờ thân chết ,

Bươm chải toan ǵn vẹn kiếp sanh .

Đă gọi trần hoàng là bể khổ ,

Nếu không lội-lặn tội trầm ḿnh .

 

*

* *

 

Trầm ḿnh giải lư bắt buồn cười ,

T.T.T.Ông: Nói ngược sao người chẳng hổ ngươi [1]

Thiên ư nếu không cho sống thác ,

Địa-hoàng há dứt lập nên đời .

Bỡi thương sanh cậy chưa vừa sức ,

V́ ai chúng sanh chẳng thuận lời .

Nhơn mạng là Trời ḿnh để chết ,

Để Trời phải chết há là chơi .

" [1] Thoàn-Trương Tiên Ông "

*

* *

Chơi như tánh nết đứa con ranh ,

Biết bánh là ngon cứ giựt giành .

Chưa phải hột cơm phần sống thác ,

Ấy nhờ Thánh đức của cao xanh .

Côn trùng giết chết c̣n ngăn cấm ,

Nhơn loại hại nhau há nỡ đành .

Tiên, Phật độ sanh là chứng qủa ,

Nên người trước độ mới nên ḿnh .

*

* *

Nên ḿnh khá chọn kế chi nên ,

Cái kiếp nhơn sanh chớ tưởng bền .

Thân tục-lự gây hoàn xá-lợi ,

Của phù du đổi bửu thiêng liêng .

Đọa căn lắm kẻ chê điều hậu ,

Đắc qủa ít trang gớm sự tiền .

Chưa để đeo lưng trăm mối nợ ,

Mà vào cho lọt cửa Thần-Tiên .

*

* *

Thần-Tiên đă hiểu chán đời rồi ,

Hộ Pháp: Có biết cho người khó vậy thôi .

Chẳng khác mắt mù đi cảnh tối ,

Cũng như mũi nghẹt hữi mùi hôi .

Hơn thua lưỡi giáo chưa an đứng ,

Gỉa thiệt đầu chông khó dễ ngồi .

Ba vạn sáu ngàn ngày ví sống ,

Chung qui nào tưởng thoát luân hồi .

*

* *

Luân hồi Thánh ngữ để lưu truyền ,

Đời chẳng tin mà cũng chẳng kiên .

Năm Đạo nhiệm mầu răn thế giái ,

Chín Trời yếu trọng độ nhơ duyên .

Lời lành dầu gét, ngơ tai điếc ,

H́nh dữ cũng ngừa để dạ kiên .

Đui, điếc, thiệt, hơn tai mặt bít ,

Thà ngu, hơn trí ư không hiền .

*

* *

Hiền lương thường đặng tốt tâm linh ,

Quăng đại Càn khôn hiệp tánh t́nh .

Lời mọn ḿnh lầm thường tưởng trọng ,

Tội to kẻ lỡ lại cho khinh .

Chở che khách tục hay tha thứ ,

Yêu mến tăng đồ biết giựt binh .

Cứu chuộc lắm gương Thiên Thánh để ,

Liều thân độ chúng dạ khăn-th́n .

*

* *

Khăn th́n nhắc thế lại cho cân ,

Ḥa giọt đau thương tắm khách trần .

Nẽo đọa trầm luân đo chắc thước ,

Luật h́nh Ngọc-điện sửa vài phân .

Giác mê thức tĩnh hồn căn-cước ,

Cảnh tĩnh d́u an kẻ số phần .

Hể thấy nhơn sanh c̣n thảm khổ ,

Liều thân nào nại phận gian truân .

 

*

* *

 

Gian truân thay cho phận làm người ,

Oằn oại cuộc đời gánh hết hơi !

Ḿnh biết lấy ḿnh tuy chẳng thẹn ,

Miệng chê nhớp miệng cũng ghê lời .

H́nh ma bóng quỉ trêu cay mắt ,

Cổ quái tữ tà bẹo xốn ngươi .

Bụm miệng máu rơi dầu nuốt hận ,

Tâm tu ghét tục thoát xa vời .

*

* *

Dời qua Bắc hướng đặng xem qua ,

Mới rơ Chánh kia chẳng nệ tà .

Tà Chánh thế gian không đặc biệt ,

Chánh Tá tâm nội có đâu xa .

Khử Tà thân Chánh, Tà kiên Chánh ,

Phụ Chánh cận Tà, Chánh biến Tà .

Người có chơn hồn, hồn ấy mất ,

Muốn xem hí mắt ngó sao xa .

*

* *

Xa trông cảnh vật đă xây tṛn ,

Bát hướng Đài ngừng thấy nước non .

Động cũ Thần Tiên c̣n để dấu ,

Chùa xưa Phật tích nát hư ṃn .

Chấp kinh Khổng-sĩ nho phong giỏi ,

Năm nghiệp Đào-quân măi măi khôn .

Nẽo Thánh tuy quên tay dẩy cỏ ,

Nều văn miếu thấy khói hương c̣n .

*

* *

Hương c̣n bát ngát chốn Nam giao ,

Thoạt thấy phong ba vụt thổi ào .

Ngọn tháp chín rồng hư xát-rạt ,

Ngoài bờ muôn quái dậy lao xao .

Đảnh xanh lửa cháy phun muôn ngọn ,

Sông Hắc nước lưng đựng một gào .

Đều cầm mỗi đứa một chùm sao .

*

* *

Chùm sao khi tỏ lại khi mờ ,

Thấy ngọn cờ hồng gió phất phơ .

Cơi ngoại reo vang quân vị quốc ,

Trong thành ong-óng tiếng con thơ .

Ruộng dâu gươm giáo dày như dạo ,

Biển loạn nước xao dảy quá bờ .

Chộn nhộn khó phân người với quỉ ,

Đền vàng người ngựa bóng u-ơ . ..

 

Chung