Lược Thuật Ṭa Thánh Tây Ninh

Bản quyền hội thánh

 

T̉A-THÁNH TÂY-NINH xây cất tại xă Long-Thành, Quận

Phú-Khương thuộc tỉnh Tây-Ninh

 

            V́ T̉A-THÁNH ở tỉnh Tây-Ninh nên quen gọi " T̉A-THÁNH

TÂY-NINH ". Đúng hơn không phải mang tên " Tây-Ninh ", mà là " T̉A-THÁNH

ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ " hay " T̉A-THÁNH CAO-ĐÀI " .

            Những danh lam thắng cảnh ở Việt-Nam đă lần lần hiện rơ

h́nh ảnh trên các sách, báo...

            Biết bao cảnh đẹp nên thơ từ Nam chí Bắc đọc giả xem qua

hẳn dư ảnh vẫn c̣n phảng phất trong tâm hồn một cách linh hoạt...

            Chúng tôi c̣n nhớ ông A. Bonnard một nhà văn

 

                                   V

 

                     LỊCH-SỬ  KIẾN-TRÚC  T̉A-THÁNH

 

        Đây là một thiên sử kiến-Trúc Ṭa-Thánh, do cơ bút thiêng

liêng điều khiển, thể hiện những bí ẩn kỳ quặc sẽ làm cho du khách

hồi hộp, khấp khởi tâm hồn khi nghe kể lại...

        Trước năm 1926, nơi xây cất Ṭa-Thánh hiện tại là một khu rừng

cấm hoang vu vắng vẻ mênh mông...Ngày cũng như đêm,cảnh tịch mịch nầy

chỉ nghe vang tiếng cọp kêu, vượn hú, voi gầm; không một tiếng người

khua động...

         Thuở ấy, thành phố Tây-Ninh chỉ là một khu chợ nhỏ. Từ tỉnh

lỵ Tây-Ninh vào đây cách năm cây số ngàn. Dọc đường phần nhiều là

rừng hoang, thỉnh toảng chỉ thấy vài túp lều tranh lác đác bên đường.

         Trên con đường rừng hoang nầy, nếu một người, một bóng th́

chưa chắc được an toàn bổn mạng... Sự khó khăn ấy nhứt là đối với ác

thú... C̣n khí hậu rừng thiêng nước độc lại là một điều đáng kể. Ai

không hạp, th́ bị chói nước, hoặc mắc bệnh sốt rét rừng, dần dà bổn

mạng sẽ không c̣n...

         Cảnh tượng kinh hồn như thế vẫn với thời gian âm thầm đi qua,

năm, tháng...

          Bỗng một hôm, có một đoàn người tất tả, ngược xuôi, băng

ḿnh vào đây, t́m vị trí xây cất Ṭa-Thánh.

          Đoàn người nầy do Đầu-Sư Thái-Thơ-Thanh vâng lịnh Thánh-ngôn

của Đức Lư-Thái-Bạch hướng dẫn...

          Bài Thánh-Ngôn ấy cầu tại chùa G̣-Kén ngày 21-2-1927 nhằm

ngày 20 thánh 1 năm Đinh-Măo như sau:

.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  . .  .  .  .  .  .  .  .  .  .

.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  . .  .  .  .  .  .  .  .  .  .

          "Thái-Thơ-Thanh, Lăo cậy hiền hữu một phen nữa. Mai nầy đi

lên đường trên, gọi là đường giây thép, nhắm địa thế dài cho tới ngă

ao hồ, coi hiền hữu thấy đặng chăng cho biết?

          "Lăo đă nói rằng: mỗi sự chi chi đều bày trước mắt nhơn sanh

hết, chư hiền hữu đừng sợ ai hết, hễ sợ th́ chối quyền thiêng liêng

th́ c̣n ǵ Đạo nghe à!..."

          Bởi trước kia cũng đă đi t́m vị trí nhiều phen, thế mà không

được, nên Đức Lư-Thái-Bạch giảng dạy bài Thánh-Ngôn trên.

          Nhờ thiêng liêng chỉ dạy, nên Đầu-Sư Thái-Thơ-Thanh mới dẫn

nhóm người đến đường giây thép mà băng vào rừng cấm này nhắm hướng gần

ao hồ làm vị trí...

           Cách vài ngày sau, Đầu-sư Thái-Thơ-Thanh cùng một nhóm

người nhất định ấy lấy vị trí hiện hữu, v́ nơi đây có nhiều hiện tượng

khác thường.

            Khi t́m được trở về cầu cơ Đức Lư-Thái-Bạch giáng cơ ngày

24-F2-1927 nhằm ngày 23 tháng 1 năm Đinh-Măo dạy rằng:

            ".  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .

".  .  .  .  .  .  .  .  Lăo khen Thái-Thơ-Thanh phải đó a! Tưởng chư

hiền hữu không thấy nữa. Lăo cắt nghĩa v́ sao cuộc đất ấy (vị trí xây

cất Ṭa-Thánh hiện giờ) gọi là Thánh-Địa? Sâu hơn 300 thước như con

sông, giữa trung tim đất giáp lại trúng giữa 6 nguồn, làm như 6 con

Rồng đoanh nhau, nguồn nước ấy chảy trúng ngay đảnh núi (núi Bà Đen)

mà gọi là LỤC-LONG PH̉-ẤN. Ngay miếng đất ấy nó đặng ba đầu, một đầu ra

giếng mạch ao hồ, hai đầu nữa bên cụm rừng bên kia. Người Lang Sa

(người Pháp nguyên lúc ấy nước Việt-Nam ta bị Pháp đô hộ) chỉ đ̣i

20.000, nói rồi trả đúng 15 ngàn. Lăo dặn th́ thành trả 17 ngàn, 18

ngàn th́ đặng.

           "C̣n xin khai khẩn miếng đất rừng bên kia nữa mới trọn đất

nay c̣n rơ miếng đất chung quanh. Thánh-địa ngày sau hóa vàng. Chư

hiền hữu biết lo lập ngày sau rất quí báu". (Chúng tôi xin độc giả lưu

ư chúng tôi triệt để tôn trọng sự tín ngưỡng cơ bút của Tôn-Giáo

Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, nên lược thuật đúng tinh thần tài liệu của

Hội-Thánh không hề vẽ vời, hoặc thêm bớt... )

           Thế rồi từ ngày bài Thánh-Ngôn trên dạy, một nhóm người

thọ giáo Cao-Đài xông vào đây nổ lực khai thác rừng hoang bứng gốc,

đốn cây cất trại và lưu lại đây làm việc...

           Nhiều thuyết truyền rằng sự khổ sở vất vă của họ không biết

bao nhiêu mà kể.

           Buổi Đạo chưa nên h́nh, những người làm công quả không cơm

mà ăn, hằng ngày bữa cháo, bữa rau, thế mà nhờ tinh thần sốt sắng và

quyền lực thiêng liêng hộ trợ nên họ vẫn mạnh mẽ như thường, mặc dù

phải nằm sương gối tuyết.

           Công lao chịu nhọc khai thác rừng hoang, đắp bồi cuộc đất

nầy, người Tần-Nhơn (Miên) và một nhóm dân tộc thiểu số tục gọi là

Tần-Mun cũng là đáng kể. Họ làm lụng vất vă, đói khát thảm thương, hy

sinh ngày tháng bỏ việc gia đ́nh...

           Nhờ vậy,chẳng bao lâu vùng đất nầy được hoàn thành và dựng

lên túp lều tranh ba gian làm đền thờ tạm .

           Thuở sơ khai đạo Cao-Đài thật linh hiển, huyền diệu vô

song. Những người làm công quả khai rừng đào đất rất nhọc nhằn nhưng

mỗi khi bịnh hoạn th́ có thể cầu cơ (phương pháp cầu cơ nầy, hiện ấy

Hội-Thánh Ṭa-Thánh Tây-Ninh c̣n thực hiện trong việc truyền giáo) chỉ

vài thứ lá cây làm thuốc, thế mà giúp được những người công quả qua

cơn bịnh hoạn.

           Nhờ hiệu lực bảo trợ linh thiêng ấy, nên sự phá rừng đào

đất, xây nền chẳng bao lâu th́ được hoàn thành.

           Từ ngày nơi đây dựng lên mái nhà tranh ba gian làm

Ṭa-Thánh tạm, th́ những người xa xôi đến viếng kẻ cúng vài xu , người

đôi ba cắt... số tiền nầy Hội-Thánh dành dụm lại chờ khi xây cất

Ṭa-Thánh .

           C̣n những người lo việc Đạo vẫn dầm sương giải nắng, ăn th́

cháo rau qua bữa ;

           Tháng, ngày... nơi chốn rừng hoang vắng vẻ nầy, bên cội cây

già, hoặc trong cảnh rừng tịch mịch âm u, có những tiếng cưa cây, đào

đất, ḥa với giọng thơ buồn buồn, ai ngậm vọng lại...

           Dù vất vă hy sinh v́ Tôn-Giáo...

           Sớm : cháo, rau ; chiều : dưa muối qua ngày ...

           Mặc thế nhân c̣n rộn rực trần ai

           Bao lạc thú, chừ đây vui cửa Đạo

                          *

           Thế cuộc đă chuyển dần xoay máy tạo

           Bến trầm luân: điên đảo chốn phồn hoa

           Kiếp trần gian: sanh, sống, bịnh, rồi già !

           Ai ôi! thấu đời ta ta đâu mấy chốc !...

                          *

           Thân tôi mọi cho sinh tồn vật chất

           Sống th́ buồn đau, thác lại ǵ đâu ?!..

           Đời triền miên trong những nỗi ưu sầu !

           Thôi gắng bước, đường tu toan lập đức...

                           *

           Khai Đại-Đạo mê trần nay tỉnh giấc...

           Trở về đây kinh kệ: sớm chiều vui...

           Ôi! Thế nhân c̣n lắm cảnh ngậm ngùi!

           Đời bao nă ! Chừ đây ôi bao nă !.!.

                           (Thơ của T.L. Thiền-Giang Phan-Văn-Tân)

 

          Thế rồi, thời gian âm thầm trôi qua... Nơi đây sự hoạt động

vẫn triền miên măi măi...

           Hằng ngày tiếng cưa cây, đẽo cột, tiếng đào đất, xây nền

vẫn vang vang như tiếng ḷng thời gian chuyển dịch...

           Măi đến năm 1933 mới khởi công tạo tác Ṭa-Thánh hiện giờ.

           Sự kiến trúc Ṭa-Thánh nầy do Đức Chí-Tôn và Đức Lư-Thái-

Bạch, giáng cơ điều khiển. (Hiện nay, theo cơ bút Thiêng-Liêng dạy th́

Đức Lư-Thái-Bạch là Nhứt-Trấn Oai-Nghiêm kiêm Giáo-Tông về phần vô vi

của nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ).

           Lược đồ, Đức Lư-Thái-Bạch đă giáng cơ chỉ dạy từ năm 1927

như sau.

           Ngày 28 Février 1927 .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .

.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  ..  .  . .

           "Thánh thất tạm phải cất ngay miếng đất trống. C̣n

Hiệp-Thiên-Đài tạm phải cất trước Thánh-Thất tạm. Đạo-Hữu lại biểu

khai phá đám rừng trước miếng đất ấy. Như vậy, ngay trung tâm rừng

cách miếng đất trống chừng 3 tấc rưởi, đóng một cây nọc, đó

Hiệp-Thiên-Đài như vậy. Ngoài Bàu-Cà-Na (Động-Đ́nh-Hồ) vô chừng 50m,

đóng một cây nọc ranh phía Ao hồ trở vô chừng 70 thước, đóng cây nọc

ấy là khuôn viên Ṭa-Thánh. Lăo dặn, từ cây nọc bên phía miếng đất

trống phải đo vô Bàu-Ca-Na 27m Lang-Sa nghe à! Từ vuông 27m mỗi góc

của đài Bát-Quái, bề cao 9m, h́nh nóc mô lên, chỉ tám góc cho phân

minh, trên đầu đài phải để cây đèn màu xanh, kế nữa là Chánh-Điện, bề

dài 81m, bề ngang 27m. Lăo phải vẽ mới đặng. Kế nữa Hiệp-Thiên-Đài từ

vuông 27m, hai tầng, mỗi tầng 9m, hai bên Hiệp-Thiên-Đài bên mặt th́

có Lôi-âm Cổ-đài, bên tả th́ có Bạch-Ngọc Chung-Đài. Lăo phải vẽ mới

đặng.

          Hộ-pháp Thượng-phẩm nội trưa nầy phải cấm một cây viết vào

đầu cơ, lấy một miếng giấy lớn vào vào Điện pḥ-loan cho lăo vẽ.

          "Bính, Thanh phải cho có mặt c̣n kỳ dư không cho ai vào Điện

hết, nghe à! Phải mua miếng đất Bàu-Cà-Na làm Động-Đ́nh-Hồ..."

          (Sở dĩ chúng tôi trích lục và đăng trọn bài thánh ngôn trên

đây là v́ triệt để tôn trọng sự tín ngưỡng cơ bút của nền Đại-Đạo

Tam-Kỳ Phổ-Độ và đây cũng là một tài liệu hết sức quí báu trong việc

xây cất Ṭa-Thánh Tây-Ninh mà biết bao Tín-đồ Cao-đài giáo hiện nay

băn khoăn t́m hiểu).

           Thế là sự kiến trúc Ṭa-Thánh được thực hiện theo căn bản

lược đồ do Thiêng-Liêng chỉ định...

           Từ năm 1933 khởi công, nhưng đến năm 1945 mới hoàn thành.

V́ trong khoảng thời gian từ năm 1941 đến năm 1945 bị gián đoạn...

           Bởi lúc bấy giờ nước nhAé bị Pháp trị...

           Hiện nay, mỗi lần nhắc đến thời gian xây cất Ṭa-Thánh,

biết bao người trong giới Tín-đồ và Chức-sắc chứa chan lệ thảm.

           Cơn quốc biến, chẳng những giang san bị nhiều thảm họa,

nhân dân thống khổ điêu linh thôi, mà đến nỗi nơi thờ phương cũng chịu

ảnh hưởng chung...

           Khoảng thời gian 1941 - 1945 người Pháp lấy Ṭa-Thánh làm

nơi xe đậu...

           Sau những trận đánh, giết hại lê dân, thường cướp giựt của

cải và bắt trâu ḅ đem về đây giết thịt khoản đải nhau. Làm như thế

người Pháp có ư phá hoại Đạo Cao-Đài, cũng v́ sự đe dọa tiêu diệt nền

Đạo, mà nhiều người phải băn khoăn lo nghĩ. Trước viễn ảnh đen tối ấy,

họ không t́m được giải pháp...

           Do đó, giới Tín-Đồ quá căm tức: một v́ Tổ-quốc Việt-Nam,

hai v́ bảo vệ nền Đạo, mới lập quân đội để cứu văn t́nh thế. Chớ sự

thật, tôn chỉ và mục đích Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ không hề có can dự

việc chính trị, dù là vấn đề hết sức nhỏ nhặt.

           Hiện trạng đó c̣n bắt chúng ta nghĩ rằng sự tín ngưỡng quả

thật có hiệu lực tiềm tàng tự bản ngă con người nó âm thầm như không

có ǵ đáng kể... nhưng sức mạnh của nó là sức mạnh bất khả bại. V́ sự

tín ngưỡng đă xây dựng bằng nhiều lư tưởng căn bẢn, chuyển mạch ḷng

người tạo một đức tin mảnh liệt.

           Xuyên qua thời cuộc để t́m hiểu vài yếu điểm co& liên quan

đến Đạo Cao-Đài, cũng như lịch sử kiến trúc Ṭa-Thánh, tưởng cũng có

thể đáp ứng được nguyện vọng sưu tầm và nghiên cứu của những ai muốn

t́m hiểu về Đạo Cao-Đài và sự tích Ṭa-Thánh.

           Đến đây, có lẽ du khách sẽ thắc mắc tài sao Ṭa-Thánh phải

cất tại vị trí hiện hữu và ở nơi tỉnh Tây-Ninh?

           V́ cơ huyền bí đă định: Ṭa-Thánh phẢi cất tại tỉnh Tây-

Ninh để gần núi Điện-Bà sẽ có liên quan đến những phương pháp tịnh

luyện của người tu sau nầy. Đó là bí phÁp liên đới đến Hội Long-Hoa,

chúng tôi không được am tường...

           Có điều chứng tỏ rằng hiện giờ Đạo Cao-Đài có thành lập

Vạn-Pháp-Cung tại chân núi Bà... Và xây cất tại vị trí hiện hữu cũng

v́ Đức Cao-Đài Ngọc-Đế giáng cơ dạy ngày 20-2-1927 nhằm ngày 19-1 năm

Bính-Dần như sau:

           "Các con nghe..."

           "Nơi nào Thầy ngự, th́ nơi ấy là Thánh-địa.  .  .  .  .  .

... .. .. .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  . .  .  .

.  .  . .  . . . . . .. .. .  . .  .  . . .  .  . .

            Nếu Ṭa-Thánh xây cất tại:

            "Cẩm giang, th́ các con phải chịu khổ về phần ăn uống

            "Bến-kèo, th́ địa thế hẹp ḥi  .  .  .  .  .  .  .  .  .

.  .  .  . .. .. .. .  . .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .

            "Suối vàng th́ đặng nhưng phương tiện chở chuyên không

tiện, song phong thổ tốt đẹp..."

            Như vậy chỉ có vị trí hiện hữu là thích ứng mọi phương

diện.

            Về sự bí pháp vô vi ... Đức Chí-Tôn dạy nhiều...Nhưng

chúng tôi xin trích đại khái như sau:

           ".  .  .  . .  .  .  ..  .  .  .  ..  ..  ..  .  .  .  .  .

           "Các con phải hiệp chung nhau mà lo cho chu toàn Ṭa-Thánh,

chi chi cũng ở tại Tây-ninh nầy mà thôi. Các con đă hiểu Thánh-Ư

Thầy..."

           Khi sửa soạn xây cất Ṭa-Thánh th́ những vị Chức-sắc định

kiến trúc cho thật đồ sộ và nguy nga ...

           Chính Đức Lư-Thái-Bạch giáng cơ dạy những bậc nền Ṭa-Thánh

phải hơn kém nhau 6 tấc và bề cao 9 thước. Nhưng Đức Chí-Tôn không cho

giáng cơ, bảo sửa lại 3 tấc mà thôi... V́ sự hao tốn của nhơn sanh...

Trong bài Thánh-Giáo chùa G̣-Kén dạy như vầy:

           "Thời kỳ mạt kiếp nầy khiến mới có Tam-Kỳ Phổ-Độ. ca&c sự

hữu h́nh phải hũy phá tiêu diệt. Thầy đến chuyển Đạo lập lại vô vi,

các con coi thử bên nào chánh lư. Hữu h́nh phẢi bị diệt chớ vô vi

không thể nào diệt đặng... Thơ! Thầy đa' khiến con đi coi Đế-Thiên,

Đế-Thích đặng xem cho tạng mặt mọi sự hữu h́nh nội thế gian ngày nay,

ai cũng nh́n nhận cho là tối đại, mà con đă thấy nó c̣n bền vững đặng

chăng".

           Bài Thánh-Giáo trên đây thể hiện ḷng từ bi, triệt thấu sự

khan hiếm phương tiện xây cất của Hội-Thánh đồng thời quan tâm đến đạo

đức không phải ở chỗ nguy nga, đồ sộ đâu... đó chỉ là h́nh thức tiêu

biểu, có thể bị thời gian tàn phá như Đền Đế-Thiên, Đế-Thích tại

Cambodge vậy. Cương lĩnh của Đạo là ở chỗ vô vi mà thôi.

            Đây là cả một công tŕnh vĩ đại, Thiên khiển Nhơn tạo một

sự mới mẽ, tuyệt xăo, bao hàm những bí ẩn vô vi...

            Tóm lại, Ṭa-Thánh Tây-Ninh hoàn thành được, là do cơ bút

Thiêng-Liêng điều khiển... Ngoài ra sự tạo tác th́ kẽ công, người của

chung hợp nhau lo, ngày nay mới thành thể diện Đạo CAO-ĐÀI mà muôn đời

công khó vẫn c̣n ghi...

 

                              VI

 

                    CÁC CƠ QUAN TRONG NỘI Ô T̉A-THÁNH

 

           Khi quan sát từng chi tiết trong Ṭa-Thánh , am hiểu được

tường tận sự huyền bí và nghe thuật lịch sử kiến trúc xong, du khách

sẽ đi viếng từ cơ quan trong nội ô Ṭa-Thánh.

           Đi trở về phía sau Ṭa-Thánh, du khách sẽ thấy một cái tháp

h́nh bát giác cao vượt lên ba tầng. Mỗi tầng cao lên độ 3 thước vaé 2

thước.

           Tháp nầy dùng để an vị Chức-Sắc lớn trong nền đạo.

           Hội-Thánh Cữu-Trùng-Đài, th́ Chức-Sắc Nam Nữ phải từ phẨm

Đầu-Sư trở lên. Nhưng đặc biệt có ba vị Đầu-Sư phái Nam và một Đầu-Sư

Nữ phái cùng ba vị Chưởng-pháp, một vị Giáo-Tông được cơ bút Chí-Tôn

ân phong trong buổi khai Đạo mới được xây Tháp mà thôi.

           Riêng về Hội-Thánh Hiệp-Thiên-Đài th́ Hộ-pháp, Thương phẨm,

Thương sanh và 12 vị Thời-quân, Thập-Nhị Bảo-quân cùng các Chức-Sắc

khác như Tiếp-Lễ Nhạc-quân, Hộ-Đàn Pháp-quân th́ khi quí vị cũng được

xây Tháp. Nhưng chỉ một lần thôi, dù sau nầy có những vị Chức-Sắc khác

kế vị nhưng cũng không được xây cất Tháp nữa.

            Mỗi Tháp an vị Chức-Sắc nầy, đều được xây h́nh bát giác.

            TI SAO THÁP PHẢI XÂY H̀NH BÁT GIÁC ?

            _ V́ khi mỗi chơn linh măn phần nơi cơi thế tức là lúc

chết linh hồn phải trở qua: "Ba mươi sáu cơi Thiên-Tào, nhập trong

Bát-quái mới vào Ngọc-Hư. "Nghĩa là linh hồn qua ba mươi sáu cơi

Thiên-Tào ấy, th́ c̣n phải vào Bát-Quái để Thiêng-Liêng phân đoán tội

lỗi căn cứ theo quá tŕnh sinh hoạt của một kiếp rồi mới được vào

Ngọc-Hư-Cung, tức là nơi Chí-Tôn ngự, nếu đầy đủ thiện quả, trọn vẹn

tâm đức tu hành th́ được thăng, c̣n chưa đầy đủ phải lănh lịnh trở lại

cơi phàm trần. Đạo Phật Gọi là "Chuyển kiếp luân hồi".

             V́ vậy, xây Tháp an vị Chức-Sắc, thể thức phải kiến trúc

theo h́nh Bát-Quái-Đài, tức là một trong ba đài: HIP-THIÊN-ĐÀI,

CU-TRÙNG-ĐÀI và BÁT-QUÁI-ĐÀI ở Ṭa-Thánh tượng trưng cho h́nh thể

Đại-Đạo để phổ-độ chúng sanh (như chúng tôi đă lược thuật rơ rệtnhiệm

vụ của mỗi đài ở những đoạn trước). Vậy, cần nhắc lại nhiệm vụ của

Bát-Quái-Đài để độc giả có thể am tường thêm về thể thức xây Tháp h́nh

Bát-Quái-Đài.

             Bát-Quái-Đài do các Đấng Thiêng-Liêng điều khiển, trực

tiếp rước các đẳng chơn hồn để phán xét công đức tu hành và tội phước

ở thế gian. Sau khi trải qua cuộc phán xét ấy, chơn hồn mới được vào

Ngọc-Hư-Cung, là nơi Thượng-Đế ngư mà chầu. Tuy công nghiệp tu hành,

sinh hoạt thiện lương của một kiếp mà Thượng-Đế định vị theo phẩm

Thần, Thánh, Tiên, Phật hoặc phải luân hồi lại chốn trần gian.

 

            V́ vậy, nên thể thức Tháp an vị Chức-Sắc phải kiến trúc

theo h́nh Bát-Quái-Đài và cũng có mục đích tiêu biểu sự mầu nhiệm tạo

hóa cơi vô h́nh để nhân thế soi chung vậy...

           Khi quan sát Tháp phía sau Ṭa-Thánh, du khách đều thấy sự

kiến trúc cùng một thể thức. Nhưng những h́nh họa trên các Tháp đều

theo sự tích khác nhau, tùy theo phẩm vị, hoặc Nam, Nữ mà phác họa sự

tích thích hợp.

           Xem xong các Tháp nầy, du khách sẽ vào Hậu-Điện Ṭa-Thánh

viếng Đông-lang, Tây-lang.

           Đông-lang và Tây-lang thể thức kiến trúc đều như nhauhai

bên tả hữu Ṭa-Thánh liên đới với nhà Hậu-Điện.

           Tuy gọi Đông-Lang và Tây-Lang song bên trong có các pḥng

làm việc hoặc để chức-Sắc, Chức-Việc hiến thân trọn đời cho Hội-Thánh

an nghỉ thôi.

           Sự liên đới Đông-Lang và Tây-Lang với Hậu-Điện cùng

Ṭa-Thánh theo cơ bút th́ kiến trúc như h́nh Long-Mă vậy...

           Từ Đông-Lang, du khách đưa mắt nh́n về hai ngôi nhà đồ sộ

nằm ngang vị trí của Đông-Lang. Đó là trai đường, nghĩa là nơi dùng để

công quả, Chức-việc và Chức-sắc làm việc trong các cơ quan của Hội-

Thánh Cữu-Trùng-Đài dùng cơm hằng bữa.

           Nơi đây, mỗi ngày hai bữa cháo cơm, cho công quả ăn. Bửa

mơi, tiếng trống đổ 11 giờ và một hồi tan sở th́ trong các cơ quan

Cữu-Trùng-Đài, Chức-Sắc và nhân viên lớn, nhỏ... lần lượt đến đây dùng

bữa cháo, rau. Bửa chiều khoảng độ 5 giờ, cũng sau một hồi trống tan

sở, vẫn nhóm người muôn thuở ấy... trở lại đây dùng cơm dưa muối...

           Cảnh kham khổ... nhưng t́nh vẫn thiết tha...Hiện trạng nầy

làm cho du khách buồn miên man nghĩ ngợi... Khi người ta ư thức được

cuộc sống chỉ là giả tạm, mùi trần ai đày đọa bao người, nên tuy sống

khổ... mà họ vẫn vui tươi v́ hiểu biết...

            Nhận thức cảnh tu hành đạm bạc muối dưa...khiến du khách

thấy ḷng buồn dười dượi mông lung với trường đời lang bạt...

            Khi rời khỏi Đông-Lang trở lại phía trước Ṭa-Thánh, du

khách sẽ dừng chơn mơ màng đứng ngắm hai thửa rừng hai bên tả hữu

trước Ṭa-Thánh, gọi là rừng "Thiên nhiên"...

            Từ mặt tiền Ṭa-Thánh đi ra độ 30 thước, có cột phướng

h́nh rồng cao độ 30 thước chơ vơ ṿi vọi giữa khung trời bát ngát...

            Dưới chân cột phướng rồng có chạm hoa sen và h́nh bốn con

Kim-Mao-Hẩu. Ư nghĩa rồng với hoa sen tiêu biểu "Hội Long-Hoa" là mục

đích cứu cánh của nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ (chúng tôi đă lược thuật

đoạn trước ...)

             Cách cột phướng chừng 10 thước có cội cây Bồ-đề, sum sê

nhành lá dưới gốc là tượng h́nh Đức Phật Thích-Ca ngồi tịnh, sau lưng

có 7 con rắn đầu đưa lên...

             Cội cây Bồ-Đề và tượng Phật Thích-Ca nầy nguyên của Đức

Narada-Théra, đại diện Phật giáo Ceylan biếu.

 

              Ư NGHĨA TƯỢNG PHẬT DƯỚI CỘI BỒ ĐỀ

 

             Thuở xưa, Đức Phật Thích-Ca ngồi thiền-định dưới cội

bồ-đề quán thông được chơn tướng của vạn vật chúng sanh, và tầm được

bốn phép thiền-định sau, mà hiện nay pháp môn thiền định nầy các bậc

tu hành c̣n thực dụng:

             _ Một là Ư-Thanh-Tịnh

             _ Hai là Tịnh-Tâm Thủ-Nhứt, Chuyển-Tâm Bất-Dịch

             _ Ba là thấy rơ chơn tướng vạn vật, chúng sanh

             _ Bốn là không y thiện, không phụ ác, không khổ, không

vui, b́nh thản, không không.

             Ngày nay, nền Đại-Đại Tam-Kỳ Phổ-Độ qui tam giáo, hiệp

ngũ chi đặc biệt quan tâm đến đời sống nhân gian hiện hữu, (đó tức là

bậc hạ thừa) c̣n mục đích cứu cánh cũng lấy phương thức luyện tịnh mà

tồn dưỡng tinh thần để đến giải thoát kiếp trần khổ hạnh.

             V́ vậy, đúc tượng Phật tịnh dưới cội bồ-đề trước Ṭa-

Thánh là mục đích tiêu biểu đại cương thể thức tu tập. Du khách có thể

quan sát những chi tiết mà xác định được phần nào về Đạo CAO-ĐÀI.

             Sau lưng pho tượng Phật Thích-Ca có rắn bảy đầu đưa lên.

Bảy đầu đó tượng trưng thất t́nh: mừng, giận, buồn, vui, thương, ghét,

muốn của loài người.

             Ngày xưa Phật giáo, th́ tu tập luyện tịnh sao cho chơn

ngă được sống ngoài ṿng tục lụy, trần ai, nghĩa là diệt dục cho ḷng

b́nh thăn không-không mới giải thoát linh hồn ra ngoài vạn khổ ở đời.

V́ thế mà thất t́nh vẫn c̣n, nhưng được tập trung duy nhất theo một

ch́u hướng về cơi thượng giới hư linh. Nên bảy đầu rắn đưa lên tượng

trưng thất t́nh là ư nghĩa đó...

             H́nh ảnh tượng Phật lặng thầm thiền định dưới cội bồ-đề

ấy... có hiệu lực gợi niềm rung cảm lâng lâng cơi ḷng du khách...

             Từ pho tượng Phật nầy nh́n thẳng phía trước, du khách sẽ

thấy hai bên tả hữu có hai khán đài thật to, để quan khách nghĩ mát

hoặc trong những ngÀy lễ lớn để khách thập phương ngồi nghe thuyết

đạo.

             Khán đài nầy kiến trúc thật to xây trên 12 bậc cao thấp

khác nhau.

             Ư nghĩa 12 bậc ấy cũng tượng trưng thập-nhị khai thiên

của Trời.

             Vào khoảng thời gian 1955-1956 có cuộc lễ khánh thành,

hai khán đài nầy, người người đông nghẹt...

             Thoảng phút ấy qua rồi, ḍng đời đă ch́m dần trong kư ức

thế nhân... Giờ đây hai khán đài chỉ âm thầm song song bên cạnh rừng

cây rợp bóng...

             Chính giữa hai khán đài nầy có kiến trúc một đài nhỏ,

h́nh bát giác gồm 9 bậc cao dần lên gọi là "Cữu-Trùng-Thiên".

             Du kháchmới xem qua h́nh ảnh Cữu-Trùng-Thiên không lớn

mấy cũng như một g̣ đất nhỏ mô lên, trong nắng vàng trập trùng ánh

sáng...

 

                   Ư NGHĨA XÂY CỮU-TRÙNG-THIÊN

 

             Tam-Kỳ Phổ-Độ: Đấng Thượng-Đế khai nền Đại-Đạo gọi là

thời kỳ ân-xá Đức Ngài mở cả Cữu-Thiên Khai-Hóa mà lập Cữu-Trùng-Đài

điển h́nh tại thế đặng độ rổi chúng sanh.

             Những người tu công nghiệp đầy đủ sẽ được siêu rỗi qua

Cữu-Trùng-Thiên mà vào Bạch-Ngọc-Kinh.

            Trái lại, ai tu dang dở, công nghiệp c̣n thiếu kém, cũng

được sự độ rỗi, song luật công b́nh tạo hóa phải căn cứ công đức tu

hành phán đoán công minh và lập vị theo Cữu-Thiên Khai-Hóa.

            Cũng như tại thế nầy, khi chầu lễ Đức Chí-Tôn, những

Chức-Sắc lớn ấy là công quả đầy đủ và Chức-Sắc nhỏ là những vị c̣n

thiếu công nghiệp tâm đức tu hành, nên phẩm vị khác nhau mà ngự tại

Cữu-Trùng-Đài ở những bậc khác nhau. Xây Cữu-Trùng-Thiên nầy để thiêu

xác những vị đại Chức-Sắc (bên Cữu-Trùng-Đài th́ phẩm Đầu-Sư trở lên

cũng như bên Hiệp-Thiên-Đài th́ từ phẩm Thập-Nhị Thời-Quân trở lên).

Những bậc Chức-Sắc nầy đầy đủ công đức tu hành , hiện kiếp cũng như

tiền căn (theo cơ bút thiêng liêngchỉ dạy) nên lúc chết thân xác được

thượng vị lên Cữu-Trùng-Thiên.

            Đó là tiêu biểu sự giải thoát được kiếp trần ai khổ

hạnh của vị ấy đồng thời nhờ công đức tu hành đó mà lập vị thiêng

liêng qua khỏi Cữu-Thiên Khai-Hóa. V́ vậy, mới có xây cất

Cữu-Trùng-Thiên.

            Xem qua Cữu-Trùng-Thiên và nhận thức được ư nghĩa khi nghe

tường thuật. Hẳn du khách thấy rơ kiếp con người sanh trưởng tại thế

gian nầy không phải cốt để an hưởng kiếp giả tạm và nhờ sự vinh sang,

quyền cao, chức trọng mà lúc qui măn được Thiêng-Liêng độ rỗi đâu.

Trái lại, đó chỉ là của trần để lại cho trần... mà linh hồn phải nương

nhờ nó để tu dưỡng nên chánh thiện, chánh giác mà lập vị đẳng cấp

Thiêng-Liêng trên cơi vô h́nh.

            Đến đây du khách đă tường lăm sự thức dụng của Cữu-Trùng-

Thiên liên đới đến lập vị thiêng liêng.

            H́nh ảnh Cữu-Trùng-Thiên la đà trên mặt đất trong ánh nắng

mơ màng với ư nghĩa luận thuật c̣n làm du khách nghĩ ngợi vu vơ...Rồi

trông về phía trước, du khách thấy liền hai pho tượng: một pho tượng

h́nh người chạy bộ hai tay chấp, đúc bằng xi măn, sơn màu vàng song đă

lam mờ phai nhạt...

           Và c̣n một pho nữa th́ tượng h́nh người cỡi ngựa, tay cầm

cương, tay che mắt trông về phía mặt trời lặn - xa xôi - với nhiều sự

tin tưởng... Hai pho tượng nầy cũng đúc bằng xi măn chạm trổ sắc xảo

tuyệt vời..

           Đó tức là hai pho tượng XA-NC chạy bộ theo Đức Thích-Ca

cỡi ngựa tầm Đạo buổi đầu tiên.

           H́nh ảnh hai pho tượng nầy thể hiện sự tích tầm Đạo của

Phật Thích-Ca đồng thời làm tiêu biểu cho thế nhân mục kích và ư thức

sự vinh sang, quyền quí ở cơi đời... mà ngàn xưa Đức Thích-Ca đa' nhận

thức được...

           Nguyên Phật Thích-Ca xưa kia là một vị Thái-Tử con vua

Tịnh-Phạn sinh trưởng tại Ấn-Độ.

           Đời Thái-Tử sống trong nhung lụa xa hoa, vật chất đủ điều..

           Nếu lấy quyền th́ Thái-Tử sẽ là vị vua có đủ quyền bính

thống trị cả thiên hạ, nếu lấy sự giàu sang phú quí vinh hoa th́ đầy

đủ biết bao...

           Nhưng Thái-Tử sớm đă nhận thức được ư nghĩa kiếp sinh con

người chỉ là giả tạm. Suốt đời khổ năo vẫn triền miên trong ngũ trọc

mà phải qua những trạng thái: sanh, lăo, bệnh, tử...

           Hiện tượng đau buồn ấy thúc đẩy Thái-Tử t́m phương giải khổ

chúng sanh...

           Suốt bao năm khổ hạnh tầm đạo, Thái-Tử đă t́m được phương

pháp giải khổ mà cứu cánh nó là sự giải thoát, kiếp luân hồi sanh tử

cho chúng sanh, ấy là Đạo Phật vậy...

           Ngày nay, lập Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, Đức Thượng-Đế qui

nguyên Tam-Giáo, thực tiển giáo lư: Phật, Lăo, Nho làm phương châm

thực dụng, có hiệu lực thích ứng với trào lưu tấn hóa của nhân loại,

mục đích thực hiện đ

ời sống thế nhân trên cương lĩnh đạo đức sinh hoạt

cho cơi đời được ḥa thuận an vui khỏi cảnh chiến tranh tàn khốc, hầu

lấy Đạo Phật làm phương giải thoát kiếp sinh.

            Nên tượng h́nh Phật Thích-Ca tiêu biểu đại cương quan điểm

thực thực hiện của tôn chỉ và mục đích nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ; đồng

thời cảnh giác thế nhân hướng về đạo đức từ bi, quan tâm kiếp trần

hiện tại;

            H́nh ảnh hai pho tượng chơ vơ trong ánh nắng, khích lệ tâm

hồn du khách bâng khuâng bao niềm, khi trở bước.

           Rời khỏi hai pho tượng nầy, du khách sẽ quay vào Ṭa-Thánh

để đi con đường B́nh-dương-Đạo sang viếng các cơ quan.

           Khi cất bước lâng lâng và lắng nghe rừng âm u, gió rít lê

thê du khách sẽ chạnh niềm rung cảm... Đâu đây, trong cảnh rừng rợp

bóng có kẻ mơ màng ngồi ngắm Ṭa-Thánh buông tiếng hát vu vơ...

           Đây: muôn thuở Thánh-Toà phơi bóng đẹp...

           Bên cạnh rừng heo hút gió đê mê...

           Khách trần gian đi đến, lúc đi về...

           Tâm hồn vẫn chập chờn bao dư ảnh...

                           *

           Rồi những lúc u hoài ḷng có chạnh

           Nhớ nhung về phong cảnh đẹp nên thơ

           Ngôi Thánh-Ṭa trong áng nắng lững lờ

           Vang bóng lại tâm hồn niềm thơ mộng

                           *

           Chơi vơi giữa khung trời xanh cao rộng

           Có hai đài: chuông, trống vút song song

           Trời cao bát ngát, lại mênh mông

           Mà h́nh ảnh là đà, e ấp ấy!

                           *

           Trời cao quá, buồn tênh nên thấp lại

           Đất đ́u hiu, nên vượt mấy tầng cao

           Như cùng nhau liên đới những âm hao

           Cơi thế sầu đau c̣n lắm lắm! ! !

                           *

           Đây lấp lánh muôn vàn màu sắc thắm

           Chói chan niềm rung cảm khách trần gian

           Để ai c̣n say đắm cảnh trần hoàn

           Tỉnh lại giấc mơ màng trong cơi mộng

                           *

           Đây muôn thuở Thánh-Ṭa c̣n vang bóng

           Đây cửa thiền mở rộng đón nhân gian

           Hỡi ai đời sống lắm đoạn tràng

           Giải thoát kiếp lên đàng về tu niệm

                           *

           Mượn kinh kệ vui niềm mầu nhiệm

           Khoác áo chùa liệm kiếp khổ đau

           .   .   .   .  .   .  .   .  . .

           .   .   .   .  .   .   .  .   . .

           ( Thơ của T.L. Thiền-Giang PHAN-VĂN-TÂN )

 

           Nghe tiếng hát miên man niềm buồn bă, khiến ḷng người thổn

thức mông lung...

           Qua khỏi mặt tiền Ṭa-Thánh nh́n vào thửa rừng

"Thiên-Nhiên" phía tả, du khách sẽ trông thấy ngôi nhà nghỉ mát. Ngôi

nhà nầy cất trong thửa rừng, dưới những tàn cây xum sê nhành lá... để

du khách viếng Ṭa-Thánh tạm nghỉ hoặc vào đọc sách nên gọi là

"Thơ-viện".

           Ngôi nhà nầy không lớn lắm, nhưng đặc biệt thể thức trang

trí xem vẽ khác lạ. Bên ngoài vào, du khách sẽ thấy những tấm bản vẽ

h́nh Cổ pháp Tam-Giáo (Xuân-Thu, Phất-chủ, Bát-Du).

           Rời nhà nghỉ mát, du khách sẽ thấy bên lề đường phía tả có

một ngôi nhà trơ trẻn trong ánh nắng hiu buồn. Đó là ngôi "Nữ Đầu-Sư"

tức là cung thự của vị Đầu-Sư Nữ phái, đồng thời cũng là cơ quan trung

ương truyền giáo của phái nữ.

           Nơi đây đặc biệt dành riêng cho Chức-Sắc nữ phái ở tu tập

và đặt những cơ quan tổ chức có hệ thốngnhư nam phái mà lo việc phổ độ

chúng sanh.

           Tất cả những hoạt động về truyền giáo đều đặt dưới quyền vị

Nữ Đầu-Sư, nếu Đầu-Sư khuyết th́ vị Nữ Chánh-Phối-Sư điều khiển.

           Ngôi nhà nầy khuôn diện chữ nhật, có hai tầng: dưới và trên

lầu. Hiện nay tổ chức truyền giáo của Hội-Thánh Cữu-Trùng-Đài nữ phái

các cơ quan đều đặt tại đây.

           Ngày ngày êm đềm qua đi năm tháng...Nơi đây có những vị tu

sĩ nữ phái lớn nhỏ... sớm chiều:

           Mượn kinh kệ tiêu dao cửa Phật

           Bến trầm luân tỉnh giấc mơ màng...

        ...mà phôi pha đi niềm tục lụy trần ai...quên điều trần thế...

           Mỗi chiều, khi tiếng trống điểm giờ tan sở, trước ngôi nhà

nầy biết bao tà áo trắng phơi phới tung bay trong bóng ngày hiu hiu

tạnh nắng...

           Ḍng đời âm thầm hờ hững qua đi... Tâm hồn họ vẫn trẻ trung

trong lạc thú nên thơ mầu nhiệm...

           Nơi đây, bao đêm về trăng mờ khắc khoải, tiếng thời gian

điểm hờ; trống dội vu vơ... họ cất tiếng ngâm thơ gởi niềm rung cảm...

        ...Thế sự: thăng, trầm, ai biết đâu!...

           Thân người một kiếp có là bao?.!...

           Cơi trần: thấp thoáng thoi đưa bóng...

           Cảnh thế: ngùi trông thỏ ác sầu!

           - Lặng lẽ phôi pha niềm tục lụy,

           Âm thầm thêm lắng nỗi thương đau.

           Huyền vi tạo hóa ai ơi thấu!

           - Gởi kiếp phù sinh với đạo mầu.

                      ( Thơ của T.L. Thiền-Giang PHAN VĂN TÂN )

           Đêm, đêm thường có thế... Ngày, ngày vẫn vui niềm đạo đức

tu thân. Đến đây t́m hiểu, du khách sẽ chạnh ḷng kiếp sống v́ đâu?...

           Rồi dời chơn đằng trước, du khách thấy liền bên hữu đường

B́nh-Dương-Đạo có một ngôi nhà đồ sộ nằm chênh vênh trong trong ḷng

khu đất rào.

           Chung quanh ngôi nhà nầy là những tàng cây sửa xum sê nhành

lá, chen lẫn vài cây cổ thụ vút lên cao... đó là ngôi "Giáo-Tông-

Đường" tức là dinh thự của vị Giáo-Tông.

          Trong nền đạo Cao-Đài, đức Giáo-Tông do cơ bút Thiêng liêng

tuyển chọn hay do toàn cả Hội-Thánh, Tín-Đồ và quyền nhơn sanh bầu cử

mới được công nhận.

          Quyền hạng Giáo-Tông là anh cả nhơn sanh, có quyền thay mặt

cho Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế tức Giáo-Chủ Đạo CAO-ĐÀI.

          Hiện nay Giáo-Tông-Đường nầy là nơi đặt để cơ quan tối cao

điều khiển nền Đạo, do Đức Thượng-Sanh CAO-HOÀI-SANG chưởng quản.

          Thượng-Sanh đặt văn pḥng tại đây là có tính cách tạm Căn

bản Pháp Chánh-Truyền Đại-Đạo ấn định, th́ Thượng-Sanh phải có văn

pḥng riêng cũng như Hộ-Pháp th́ có Hộ-pháp-đường, Giáo-Tông th́ có

Giáo-Tông-Đường và Thượng-Phẩm th́ có Thảo-xá Hiền-cung vậy.

          Có lẽ, hiện giờ Hội-Thánh chưa đủ phương tiện cất dinh thự

văn pḥng đức Thượng-Sanh. Nhưng chắc dù sao cũng được thực hiện, v́

đây là thể pháp hữu vi liên đới vô vi trong cơ phổ-độ tam kỳ của nền

Đại-Đạo.

           Đối diện với ngôi Giáo-Tông-Đường, bên tả lề lộ B́nh-Dương-

Đạo là Hạnh-Đường, tức là ngôi trường để Hội-Thánh đào luyện các

Chức-Sắc về khả năng phổ-độ chúng sanh.

           Những Chức-Sắc vào hàng Lễ-Sanh, Giáo-Hữu... trước khi hành

quyền Giáo-Sĩ, phải trải qua một thời gian học tập, thực hiện theo

phương thức Đại-Đạo phù hợp nhu cầu tiến bộ nhân loại trên mọi lănh

vực.

           Ngôi Hạnh-Đường nầy cũng kiến trúc theo thể thức: trên nóc,

dưới nền; gọi Lưỡng-Nghi. Vách dừng bốn bên là Tứ-Tượng. Trên nóc b́nh

Bát-Quái (bát-giác). Thể thức kiến trúc nầy biểu hiện theo căn bản

phát huy Trời đất hóa sanh muôn loài vậy.

          H́nh thức ngôi Hạnh-Đường nầy cũng khá rộng vuông vức độ hai

chục thước. Bên trong bàn ghế thật nhiều để y như một lớp học. Trên

các cột và chung quanh vách co& treo những tấm bảng cây độ 4 tấc vuông

vẽ bộ Cổ-pháp của Tam-Giáo (Xuân-Thu, Phất-Chủ, Bát-Du)

           Về bộ Cổ-pháp Tam-Giáo nầy c̣n có ư nghĩa tiêu biểu sự qui

Tam-Giáo cho khách bàng quang nhận thức rằng nơi đây nghiên cứu

Giáo-Lư Tam-Giáo, thực tiển những quan điểm có hiệu nghiệm thực dụng,

thích hợp nhu cầu nhân loại trong sự tấn hóa hiện đại mà cải tổ nếp

sanh hoạt thế nhân: chân, thiện... đạo đức cao vọng thực hiện đời sống

nhân gian trở nên ḥa thuận an vui...

          Kiến trúc ngôi Hạnh-Đường nầy hằn Hội-Thánh cũng thể theo

tích xưa...Khi xưa, Đức Khổng-Phu-Tử chu du liệt quốc để truyền bá

Đạo-Nho. Thấy công việc truyền giáo ấy bất thành Ngài bèn về ngụ tại

nơi gọi "Hạnh-Đường" để đạo luyện hạnh đức cho tam-thiên đồ-đệ (dường

như vùng nầy xưa kia có rất nhiều cây hạnh). Về sau trong số đồ-đệ của

Ngài, chỉ c̣n có bảy mươi hai người, nên gọi "Thất-Thập Nhị-Hiền",

truyền bá mối Đạo đến ngày nay...

           Đại cương hai chữa Hạnh-Đường nầy có thể nói để tiêu biểu

sự đào luyện "đạo-hạnh" và khA" năng vạch rơ đường lối đạo đức cho

người truyền giáo...

           Tóm lại, quan điểm hai chữ Hạnh-Đuờng thể hiện căn bản đào

luyện khả năng giáo sĩ đạo Cao-Đài trên phương diện hạnh-đức. V́ người

truyền giáo phải có đầy đủ hạnh dức vẹn toàn, mới cảm hóa được ḷng

người khuynh hướng về đạo lư. Đó là phương thức thực hiện ư nghĩa

" HẠNH-ĐƯỜNG " vậy.

 

                               VII

 

                        NGÔI HIỆP-THIÊN-ĐÀI

 

           Viếng Hạnh-Đường xong, du khách đi bộ chừng 200 thước, bên

hữu đường B́nh-Dương-Đạo có một biệt thự đồ sộ nằm song song với ngôi

Giáo-Tông-Đường. Ấy là cơ quan trung ương của Hội-Thánh Hiệp-Thiên-Đài

hay đúng hơn là cơ quan lập pháp và bảo thủ luật pháp chơn truyền

Đại-Đạo. Không ai qua luật Đạo mà Hiệp-Thiên-Đài không biết.

          Hội-Thánh Hiệp-Thiên-Đài dưới quyền Hộ-pháp điều khiển gồm

có 3 chi: chi Pháp, chi Đạo và chi Thế. Mỗi chi có nhiệm vụ đặc biệt

khác nhau mà liên quan nhau trong việc truyền bá Đạo Cao-Đài.

          Bài Thánh-Ngôn của Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế giáng cơ đề ngày

13-2-1927 nhằm ngày 12 tháng giêng Đinh-Măo phân quyền hạn hiệu lực

Hiệp-Thiên-Đài như sau:

           "Các con! Cả chư môn đệ khá tuân mạng.

           " Hiệp-Thiên-Đài là nơi Thầy ngự cầm quyền Thiêng-Liêng mối

Đạo. Hễ Đạo c̣n th́ Hiệp-Thiên-Đài c̣n (Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế giáng

cơ bút dạy Đạo cho Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài tại Ṭa-Thánh).

           "THẦY đă nói Ngũ-chi Đại-Đạo bị qui phàm là v́ khi trước

hồi Nhứt-kỳ và Nhị-kỳ phổ-độ THẦY giao chánh giáo cho tay phàm, càng

ngày càng xa Thánh-Giáo, nên THẦY nhứt định đến chính ḿnh THẦY đặng

dạy dỗ các con mà thôi, chớ không chịu giao Chánh-giáo vào tay phÀm

nữa.

           "Lại nữa, Hiệp-Thiên-Đài là nơi của giáo-Tông đến thông

công cùng Tam-Thập Lục-Thiên, Tam-Thiên Thế-Giới, Thất-Thập-Nhị Địa-

Cầu, Thập Điện Diêm-Cung mà cầu siêu cho cả nhơn loại.

           "THẦY đă nói sở dụng thiêng liêng: THẦY cũng nên nói sở

dụng phàm trần của nó nữa.

           "Hiệp-Thiên-Đài dưới quyền Hộ-pháp chưởng quản, tả có

Thượng-Sanh, hữu có Thượng-phẩm. THẦY lại chọn Thập-Nhị Thời-Quân chia

làm ba:

           1) Phần Hộ-pháp chưởng quyền về Pháp th́:

           HẬU (Ô. Nguyền-Trung-Hậu) là Bảo-pháp - bảo là giữ ǵn

           ĐỨC (Ô. Trương-Hữu-Đức) là Hiến-pháp - hiến là dâng

           NGHĨA (Ô. Trần-Duy-Nghĩa) là Khai-pháp - khai là mở - bày

ra.

           TRÀNG (Ô. Trương-Văn-Tràng) là Tiếp-pháp, lo bảo hộ luật

đời và luật đạo, chẳng ai qua luật mà Hiệp-Thiên-Đài chẳng biết.

            2) Thượng-phẩm th́ quyền về phần Đạo dưới quyền:

            CHƯƠNG là Bảo-Đạo

            TƯƠI là Hiến-Đạo

            ĐĂI (Ô. Phạm-Tấn-Đăi) là Khai-đạo

            Phẩm Tiếp-Đạo (Đức Chí-Tôn phong sau cho Ô. Cao-Đức-Trọng

tại Thánh-Thất Nam-Vang) lo về Đạo nơi Tịnh-Thất đều xem sóc chư môn

đệ THẦY, binh vực chẳng cho ai phạm luật đến khắc khổ cho đặng.

            3) Thượng-Sanh th́ lo về phần Đời - chưởng quản chi thế -

dưới quyền:

             Bảo-Thế th́ PHƯỚC (Ô. Lê-Thiện-Phước)

             Hiến-Thế: MNH (Ô. Nguyễn-Văn-Mạnh)

             Khai thế: THÂU

             Tiếp-thế: VĨNH (những vị Chức-Sắc chúng tôi không ghi họ,

v́ không thấy làm việc ở Ṭa-Thành hiện nay).

             "THẦY khuyên các con lấy vô tư mà hành đạo.

             "THẦY lại cho các con biết rằng hễ trọng quyền th́ ắt có

trọng phạt.

             Bài Thánh-Ngôn trên đây, Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế đă phÂn

định quyền hạn và hiệu lực của Chức-Sắc và Hội-Thánh Hiệp-Thiên-Đài.

Có một điều đáng quan tâm đến là:

 

                    TẠI SAO GỌI HIỆP-THIÊN-ĐÀI ?

 

             - Hiệp-Thiên-Đài là Đài liên đới với Trời, tương quan

trong việc truyền bá Đại-Đạo, độ rổi chúng sanh.

               CHÍ-TÔN lập Hiệp-Thiên-Đài cốt yếu tiêu biểu thể pháp

vô vi liên quan cơ hữu h́nh tại thế, mới có hiệu lực điều khiển việc

phổ độ chúng sanh trong nền Đạo.

              Thể pháp vô vi: Pháp-Chánh truyền đạo Cao-Đài giăi

Hiệp-Thiên-Đài đối với Đạo có hiệu lực như tinh thần của vạn loại.

              Về thể thức nền Đại-Đạo, th́ Hiệp-Thiên-Đài tượng trưng

là HỒN.

              Cữu-Trùng-Đài tượng trưng là XÁC Đạo. Hồn điều khiển

Xác, Xác mới thanh cao toàn vẹn. Trái lại, Xác điều khiển Hồn th́ Hồn

bị sa đọa. Do đó, ta nhận thấy được hiệu lực yếu nhiệm của Hiệp-Thiên-

Đài.

              Ngoài ra, Hiệp-Thiên-Đài c̣n là linh hồn của Đạo cũng

như linh hồn vạn loại chúng sinh trong Càn-Khôn thế-giái, trường -tồn

bất tiêu bất diệt. Cữu-Trùng-Đài là thể xác. Dù cho thể xác có tiêu

tan song phần hồn vẫn trường tồn linh hoạt vậy.

             Khai nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế

lập Hiệp-Thiên-Đài thể hiện cơ vô vi mầu nhiệm; chỗ Giáo-Tông đến

thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giái, Thất Thập Nhị

Địa Cầu và Thập Điện Diêm Cung mà cầu rỗi cho linh hồn chúng sanh,

được siêu thăng. Và Hiệp-Thiên-Đài c̣n là nơi Ṭa ngự của Chí-Tôn

Giáo-Chủ Đạo Cao-Đài - để điều khiển cơ phổ độ tam kỳ nầy.

              Các qui luật Thiên-Điều do đài nầy truyền ra ban hành.

Đó là đại cương hiệu lực vô vi của Hiệp-Thiên-Đài. C̣n về hữu h́nh th́

Hiệp-Thiên-Đài là cơ quan lập pháp luật Đạo.

              Hành sự cơ quan nầy là một nhóm Chức-Sắc do Cơ-bút

Thiêng-Liêng tuyển phong và ban hành quyền hành tuyệt đối từ buổi khai

Đạo. Sự tuyển phong nầy căn cứ nguyên nhân tiền kiếp mà định phẩm vị

lớn nhỏ khác nhau.

              Mỗi vị Chức-Sắc có quyền hạn quan trọng thi hành theo

Tân-luật Pháp-Chánh-Truyền ấn định; nền Đạo nghiêng ngữa hay thịnh

hành đó là do nơi Hội-Thánh Hiệp-Thiên-Đài cả. V́ quyền hành tuyệt đối

quyết định trong mọi thể thức  trong việc phổ-độ, truyền bá giáo-lư

Đại-Đạo đều do Hội-Thánh Hiệp-Thiên-Đài ấn định. Bởi thế mà Hội-Thánh

Hiệp-Thiên-Đài có một trách nhiệm đặc biệt trong nền Đạo Cao-Đài về

mặt hữu h́nh.

             Đến đây, chúng tôi xin lược thuật đại cương hiệu lực của

các Đài quan trọng, điễn h́nh cho Bạch-Ngọc-Kinh (cơi Thiên-Đ́nh) điều

khiển nền Đạo Cao-Đài tại thế.

 

                       H̀NH THỨC ĐẠO CAO-ĐÀI GỒM CÓ :

 

             - BÁT-QUÁI-ĐÀI do Thiêng-Liêng điều khiển, trực tiếp rước

các đẳng chơn hồn vào Bạch-Ngọc-Kinh phán xét tội căn, hoặc tâm đức tu

hành mà định vị thiêng liêng. Ngoài ra Bát-Quái-Đài c̣n gián tiếp điều

khiển Hiệp-Thiên-Đài và Cữu-Trùng-Đài trong việc phổ-độ chúng sanh.

             - HIỆP-THIÊN-ĐÀI, do một số Chức-Sắc đầy đủ công đức tu

hành theo cơ-bút Thiêng-Liêng căn cứ tiền kiếp mà tuyển phong, dùng để

cầm giềng mối Đạo thay Chí-Tôn thại thế hay thay mặt Bát-Quái-Đàicũng

vậy mà trực tiếp điều khiển Cữu-Trùng-Đài trong việc phổ-độ chúng

sanh.

             - CỮU-TRÙNG-ĐÀI, do một số Chức-Sắc tu tập,làm công quả

từ khi thọ giáo tức hàng Tín-đồ, sau thời gian đầy đủ công nghiệp, tâm

đức vẹn toàn mới được Hội-Thánh nhóm họp công nhận ân phong - Luật

công cử - hoặc cầu cơ do Thiêng-Liêng chỉ định. Tùy theo công đức tu

hành mà phẩm vị cao, thấp khác nhau, những Chức-Sắc nầy mạnh danh là

"Hội-Thánh Cữu-Trùng-Đài". Hội-Thánh nầy có nhiệm vụ truyền bá giáo-lư

Đại-Đạo và phổ-độ hoặc cầu rỗi cho chúng sanh về phần hữu h́nh, tùng

quyền Hội-Thánh Hiệp-Thiên-Đài gọi là cơ quan hành pháp thực hiện sự

truyền bá đạo đức trong dân gian .

              Đó là thể thức quan trọng của các đài biểu hiện như thế,

hẳn sự nhận thức ai cũng thấy hiệu lực của hiệp-Thiên-Đài tại thế nầy.

              Lại nữa về thể pháp luyện Đạo, sự mầu nhiệm của Hiệp-

Thiên-Đài trong Tam-Kỳ Phổ-Độ nầy nhằm một trong ba yếu tố: Tinh, Khí,

Thần của sự đắc đạo.

              - Cữu-Trùng-Đài - thể Đạo ví như TINH

              - Hiệp-Thiên-ĐÀi - Ví như KHÍ

              - Bát-Quái-Đài - ví như THẦN.

              Tinh, Khí, Thần là yếu nhiệm của sự tu hành đắc đạo.

              Về sự phổ độ chúng sanh, Hiệp-Thiên-Đài c̣n có hiệu lực

siêu diệt phàm trần.

              Thế hệ ngày nay, nhân loại văn minh cực điểm, khoa học

đă phụng sự tiện nghi cho nhân loại mọi lănh vực một cách nhanh chóng.

Như khi muốn liên quan về những tin tức vấn đề ǵ, th́ từ nước nầy đến

nước kia cách nhau hằng vạn cây số chỉ dùng vô tuyến điện thoại liên

lạc trong chốc lát.

              Nền Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ, muốn liên lạc sự ǵ về cơi vô

h́nh hoặc hỏi vấn đề ǵ trong sự truyền giáo, Hội-Thánh chỉ nhờ

Hiệp-Thiên-Đài vọng bàn cầu cơ trong chốc lát sẽ được các đấng

Thiêng-Liêng chỉ dạy rành mạch với kết quả khả quan. Đó là sự mầu

nhiệm của Đạo Cao-Đài.

              Hiệp-Thiên-Đài; Pháp-Chánh-Truyền Đại-Đạo chú giải c̣n

gọi Cữu-Trùng-Đài là ĐỜI và Hiệp-Thiên-Đài là ĐẠO mà nói rằng: Đạo

không Đời không sức, Đời không Đạo không quyền nghĩa là Đạo và Đời

phải liên quan tương đắc nhau mới trọn cơ d́u dắt nhơn loại trên đường

đạo đức thiện chơn.

              Trên đây, đại cương hiệu lựcHiệp-Thiên-Đài về thể thức

hữu vi và vô vi.

              Ngoài ra, trong cơ phổ độ chúng sanh, Hiệp-Thiên-Đài c̣n

có cơ quan Pháp-Chánh liên lạc.

              Sự quan trọng của cơ quan nầy là kiểm soát về hạnh kiểm

và hành vi các Chức-Sắc truyền đạo, mục đích kiện toàn mọi lănh vực

của người tu tập cho được Chân, Thiện hoàn toàn để thực hiện đạo đức

cảm hóa ḷng người hướng về đạo lư.

              Cơ quan nầy cũng như ṭa án ngoài đời, có thẩm quyền can

thiệp, nghị án trục xuất hoặc sửa chửa cảnh cáo những vị phạm pháp

luật Đạo.

              Nhưng từ ngày Bộ Pháp-Chánh ngưng hoạt động, trong Đạo

Cao-Đài thuộc Ṭa-Thánh Tây-Ninh đă có xăy ra lắm điều không hay do

những cá nhân lầm lẫn làm tổn thương thanh danh Đạo.

              Trước kia, ở Ṭa-Thánh cũng như tới các địa phương, mỗi

tỉnh đều có văn pḥng bộ Pháp-Chánh để trực tiếp kiểm soát những hành

vi phạm pháp luật Đạo. Hiện nay, th́ hoàn toàn không c̣n.

              Xuyên qua trọng điểm đại cương và t́m hiểu các thể thức

hữu vi của Hiệp-Thiên-Đài, hẳn du khách thấy sự hệ trọng của cơ quan

nầy trong sự phổ độ tam kỳ là thế nào.

             V́ thế, nên vừa đến cửa hiệp-Thiên-Đài, du khách thấy

liền hai câu đối khắc rơ rệt:

             "Hiệp Nhập Cao-Đài Bá Tánh Thập Phương Qui Chánh Quả"

             " Thiên Khai Huỳnh-Đạo Ngũ-Chi Tam-Giáo Hội Long-Hoa"

       (Ư nghĩa hai câu đối nầy chúng tôi đă lượt giải ở đoạn trước)

             Hai câu đối nầy thể hiện hiệu lực khả quan của Hiệp-

Thiên-Đài trong nền Đạo. Ngoài ra, trên cửa c̣n có tạc h́nh bộ Cổ-pháp

của Tam-Giáo: cuốn Xuân-Thu, cây Phất-chủ, B́nh Bát-Du và một cái

"cân" tượng trưng sự công b́nh giữ ǵn luật pháp Đại-Đạo.

            Sau khi nhận thức ư nghĩa và hiệu lực Hiệp-Thiên-Đài, du

khách sẽ ngạc nhiên với một nền Đạo có hệ thống tổ chức đặc biệt trong

sự phổ độ chúng sanh. Những sự khác biệt nầy càng làm cho nền Đạo có

vẽ tôn nghiêm và huyền bí.

            Am tường được ư nghĩa Hiệp-Thiên-Đài, du khách sẽ chạnh

ḷng với bao ư nghĩ xa xôi của nền Đạo.

            Đường nội ô Ṭa-Thánh, c̣n nhiều ngă chạy về nẻo dọc,

ngang... Đưa mắt trong chờ du khách sẽ thấy mấy mái nhà san sát bên

nhau hoặc lát đát trong những tàn cây rợp bóng.

            Đối diện Hiệp-Thiên-Đài, bên tả B́nh-Dương-Đạo có những

ngôi nhà lợp ngói. H́nh thức kiến trúc cũng đồ sộ nhưng có vẻ cổ kính.

Những ngôi nhà nầy dùng để Chức-Sắc nữ phái ở và đặt văn pḥngcơ quan

tương trợ. Cơ quan nầy chuyên lo cung cấp những nhu cầu cần thiết về

sự ăn uống hoặc chăm sóc các lễ, tiệc, tang, tế, v.v... về sự nấu giúp

thực phẩm hoặc trang trí những nghi thức hành lễ thuộc về nữ phái.

            V́ vậy bên trong ngôi nhà nầy không an bày những ǵ đặc

biệt... những ngôi nhà phần nhiều ngăn thành từng pḥng để Chức-Sắc

nữ phái nghĩ ngơi tu tập thế thôi.

            Từ những ngôi nhà nầy đi độ vài trăm thước...du khách sẽ

thấy một biệt thự nguy nga...

            Ngôi nhà nầy h́nh thức kiến trúc: nóc bằng, dạng khối chữ

nhật, nhưng phân làm hai tầng: dưới và trên là lầu...

           Đây là ngôi Hộ-Pháp-Đường, tức ngôi nhà của Hộ-pháp.

 

                            VIII

 

                ĐIỆN THỜ PHẬT-MẪU; BÁO-ÂN-TỪ

 

           Nằm song song ngôi Hộ-pháp-đường là "BÁO-ÂN-TỪ" hay Điện

thờ Phật-mẫu.

           Đây là một ngôi nhà to lớn: h́nh thức kiến trúc bao hàm cả

những ư nghĩa liên đới sự hữu h́nh và vô vi trời đất.

          Những bí ẩn huyền diệu ấy chúng tôi lần lượt tŕnh bày rơ

rệt như sau, để độc giả nhận thức quan điểm đại cương nền Đại-Đạo

Tam-kỳ Phổ-Độ...

          ... Trước quang cảnh nên thơ... du khách chần chờ lê bước...

          Qua khỏi cột Phướng cao ṿi vọi...mặt tiền, du khách sẽ thấy

ḷng rực rỡ niềm hân hoan trước ngôi Báo-Ân-Từ, phản chiếu muôn màu.

          Đây là một ṭa nhà nguy nga, đồ sộ, thể thức kiến trúc dạng

khối chữ nhật; phân ra hai tầng: dưới và trên lầu. Trước cửa vào du

khách nh́n lên thấy liền một đài gọi là Bạch-Ngọc Chung-Đài cao vun

vút, tức là đài chuông như ở ngôi Ṭa-Thánh mà chúng tôi đă lược giải

qua.

          Có lẽ, ba chữ Báo-Ân-Từ hay Điện thờ Phật-mẫu danh từ thể

hiện sự khác biệt địa hạt căn chương. Thế nên chúng tôi xin lược

giải để độc giả am hiểu trước khi nhận thức nội dung đền thờ.

 

                          BÁO-ÂN-TỪ

 

          - Báo: là đáp lại, đền ơn, trả nghĩa v.v...

          - Ân: ơn huệ ban cho ḿnh; công ơn đă thọ v.v...

          - Từ: đây có nghĩa "Từ-Đường". Nên Báo-Ân-Từ c̣n gọi là nơi

thờ phượng những bậc đại ân, để tỏ ḷng hiếu nghĩa, những bậc đại ân

ấy là những Chức-Sắc lớn có công vĩ đại đối với nền Đạo, như: Đầu-Sư

Thái Thơ Thanh... Sự tôn thờ nầy c̣n là biểu thị niềm kính cẩn công

ơn những bậc trên, bởi dày công khai mở nền Đại Đạo...(Chúng tôi được

am hiểu, vị trí kiến trúc Điện thờ Phật-mẫu Hội-Thánh đă chọn nơi khác

...Nơi đây chỉ tạm buổi ban đầu thôi. Nhưng hiện nay có lẽ chưa đủ

điều kiện nên Hội-Thánh chưa thực hiện...)

 

                         ĐỀN THỜ PHẬT-MẪU

 

          Nghĩa là nơi thờ Đức Phật, mẹ sanh cả nhơn loại và vạn vật.

          V́ mỗi vật hữu sanh nơi thế gian nầy đều do cơ Tạo-đoanhóa

dục sanh thành. Cơ Tạo-đoan nầy do sự tác hợp và điều khiển của Đức

Phật-mẫu.

          Trên cơi Thiên-Đ́nh, thể theo kinh sách, th́ tầng Trời chín

gọi là "Tạo-Hóa-Huyền-Thiên", có vị cầm quyền điều khiển cơ Tạo-Đoan

là "Thiên-Hậu", gọi là Phật-mẫu Diêu-Tŕ.

          Người Á-Đông, thường gọi Phật-mẫu là mẹ sanh và tạc tượng để

thờ.

          Phật-mẫu lấy "Khí sanh Quang" (fluide de vitalité) mà nuôi

dưỡng từ linh hồn đến thể xác của nhơn loại và chúng sanh.

          Thế nên, mỗi sanh vật sanh trưởng cơi phàm nầy đều thọ công

ơn của Đức Phật-mẫu Diêu-Tŕ.

          Nay lập Tam-Kỳ Phổ-Độ, Đức Phật-mẫu lại cùng Cửu vị Nữ Phật

nắm Cơ Huyền-vi độ rỗi các đẳng chơn hồn chơn hồn chúng sanh Càn-khôn

Vũ-Trụ.

          V́ vậy, lập Điện thờ để chư thiện nam tín nữ tưởng niệm ơn

đức cao dày của Phật-mẫu, đồng thời làm tiêu chuẩn cho thế nhân mục

kích nguồn cội sanh hóa linh hồn ḿnh mà hướng về đạo đức, sinh hoạt

thiện lương cho linh hồn khỏi bị đọa trầm khổ ải...

          Khi nhận thức được ư nghĩa mục đích kiến tạo Điện thờ Phật

mẫu... du khách sẽ lần lượt đi vào nội dung kiến trúc bao trùm những

bí ẩn huyền vi liên đới sự Phổ-độ chúng sanh trong tm kỳ thực hiện

nầy...

         Bước vào cửa Điện thờ du khách muôn vàn thể thức nên thơ,

sắc màu chói chan trước mắt...

          Đưa mắt nh́n lên bao lơn môi giới giữa lầu và tầng dưới du

khách thấy tạc những h́nh các vị trong Nhị-Thập-Tứ-Hiếu. Thể thức ấy

có ư nghĩa tượng trưng sự hiếu thảo là căn bản đạo đức.

           Nay khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ cũng lấy sự hiếu thảo làm

mục đích để thực hiện đạo lư...

           Hơn nữa, nơi thờ phượng đấng sanh thành nhơn loại, chúng

sanh nên tượng trưng sự hiếu thảo để tiêu biểu căn bản phát huy đạo lư

và thể hiện nghĩa cao quư của nhơn loại cho nhơn thế soi chung.

            Vào trong Điện thờ, du khách thấy phân làm ba căn rơ rệt:

căn giữa rộng hơn hai bên... Các ḷng căn cũng thể hiện ư nghĩa huyền

vi cơi vô h́nh.

            Lần lượt quan sát, du khách thấy cả thảy có tám ḷng căn.

thể thức ấy tượng trưng "Bát-Cảnh-Cung" của Phật-Mẫu.

            Mỗi ḷng căn nh́n lên đều có một khung sơn màu xanh, phác

họa h́nh rồng và ngôi sao như một bức tranh sơn thủy...

           Trên hai hàng cột song song để phÂn ḷng căn giữa, có

những tấm bản nhỏ h́nh quả tim, sơn nền vàng. Mỗi khi lễ, cúng, tế nơi

những tấm bản cây nầy thường có cấm những cây cờ màu vàng tượng trưng

phái Phật, bởi ư nghĩa câu: "Phái vàng mẹ lănh dắt d́u trẻ thơ..."

           Lần lượt vào trong Bửu-Điện, du khách sẽ thấy bàn ngoài thờ

tượng Phật Thích-Ca, và bàn trong là Bửu-Điện thờ cốt tượng Phật-Mẫu

và Cửu vị Nữ-Phật cởi chim loan. H́nh ảnh tạc trên bức tranh có cảnh

núi non vô cùng linh động... Du khách mơ màng đứng ngắm... Mùi hương

trầm thoang thoảng thơm tho làm say sưa khách tục...

 

                 TI SAO PHT-MẪU VÀ CỬU-V N-PHT

                             CỞI CHIM LOAN?

 

         - Thể theo sự tích ngày xưa, vua Vũ-Đế bên Trung-Hoa muốn tu

hành học đạo nhưng ước ao thấy được Tiên Phật mới chịu gắng chí.

           V́ vậy, mà nhà vua ngày đêm khẩn cầu Trời Phật cho được

thấy sự huyền dịu... Phật mẫu cảm ứng ḷng thành, mới cùng Cửu-Vị

Nữ-Phật và bốn vị Nhạc-kỹ cởi chim loan xuống núi độ vua Vũ.

           Vũ-Đế thấy Tiên xuất hiện, hào quang chói ḷa mới dâng hoa

quả tỏ ḷng thành kính...V́ thế, nên tượng thờ Phật-Mẫu phác họa theo

sự tích ấy, mục đích tiêu biểu ḷng bác ái của Phật-Mẫuđối với những

ai thành tâm cầu nguyện.

           Khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, Phật-Mẫu cùng Cửu vị Nữ Phật

cũng xuống trần độ người, nếu nhơn sanh biết thành tâm khẩn nguyện và

nương theo đường đạo đức.

 

                   QUYỀN LỰC PHẬT-MẪU VÀ CỬU VỊ NỮ PHẬT

 

           - Phật-Mẫu là Mẹ sanh toàn cả nhơn loại, chưởng quản

Tạo-Hóa Huyền-Thiên. Ai sanh trưởng tại thế gian nầy đều phải nhờ Phật

mẫu định vị sang giàu hoặc cho nhằm cảnh khổ để học khôn cho linh hồn

tiến hóa đến ngôi vị Phật. Tất cả vạn vật, nhơn sanh trong Càn-Khôn

Vũ-Trụ nầy đều thọ ân dưỡng dục về phần hồn của Phật-Mẫu... Có sách

gọi Phật-Mẫu là Kim-Mẫu, ấy là gọi tắt. Nguồn cội chữ Kim-Mẫu do chữ

Kim-Bàn Phật-Mẫu. Bởi vậy, nên cơi trần Phật mẫu là Mẹ sanh cả nhơn

loại mà nơi Hư-Linh Phật-Mẫu là Mẹ của cả Thần, Thánh, Tiên, Phật.

           Quyền hạn của Nhứt-Nương Nữ-Phật.

           - Nơi cơi Tây-phương Cực-lạc có vườn Ngạn-Uyển, Nhứt-Nương

Nữ-Phật chưởng quản. Ngài hằng xem sóc các đóa hoa trong vườn mà biết

được kiếp số nhơn sanh. Trong vườn Ngạn-Uyển có bao nhiêu đóa hoa là

bao nhiêu linh hồn người tại thế. Nếu hoa nào xinh tốt, th́ linh hồn

ấy c̣n sinh tồn tại thế; hoa nào tàn héo th́ linh hồn tại thế sắp qui

hồi cựu-vị để được phán xét tội căn siêu-đọa tùy người lành, dữ...

           Nhị-Nương Nữ-Phật:

           - Cơi Thượng-Giới: tầng Trời thứ hai là nơi Nhị-Nương

chưởng quản, trực tiếp rước các đẳng chơn hồn người qui vị.

           Tại thế gian nầy, lúc măn kiếp sinh, linh hồn người phải

trở về cơi Hư-linh Thượng giới. Khi đến tầng Trời thứ hai được

Nhị-Nương tiếp rước đăi tiệc trường sanh (tiệc Bàn-Đào) và đưa linh

hồn đến Ngân-Kiều vào triều Kim-Quang mà yết kiến Ngọc-Hư-Cung, tức

là nơi Thiên-Triều phán đoán tội phước chúng sanh...

            Tam-Nương Nữ-Phật:

            - Kinh sách gọi cảnh đời nầy là bễ khổ hay bến trầm luân.

Thời gian tượng trưng như gịng nước luân hồi đưa nhơn loại bồng bềnh

trên cơi tục... Trên mặt sóng thời gian ấy có con thuyền vô h́nh lênh

đênh để chực đưa linh hồn người về cơi Thượng-Giới. Con thuyền ấy gọi

là "Thuyền-Bát-Nhă".

             Chưởng quản cơ huyền vi điều khiển việc rước linh hồn

khách tục nầy là Tam-Nương Nữ-Phật. (Trong tượng h́nh thờ chung

Phật-Mẫu Bà cầm Long-Tu-Phiến).

             Tứ-Nương Nữ-Phật:

             - Về việc mở kiến thức khiếu linh quang nhân thế trên

phương diện học thức và nâng đỡ các linh hồn thêm linh hoạt, linh hiển

để học hỏi tại cơi thế nầy hay cơi vô h́nh đều do Tứ-Nương. V́ vậy,

nên tượng thờ chung với Phật mẫu bà cầm cây Kim-Bản... và khi giáng cơ

có cho câu kinh như vầy:

             "Vàng treo nhà, ít học không ưa".

             Ngũ-Nương Nữ-Phật:

             - Cơi vô h́nh có đường về Bạch-Ngọc-Kinh, Đạo Cao-Đài gọi

là con đườgn thiêng liêng hằng sống. Nơi đây có xe Như-Ư của Đức

Lăo-Quân (Lăo-Tử) tiển đưa các đẳng chơn hồn đầy đủ công đức tu

hành đến cơi Xích-Thiên để khai Kinh-Vô-Tụ phÁn đoán quả căn của các

chơn linh đắc đạo.

           Dùng huyền diệu thiêng liêng điều khiển việc nầy là

Ngũ-Nương. Bà có giáng cơ cho câu kinh như vầy:

           " Dựa xe Như-ư oai thần tiển thăng".

           Lục-Nương Tứ-Phật:

           - Những linh hồn khi thoát xác phải nương nhờ Phướng

Chiêu-Diêu (phướng chiêu hồn) mà đến cơi Kim-Thiên để vào đài

Huệ-Hương tẩy trược linh thể, linh thể mới được lắng nghe tiếng

Thiên-Triềumà về cơi Tây-phương Cực-lạc.

           Những sự mầu nhiệm nầy do Lục-Nương Nữ-Phật điều khiển;

           Thất-Nương Nữ-Phật:

           - Lập Tam-Kỳ Phổ-Độ, Thất-Nương lănh trách vụ cơi Thiên

kiều đến Âm-Quang độ các linh hồn tội lỗi, biết giác ngộ và chỉ chỗ

đầu kiếp đặng theo Đạo lần về Cửu-vị (nhứt là Nữ phái). Bởi vậy, tượng

thờ chung Phật mẫu tạc h́nh Bà cầm bông-Sen khêu đuốc Đạo, trong kinh

có câu:

            "Thất-Nương khêu đuốc Đạo mầu...".

            Có một bài cơ thiêng liêng giăng dạy quyền hạn Thất-Nương

và nói rằng: "Những chơn hồn nào sanh trong Tam-Kỳ Phổ-Độ (nghĩa là

trong ṿng từ ngày Đạo Cao-Đài khai mở trở lại đây), th́ tiến hóa vaé

thông minh hơn trước nhiều".

            Điều đó, hiện nay chứng tỏ rằng những trẻ em có sự thông

minh khác lạ...

            Bát-Nương Nữ-Phật

            Điều khiển cơ huyền vi giáo hóanhững linh hồn mê muội

trong cơi trần vật chất và độ rỗi các chơn linh tại thế, đồng thời

trực tiếp đưa các đẳng chơn hồn vào cơi Phi-Tưởng-Thiên mà hóa vị, tùy

công đức tu hành...

            Cửu-Nương nữ-Phật:

            -Cơ huyền vi xây chuyển, thể hữu h́nh biến dạng, từng địa

hạt văn chương, thi phú, cầm kỳ, bá nghệ mỹ thuật siêu việt, triết

học uyên thâm đều nhờ sự điều khiển khêu đuốc linh quang (theo

Thánh-Giáo) cho thế nhân vậy.

           Tóm lại, thờ phương Phật mẫu cùng Cửu-Vị Nữ-Phật tượng trưng

thể thức tiêu biểu quyền lực điều khiển cơ huyền vi cơi vô h́nh liên

đới việc phổ độ ba kỳ nầy, để nhân loại mục kích mà quan tâm đến kiếp

người hiện tại...

           Thế cuộc thăng trầm...Thời gian thấp thoáng...Cơ huyền vi

linh hoạt xoay vần... để chuyển đời cải thế... Xem qua thể thức tiêu

biểu sự mầu nhiệm thiêng liêng... có thể làm du khách chạnh ḷng nghỉ

ngợi thân người trong cơi thế...

            Nơi Bữu-Điện thờ nầy, ngoài h́nh Phật-Mẫu, Cửu-vị Tiên

Nương và h́nh vua Vũ-Đế đang dâng hoa quả c̣n tạc h́nh Đức Cao-Thượng-

Phẩm (Cao-Huỳnh-Cư) ngồi cầm Long-Tu-Phiến.

            Thể thức ấy bao hàmbí ẩn phép mầu nhiệm, chuyễn thần lực

Long-Tu-Phiến mà đưa các linh hồnvào cơi vô h́nh.

             Những linh hồn nào măn kiếp sanh do thiên định và tu hành

công nghịệp tâm đức đủ đầy th́ được Đức Cao-Thượng-Phẩm chuyển thần

lực Long-Tu-Phiến đưa vào cơi thiêng liêng hằng sống; trái lại những

linh hồn thiếu công đức tu hành, hoặc liều ḿnh tự tận, th́ Đức

Thượng-Phẩm chuyển thần lực Long-Tu-Phiến đưa linh hồn ấy vào cơi địa

ngục...

            Tóm lại, tượng h́nh Thượng-Phẩm thờ mục đích tiêu biểu của

Tam-Kỳ Phổ-Độ, đồng thời để thế nhân mục kích mà thực hiện sự tu

thân hướng thiện, để linh hồn khỏi bị sa vào địa ngục a-tỳ.

            H́nh ảnh thể thức phượng thờ nơi Bữu-Điện c̣n linh hoạt

nhấp nhóa một màu loang loáng trước mắt thể hiện bao niềm huyền bí vô

vi, làm du khách bâng khuâng chạnh nghĩ kiếp người lắm nổi!!!

            Đang miên man... Tâm hồn chập chờn bao h́nh ảnh vô vi,

thoảng chuông chùa đánh lên vang tiếng... khiến khách tục vời vợi

trong ḷng...

            Nh́n qua phía hữu Bữu-Điện, du khách thấy một bàn thờ có

h́nh một vị Chức-Sắc áo măo trang nghiêm... Đó là bức tượng ảnh của

Đầu-Sư Thái-Thơ-Thanh trầm tư trong khuôn kính.

            Nơi đây, dừng chơn đôi phút, du khách sẽ nghe réo rắt

tiếng lắc ống xin xăm để cầu xin được biết vận mệnh của vài người

khách lạ...

            Rồi dời chơn tiếp tục đi xem... qua khỏi Bữu-Điện thờ

Phật-Mẫu có một tấm vách tường chắn lối phân đôi; phía sau tức là

Hậu-Điện. Nghĩa là nơi dùng để thết đải tiệc nước cho khách tha phương

đến viếng Đền-Thờ... Ngoài ra nơi đây c̣n đặc điểm vị trí để tổ chức

lễ cưới, gă của những chức-việc hay hàng tín đồ đă hiến thân trọn đời

cho đạo. V́ trường hợp xa gia đ́nh, nên mới tạm mượn nơi đây làm lễ

đải tiệc.

            Sau bửa tiệc, đôi tân hôn về tư gia.

            Rời khỏi Hậu-Điện thờ Phật-Mẫu, du khách sẽ thấy ngay bên

cạnh có những ngôi nhà dọc, ngang đồ sộ...

            Nơi đây, là vị trí đặc biệtđể tu sĩ nữ phái, đồng nhi,

giáo nhi ở. Những người nầy chỉ có phận sự đọc kinh khi cúng tế...

            Đồng nhi, ấy là trẻ em từ 8 tuổi đến 14 tuổi. C̣n lớn hơn

nhiều vị đă lên chức giáo nhi. Nghĩa là cao hơn đồng nhi một phẩm có

quyền dạy dỗ đồng nhi tập dượt kinh kệ thuần thuộc...

            Luật lệ Hội-Thánh ấn định, từ đồng nhi lên chức giáo nhi

phải trải qua cuộc thi đọc kinh. Ai đọc đúng giọng và trúng theo nhịp

đờn th́ được chấm đậu giáo nhi...

            Phầm giáo nhi nầy, nếu hành tṛn phn sự năm năm được dự

sổ cầu phong Lễ sanh nữ phái. Ấy là một phẩm tước cũng hết sức quan

trọng trong nền đạo Cao-Đài.

            V́ vậy, những cuộc thi tuyển Giáo-Nhi do Hội-Thánh tổ

chức, muốn được đổ học phải học kinh rất nhiều luyện giọng đọc thật

đúng và c̣n phải có đức hạnh th́ mới có đôi chút hy vọng thi đỗ, (cắp

bằng nầy khó tương đương bằng Tiểu-Học ngoài đời, về phương diện vô vi

nó lại có phần giá trị hơn).

            Luật lệ Giáo-Nhi rất nghiêm khắc, những người vào hàng

phẩm, tức được Hội-Thánh công nhận giáo nhi chính thức mà lập gia đ́nh

hoặc không giữ được tiết trinh th́ bị loại...

             Dù đường tu lắm nỗi khó khăn... nhưng vẫn có người quyết

chí tu hành.

             Hằng năm, sau cuộc thi lệ trong ṿng tháng 8 thượng

tuần... Thời gian mà nắng vàng man mác khắp nơi... thu về lắng gió hiu

hiu buồn... Những vị dự thi nếu chẳng may... định mệnh hững hờ... cũng

là nỗi buồn đáng kể của họ...

             C̣n những vị thi đậu, có lẽ không vui ǵ bằng...nên những

đêm về, cảnh vật âm thầm lặng lẽ... Nếu t́nh cờ bước lên đường... có

khi nghe tiếng cười măn nguyện... hay giọng thơ ngâm đầy lạc thú, vang

lại vu vơ...

             Mừng nay đường Đạo được Trời ban

             Trần khổ từ đây bớt đoạn tràng!...

             Kinh kệ phôi pha niềm tục lụy;

             Mỏ chuông chạnh tĩnh giấc mơ màng!

             Cảnh chiều thế hệ chênh chênh bóng;

             Cơi mộng vang sầu lúc "nhặt, khoan"...

             Bể thảm; trầm luân cơn sóng dậy,

             Ngùi trông đời lại khổ miên man!

            T́m hiểu giây phút vui buồn trong cửa Đạo... du kháchsẽ

chạnh ḷng nghĩ ngợi vu vơ trường đời van khổ...

            Dư ảnh điển h́nh thế cuộc c̣n phẢng phất tâm hồn người...

Đi vội vài chục bước, du khách sẽ thấy bên lộ B́nh-Dương đối diện

Điện-Thờ Phật-mẫu có một thửa vườn khá rộng đầy đủ trăm hoa sắc

màu thắm tươi. Đó là Bá-Huê-Viên - Vườn đủ trăm hoa - để du khách

thưởng ngoạn... Và đây cũng là nơi tiêu khiển của những tu sĩ sau giờ

làm việc.

             Bước vào vườn hoa, thấy xây h́nh một bồn tṛn có tám liếp

liên tiếp nhau như h́nh rẽ quạt.

             Đó là thể thức tượng trưng Lưỡng-Nghi sanh Tứ-Tượng

(trong ṿng tṛn), Tứ-Tượng biến Bát-Quái (tám liếp h́nh rẽ quạt)

trong cơ huyền vi mầu nhiệm hóa dục sanh thành vạn loại...

             Trong tám liếp như tám cánh rẽ quạt có trồng các thứ hoa

thơm kiển lạ...

             Lê bước chầm chậm, du khách sẽ thấy ḷng đê mê với màu

sắc chập chờn và say sưa hương vị ngạt ngào...

             Quan sát kỷ, du khách sẽ thấy từng chậu kiểng uốn h́nh

một cách khác. Có chậu h́nh voi, h́nh hạc cỡi qui, h́nh cá hóa rồng

v.v... hoặc theo các sự tích xưa... Mỗi mỗi đều thể hiện nghệ thuật

tuyệt xăo tạo h́nh linh động...

             ...Nắng Trời man mác... Vườn hoa loang loáng ánh...từng

đợt gió nhẹ đưa qua xôn xao nhành lá... Tâm hồn du khách sẽ thấy rung

cảm miên man theo muôn vàn màu sắc...

             ...Đây cuối vườn, một bồn sen xây h́nh bát giác... Từ bồn

sen hướng ra cửa, du khách một căn nhà nóc tṛn để du khách nghỉ mát..

             Trong căn nhà nầy có xây một ḥn non bằng bọt biển (bông

đá) điêu khắc những h́nh ảnh như nhành cây trong bức sơn thủy hoặc vài

h́nh ảnh mường tượng những pho tượng tuyệt vời...

             Rời khỏi căn nhà nầy, rẻ các lối hoa, đi vài chục thước,

du khách sẽ thấy một cảnh tượng núi non chớm chở, tạc h́nh tứ linh:

Long, Lân, Qui, Phụng và các vị thần...

             Đây là một quả núi nhỏ xây bằng những tảng đá chông chênh

tạc họa những h́nh ảnh vô cùng linh động... Xem qua du khách thấy như

một bức tranh h́nh tượng lờ mờ...

             Dưới chưn núi nầy có trồng những cây ṭng buông rủ lơ

thơ. Bên cạnh là một hồ sen xây h́nh bát giác.

             Đến đây, những ǵ đặc biệt của Bá-Huê-Viên du khách được

xem tường tận... Từng luống hoa chạy dài mút mắt với một khung vườn

bát ngát sắc màu... đă tàng ẩn bao niềm rung cảm thế nhân. Du khách sẽ

bàng hoàng khi trở bước.

             Từ Bá-Huê-Viên đi vài trăm thước, bên hữu đường B́nh-

Dương-Đạo có một ngôi nhà đồ sộ cao ṿi vọi, nằm phơi bóng trong một

khung rào chênh vênh bốn vách... Đó là nhà Hội-Vạn-Linh.

            Ngôi nhà nầy kiến trúc dạng khối chữ nhật nhưng chia làm

ba nóc và phân làm hai tầng, dưới và trên là lầu...

            Đây là ngôi nhà có thể nói lớn nhứt trong phạm vi Ṭa-

Thánh, với một thể thức đáng kể bề ngang 40 thước, bề dài độ gần 200

thước... Bên trong tầng dưới cũng như trên lầu có chia ra nhiều pḥng.

Đó là đại cương sự phân biệt. Ngoài ra c̣n những chỗ làm việc nữa...

           Ngôi nhà nầy, sự trang trí không ǵ đặc biệt. Mỗi pḥng đều

có đặt một cái tủ, cái giường và bàn làm việc... dùng để khách nghỉ

ngơi...

           Nguyên ngôi nhà nầy trước kia mạng danh là "Nhà Hội-Thánh

ngoại giáo" nghĩa là cơ quan trung ương truyền giáo ngoại quốc...

           Nhưng từ ngày tu bổ tạo tác thêm trở lại, gọi là "Nhà Hội-

Vạn-Linh".

           Danh từ nầy cũng thể hiện đại cương. Sự khả quan nền Đạo

Cao-Đài và đúng nghĩa với quan điểm Đại-Đạo.

           Một sự hoạch định của Hội-Thánh theo mục đích Đại-Đạo Tam-

kỳ Phổ-Độ biểu hiện bằng thể thức thành lập các cơ quan để thực hiện

việc phổ-Độ chúng sanh...

           Tuy Đạo Cao-Đài hiện nay, thế giới chưa biết hoàn toàn...

Nhưng trong việc phổ-Độ chúng sanh cũng thực hành đúng tôn chỉ

đại-Đạo.

            Mục đích đạo Cao-Đài là phổ độ khắp cả chúng sanh xây dựng

trên cương lĩnh đại đồng đạo đức không phân biệt Tôn-giáo, chủng tộc

hay màu da sắc tóc...

            V́ vậy, thế hệ ngày mai, Đạo Cao-Đài phải có Hội-Vạn-Linh

cũng như hiện giờ tại Ṭa-Thánh Tây-Ninh mỗi năm có Hội Nhơn-sanh. Mục

đích hoạt động của Hội Nhơn-Sanh cũng như Hội Vạn-Linh, nghĩa là một

cuộc hội hộp dự thảo, nghiên cứu hay quyết định phương thức phổ độ

chúng sanh... Cuộc hội nầy gồm đủ các giới nhơn sanh trên các nước

dự... Ai cũng có quyền phát biểu ư kiến hoặc đưa đề nghị các vấn đề

phổ độ chúng sanh của nền Đại-Đạo.

            Bởi mục đích Đạo Cao-Đài ở hạ thừa là thực hiện phục vụ

sinh tồn nhân loại một cảnh sống thương yêu, hoà thuận hạnh phúc tại

thế gian... V́ vậy, mỗi thể thức hoạch định đều nhằm vào sự phục vụ

sinh tồn nhân loại, nên liên đới ư thức sanh hoạt từng lớp người.

            V́ thế phải căn cứ nguyện vọng nhân sinh mọi giới mà t́m

phương thức thích ứng để phổ độ. Hiện nay, hằng năm Hội-Thánh có cuộc

Hội Nhơn-sanh để nghiên cứu thêm phương thức truyền giáo hay ấn định

sự tu hành cho thích hợp trào lưu tiến hóa nhân loại...

             V́ vậy, nên Hội-Thánh mới lập nhà Hội Vạn-Linh để làm cơ

quan hội hợp nhơn sanh trên thế giới ngày mai...

             Có bài Thánh-giáo giăng nghĩa cơ phổ độ chúng sanh về

huyền vi c̣n phải: "Vạn-Linh hiệp Chí-Linh mới hoàn toàn có hiệu lực

vận chuyển sự hữu h́nh, vô vi". Nghĩa là độ rỗi về phần xác và hồn

chúng sanh...

             Như vậy, Vạn-Linh c̣n thể hiện sự định giá trị việc phổ

độ chúng sanh... Cũng như danh từ Phật Thích-Ca gọi là THẾ-TÔN, tức

Vạn-Linh tôn kính tại thế nầy...

             Am hiểu đại cương quan điểm thực hiện của đạo CAO-ĐÀI,

hẳn ai cũng thấy thể hiện sự công b́nh Thiêng-Liêng đă định, đúng

nghĩa với giá trị danh từ: Thiên-Thượng - Thiên-Hạ...

             Tân luật Pháp-Chánh-Truyền đạo CAO-ĐÀI ấn định; Đại cương

sự cầu phong, cầu thăng chức sắc có thể thức công cử bằng luật thăm

phiếu. Cả chức sắc đại diện nhơn sanh hợp nhau bỏ phiếu. Thí dụ: -Luật

công cử chức sắc Cửu-Trùng-Đàiấn định phẩm Đầu-sư lên Chưởng pháp:

             - "Đầu-Sư muốn lên Chưởng-pháp th́ nhờ ba vị công cử

nhau" Pháp-Chánh-Truyền chú giải rằng: Ba vị Đầu-Sư muốn lên Chưởng-

Pháp th́ cả ba người phải co& mặt nơi Ṭa-Thánh mà công cử nhau trước

mặt Hội-Thánh CỮU-TRÙNG-ĐÀI và HIỆP-THIÊN-ĐÀI chứng kiến" (Trích Tân

Luật Pháp-Chánh-Truyền, trang 78). Như vậy, chức sắc hàng Giáo-Sư

truyền Đo Cao-Đài cũng phải có quyền Vạn-Linh công nhận... Ngoại trừ

khi Đức Chí-Tôn hay Đức Lư Đại-Tiên Giáo-Tông vô vi giáng cơ phong

thưởng riêng, cá nhân mới khỏi luật lệ ấy.

              Quan điểm nầy thể hiện quyền tự chủ của nhơn loại trên

cương vị nhân sinh nhận thức và xác định giá trị. Như vậy, rồi hợp

nhau đệ tŕnh cầu Thiêng-Liêng giáng cơ định lần nữa, v́ giá trị của

Chức-SắcĐạo Cao-Đài phải hết sức quan trọng... mới có thể bảo vệ được

sự trường tồn, nền Đạo khỏi phải bị tư vị và tự lập...

              Tóm lại, lập nhà Hội Vạn-Linh mục đích thực hiện cơ phổ

độ chúng sanh bằng những phương thức biểu hiện sự tương quan giữa TRỜI

và NGƯỜI - Vô vi và hữu h́nh - mới có thể bảo vệ sự trường tồn nền Đạo

và thực hiện được sự tấn bộ của loài người là quyền sở hữu của nhơn

loại vậy...

              Đưa mắt nh́n bâng quơ, du khách sẽ thấy một ngôi nhà nằm

song song bên kia đường nhà Hội Vạn-Linh đó là cơ quan Y-Viện của

Hội-Thánh trong phạm vi điều khiển của phái Thượng mà chúng tôi đă

lượt giải trong đoạn đầu... Nơi đây, cũng có pḥng khám bệnh và chỗ

dưỡng bệnh, hằng ngày thường trực có các Đông-Tây Y-Sĩ lo trị bịnh

những tu sĩ hoặc tế độ đồng bào cơn bệnh hoạn...

              Nhận thức và am hiểu thêm những cơ quan trong phạm vi

Ṭa-Thánh, du khách thấy thể hiện một sự khả quan phương châm phục vụ

nhân sinh của Đạo Cao-Đài xây dựng trên cương lĩnh thực hiện vấn đề

tương quan giữa người và con người lúc sinh trưởng trên cơi thế. Nếu

Xă-Hội mọi người biết trách vụ liên đới nhau, tương quan nhau trên

quan điểm đệ huynh trong t́nh cốt nhục sinh thành bởi Đấng Tạo-Hóa mà

thực hành sự thương yêu nhau, tương trợ lẫn nhau, cứu giúp lẫn nhau

khi hoạn nạn th́ Xă-Hội sẽ được kiện toàn mọi phương diện trong sự

phục vụ hạnh phúc nhơn loại...

              Đó là một quan điểm, đường lối, mục đích phục vụ sinh

tồn nhơn loại xây dựng trên cương lĩnh đạo đức thể hiện một sự khả

quan của nền Đạo Cao-Đài...

 

                             IX

 

                      CƠ QUAN PHƯỚC THIỆN

 

             Từ nhà Hội Vạn-Linh, đi chừng 300 thước, th́ đến cơ quan

Phước-Thiện nằm bên lộ Cao-Thượng-Phẩm.

             Đây là cơ quan của Hội-Thánh thành lập để thực hiện sự

phổ độ chúng sanh trên phương diện tế trợ kẻ nghèo khó, bệnh tật, trẻ

con mồ côi và tương trợ mọi phương diện Xă-Hội khi hữu cần...

             Sự đặc biệt của Cơ-Quan nầy, mặc dù thực hiện sự tương

trợ cứu giúp đồng bào và các tu sĩ khi bệnh hoạn, tật nguyền, già yếu,

nhưng cũng có hệ thống tổ chức căn bản đẳng cấp chức sắc phân minh như

Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài.

             Điều thứ 10 Tân-luật Pháp Chánh-Truyền Đạo Cao-Đài ấn

định: "Gầy dựng cơ thể Phước-Thiện các nơi và những địa phương là đặng

châu cấp cho những kẻ tật nguyền, cô độc".

            Và kỹ luật thập nhị đẳng cấp Thiêng-Liêng của các Chức sắc

Phước-Thiện y như dưới đây:

            1) Minh-Đức; 2) Tân-Dân; 3) Thính-Thiện;

            4) Hành-Thiện; 5) Giáo-Thiện; 6) Chí-Thiện;

            7) Đạo-nhơn; 8) Chơn-Nhơn; 9) Hiền-Nhơn;

            10) Thánh-Nhơn; 11) Tiên-Tử; 12) Phật-Tử.

           Tùy theo phẩm trật chức sắc mà hành sự thực hiện mục đích

đặc biệt tương trợ đồng bào; cứu khốn, pḥ nguy của cơ quan Phước-

Thiện. Tại Cơ-quan nầy là trung tâm điểm tổng hợp các hệ thống thực

hiện khắp địa phương....

            Cũng như cơ quan truyền-giáo của Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài

có đặt hệ thống tại các địa phương chuyên lo việc phổ độ nhơn sanh,

hướng dẫn con đường thiện lương đạo đức, Cơ-quan Phước-Thiện có đặt

các cơ sở khắp địa phương mục đích khuếch trương kỷ nghệ, làm thương

măi hay lo tạo tác thêm cơ quan truyền giáo giúp Hội-Thánh Cửu-Trùng-

Đài

           V́ thế, tại các tỉnh có một vị Đầu họ đạo phẩm Chí-Thiệnđối

Chức-Sắc Cửu-Trùng-Đài là Giáo hữu địa vị Khâm-Châu-Đạo vậy. Dưới

quyền vị nầy có những chức sắc nhỏ hợp tác chặt chẻ nhau trên quan

điểm thực hiện mục đích của Phước thiện.

          Tại các cơ quan trung ương nầy, Phước-Thiện cũng có thành

lập các văn pḥng làm việc và hợp tác cùng Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài lo

việc quan hôn, tang, tế hay tổ chức mọi nơi trong Ṭa-Thánh mỗi hki có

đại lễ v.v...

           Đối diện cơ quan Phước thiện là Cô-nhi-viện, tức Viện chăm

nuôi trẻ em mồ côi. Viện nầy được tổ chức chăm sóc trong một ngôi nhà

đồ sộ có đầy đủ các pḥng cho trẻ em và tỉ số ấu nhi độ hơn 40 em.

Bước vào đây, du khách sẽ thấy hơn 40 mái đầu xanh thơ dại... sống bên

nhau trong một ngôi nhà to lớn nhờ sự chăm sóc với tấm ḷng đạo đức...

của vài bà mẹ hiền.

           Nhiều đứa trẻ sơ sinh c̣n đỏ hỏmthế à vẫn bị đấng sanh

thành bỏ, để viện nầy thừa nhận chăm nuôi!... Ôi! từngtiếng khóa the

thé, từng tiếng cười gượng gạo... biểu hiện trên gương mặt của các em

bé sẽ làm du khách ngậm ngùi xúc cảm... nghĩ đến tiền định kiếp người

trên cơi thế...

           Đi khỏi viện nầy chừng 100 thước, du khách sẽ đến Dưỡng-

Lăo-đường. Dừng chơn đứng ngắm, du khách sẽ thấy đây là một ngôi nhà

cũng khá rộng lớn, bên trong phÂn nhiều pḥng ngăn nắp để những người

già yếu ở... Hằng ngày, Hội-ThÁnh phái những người làm công quả đến

chăm sóc...

           Vào đây xem, du khách sẽ thấy cảnh tượng lăo, khổ thể hiện

một niềm khích lệ thâm tâm...

           Dưới chơn, cất bước, du khách sẽ thấy cơi ḷng buồn miên

man lắm nỗi...

           Từ cửa Dưỡng-Lăo-Đường, trông về bên hữu, du khách cũng

thấy ngôi nhà to lớn ... Đây là nhà Nữ-phái Phước-thiện. Ngôi nhà nầy

là cơ quan trung ương của chức sắc nữ phái Phước-thiện làm việc...

           Đạo Cao-Đài cũng có cả chức sắc nữ phái và nam phái đồng

quyền hạn và hành sự như nhau... Trừ ra chức sắc Cửu-Trùng-Đài, th́ nữ

phái Giáo-Tông và Chưởng pháp không có. Và Hội-Thánh Hiệp-Thiên-Đài,

hàng phẩm thập nhị thời quân cùng Hộ-phÁp, Thượng phẩm,Thượng sanh,

th́ phái nữ cũng không có. Đây là bí pháp cơ âm dương tương hiệp và

huyền bí của Đạo Cao-Đài trong Tam-Kỳ Phổ-Độ...

           T́m hiểu đại cương căn bản Chức-Sắc Đạo Cao-Đài liên quan

các cơ quan trung ương trong việc phổ độ chúng sanh, du khách sẽ thấy

sự khác biệt một nền Tôn-giáo, thể thức phù hợp với sự tiến hóa của

nhân loại và thực hiện sự b́nh quyền thiêng liêng của hai phái: Nam Nữ

           Cách ngôi nhà nữ phái Phước thiện chừng vài mươi thước, du

khách sẽ thấy một gian nhà mái lá bên đường Cao-Thượng-phẩm. Đó là

Bộ-Lễ, nghĩa là cơ quan tập dượt cách thức nghi lễ cho các vị Lễ-Sĩ.

           Sự luyện tập nầy cốt chỉ cho thành thuộc điệu bộ, nhịp bước

khoan thai theo tiếng trống, giọng đờn để khi cúng tế thực hành mục

đích làm tăng vẻ tôn nghiêm, kính cẩn; để tỏ ḷng thành kính với các

Đấng thiêng-Liêng Trời Phật.

           H́nh ảnh các cơ quan c̣n chơi vơi trước mắt... Bước về

hướng chợ Long-Hoa, du khách sẽ thấy một ngôi nhà to lớn nằm sừng sững

bên đường đó là "Khách-Đ́nh". Ngôi nhà nầy cũng khá lớn bên trong có

những dụng cụ như Lọng, Tán, để thờ phượng. Đây là nơi để quan tài

người qui liễu mà cầu siêu...

           Nguyên thể lệ Đạo Cao-Đài xây dựng trên quan điểm đoàn kết.

Liên quan nhau giữa con người và con người về mọi phương diện khi sống

cũng như lúc chết... Bởi vậy trong giới tín đồ hay người đời biết

hướng về đạo đức, lúc chết thân quyến đi cho Hội-Thánh hay th́

hội-THánh sẽ phái Ban-Nhà-Thuyền, đem thuyền Bát-Nhă lại tư gia rước

linh cửu về Khách-Đ́nh nầy có người thay mặt Hội-Thánh và toàn cả tu

sĩ tại Ṭa-Thánh đến đọc kinh cầu nguyện và lo an táng.

 

                   TẠI SAO GỌI LÀ KHÁCH Đ̀NH

 

         - Danh từ nầy bao hàm ư nghĩa; cơi trần giả tạm, con người

chỉ là lữ khách qua đường... Lúc qui măn kiếp nhân sinh, thân người và

linh hồn được đến nơi đây dừng chơn lại nghe người thế tục cùng thân

nhơn tỏ nỗi đau buồn vĩnh biệt qua câu kinh, tiếng kệ nhiệm mầu... rồi

nương sự cầu xin mà giác mê hồn tiêu diêu về cơi vô h́nh...

         ... Những đêm trong cảnh mông lung, huyền ảo vang tiếng người

nhộn nhịp ḥa giọng đờn, tiếng nhạc câu kinh trầm bổng du dương...

Lắng nghe hờ giọng buồn thế tục, du khách sẽ chạnh ḷng bao nỗi vu

vơ...

         Đối diện Khách-Đ́nh nầy laé cơ quan Nhà-Thuyền, nghĩa là nơi

để những người hiến thân trọn đời cho Hội-Thánh ở làm việc. Bước vÀo

du khách sẽ thấy ngay một chiếc thuyền "Bát-Nhă".

           H́nh tượng chiếc nầy là một con rồng, giữa thân có một

khuôn h́nh chữ nhật trên nóc hai bên là vách.

           Hai tấm vách nầy tạc họa những h́nh ảnh Thiên-Nhăn và

lư-hương, h́nh rồng hoặc các cây bông... Mới trông vào như một bức

tranh điêu khắc, màu sắc linh động...

           Đây cũng là một sự lạ nhất cổ kim hi hữu...

           Lập Tam-Kỳ Phổ-Độ, những sự siêu h́nh cơi thượng giới đều

được khai quát tại trần gian. Chiếc Thuyền Bát-Nhă xưa nay kinh Phật

thường gọi, nhưng ít ai được thấy. Hiện nay khai Đại Đạo, được cơ bút

thiêng liêng chỉ dạy nên mới kiến trúc đúng thể thức.

          Trước thuyền Bát-Nhă có những câu đối:

          "Vạn sự viết vô nhục thể thổ sanh hườn tại thổ;

          "Thiên nhiên tự hữu h́nh hồn Thiên tứ phản hồi Thiên.

          "Sanh tiền bổn vọng, phú quí công danh kim hà tại;

          "Chơn linh thê sở công hầu cực phẩm bất đương nhiên.

          "Hữu thế sanh nhi tùng tứ khổ,

          "Vỏ h́nh từ giả hóa tam đồ...".

          Những câu đối nầy biểu hiện kiếp nhân sinh con người rồi

muôn sự để lại cho đời...

          Xem xong, thuyền Bát-Nhă, du khách sẽ lần lượt vào cơ quan

Nhà-Thuyền xem. Nơi đây là những người hiến thân trọn đời cho Hội-

Thánh phục vụ nhơn sanh...

          Mỗi khi, nơi nào có người qui vị, họ sẵn sàng hy sinh sự nhọc nhằn mà đẩy thuyền chở quan tài về Khách-Đ́nh rồi đưa đến tận huyệt và chôn cất... Gặp những khi trời mưa đường lầy lội; những lúc nắng cháy da, thế mà họ vẫn vui làm việc...

          Dù vất vả như thế, song họ cảm thấy cần phải tranh đấu mà thực hiện sự lập công bồi đức trên đường giải thoát kiếp người... Nhiều khách lạ đến đây, thấy sự hy sinh thế ấy, nếu hiểu lầm cũng mỉa mai: ""V́ tiền!". Nhưng sự thật họ chỉ hy sinhlàm công quả, thế thôi

          Qua dáng người hiền từ trong bộ đồ đạo tỳ màu đen viền trắng tượng trưng sự để tang mọi người, du khách sẽ cảm động nếp sống âm thầm của kiếp người chỉ lo vun bồi công đức.

          Rời khỏi cơ quan nhà Thuyền, du khách sẽ hướng về phía Trung-Tông-Đạo;

          Đây là một cơ quan, có những gian nhà rộng răi, bên trong chia rất nhiều pḥng đặc biệt để cho những người miền Trung (ViệtNam) ở tu hành.

            Bước vào cửa tam quan, du khách sẽ thấy những Cổ-pháp: Cuốn Xuân-thu, Cây Phất-Chủ, b́nh Bát-Du mà chúng tôi đă lược giăi qua rồi.

            Cơ quan nầy, hiện nay có nhiều vị chức sắc cao cấp, người miền Trung điều khiển... Vào đây, du khách sẽ được tiếp đăi một cách nồng nhiệt... thể hiện một t́nh cảm đạo đức hoàn toàn.

 

                        TẠI SAO CÓ TRUNG TÔNG ĐẠO ?

 

            - Thể thức kiến tạo nầy cũng do Thánh-Ngôn chỉ dạy từ buổi khai Đại-Đạo CAO-ĐÀI và Tiên tri rằng:

             " Từ đây, ṇi giống chẳng chia ba ,

              Thầy hiệp các con lại một nhà

              Nam, Bắc, cùng rồi ra ngoại quốc

              Chủ quyền chơn đạo một ḿnh ta ".

                                  (Thánh-Ngôn Hiệp-tuyển)

 

            Theo sự hiểu biết của chúng tôi th́ Hội-Thánh sẽ thành lập Bắc-Tông-Đạo nữa...

            Từ Trung-Tông-Đạo nầy, du khách đi bộ vài trăm thước, sẽ thấy một ngôi nhà đồ sộ nằm trơ vơ trong khung cảnh quạnh hờ... Đây là cơ quan Lễ-Nhạc-Đường, nghĩa là nơi dùng để các Nhạc-Sĩ tu hành ở tập dượt điệu nhạc, giọng đờn và tiếng phách cho đúng lễ nghi để cúng tế.

            Qua khỏi cơ quan nầy, du khách sẽ đến viếng văn pḥng của Chức-Sắc Đường-Nhơn, đây là nơi ở tụ tập và làm việc của những Chức-Sắc người Trung-Hoa.

            Bởi quan điểm mục đích của Đạo Cao-Đài thành lập trong Tam-kỳ Phổ-Độ nầy là thực hiện sự thương yêu đồng loại trên thế gian và tạo cảnh chung sống bằng sự Đạo đức.

            Ngày nào, nhân loại biết nh́n nhận là anh em, dù nhiều giống khác nhau, nhưng nguồn sanh thành về phần hồn vẫn do một Đấng Tạo-Hóa... Như thế, nhân loại mới khỏi cảnh hủy diệt, tàn sát lẫn nhau và trên trái đất nầy sẽ không c̣n cảnh chiến tranh, tàn khốc, đau thương...

             V́ quan điểm ấy, Đạo CAO-ĐÀI mới thực hiện sự phổ độ chúng sanh để đưa đến cảnhđại đồng cực lạc thế giới ḥa thuận an vui.

             Thế nên Hội-Thánh mới thành lập các Cơ-quan Trung-ương của các nước như: Trung-Hoa, Tần-nhơn (Người Cambogde) và sau nầy nước nào cũng được tạo dựng một cơ quan trong phạm vi Ṭa-Thánh CAO-ĐÀI.

             Hiện giờ, tại Ṭa-Thánh có người Trung-Hoa tu hành khá đông, ngoài ra c̣n có số Tín-Đồ và Chức-Việc khắp các tỉnh.

              Từ Hội-Thánh Đường-Nhơn du khách quá bộ non một cây số, sẽ đến văn pḥng Hội-Thánh Tần-Nhơn (người Cambogde). 

              Cơ quan nầy trực thuộc dưới quyền của một Chức-Sắc cao cấp người Cambogde điều khiển, lo việc tu hành và lo sự phổ độ chúng sanh...

             Quan điểm thực hiện của tôn chỉ và mục đích Đạo CAO-ĐÀI, hẳn độc giả hiểu qua đại cương phần nào và các cơ quan trong phạm vi Nội-ô Ṭa-Thánh. Ngoài ra du khách c̣n có thể đi viếng những thành tích do Hội-Thánh CAO-ĐÀI tạo lập có liên quan đến phương pháp tu tập và phục vụ nhơn sanh như: Long-Hoa-Thị (cách Ṭa-Thánh độ 2 cây số), Trí-Giác-Cung (cách ṭa-thánh độ6 cây số) và Trí-Huệ-Cung (cách Ṭa-Thánh độ 9 cây số)...

             Những ṭa nhà trơ bóng nên thơ với muôn vànmàu sắc chói chan... đến đây vời trông trở lại, du khách sẽ thấy bao h́nh ảnh soi hờ bóng dáng xa xa...; mập mờ ẩn hiện bên ngàn cây rũ bóng...