Phu Thê Yếu Luận

[  Ðại Ðạo Truy Nguyên  ]

quyển thứ nhứt

 

* Huệ  Chương

Cốt chỉ quyển sách này để trực  luận về  Ðại-Ðạo Tam-Kỳ.

 

Lời Tựa

 

 Tuy bề học thức của tôi vẫn còn hẹp hòi, song hằng để tâm xem

xét trong đều hư thiệt của đời, lại hằng thấy nhiều bậc Văn-chương,

thường muốn kích bát một việc chi trong xả hội, lại chẳng hề để lòng

tìm biết cho tột lý; nên hễ luận đến thì không rõ ngọn nguồn. Thành

ra, vì ghét lẫn một vài người trong đấy, mà làm chinh lòng cả công

chúng; mà cũng làm hư danh của mình trong buổi kết cuộc. Nếu việc của

người thành tựu sau xa, chừng ấy dầu có ăn năn, cũng đã muộn: té ra

cái tư tuởng chẳng hay của mình, luốn để cho đoàn hậu tấn, luận biện

đời đời kiếp kiếp.

         Cũng như, xưa kia Ðức-Chúa JÉSUS-CHRIST giáng sanh khai

THÁNH-GIÁO; cả dân sự miền Âu, bởi chẳng hiểu là điều yếu trọng về

sau, cho đến nổi một vị trong 12 môn đệ của ngài là Juda, vì lòng tham

lam, đành bán ngài cho quân Jiu-Giêu đem ra hạ sát. Khi hối ngộ, biết

rằng sự lỗi, Juda tự xữ lấy mình nhưng chưa đủ đền tội. Ðến buổi

chung cuộc thiên hạ rõ thấu rằng Ðạo chơn thánh rồi, thì trong lòng

hằng ghi nhớ, Juda là kẻ bất lương; cho đến ngày nay đã gần hai ngàn

năm, mà danh xấu vẫn còn lưu truyền, hể nhắc đến tên, thì người phải

nhăn mặt.

         Lại buổi nọ, Ðức KHỔNG-PHU-TỬ, là một vị xuất thánh miền

Á-Ðông, truyền bá Nho-Giáo, nhưng rủi, gặp lối chưa phục đặng lòng của

sanh linh, làm cho ngài chịu nhiều nơi khổ tân; đến đâu cũng bị nhà

Vua xô đuổi. Cả mấy nước Lỗ, Vệ, Trần tuyệt lương ngài. Rốt cuộc rồi

dân sanh thức giấc biết đặng Tôn-chỉ Ðạo của ngài là cao thượng, thì

ngài cũng được hoan nghinh. Bởi cớ mà ngày nay, hể nhắc đến ngài, thì

thoạt nhớlại mấy nước xưa không biết dụng hiền. Cái danh bất luật lại

rõi truyền chẳng dứt. Ðó là hai sự tích, vẫn còn để treo gương, cho

các nhà Văn-sĩ đời nay, soi lấy mà tự xét phận mình.

         Ấy là việc xưa, còn hiện nay, có mấy cuốn sách, tôi mới đọc

rồi đây, thấy người đem một nền Ðạo của nhà Nam, từ đã bốn ngàn năm

nay, mới hầu gặp đặng, mà luận việc tà chánh, nhưng không hiểu: sao là

tà, sao là chánh: thì đều sơ sót ấy, nói chẳng cùng.

         Vì vậy mà tôi để hết lòng nghiên cứu, may thấu đặng chút ít

căn cội của Ðại-Ðạo Tam-Kỳ; nên đem nêu lên quyển sách nầy, hầu hiến

cho chư quí vị Ðộc-giả tường lảm, rồi mặc tình luận biện: chớ tôi vốn

là người chẳng cang dự với Tôn-giáo nào, nhưng vẫn biết thảy đều chơn

chánh. Nếu có việc chi lầm lạc: ấy là xuất ư tâm chí riêng, của một ít

người tham danh chác lợi, đã gây ra: chớ Tôn-chỉ của Ðạo nào, cũng đều

dạy những sự hiền lành ngay thật cả.

                          Saigon, le 15 Septembre 1929

                                             HU CHƯƠNG

 

                         Ðại-Ðạo Truy-Nguyên

                                ****

          Tôi vẫn sanh trưởng nơi Tĩnh thành Bếntre, biệt danh là

Huệ-Chương, theo ông thân tôi, vốn người giúp việc hãng buôn, chuyên

nghề rèn tập theo lối văn-chương Âu, từ ấu chí trưởng.

          Cả bạn tác, học một trường với tôi, thì tôi duy có gần gũi,

M.Ðức, vốn con nhà Cao-Quỳnh, lại là người có tâm chí, rất hạp với tôi.

          Từ buổi ra trường đến nay, tuy mỗi đứa, vì ràng buộc theo

phận sự gia đình riêng, song cũng hằng tới lui thăm viếng, và lo lắng

cho nhau, chẳng khác tình ruột thịt.

          Một ngày kia, tôi vẫn nghe thiên hạ kích bát về ÐI-ÐO

TAM-KỲ, lại có tên ông thân, và chú ruột của ảnh, thì tôi lấy làm

chưng hững. Tuy là tôi hay đến nhà chơi với ảnh thường cũng hay thấy

mấy ông lớn, hiệp nhau bàn luận việc Ðạo; nhưng vì tánh tôi còn ham

chơi, nên không hề để ý đến. Nay nghe vậy, tôi lật đật đến hỏi thăm

ảnh cho rõ.

         Vừa gặp nhau, tôi chưa đặng cạn hỏi; thì ảnh đã vổ vai tôi mà

nói rằng: "Hơi nào mà anh nghe thiên hạ! Họ có hiểu cái nguồn cội Của

ÐI-ÐO là nơi nào mà ra đâu; bị họ luống tưởng, mấy ổng bày ra mà

gạt chúng. Anh nghĩ coi, như có gạt gẫm, thì năm ba chục người, cũng

còn có thể nói đến chuyện lầm lạc, lẽ đâu trót triệu nhân sanh như

vậy, lại trong số triệu ấy, cũng hiếm người phẩm vị cao, trí thức

nhiều mà cũng mắc kế mấy ổng nữa sao!

        Ðể tôi thuật sơ, đầu đuôi gốc ngọn lại cha anh nghe, rồi cứ

suy nghĩ riêng lấy, mà kiếm hiểu.

        Anh em mình, vẫn ý kiến tương đồng, kết bạn với nhau, trót

mươi năm, tình như máu thịt, thường hay bàn luận; khi thì về học thức,

mà cũng có lối, nói đến tình đời, cho đến việc nhà của nhau, cũng đều

thấu hết.

        Anh dư biết, tánh tình của tôi; tuy hay vui chơi, theo cuộc

hí trường, song cũng hằng để ý, kiếm cho hiểu biết, luân thường Ðạo

lý. Tôi dòm quanh theo cô bác lối xóm giềng, hằng thấy mỗi nhà đều

chưng dọn bàn thờ; việc đẹp chăng,là tùy gia vô hữu, nhưng cũng có lập

ra luôn, hoặc thờ ông bà, hay là cha mẹ. Về nhà, thấy ông thân tôi

chẳng hề để ý đến đó, tôi hỏi ổng, ổng trả lời rằng:

         "Thầy, nay tuổi đã bốn mươi ngoài, cũng hằng tìm tòi cho biết

những điều ấy, nhưng chưa hề thấy việc nào là ắt. Nếu sự chi, mà Thầy

chưa rõ thấu, thì thà là đừng làm, còn hay hơn laé bắt chước người mà

không hiểu chi cả.

          Thầy duy tưởng rằng, có một Ðấng Tạo-Hóa Càn-Khôn, nhưng

chẳng hề thấy hình ảnh đặng, thì cung kỉnh ngài mà thôi, còn nhưng

việc theo thế tình hoặc thờ cha kính mẹ, thì nơi lòng, dầu cho mất còn

cũng vậy. Mỗi khi cúng cơm cho ông bà, là buộc ý Thầy, làm theo cổ lệ,

nếu không ngơ, lại buồn lòng; còn bày biện bàn thờ như người, thì Thầy

nghĩ ra, một việc làm không ắt, thế cũng không phí tổn mà chi; miễng

bổn phận người, làm sao cho khỏi trái lương tâm mình, là hơn hết".

          Nghe ông thân tôi nói vậy, thì đã biết ông không tin ngưỡn

chi hết, nhưng ông cũng hằng giữ phận làm người, thì đã đành: thì tôi

lại cắt cớ, hỏi chú ruột tôi là ông Cao-quỳnh-Cư, té ra hai ông như

một. Thậm chí đến đổi tôi tức mình, hỏi cô bác, những nhà có thờ

phượng, thì không một ai, trả lời nào, cho vừa lổ tai tôi cả.

          Một ngày kia, lối hạ tuần tháng Juillet 1925, nhằm đêm thứ

sáu, thôi thấy nào là chú tư tôi, chú tám tôi, là M.Phạm-Công-Tắc, anh

con nhà bác họ của tôi là M. Cao-Hoài-Sang, và vài người bạn nữa, đến

mời ông thân tôi đi chơi. Tôi hỏi M.Sang, cho biết mấy ổng đi đâu, thì

ảnh lại nói với tôi rằng :

          _ Ði sai bàn.

          _ Sai bàn là chi?

          Là cầu các Linh-hồn về nói chuyện chơi.

          Nghe ảnh nói vậy, tôi lấy làm lạ, liền nom theo mấy ổng,đặng

coi làm thế nào cho biết. Ðoạn mấy ổng, đều kêu xe kéo, vô nhà anh

Cao-Hoài-Sang; rồi vầy nhau, ngồi xung quanh một cái bàn tròn ba

chưng, để nơi trước hàng ba, lại có chưng bình bông tươi tốt, và đốt

nhan, sắp đặt trên một cái bàn nhỏ, để dựa vách kế đó.

          Tôi cũng ngồi kề bên ông thân tôi, chừng mấy ổng biểu:

          "Lẵng lặng định thần" thì mỗi người đều để hai tay, úp lên

mặt bàn, tôi cứ việc làm theo.

          Giây lâu, tôi thấy bàn nghiên qua bên chú tư tôi, chú lại

rầy chú tám Tắc, mà biểu đừng xô, cứ ngồi cho tịnh. Bàn lại ngả qua

phía ông thân tôi, ông lại rầy nữa. Cách một chập, coi bộ mấy ông mỏi

tay, nên thảy đều tảng ra nghỉ hết.

         Tôi có ý coi, trong mấy ổng, chưa ai thạo việc ấy cả, vié

thấy cãi lẫy nhau hoài; kẻ nói vầy người luận khác, phân phân bất

nhứt.

         Khi ấy, anh Cao-Hoài-Sang nói với mấy ổng rằng; "Mình cứ

tịnh tâm, ngồi yêm điềm, chừng nào có vong nhập, thì chắc là họ gõ

chơn bàn, nghe cắc cắc chớ gì". Nghe đến đó, tôi có hơi dùng mình, vì

tánh tôi nhác.

        Ðến khi vầy nhau lại nữa, chú tư tôi ngồi xếp bằng trên ghế,

tỏ ý rằng sợ hồn ma vào gõ bàn, mà đụng cẳng, nên cả thảy đều ru&t

chơn lên, kẻ chồm hổm, người xếp bằng, té ra mấy ổng, cũng không dạn

gì cho mấy.

        Lúc ấy đã khuya, coi ông nào cũng mệt, phần thì muổi chích

chơn, hể thò tay xuống gãy thì lại động, làm cho cái bàn không yên

tịnh, lớp lại buồn ngủ. Chú tư tôi lại suy nghĩ, rồi luận rằng: Thế

khi, tại chúng ta để trong nhà, nên các hồn ma không dám vào: vậy

khiêng bàn ra ngoài Trời trống trải, họa may họ mới nhập đặng. Ðoạn

mấy ổng hè huội, áp nhau khiêng bàn ra sân. Ngồi một hồi lâu, bàn cũng

cứ dở lên để xuống, làm cho mấy ổng rầy nhau, rồi cười hoài; gặp lúc

khuya, trời tối muổi lại cắn hơn nữa, mấy ổng chịu đà hết nỗi, mới

đành dẹp nghỉ, nhưng hẹn tối mai, sẽ hiệp nhau, làm cho hết ý. Ai nấy

đều vui chịu, liền từ giã nhau ra về.

         Qua đến mai, gặp nhằm thứ bảy, lối chín giờ, thảy đều tựu đến

đủ mặt, cũng sửa soạn như bửa trước, rồi vầy nhau lại ngồi chung

quanh, để tay úp lên mặt bàn nhưng nay, chú tư tôi lại dặn, phải sè

bàn tay ra, hai ngón tay cái của mỗi người đều đâu đầu lại rồi ngón

tay út, của người khác, làm cho có thế, các bàn tay liên nhau, trọn

cái vòng bàn. Mấy ổng nghe theo. Tịnh một chập, bàn dở lên cao, ngả

vào góc tường, rũi cho chú tám tôi, ngồi phía trong kẹt, làm cho chú

tưởng rằng, anh Cao-Hoài-Sang, đương ngồi ngang mặt, cố ý muốn cợt

chơi, nên chú la um sùm rằng:

         "Sang! Sang! Ðừng phá mầy, chơi giống gì kỳ quá, mắc kẹt tao

sao mậy! Ráng ngồi tử tế coi mà!"

         Ai nấy thấy vậy, đều cười rộ lên, mặt bàn nghiên lại như cũ,

chú tư tôi liền năn nỉ với mấy ổng, xin đừng giỡn, để ý rán làm cho

tận tâm, coi thế nào cho biết. Khi nghe chú tư tôi nói dứt lời, thì

thảy đều ngồi lẵng lặng. Chú tư tôi thường hay có tánh giả ngộ, hể

nghe bàn cụt kịch, lại trợn mắt, ngó mấy ông kia; tôi dòm thấy, ai ai

cũng sợ cả; lại áp nhau cười rộ lên nữa. Làm như vậy, đã trót vài giờ,

mà bàn cũng cứ dỡ lên để xuống mãi; mà hễ thấy vậy, thì mấy ổng lại

rầy nhau, tưởng rằng, tại người xô mà thôi.

         Chừng tịnh lần nầy, cả thảy ngồi yêm điềm; thoạt nhiên bàn dở

lên, gõ lia gõ lịa. Mấy ổng cũng cho là nội bọn phá, bèn hỏi thăm

nhau. Ai nấy đều tõ rằng, cả thảy đều để thật lòng, mà thử cho hết

sức, nên không xô đẩy chi; ấy là bàn diêu động tự nhiên. Khi đó, người

thì nói tê tay, kẻ lại nghe rần điển. Trong cơn mấy ổng hỏi nhau, bàn

dứt gõ, nhưng cũng còn linh chinh, dường như có sự sống vậy. Chừng

nghi rằng, có vong nhập, thảy đều kinh tâm; mấy ổng lụi đụi, không

biết phương chi, mà thông đồng với vong đặng.

         Chú tư tôi liền dặn mấy ổng để như cũ, đừng ai lấy tay ra

khỏi bàn, mà làm xao động e vì vong xuất ngoại. Dứt lời, chú tư tôi

lật đật nói với vong rằng:

         Xin khoan đi, để cho hỏi ít lời. Bây giờ chưa kiếm đặng thế

nào cho hiểu nhau, thì duy cứ, gõ hai nghĩa là: Ừ chịu, có hoặc phải

(Oui), còn gõ một là: Không, hay là chẳng phải (Non).

         Vong tiếp gõ hai: tỏ rằng chịu theo lời dặn.

         Ðoạn chú tư tôi liền ngụ ý, rồi nói với vong như vầy: Ta hiểu

theo đây, thì có thể nói chuyện với nhau tiện hơn. Nếu tôi hỏi chi,

muốn trả lời lại cứ tùy theo vần Alphabet quốc ngữ mà gõ, mỗi chữ mỗi

gõ, đến chữ nào dùng thì ngưng lại, nghĩa là lấy chữ chót; rồi bắt đầu

trở lại mà nối chữ khác, xong rồi sẽ ráp lại mà đọc, giống như điệu

giây thép vậy.

         Vong liền gõ hai (Ừ chịu).

         Hiểu nhau rồi,bàn gõ, chú tư tôi khởi đọc. Nhưng sự chi cũng

vậy, lúc đầu, sao cũng lộn xộn năm bảy phen đọc cho đến hết hai mươi

mấy chữ vần, mà cũng còn gõ mãi. Tức mình, chú tư tôi cắt nghĩa lại

một lần nữa. Thật lấy làm tội nghiệp cho vong quá, lại cũng thương cho

mấy ổng, vì muốn thấu đáo, nên ráng chịu khó cho đến cùng. May sao lối

mỏn hơi rồi, chú tư tôi đọc từ a ă â b c d đ ........ cho tới chữ L

thì dứt gõ. Chú tư tôi dặn M.Cao-hoài-Sang nhớ chữ ấy, đủ sẽ ráp lại.

Ðoạn bàn tiếp gõ quận thứ nhì. Chú tư tôi đọc a ă â b c d đ .........

cho đến chữ Ư, bàn ngưng lại rồi cũng cứ nối điệu theo như trước, cho

đến khi ráp đặng ba chữ:"Lượng-Cao-Quỳnh"

        Khi tiếp đặng mấy chữ ấy rồi, thì mấy ổng hớn hở vui cười. Dứt

tiếng, chú tư tôi suy nghĩ rồi nói rằng:"Như phải là Cao-quỳnh-Lượng,

thì chắc biết mấy người ngồi đây; vậy cứ nói tên mỗi người, coi có

trúng chăng?"

        Vừa dứt lời bàn gõ, chừng ráp nguyên chữ thì thành rr tên:

Diêu, Cư, Tắc, Sang, Ðức, Thân, Nguyên, thảy đều cười rộ lên, còn cái

bàn thì hỏng lên một chưng, lắc qua lắc lại, dường như cũng cười theo

vậy;

         Khi ấy ông thân tôi tiếp hỏi Lượng rằng:

         _ Con có hầu ông nội chăng?

         _ Có.

         _ Mời ông nội đến đây, tiện chăng?

         _ Ðặng.

         Dứt lời thì bàn dở lên, rồi để xuống không còn diêu động, như

khi nãy nữa. Chú tám tôi nói rằng:"Bộ khi nó đi rồi". Nghe vậy mấy

ổng, đều dan ra nghỉ hết. Chừng ấy tôi có ý coi, thì thấy ông nào ông

nấy, cũng lấy làm lạ, mà nhứt là ông thân tôi, với chú tư tôi, vì từ

ấu chí trưởng, hai người không tin chi hết, cho kiếp chết là mất rồi,

chẳng tin rằng có hồn. Nay lại thấy đều lạ kỳ như vậy, thì hai ổng

ngồi nhìn nhau, tình hình như trời đã hé cửa cho mấy ổng dòm, thấy

đặng sự bí mật vậy.

         Cách nửa giờ, vầy nhau ngồi, để tay lên, cũng tịnh như trước;

kỳ này mấy ổng có màu kiên dè, không dám cười giỡn nữa. Ðoạn bàn

gõ. Chú tư tôi tiếp đặng chữ, ráp lại như vầy :

         "CAO-QUỲNH-TUÂN"

         Ấy là tên của ông nội tôi, cả thảy đều đứng dậy xá, rồi ngồi

xuống. Ông thân tôi hỏi sơ, ít đều đã qua rồi, kế chú tư tôi tiếp nói

rằng:"Vì buổi thầy quá vãng, anh em con vẫn còn nhỏ dại, cho đến đổi

anh của con đã trộng, còn không nhớ đặng hình ảnh của thầy, huống chi

là con còn nhỏ quá, duy buổi lớn khôn nghe người truyền ngôn lại, cái

hạnh đức của thầy mà thôi; nếu có thể tiện, xin thầy dùng dịp nầy, cho

anh em con, một bài thi tự thuật, hầu để rọi truyền ngày sau, cho con

cháu thờ làm kỷ niệm. Ông nội tôi chịu cho, liền tiếp đánh ra bài thơ

như vầy:

         Ly trần tuổi đã quá năm mươi

         Mi mới vừa nên ước đặng mười,

         Tổng mến lời khuyên bền mộ chép,

         Tình thương câu dặn gắn tâm đời.

         Bên màng đòi lúc trêu hồn phách,

         Cõi thọ nhiều phen đặng thảnh thơi,

         Xót nỗi vợ hiền còn lụm cụm,

         Gặp nhau nhắn nhủ một đôi lời.

        Khi làm đến câu chuyễn, thì cả thảy đều nao lòng, rưng rưng

nước mắt; chừng qua câu kết, thì ông thân tôi, chú tư tôi, và chú tám

Tắc, vùng khóc lớn lên một lượt, còn mấy ông kia với anh Cao-Hoài-Sang

thấy vậy cũng mủi lòng khóc theo. Lúc đó đâu cũng hai giờ khuya, lối

xóm nghe khóc rùm lên, vài nhà lân cận đến dòm, thấy việc kỳ quái quá,

thì họ đứng coi một hồi, nhưng không hiểu chi họ đều lui về nhà ngũ

hết.

         Dứt bài rồi thì ông nội tôi tiếp mấy chữ:"Thầy xin kiếu" đoạn

bàn dỡ lên cao, rồi để xuống nhẹ hễu, không còn hơi động địa, như khi

trước nữa. Mấy ổng nói:"đi rồi, đi rồi". Khi ấy mấy ổng xúm nhau, đem

vô đèn chép mỗi người một bài, coi đi đọc lại rồi trầm trồ khen mãi.

Thấy vậy tôi cũng để chút lòng tin, song chưa hiểu rõ cái huyền bí ấy

là thế nào. Còn ông thân tôi, chú tư tôi cùng mấy ổng vầy nhau,bàn

luận truy kiếm, cho biết vì đâu mà hóa ra chuyện lạ ấy, tôi có ý coi,

ông nào cũng ngơ ngơ ngáo ngáo, chớ tìm không ra mối.

         Ai nấy đều lui về nghỉ, duy có ông thân tôi chẳng chịu về

nhà, ổng theo chú tư tôi, mà thức luôn trót đêm, cứ đọc đi đọc lại bài

thi ấy hoài, rồi bàn bàn luận luận, suốt luôn cả ngày chúa nhựt nữa;

ngồi đâu, cũng nói có bao nhiêu đó mà thôi, thặm chí cho đến buổi cơm,

mà ổng cũng ở luôn, mà dùng với chú tư tôi. Hai ông ngồi phân phân với

nhau, cho đến mệt lũi rồi nằm dài trên ván, mà cũng còn nói nói, riết

cho đến khi ngủ mòn, hồi nào tôi không hay, chừng ngó lại thấy đồng

hồ gần bốn giờ xế chiều, tôi mới về nhà mà nghỉ.

         Lật bật, kế bảy giờ tối, ông thân tôi về kêu tôi dậy, hối dọn

cơm ăn, kẻ trước người sau, lối chín giờ rưởi thảy đều đủ mặt; rồi thì

cùng vầy nhau lại xung quanh cái bàn, đốt nhan lên. Ðêm nay coi mòi,

mấy ổng sữa soạn đoan trang hơn bữa trước lắm.

         Tôi cũng bước lại ngồi kề bên ông thân tôi. Cách chẳng bao

lâu, bàn dở lên đánh chữ, ráp vần lại như vầy: "Thát vì tình" nghe đến

đó, thảy đều rỡn ốc, chú tư tôi bèn hỏi vong ấy tên chi? Ðàn ông hay

đàn bà? Trả lời rằng: "Ðoàn-ngọc-Quế con gái".

         Tên họ đều trùng, mà chữ lót cũng giống tên họ của một người

bạn thiết của ông thân tôi, đương ngồi kề bên chú tám Tắc đó. Mấy ổng

đều ngó M.Quế cười rộ lên. Ðoạn chú tư tôi nói với vong ấy, xin một

bài thi tự thuật.

         Vong chịu,liền khỡi đánh như vầy:

               Nổi mình tâm sự tỏ cùng ai,

               Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.

               Những ngỡ trao duyên vào ngọc các,

               Nào dè phũi nợ xuống tuyền đài.

               Dưỡng sinh cam lỗi tình sông núi,

               Tơ tóc thôi rồi nghĩa trước mai.

               Dồn dập tương tư hoằng một gánh,

               Nổi mình tâm sự tỏ cùng ai.

                                  Ký tên: ÐOÀN-NGỌC-QUẾ

       Xong bài thi rồi, thì mấy ổng trầm trồ, người cho rằng, câu văn

thanh tao, kẻ nói trạng luận đối rất chỉnh; nhưng vì nghi cho nàng ấy

dối tên, nên chú tư tôi để lời mời nàng, năng đến chuyện vản chơi cho

thường, hầu hỏi cho biết rõ căn cội, nàng khứng chịu; từ ấy, mỗi đêm

đều qui tụ nơi nhà anh Cao-Hoài-Sang. Trót tuần lễ thì ông thân của

anh Cao-Hoài-Sang về lúc thì chú ách Ðồng, là anh ruột của chu& tám

tôi, về mà chuyện vản. Mấy ổng hỏi nhiều việc đã qua rồi, các vong

cũng đều trả lời trúng hết; nhưng tôi ý mấy ổng, chưa có lòng tin cho

lắm; cả thảy đều cho là một việc chơi cho tiêu khiển, nên mỗi đêm mấy

ổng đều có tựu nhau, vui chơi bao nhiêu đó thôi. Lâu ngày, vì thức quá

mà mỏn lần hồi, rốt lại, còn có sáu người là: ông thân tôi, chú tư Cư,

chú tám Tắc, anh Cao-hoài-Sang, Nguyễn-Tải-Thân và tôi mà thôi.

        Một buổi tối thứ bảy kia, nhằm tối thượng tuần tháng Aout

1925, ba ổng hiệp nhau chơi, còn ông thân tôi, vì mắc việc nên vắng

mặt; còn tôi với em tôi, thì cứ theo chú tư tôi. Bữa ấy, có cô

Ðoàn-Ngọc-Quế về bàn, đàm luận một hồi, rồi ba ổng xin kết anh em với

cô. Cô bằng lòng, bèn kỉnh:

         Chú tư tôi là Trưởng ca,

         Chú tám Tắc, Nhị ca

         Anh Cao-Hoài-Sang, Tam ca

         Phần cô, thì Tứ muội,

        Còn hai anh em tôi, cô kêu bằng em cả. Ðoạn cùng nhau trò

chuyện, lần hồi chú tư tôi, vì nghi cô trá tên, nên năn nĩ hỏi cô cho

đến cùng. Cô liệu khó giấu nên tỏ thiệt là:

                                             V.T.L.

        Chú tôi hỏi thăm mồ mả, cô cũng chỉ rõ. Rạng ngày, ba ông dẫn

nhau đi tìm đặng, nhà mồ của cô, rất nên đẹp đẻ, gần nơi Phú-Thọ, rỏ

ràng có tên tuổi cô, đề trên mộ bia. Khi kiếm được rồi,mấy ổng mừng rỡ

chẳng xiết, bèn đứng trước mộ, khấn vái với cô, xin theo về nhà

ông thân tôi nói chuyện chơi, có ý thữ coi ban ngày, chư vong có thể

nhập bàn dặng chăng?

        Khi ba vị về đến nhà lối 9 giờ ban mai, thuật chuyện tìm đặng

mả của cô lại cho ông thân tôi hay, đoạn đem bàn ra mà cầu cô. Thật

quả có cô đến đàm luận, rồi nhìn cái mộ của ba ông đã đến viếng, là

nơi xác của cô an nghỉ đời đời kiếp kiếp.

         Kể từ mấy ổng hiểu đặng chút ít, trong việc mầu nhiệm của

Trời-Ðất, lại có thể cầu chư vong trong buổi bạch nhựt, thì mấy ổng

càng hứng chí hơn nữa. Ngày đêm không kể đến sự mệt nhọc, ông thân

tôi, thì hiệp với anh Cao-Hoài-Sang, nơi nhà tôi mà chuyện vãn với chư

vong, còn chú tám với chú tư tôi, thì vầy nhau nơi nhà chú tôi, cũng

trong một con đường Bourdais, hai cái nhà ở ngang, trịch nhau chừng

vài căn phố.

        Từ đấy mấy ông chia nhau hai bên, hằng ngày hằng đêm kiếm tiềm

về việc huyền bí, mà học hỏi với nhiều vị khuất mặt. Cách ít lâu, có

hai vị tiên trưởng đến làm thi văn, bên chú tư tôi, thì ông Thanh-Sơn,

còn bên ông thân tôi,lại có ông Nhàn-Âm-Ðạo, cả hai nhà đều đặng mỗi

bên, mười bài thi (Thập-thủ liên-huờn) khác nhau.

        Một đêm kia, nhằm lúc bốn ông hiệp lại, lập bàn hương án, khẩn

cầu đức Tả-Quân. Người đã có lòng thành, nên ngài cũng giáng vào, đề

một bài thi, nhưng lâu ngày tôi đã quên phức.

        Lại có đêm nọ, mấy ổng vầy lại, vừa ngồi vào bàn, thì có cô

V.T.L. đến giáng, cô lại trình diện một người chị em theo với cô, xin

vào ra mắt mấy ổng, cô nói rằng :"Vị nầy thi phú cũng hay lắm". Mấy

ổng mừng rỡ, bèn mời tân khách giáng vào.

        Ðoạn người ấy tiếp vô xưng rằng :

        _ Em là Hớn-Bạch-Liên, xin hiến một bài thi, ra mắt mấy anh,

song xin mấy anh, chớ nệ thi văn hay dở.

        Anh Cao-Hoài-Sang liền tiếp rằng :

        _ Tôi vừa nghe cô Vương nói rằng, thi văn của cô rất hay, vậy

tôi xin ra đề. (ý M.Cao-hoài-Sang chưa tin cho mấy, e vì mấy ông kia

bịa đặt mà giả mạo gạt ảnh).

        Cô liền khứng chịu, anh Cao-hoài-Sang ngồi suy nghĩ rồi ra đề

: Tiển biệt tình lang.

        Cô tiếp dỡ bàn gõ, không ngừng chút nào cả. Mấy ổng ráp lại

bài thi như vầy :

              Chia gương căn dặn buổi trường đình,

              Vàng đá trăm năm tạc tấm tình,

              Bước rẻ nguồi trông cơn ác xế,

              Lời trao buồn nhớ lối trăng thinh.

              Ngày chờ mây án ngàn dâu khuất,

              Ðêm bặc đèn khuya một bóng nhìn.

              Lần lựa cô phòng xuân thỏn mõn,

              Xa xui ai thấu nỗi đinh ninh.

       Dứt bài thi, mấy ổng rộ lên khen cô rằng: văn thiệt là quáng

thế.

       Lại xin cô tiếp một bài nữa lấy đề: "Hoài Lang" mà làm. Cô

chẳng suy nghĩ chi cứ đề một bài rằng:

              Ðộng đình nhớ buổi tạm chia đường,

              Bốn giọt nhìn nhau lối rẻ cương,

              Trời thảm mây giăng muôn cụm ủ,

              Biển sầu nước nhượm một màu thương,

              Cờ thần chạnh lúc vầy đời bạn,

              Tiệc ngọc nào khi hội nhứt trường,

              Mượn vận lương nhân xin nhắn nhủ,

              Vườn xưa tiếng nhạn luốn kêu sương.

       Thật là tuyệt bút. Mấy ổng khen ngợi chẳng cùng, nhờ nơi đây,

mà phục đặng lòng tín ngưỡng của mấy ổng.

       Khi khác mấy ổng lại kiếm nhớ, những bạn tác nào,lúc còn sanh

tiền, biết làm thi mà mời về, đặng thử nữa. Ðoạn nhớ đến

M.Huỳnh-Thiên-Kiều, là người buổi sống giúp việc sỡ tuần thành, bổ vào

dinh Ðốc-lý Saigon, coi về sỡ Patentes; người ấy, còn ai ở Saigon mà

chẳng biết, khi ở thế, có nhập vào Hội Thi xã. Mấy ổng bèn vái tên họ

của M.Huỳnh-thiên-Kiều. Trong giây lát, nhập vào bàn đề thi rằng:

              Nhắn nhủ mấy anh một ít lời,

              Làng mây hồn trẻ đã xa chơi.

              Mẹ già nỗi hiếu chưa rồi đạo,

              Vợ yếu niềm duyên chẳng trọn đời.

              Chạnh nhớ quê xưa lòng xót xáy,

              Buồn trông cảnh cũ dạ bời bời.

              Ai về gởi lạy tình sông núi,

              Kiếp khác ân sinh sẽ đáp bồi.

                              Ký tên: Huỳnh-thiên-Kiều tự QUÍ-CAO.

        Ngày kế đó, cũng vì M. Nguyền-Trung-Hậu, nguyên là một người

bạn trong Thi-Xã-Hội với M. Huỳnh-thiên-Kiều và thấy bài thi bữa

trước; cũng có ý không tin, nên ngày sau M. Hậu làm một bài đem đến

khi đem bài thi đến, vái rồi đốt, đoạn mấy ổng vầy nhau lại ngồi, cầu

M. Huỳnh-thiên-Kiều. Trong giây lát, M.Huỳnh-thiên-Kiều vào tiếp họa

bài thi như vầy:

             Một tiếng u minh gióng cửa không.

             Phồn hoa dục tỉnh giấc đương nồng.

             Ngồi thuyền Bát-Nhã qua tình biển,

             Mượn nước nhành dương rưới lửa lòng.

             Cuộc thế lạnh lùng lằng gió lọt.

             Ðường đời ngán ngẫm buội trần lồng,

             Kiếp tu xưa tiếc chưa nên đạo,

             Oan trÁi phũi rồi phép phật thông.

                                  Ký tên:QUÍ-CAO

       Gặp lối mấy ổng đương mê thi văn, lại có người tuyệt bút, đến

giáng vào đề một bài.

                          VNH XUÂN

             Ngàn liểu khoe xuân cảnh rỡ màu,

             Xuân nồng vườn ngự vẽ thanh tao.

             Chào xuân ác lố trăm lằng rạng.

             Ghẹo liễu trăng soi một sắc làu.

             Thơ thới cành hôm hoa đọng ngọc.

             Yêm điềm dạo tối cỏ đeo châu.

             Ðượm bầu nhân sự xuân qua lại,

             Khuất bóng xuân sang khách luốn sầu.

                                   HỚN-BCH-LIÊN kĩnh hiến.

       Hằng đêm hằng có chư vị đến, mấy ổng thữ cũng hết sách, mà cũng

nhờ vậy, mới phục đặng lòng của mỗi người; như có một buổi anh

Cao-hoài-Sang buồn, đề mộ

t bài thi Tự thuật, có ý than thân trách

phận, sao lăn lóc với tình đời,tuy tuổi chưa bao nhiêu mà đã mòn mỏi.

Ảnh đem ra nhà cho ông thân tôi coi, và cũng muốn để cho mấy ổng họa

lại chơi cho vui. Nói chuyện với nhau rồi lẩn quẩn cũng cầu chư vị

nữa. Vào ngồi trong năm phút đồng hồ, thì có ông thân của ảnh, là bác

Cao-Hoằng-Ân giáng đến; thuỡ bác còn sanh tiền làm việc Tòa Án, lại

cũng có đổi đi cùng miệt Tây-Ninh, Bạc-Liêu, và nhiều chỗ khác nữa;

rốt sau, lại về ở Saigon rồi mới quá vản; tôi tưởng nhiều người biết

bác lắm. Khi ấy chú tư tôi thưa với bác rằng: sẳn dịp anh về đây, nhằm

lúc Sang làm một bài thi tự thán, cậy mấy anh em tôi họa, vậy anh họa

chơi luôn thể. Ông thân tôi lại nói: anh cứ việc đề thi dạy nó thế

nào, thì anh định lấy nhưng tùy theo vận của Từ-Thứ, mà lâu nay Làng

thi chịu phục là: voi, mòi, còi, roi, thoi mà làm. Dứt lời bác

Cao-hoằng-Ân tiếp liền, chẳng đợi phút nào cả, bài thi như vầy:

                 Thuyền khơi gió ngược khá nương voi,

                 Vận thời hầu nên đã thấy mòi:

                 Vườn cúc hôm nay muôn cụm rỡ,

                 Rừng tòng buổi trước một cây còi:

                 Hồng nương dặm gió chi sờn cánh,

                 Ngựa ruỗi đường hòe há nhọc roi:

                 Nính nẳm chờ qua cơn bĩ cực,

                 Thình long chúng có lượng đôi thoi.

       Vừa tiếp bài thi ấy, mấy ổng trầm trồ chưa gặp vị Ðại-Tiên nầy

giáng đề một bài:

                 Chiêu tập hồn thi bước Ðạo điều,

                 Non xưa chớp cánh nhạn trông theo.

                 Trời thanh khách gắn lần qua suối,

                 Ðêm rạng trăng soi lướt khỏi đèo.

                 Mây khỏa đảnh Tần màu gió cuốn,

                 Thuyền khơi sông bích cánh buồm treo.

                 Giang san một giải nền chung dựng,

                 Biển cả chi nao ít mái chèo.

                                                NHÀN-ÂM-ÐO

        Cách ít lâu, có cô Hớn-Bạch-Liên dẫn đến một vị xin vào ra mắt

mấy ổng. Gặp nhằm tiết thu, nên mấy ổng cậy cô đề một bài:

                            BÌ THU

                 Yêm liềm cây cỏ vẫn in màu,

                 Mờ mệt vườn đào điểm sắc thu.

                 Gió dậy xao Trời mây cuốn ngọc,

                 Sương lồng ướt đất liễu đeo châu.

                 Ngựa vàng ruổi vó thoi đưa sáng,

                 Thỏ ngọc trau gương dặm vẽ làu,

                 Non nước điều hiêu xuân vắn chúa,

                 Nhìn hoa cảnh úa dục cơn sầu.

                                         Lộc Nương kĩnh hiến.

 

         Dứt lời cô lại tiếp một bài điệu Ðộng-Ðình như:

                 Ðầm ấm cảnh Trời mai ác lố,

                 Thơ thới đưa thuyền khổ khách chèo,

                 Nhấp nhô lượng sóng khỏa lèo,

                 Luồng đông gió tạc cánh bèo ngưng sông.

 

                 Một chiếc quạnh bóng hồng nhán ngọn,

                 Mây đoanh non tuyết đóng nhành thung,

                 Về Nam đổ cánh rừng tòng,

                 Ngút xem tủa án cây đông khóa rèm.

 

                 Ðường xúm xít chị em ruổi bước,

                 Dắt dìu nhau kẻ trước người sau;

                 Tìm nơi hứng giọt mưa dàu,

                 Ðể cơn khao khát khoe màu phù dung.

 

                 Ðờn nhắn khách năm cung nhặc trổi,

                 Vẹt mây đen gió thổi chiều hôm,

                 Quang âm ngày tháng dập dồn,

                 Ngừa khi trễ bước hoàng hôn trở đường.

 

                 Ðường muôn dặm, khách đơn thân,

                 Mượn bóng trăng làu bước vẹn chân.

                 Khóa kính song thu trau hạnh đức,

                 Chờ khi Ðạo trọn đến non thần.

 

                 Non thần tiếng hạt chầu vang đảnh.

                 Chờ rước người ngay chánh tìm đường,

                 Mơ màng chưa tỉnh huỳnh lương,

                 Sóng xao biển khổ nên thương khách trần.

 

         Nghe qua bài văn Ðộng-Ðình nầy, mấy ổng khen tặng chẳng cùng.

         Xong mấy bài đó, mấy vị khác tiếp vào, đề mấy bài nho như

vầy:

 

         Mỹ-Ngọc! Nghe lão:

 

                 Hoành thượng đơn khai chí bách thiền,

                 Hựu tu chưỡng hiệp khỡi tranh liên.

                 Mật đài khánh nhựt khinh hành định,

                 Cửu tái quang minh đắc cọng niên.

 

                                       Mật sự khá kiếm hiểu.

                                            LIÊN-HUÊ-TIÊN

 

                 Diệu thành tâm khởi đức khai truyền,

                 Ðạo thức thời âm tận ký niên,

                 Thiên mạng lưu hành vô tự đoạt,

                 Tôn hồi cẩm vị khải huyền nhiên.

                                           Tri thức.

                                            THĂNG.

                 Phổ hóa hoài tâm hạ tác thành,

                 Hiền khai trực thượng độ nhơn sanh,

                 Bồ đoàn linh diệu cơ huyền mạng,

                 Tác ái diệt tàng cẩm đắc minh.

                         Gắn thiện niệm rỏ cơ Trời.

                                             THĂNG.

        Chư vị có ý muốn dạy mấy ổng, nhưng không hiểu chi hết mấy ổng

vầy nhau lại bàn như thầy bói, rồi dẹp lại đó đợi!

         Qua lối thượng tuần tháng tám, chú tư và chú tám tôi tiếp

đặng mấy lời của cô Vương dạy về Diêu-Trì-cung:

         Trên có Cửu-Thiên nương-nương cai quãng.

         Dưới có chín vị tiên cô:

         Cô Vương đây đứng về Thất-Nương, cô Hớn-Bạch-Liên là

Bát-Nương, còn bảy vị khác đều có nói tên cả.

         Chú tư tôi, nghe đặng lời ấy rất mừng lòng, bèn xin cô chiếu

cố đến mấy ổng, dạy cách nào cầu lịnh Kim-Mẫu đến đặng. Khi ấy

Thất-Nương bèn biểu mấy vị, phải trai giái ba ngày, và tìm cho đặng

Ngọc-Cơ cầu lịnh Bà mới đặng. Mấy ổng không hiểu Ngọc-Cơ là chi. Chú

tư tôi xin cô chỉ dạy; cô bèn vẻ hình Ngọc-Cơ, rồi giải nghĩa, và dẫn

rỏ căn cội buổi xưa, lấy hình trạng của ngôi sao Bắc-Ðẩu, mà tạo

thành, lại dạy cách phò Ngọc-Cơ cho mấy ổng, vaé biểu mấy ổng đặt mỗi

người một bài thi dự bị. Ðoạn chú tư, chú tám tôi và anh Cao-hoài-Sang

vưng lời trai giái ba ngày; và tìm đặng Ngọc-Cơ, y theo lời dạy.

         Qua đến ngày thứ ba, là buổi hẹn hò, lại nhằm tiết trung thu,

đúng đêm 14, rạng mặt rằm tháng tám, ngoài trời thì trăng thanh gió

mát; trong nhà, chú tư tôi lại dọn dẹp trang hoàng, xem vào có vẻ tinh

khiết lắm.

         Ðúng giờ tý, thảy đều đủ mặt, tôi thấy chú tư tôi, đã sắp đặt

dọn bàn dài, rải bông lá xung quanh, phía trong bàn, ngay chính giữa,

để một bộ đồ trà, còn chín vị Tiên cô mỗi người một cái tách, sắp vòng

theo bàn, hàng giữa dọn những trái cây tươi tốt, ngó vào rất lịch, tựa

hình như đải tiệc, và chung quanh có để chín cái ghế mây. Cuộc cúng

nầy mấy ổng gọi là :"Phó Yến Diêu Trì", cho đến nay, hãy còn noi dấu

lễ kỷ niệm ấy.

         Ðoạn chú tư tôi đốt hương đèn lên, cả thảy đều quỳ lạy khấn

vái, rồi đem Ngọc Cơ ra mà cầu. Thật quả có lịnh Cửu-Thiên Nương-Nương

đến, và đủ chín vị Tiên cô, mỗi vị đều giáng cơ, chào mừng mấy ổng;

khi ấy Thất-Nương xin ba ổng đờn, rồi mỗi người ngâm bài thi của mình

làm đặng hiến lễ, còn lịnh Bà và Cữu cô an vị mà nghe. Chừng nhập

tiệc, Thất Nương lại mời ba ổng ngồi chung vào cho vui. Cũng tội

nghiệp cho mấy ổng, vì e thất lễ, nên không dám; rốt việc, ép uổng

quá, mấy ổng liệu thế khó chối từ, mới đem ghế thêm, sấp sau lưng chín

cái ghế nọ, ba ổng xá rồi ngồi xuống.

         Tôi dòm thấy mấy ổng cũng bắt tức cười, nhưng không dám nhích

mép, cứ đứng khoanh tay hầu mà thôi.

         Cách chừng nửa giờ, chú tư tôi tái cầu. Lịnh Nương-Nương và

chín vị Tiên cô, để lời cảm tạ chẳng cùng, lại hứa rằng :"Từ đây đã có

Ngọc-Cơ rồi, thì tiện cho Diêu-Trì-Cung Cữu cô đến mà dạy việc". Ðêm

ấy mấy ổng thức cho đến 3 giờ khuya mới nghỉ.

         Kể từ ngày ấy, bên kia thì chú tư tôi hiệp với chú tám tôi,

thường hay cầu Ngọc-Cơ mà học hỏi. Còn bên nây, ông thân tôi với anh

Cao-Hoài-Sang, thì vẫn còn sai bàn. Cả hai bên hằng đêm, đều có chư

Tiên đến dạy, văn chương, thi phú, nhiều điều như là Ðộng Ðình,

Liên-Phong, tôi chưa từng thấy, mà nhứt là chú tư tôi, hay có tánh lục

lạo, hỏi đon nhiều điển tích cao xa, và nhiều điều hóa học bí mật,

theo ý tôi tưởng, nếu không phải là bậc Tiên-Thánh, thì dầu bậc cao

học nào, trong thế gian nầy, cũng chưa hề thấu đặng.

         Lần hồi, khi chú tư tôi khoẻ, thì phò Ngọc-Cơ, lúc mệt lại

sai bàn. Một đêm kia, thoạt có một vị Ðại-Tiên đến, không xưng tên

chi, cứ lấy ba chữ đầu "A ă â" làm hiệu, diều dẫn, ban đầu thì dạy thi

phú, điễn tích, rồi lẫn qua việc Ðạo, ấy là bên chú tư tôi; còn bên

nây, ông thân tôi với anh Cao-Hoài-Sang, một ngày nọ tiếp một vị Tiên

cô nơi Diêu-Trì-Cung, giáng vào bàn xưng là "Thanh-Tâm Tài-Nữ" cho một

bài văn điệu Liên-Phong như vầy:

 

                Mượn nguồn đạo đức khỏa màu trần,

                Luyến thế ngày qua khó kịp xuân.

                Bến khổ trương bườm thuyền đợi khách,

                Non tiên trở cánh hạt chờ xuân.

 

                Xuân mờ mệt bao nhiêu cảnh ũ,

                Cụm rừng tòng là xũ tranh sầu,

                Biết bao mấy nổi tang dâu,

                Bóng trăng kia đá đứng đầu tuổi xanh.

 

                Xanh vàng ngọn cỏ trải mồ oan,

                Oan trái trả vay khách nhộn nhàn,

                Nhàn cảnh mấy ai tìm đến chốn,

                Chốn bi ai luốn nhọc nhằn than.

 

                Than rằng:"Cỏi phù sanh nháy mắt,

                Trăm năm đâu biết chắc rũi may.

                Ðua tranh sánh của so tài,

                Của tài phũi sạch đường dài thoát qua.

                                Gắn lo xa....

 

       Tôi thấy mấy ổng như vậy, tôi bắt chước một bữa chúa nhựt kia,

ông thân tôi đi khỏi, tôi với em tôi là Nguyễn-Tãi-Thân, khiên bàn ra,

lối chín giờ ban mai, hai đứa ngồi, cũnt úp bốn bàn tay lên tịnh trí,

giây lâu có em tôi nhập về bàn xưng là: "Cao-Quỳnh-Lượng".

       Anh em mừng rỡ nhau, nói nói cười cười, tôi ngụ ý, muốn thữ coi

chơn giả thế nào, tuy tôi đã theo mấy ổng lâu rồi, nhưng đức tin chưa

trọn; bèn nói với em tôi rằng:"Thầy và chú tư mình, khi ông nội sanh

ra, đều có đặt hiệu Mỹ Ngọc, Bội Ngọc là vì nội biết chữ nho, tới

phiên thầy sanh mình ra, phần thì thầy học tinh những chữ tây không,

làm cho cả hai đứa, không có chi hết (dốt quá). Em có thế nào kiếm cho

qua một danh hiệu chăng"?

       Em tôi liền dỡ bàn gõ, tôi tiếp sấp hai chữ: "Ngươn Ngọc" tôi

lại cậy em tôi, cắt nghĩa cho tôi rõ, thoãn như có người hỏi đến, mà

nói cho thông (cũng sợ người chê dốt nữa!). Em tôi liền giãi rằng:

       "Ðời nhà Ngươn có báu vô giá trị.

       "Ðiển tự: Vua Ngươn khãi ca nhiều trận, chư Hầu khiếp vía,

Bắc-vương kiên oai, cống sứ cho Trung-Quốc, một hội Ngọc-Ðiệp, trong

đời ít có, khi đem phơi Ngọc ấy ngoài nắng, tất nhiên chiếu nhiều màu,

thiên ám địa hôn; người khát nước, ngậm vào miệng, dường như ngậm búng

nước lã mà hết khát, còn nhiều điều quí nữa, song kể không hết. Bỡi cớ

đó, nên có câu: "Ngươn -Chiêu-Ðế hữu bữu ngọc", nay trích trong câu

văn ấy, mà lấy hiệu Ngươn-Ngọc".

        Ðặng cái hiệu và lời giải ấy, khi ông thân tôi về, tôi thuật

lại cho ổng nghe. Ổng cắt nghĩa rành lại, tôi mới hiểu rõ rằng, cả

dòng họ Cao-Quỳnh, danh hiệu đều do nơi bộ ngọc; chừng ấy, tôi mới có

chút đức tin, là vì nơi đó, lại cũng vì những thi phú, lối sau nữa.

         Tôi còn nhớ một ít bài , theo điệu Liên-phong, ông thân tôi

với anh Cao-Hoài-Sang, tiếp của chư tiên như vầy:

 

                 Rãnh nợ thế rừng thung vui thú,

                 Chiều hứng nghe vượn hú chim chiền,

                 Một ngày thông thả là Tiên,

                 Suối trong rửa sạch não phiền trần gian.

 

                 Vòng cương tỏa buộc ràng danh lợi,

                 Chốn hí trường lui tới lăng xăng,

                 Phép quan luật nước thúc dằn,

                 Ðĩnh chung rốt cuộc mơ màng chiêm bao.

 

                 Ðâu là thấp đâu cao phẩm thế,

                 Nhục vinh kia ai dễ trọn đời,

                 Cõi trần kiếp sống mấy hơi,

                 Phũi tay phút đã châu rơi ngọc trầm.

                          Hỡi ai là khách tri âm!...

 

                                                H.M.

 

                           *********

 

                 Liệu mà day trở bước thang xuân,

                 Một dặm đường qua Ðạo một gần,

                 Sóng dậy tang thương hồng chích cánh,

                 Trời điều thưởng phạt họa đồng cân.

 

                 Cân thiêng liêng chất đồng tội phước,

                 Gặp thời tua vẹn đức trọng nhân,

                 Dịp may dễ có mấy lần,

                 Dò đường đến chốn non Thần mới hay.

 

                 Hay biết đời sau, Ðạo lại sao?

                 Hay gần cửa thánh bước lần vào,

                 Hay tiềm nẻo chánh, tà xa lánh,

                 Hay tập thanh cao, chí mới cao.

 

                 Cao khôn vói, thấp nào dễ bước,

                 Khó mà lần đến được mới mầu,

                 Chĩ mành rối khá lo âu,

                 Liệu chơn thoát khỏi vực sâu sau này.

 

                                            T.T.T.N. HIẾN

 

                             ***********

 

                 Nhàn du bạch dạ tuyến phong đình,

                 Âm tảng giệt kỳ chiến đấu tinh,

                 Chơn tịch quyền khai thiên vị đắc,

                 Nhơn bang hữu cọng liệt trân đình,

 

                 Rèm gió đêm tràng bóng rạng thinh,

                 Nghêu ngao non Túy thú riêng mình,

                 Thu về hứng cảnh đôi bầu cúc,

                 Hạ đến vui sen mấy tiệc quỳnh.

                 Nhàn dạo vẩn vơ theo Nhựt Nguyệt,

                 Rảnh ngồi chậm rãi tụng Huỳnh đình,

                 Tranh đua dủ sạch lằng phi thị,

                 Gặp buổi giang hồ với chúng sanh.

 

                                               N.A.D.

 

        Một bài Văn của Quan-Thánh Ðế-Quân cho một người Ðạo-Hữu vì

biết ít tiếng Việt-Nam nên xin Ngài cho chữ Langsa

 

                L'homme a ses maux, le roseau a ses plaintes,

                De ta destinée a pris soin le Créateur,

                En te préservant de la vie toutes contraintes,

                En semant à tes pas, espoir et non malheur,

                A l'horizon lointain, déjà l'astre du jour,

                Commence à décliner, ne perds pas de temps,

                Pour qu'à ce séjour si heureux sois de retour,

                Purgatoire accompli et esprit sans tourment

                Frôlant souventes fois les sombres nuages,

                A perdre ton éclat, ton étoile est prête,

                Mais une main divine à ton avantage,

                D'un geste enchanteur dissipe la tempête.

                Pour des entreprises lointaines, tu n'es pas fait,

                Restes à ton sillon, ton compte est arrêté.

                Le bonheur bien concu n'est-il pas le plus vrai?

                Réserve ces faveurs à ta postérité.

                Profite de ton présent, fais ta vie à venir,

                Répare tes erreurs passées, sois bon père.

                Marche vers le chemin de Dieu sans ralentir,

                La vie a des ailes, elle n'est qu'éphémère.

                                    Tâche de me comprendre.

 

                                                  THĂNG.

 

      Thuật đến đây M.Ðức nói rằng: Còn nhiều lắm nhưng tôi không nhớ

hết.

      Còn bên chú tư tôi, khi vị Ðại tiên hiệu A ă â giáng mà dạy Ðạo,

một ít lâu, bữa nọ, ngài nói với mấy ổng rằng: Nếu muốn cho Ngài, để

tận tâm truyền Ðạo lý, thì thảy đều phải kỉnh ngài làm "THẦY" mới tiện

bề đối đãi nhau.

      Chú tư nghe vậy thì càng mầng lắm, liền vưng chịu mà thọ giáo

với Ngài; nên từ đây, hể ngài có giáng cơ thì cứ xưng là Thầy, rồi

chào lại "Các con" mà thôi.

      Ðêm kia, nhằm 24 Décembre 1925, mấy ổng cũng hiệp nhau lại, cầu

ngài mà học Ðạo, nhưng Ngài không đến. Một chập lâu, Thất Nương giáng

vào nói rằng:"Rất mừng vui". Mấy ổng không hiểu chi cả, bèn tiếp hỏi

Cô :"Mừng việc chi?"

      Cô trả lời rằng :"Ðêm nay là đêm kỷ niệm của Thầy giáng sanh,

trong hai ngàn năm trước, mà khai Thánh-Giáo nơi miền Thái-Tây; nên

giờ nầy, Thầy đương hội chư Phật,Tiên, Thánh, Thần dự lễ mà không đến

đặng cùng mấy anh. Vậy mấy anh nên cầu nguyện cho cả bá tánh, trong

đêm lành nầy, rồi nghỉ, bữa khác Thầy sẽ đến, dạy việc cần yếu.

      Nghe Thất Nương nói đến đó, thì hồn vía của mấy ổng, đã bay bổng

lên mây cả. Nửa mầng nửa sợ, mầng là mầng vì đặng Chúa-Thánh dạy

khuyên, còn sợ là sợ nỗi bấy lâu, vì không biết ngài, mà e lúc trước,

có nhiều khi thất lễ. Xong việc mấy ổng tang ra, bàn bàn tính tính cho

đến canh khuya mới lui nhau về nghỉ.

       Qua đêm sau, mấy ổng hiệp lại,lập hương án (bữa nay áp quỳ lạy

thảy thảy) cầu ngài đến. Ngài giáng vào cơ mà chỉ dẩn : Từ buổi Hồng

Mông, nhứt khí Hư vô phân Lưỡng-Nghi, sanh Tứ-Tượng chia Bát-Quái,rồi

mới biến hóa Nhựt, Nguyệt, Tinh-Tú và 72 Ðịa-Cầu, mà tạo thành

Càn-Khôn Thế-Giái, Ngài lại giải rằng, lúc khí Hư-vô sanh Lưỡng-Nghi:

       Dương khí thăng lên, biến ra Ngài; Âm khí hạ xuống biến ra

Kim-Mẩu Nương-Nương.

       Nghe đến đó mấy ổng mới biết đấng ấy là "Huyền-khung

Cao-Thượng-Ðế", đã tá phàm gian nhiều khi rồi, mà diều đạo nơi Á-Ðông,

lại giáng sanh khai Thánh-Giáo miền Thái-Tây nữa. Nay vì đã rốt cuộc

tuần hườn, trong cõi Dinh-hoàng, thì giờ đã cùng tận lối Hạ-Ngươn nầy,

nên Ngài đến hoằng khai đại đạo, chuyển các Tôn giáo lại, mà diều dẫn

lần chót, ấy cũng bởi ngài thấy cả sanh linh, đã luống theo thế tình,

mà quên phức nguồn cội.

       Trước mặt ba vị: CAO-QUỲNH-CƯ,

                        PHM-CÔNG-TẮC,

                        CAO-HOÀI-SANG.

      Ngài hỏi rằng: Thầy muốn dùng các con mà khai Ðạo, các con có

dám lãnh trọng nhậm ấy chăng?

      Mấy ỏng bạch rằng: "Trong các con từ bé chí trưởng, chẳng thông

Ðạo-lý chi, duy nhờ Ðức Chí-Tôn dạy bảo bấy lâu, thì sự biết chưa đặng

trong muôn một, e cho chẳng xứng đáng mà lãnh trách nhậm lớn lao ấy".

      Ngài nói rằng: "Chi chi, có Thầy gần bên các con, miểng là các

con khứng chịu gắn để trọn tất lòng, thì chẳng hề chi".

      Mấy ổng vưng chịu và xin Ngài chỉ bảo cách thức, đặng thờ Ngài.

Ngài lại dạy mấy ổng phải đến ông Phủ-Chiêu, là người có thờ Ngài đã

lâu rồi; lại dặn mấy ổng chừng nào đi phải đem Ngọc-Cơ, đặng Ngài

giáng,mà chỉ dạy thêm trong cách thờ phượng.

      Mấy vị vưng mạng lịnh, tìm đến hiệp với ông Phủ-Chiêu; nhưng

nghe rằng, cách ít tháng sau, vì không khứng nạp dụng những Ðạo-Hữu

tới lui rần rộ, trái tôn chỉ Ðạo của ông, là phải tịnh dưỡng mà thôi,

nên ông Phủ-Chiêu thối bước từ buổi ấy.

       Lúc thúc đã gần cuối năm, Ðức Chí-Tôn lại dạy ba vị phải ăn

chay trước ba ngày, đặng chí đêm 30 tháng chạp, năm nọ là Ất-Sữu, đợi

đúng giờ Tý, là đầu ngày của năm Bính-Dần, mỗi người thấp ba cây nhan,

ra quỳ nơi ngoài Trời, thành tâm khấn vái, vọng thiên cầu Ðạo, và thề

rằng: "Nếu chẳng tận tâm lo vung đấp nền Ðạo, thì Ngủ lôi tru giệt".

Mấy ổng đều vưng chịu, rồi cả thảy đều thi hành theo lời dạy.

        Khi mấy ổng khấn vái xong rồi, thì vào nhà phò loan cầu Ngài,

hầu coi ngài có điều chi dạy bảo chăng.

        Ðức Chí-Tôn giáng dạy như vầy :

        Thầy cho các con hiểu rằng : Buỗi tạo Thiên lập Ðịa nầy, Thầy

sanh loài người ra, nhầm ngày dần "NHÂN SANH Ư DẦN" vậy từ đây Thầy

dùng các con làm tay chơn mà gầy dựng nền Chánh-Giáo, lại cũng kể ngày

nay là ngày phát khởi nguồn Ðại-Ðạo. Lấy hiệu Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ,

còn ngài thì tá danh Cao-Ðài Tiên-Ông Ðại Bồ-Tát Ma-Ha-Tác, rồi ngài

giải rõ rằng : trong danh hiệu của NgAéi, gồm đủ tam giáo: Nho, Ðạo,

Thích.

       Nên Ðại-Ðạo Tam-Kỳ khai nhầm giờ Tý, ngày mồng một năm Bính-Dần

là do nơi đó.

       Vài ngày sau, Ðức Chí-Tôn,mới sai chú tư và chú tám tôi vô

Chợlớn, cũng dạy đem Ngọc-Cơ theo, rồi Ngài giáng mà độ dẩn Ông

Lê-văn-Trung, là cựu Hội-đồng Thượng-nghị-viện, rồi lần lần diều tới

mấy vị khác nữa.

        Cách ít lâu, tôi thấy chú tư và chú tám tôi, nhờ cơ bút mà

biết nhiều việc cao xa, lại vưng mạnh lịnh mà gầy ra mối Ðại-Ðạo

Tam-Kỳ, còn ông thân tôi và anh Cao-hoài-Sang cũng tiếp theo nghề Ðồng

tử, mà diều dẫn chúng sanh, trót triệu người, nhập môn cầu Ðạo, Ðức

Chí-Tôn lại định cho chú tư tôi, phải xin thôi làm việc, còn chú tám

tôi, thì xin nghỉ đở ít lâu, cả hai người về trí nơi hướng Ðông miệt

Tây-Ninh, mà lo vung đấp nền Thánh-Giáo, còn phần ông thân tôi và anh

Cao-Hoài-Sang thì về miền Tây. Lại có một cập loan khác nữa, là

M.Nguyễn-trung-Hậu và M.Trương-Hữu-Ðức, lo việc phổ độ miệt trung

ương.

       M. Ðức thuật đến đây thì tôi liền tiếp hỏi ảnh rằng:

       _ Nếu vậy thì Ðại-Ðạo Tam-Kỳ khai ra, là nhờ nơi cơ bút, chớ

không phải bắt chước ai, theo như lời truyền ngôn của những người

công kích Ðạo đó sao?

       _ Không phải đâu! Nguồn cội của Ðại-Ðạo là do nơi cơ bút của

mấy ổng mà ra, thậm chí cho đến kiểu vỡ áo mão, thước tất và màu áo,

của các Chức-sắc mặc, nào là khăn mấy lớp, áo mấy giãi, thì cũng tùy

cơ bút mà thôi, chớ nào ai hiểu biết đặng. Những người muốn kích bát

trước khi luận việc chi, họ chẳng chịu để tai mắt, xa nghe cạn thấy,

lại cũng vì lòng ố đạo, nên hể họ vừa lóng lời sao khẩu, thì vội bình

phẩm liền. Sơ tâm cho đến thế, mà họ vẫn cứ tưởng mình là cao kiến hơn

cả triệu sanh chúng; vậy sao gọi bực lãm thức tình đời.

        Như lúc sau, có mấy vị trong Bát-Tiên, đến diều dắt mấy ổng,

có để những lời vàng ngọc nầy, anh nghe thử coi thể nào, rồi sẽ luận

sự chơn giả;

 

                         Ðại-hỉ chư Ðạo-hữu

 

                  Trời đất riêng tay giữ một bầu

                  Ngàn mây dậm gió gót chơn thâu:

                  Rừng tòng thong thả nhàn ra dạo.

                  Ðền ngọc thung dung rảnh đến chầu:

                  Thoát tục sớm diều nên bảy bạn,

                  Dẩn phàm nay rảo khắp năm châu.

                  Thế trần mừng gặp Tam-Kỳ độ.

                  Biển khổ thuyền đưa khách lánh sầu.

 

                                            Lý-ngưng-Dương

 

        Chư Ðạo-Hữu may mắn thay, gặp đường Chánh-Giáo, chớ dần dà,

trể công thiếu quả, mà chẳng đến thang thiêng liêng kiệp thì hồi

vị.Lão mong ngày Ðạo khải hoàn, chư Ðạo-Hữu nên gắn sức. Ðường cũng

chẳng bao xa, miểng hiệp đồng nhứt tâm vì sanh chúng, sau còn ngày gặp

gỡ.

 

                                             THĂNG.

 

                     Rảo khấp non sông dậm trải qua,

                     Bì gương nhựt nguyệt tác không già,

                     Biển trần nay gặp kỳ diều chúng,

                     Muôn dặm đèn soi đã có ta.

 

                                            Hớn-chung-Ly

 

        Chư Ðạo-Hữu, Ðức Chí-Tôn diều bước, cả Tiên-Phật dẩn đàng: há

chẳng sớm lánh phồn hoa, đặng dồi dàu gương độ chúng. Huống chi, chư

Ðạo hữu đã có quả nơi mình, lại chẳng vì mạng lịnh Ðức Từ-Bi, mà chịu

ít lâu khổ hạnh, hầu mong buổi đoạt phẩm vị thiêng sao?

 

        Ước mong ngày hội ngộ, trông mong buổi tạc thù, rượu thánh ra

non dòm thế, cờ thần dựa đảnh luận đời. May thay! vui thay! Chư Ðạo

Hữu nên gắn sức.

 

                                               THĂNG.

 

                     Riêng vui nguyệt chiếu sắc trong ao,

                     Ðền ngọc từng khi để bước vào;

                     Rảnh hứng trăm hoa khoe Ðảnh Ngự,

                     Nhàn vầy mấy bạn dự Bàn-Ðào;

                     Ðộ đời rão gót non sông lướt,

                     Cứu thế diều nhân đạo đức trao;

                     Chờ buổi tuần hườn Thiên địa trở,

                     Nương gương Thần huệ một vừng cao.

 

                                                Lữ-động-Tân

 

        Hỉ chư Ðạo-Hữu, Ðạo gặp kỳ phổ độ, khá biết cải thế thì Ðạo

khả trọng, đức nặng trao.

        Ðời đời đổi, Ðạo chờ người; khách tục nương thuyền độ, non

Tiên tiếng khách đưa, gắn nhọc thế lọc lừa, tiềm đường ngay thẳng

rẵng. NGuồn rữa bợn, nhiều đường cay đắng; bước nâu sòng dặm lắm gay

go; liệu sao khỏi trễ con đò, mới thoát vòng khổ hải. Gắn sức vì sanh

mạng, lao tâm chớ sợ bởi căng xưa; đường quanh co, bước khá ngừa; nẻo

hiểm trở, chơn nên lánh.

 

                                        Hậu tái ngộ  THĂNG.

 

                     Từng vào non Thánh lại đền vàng,

                     Mảng quả sớm nhờ sắc ngọc ban;

                     Lần hạc tu tâm thình nét đạo,

                     Biển trần độ chúng vững con thoàn;

                     Cuộc cờ chung hứng nơi rừng thắm,

                     Bầu rượu riêng vui dưới cột tàng.

                     Gặp lúc diều đời qua bến tục,

                     Ðể công phải nhọc đến phàm gian.

 

                                           LAM-THỂ-HÒA

 

         Hỉ chư Ðạo Hữu, Ðạo gặp lối quanh co, khá biết ngừa vực thẩm,

gắn sức cho tròn trách nhậm lớn lao của đấng Chí-Tôn phú thát.

         Chư Ðạo-Hữu khá biết.

 

                                            THĂNG

 

                     Trương kỳ bạch động mộ tiên gia,

                     Quả diệu thâu trì tác trí kha;

                     Lảo dược độ sanh tiên tự khởi,

                     Hiến trần tu thức trực ninh tà.

 

        Ách nước nạn dân, số trời đọa thế. Vòng vay trả, mối buộc

ràng; nếu có tai mắt rộng xa, tự hỏi vì đâu nông nổi;

       Ðạo trời gở nạn, chuông Thánh truy hồn, bến khổ vớt khách

chìm, non thần chờ kẻ lạt; mà cũng còn khư khư nắm chắc miếng đĩng

chung, cấp cũm giữ đầy lằng nhơ bợn. Ðạo,đời đều chẳng trọn, phương

chi tìm chốn thát lao lung. Ngảnh lại cuộc giả của trò đời, mà thương

đau cho trẻ dại. Lần lần lựa lựa, ngẩn ngẩn ngơ ngơ, đứa trí gạt

phường ngu, lũ khôn ăn đám dại. Cười....

 

                                            THĂNG.

 

                            *********

 

         Ấy là những lời khuyến Ðạo của năm vị Ðại-Tiên, làm cho mấy

ổng thêm lòng tín ngưỡng, nên để hết sức chung lo, gánh vác nền đạo.

Lần hồi gầy dựng đặng vững vàng, phục tâm đặng nhiều trang có trí thức

rồi, thì chia nhau, kẻ giúp việc trong, người lo bề ngoài mà làm cho

đồ sộ thêm nữa.

         Lật bật đã vài năm,tôi mảng lo làm việc, sớm đi tối về,

thường thấy ông thân, và bà thân tôi đi phổ độ hoài, e khi già yếu mõi

mệt; nên tôi mới khuyên lơn ổng bả ở nhà nghỉ, hầu dưởng tinh thần.

Ổng lại rầy và cắt nghĩa cho tôi rõ, chút ít về việc Ðạo. Ổng nói với

tôi rằng :"Cốt chỉ họ Cao-Quỳnh ta đây, tuy là lẩn lộn nhiều ít nơi

thế mặc dầu, chớ vẫn là người,phải hiến thân cho Ðại Ðạo, dầu cho con,

ngày sau cũng vậy, con không thấy chú tư con sao? Nay đã giải đường

hoạn lộ, đem mảnh hình hài,vung đấp nền Ðạo, đã lập thành một Tòa

Thánh-Tổ, nào là trẩy gốc ven đường, cất nhà ngang giải dọc, nơi một

miếng rừng 150 mẩu, trước kia cây cối phủ che, mà nay đã khai phá gần

thành khoảng. Lập nên công lớn với Ðạo, mà cũng bổ ích cho đời nữa.

Bây giờ phận thầy vì mắc ràng buộc thế sự, nên công quả chưa được toại

lòng, thế thì thầy có khứng, nằm ngồi nơi nhà, ăn no ngủ kỷ, mà ngầm

thế sự cho đành đâu. Khi nào con xin nghỉ làm việc ít ngày, thầy sẽ

dắc con đến đó, coi cho thấy những công việc đồ sộ của chú tư con

làm, rồi con mới biềt cho thầy, công linh như vậy là có chi đâu!"

         Nghe ông thân tôi tỏ mấy đều, và cắt nghĩa tình hình đời cho

tôi hiểu, làm cho tôi hết dám ngăn cản ổng nữa. Từ đó đến nay, tôi dòm

coi ý ổng, đã chán ngán tình đời, ổng với bả, đều ăn trường chay, còn

việc nhà ít hay quảng tới.

         Ðó là đều tôi thuật sơ cho mà nghe thôi, còn việc cao xa về

Thánh-Giáo, tôi không nhớ mà nói cho hết.

         Nghe dứt câu chuyện của ảnh, dường như tôi thức tĩnh  chiêm

bao, mới biết là việc của Trời-Ðất làm ra, chớ sức người đâu có đặng.

Rất đỗi là các Thánh xưa khai đạo, tôi hằng coi sách, có lần nào thạnh

hành, như buổi nầy đâu. Tuy nghe ảnh nói vậy, song còn muốn thấy hiện

diện,cho biết rõ nguồn cội thêm. Tôi cậy ảnh, nếu chừng nào ông thân

ảnh đi, thì xin ảnh diều dẫn tôi theo coi thử.

         Cách ít lâu, gặp lễ nghỉ đặng ba ngày, ảnh cho tôi hay, rồi

đề huề ra đi. Khi đến Tòa Thánh, M. Ðức dắt tay tôi vào lạy nơi đại

điện, đoạn ảnh chỉ mấy cốt thờ nơi Bát-quái-đài, mà cắt nghĩa cho tôi

nghe: Phía trên có dựng một trái càn khôn có vẽ Thiên-nhãn, và đầy

những tinh tú: Ấy là Ðấng Tạo-Hóa,chủ quyền chấp chưởng cả càn khôn

thế giới, vì Ngài là vô vi, không có hình ảnh, nên không lên cốt, duy

có Thiên -nhãn, tựa ra mà chỉ rằng, ngài soi khắp mọi nơi, dầu cho đôi

vần nhựt nguyệt, và các vì Tinh-tú, cho đến các Phật-Tiên-Tháhn-Thần

cũng trong tay ngài mà thôi. Tôi lại thấy trong lòng trái càn khôn, có

thấp một ngọn đèn, tôi liền hỏi ảnh. Ảnh cắt nghĩa rằng: "Ấy là ánh

sáng của đạo dương khai, cũng nên gọi là hồn của cả sanh linh, nơi

trái cầu sáu mươi tám nầy, đứng trong hàng thất thập nhị địa".

         Kế đó ảnh chỉ các cốt như là:

                Ðức Thích-Ca khai đạo Phật,

                Ðức Lão-Tử, khai đạo Tiên,

                Ðức chúa Jésus-Christ, khai đạo Thánh,

                Ðức Khương-thái-Công khai bản phong Thần,

                Ðức Khổng-phu-Tử, khai đạo nho,

        Lại chỉ cốt Ðức Phật Quan-Âm Bồ-Tát, Ðức Lý-Thái-Bạch và

Quan-Thánh Ðế-Quân,mà nói rằng, Ấy là ba vị Phật, Tiên, Thánh thay mặt

cho Tam-Giáo,diều đạo kỳ hạ ngươn nầy, giúp sức cho Ðức Cao-Ðài

Thượng-Ðế, tức là Giáo-Chủ, đứng chủ quyền nền Ðại-Ðạo Tam-Kỳ; ngài đủ

quyền thiêng-liêng nhiệm mầu, mà qui nguyên các Tôn giáo lại hiệp nhứt

mới đặng.

        Anh lại chỉ phía dưới hết, có bảy cái ngai,là ngôi vị thiêng

liêng của Ðức Giáo-Tông, ba vị chưởng-Pháp và ba vị Ðầu-sư,thuộc về

nhơn đạo, nhưng sấp đó, chớ không ai ngồi, tuy có đặng tạ vị trong mỗi

khi Ðại hội chức sắc mà thôi.

        M. Ðức nói rằng: trong đền thờ các đấng ấy, là người đã khai

công sáng đạo, từ buổi tạo Thiên lập Ðịa đến giờ; hiệp lại mới gọi:

                Tam-Giáo là : Thích

                              Ðạo

                              Nho

        Mà cũng gồm về :

                Ngũ chi Ðại đạo là: Phật đạo

                                    Tiên đạo

                                    Thánh đạo

                                    Thần đạo

                                    Nhơn đạo.

        Viếng nơi Bát-quái-Ðài (Ðại điện) rồi ảnh dắt tôi trở ra

khoảng giữa rộng dài, mà cắt nghĩa cho tôi rằng: Ðây gọi là

Cữu-Trùng-Ðài, nơi của ba ngàn một trăm mười hai Chức sắc, Ðẵng cấp

như vầy:

             1 vị Giáo-Tông (Page)

             3 "  Ðầu-Sư    (Cardinaux)

            36 "  Phối-Sư   (Archevêques) nhưng có ba vị chánh

                                          đặng thay mặt cho 3

                                          Ðầu-Sư còn 33 vị kia là phó.

            72 " Giáo-Sư    (Evêques)

          3000 " Giáo-Hữu   (Prêtres)

         ------

 Cọng là  3112 vị

         Nên Ðức Cao-Ðài-Thượng-Ðế gọi là:

                     Nhứt             Phật

                     Tam              Tiên

                     Tam-thập-lục     Thánh

                     Thất-thập-nhị    Hiền

                     Tam thiên        Ðồ-Ðệ

là vậy đó: cả thảy đều chia ra làm tam quái, mặt Thiên phục ba sắc

khác nhau.

         Sắc vàng gọi là Thái-Thanh         về Phật-giáo

          _  xanh  _     Thượng-Thanh        _ Tiên-giáo

          _  đỏ    _     Ngọc-thanh          _ Nho-giáo

        Duy có đức Giáo-Tông thì mặc áo trắng có thêu bát quáivà mảo

trắng gọi là "Mitre pontificale" mà thôi. Ấy là người làm đầu của 3111

vị kia: lại còn Lễ sanh, cũng đủ Tam-phái gọi là: Elèves-Prêtres,

nhưng vô số (Nombre illimité) vì chưa đứng vào hàng Chức-Sắc.

        Coi nơi đó rồi, ảnh dẫn tôi ra phía ngoài xa, thấy hai bên có

lầu chuông và lầu trống, lại có thang leo lên, gặp một khoản rộng rãi,

ngay chính giữa, ảnh nói rằng: Ðây gọi là Hiệp-thiên-đài. Chức sắc nơi

này, Ðức Chí-Tôn sắp đặt chưa hoàn toàn vì DẦạo mới khai, nên vào chưa

đủ số,duy có 21 vị, đẵng cấp như vầy :

 

                                 HỘ-PHÁP

   Bảo      Bảo                                     Bảo       Bảo

Học quân, Văn quân, Thượng phẩm        Thượng sanh, Sanh quân,Cô quân.

   _         _      Bảo đạo    Bảo pháp    Bảo thế      _        _

   _         _      Hiến đạo   Hiến pháp   Hiến thế     _        _

   _         _      Khai đạo   Khai pháp   Khai thế     _        _

   _         _      Tiếp lễ    Tiếp pháp   Tiếp thế   Tiếp y     _

 

         Vị Hộ-Pháp là người chưởng quản Hiệp-Thiên-Ðài, cũng như vị

Giáo-Tông bên Cữu-trùng-Ðài, cốt chỉ để gìn giữ luật lệ và nắm các

Bí-pháp của Ðạo, lại phải bảo hộ mấy chi dưới kia đặng làm cho tròn

phận sự.

 

                               Phía Hữu :

 

       Thượng phẩm, là vị để bảo hộ sắp đặt phẩm vị cho cả Ðạo hữu đã

nhập môn, từ chức sắc cho đến tín đồ, về chi Ðạo;

      Văn-Pháp-Quân, là vị đỂ bảo hộ Văn-chương và Kỷ nghệ cho cả nền

Ðạo, về chi văn pháp (Arts & Belles lettres).

      Bảo-học-quân, là vị để bảo hộ ty giáo dục cho cả nền Ðạo, về chi

giáo huấn,

 

                               Phía tả :

 

        Thượng-sanh, là vị để bảo hộ cho cả sanh linh, dạy dổ đủ tư

cách đặng đem vào nền Ðạo, nếu có điều chi trái luật Ðạo, thì người

lại phải xem sóc, về chi thế.

        Bảo-sanh-quân, là vị để bảo hộ về khoa y dược mà cứu chửa cả

Ðạo-hữu của nền Ðạo, về chi bảo sanh.

        Bảo-Cô-quân, là vị để bảo hộ cho những người cô quả và trẻ côi

cúc trong nền Ðạo, về chi bảo cô.

        Ấy là sáu vị làm đầu trong mỗi chi, còn dưới nữa, duy mới có

thập nhị thời quân, chia ra làm ba, và vài vị đỂ giúp các vị chưởng

quảng trên kia, như là :

                  Bốn vị giúp sức cho Hộ-pháp.

                  Bốn vị       _      Thượng-phẩm.

                  Bốn vị       _      Thượng-sanh.

                  Một vị       _      Văn-pháp-quân.

                  Một vị       _      Bảo-sanh-quân.

sau sẽ còn nhiều nữa.

       Mấy chức sắc Hiệp-thiên-đài kể trên kia là những vị nắm mối

giềng cho nền Ðạo, cầm đuốc sáng diều đường cho cả thảy, lại là người

để lập điều lệ cho phận sự của mình cho cả sanh chúng, nên gọi là

"Chơn thần" của Ðạo. Mấy ổng vẫn là người phò loan (Médiums) tiếp ngay

những lời Thánh-giáo của Ðức Chí-Tôn và các Ðấng Phật, Tiên, Thánh,

Thần trên Bát-Quái-Ðài, gọi là "Hồn" của Ðạo, rồi giao lại cho chức

sắc Cửu-trùng-đài là những trang hành chánh và phổ độ , gọi là "Xác"

của Ðạo tùy theo đó mà ban hành ra cho cả đạo hữu.

       Nếu có điều chi sai sót, không hạp với sanh linh, thì chức sắc

Cửu-trùng-Ðài, cũng có thể gởi lên Hiệp-thiên-Ðài mà xin chấn chỉnh

lại, nhưng cũng phải tiềm điều hửu lý mà biện bát mới sửa cải đặng.

        M.Cao-quỳnh-Ðức lại giải thêm với tôi rằng :

        Trong 21 chức sắc Hiệp-thiên-Ðài, đã kể trên đây, có hai vị

:Thượng-Phẩm và Thượng-Sanh, vẫn là chức sắc bên Cửu-trùng-Ðài, sắp

vào hàng chức sắc Hiệp-thiên-Ðài đặng binh vực quyền của chức sắc

Cửu-trùng-Ðài, và cả sanh chúng. Ðối với ba vị Chưởng pháp bên

Hiệp-thiên-Ðài sắp vào hàng ngủ Cửu-trùng-Ðài, kế dưới Ðức Giáo-Tông,

hầu có hiện diện, mà bảo hộ vung trồng các Luật-lệ của Hộ-pháp đã

giao qua Cửu-trùng-Ðài, mà ban hành ra cho sanh chúng.

        Coi xong rồi, bước xuống thang, ảnh dắc tôi ra phía sau

Phòng-Văn, trình diện với mấy ông chức sắc lớn, rồi dẫn coi nhiều chỗ

khác. Mỗi mỗi đều có cắt nghĩa: Nào là cốt Phật Thích-Ca cởi ngựa, tựa

hình lúc ông Cyaca Mouni còn đương kim Hoàng-Tử, từ Hoàng-Thành tầm

Ðạo; ấy là trạng thái lúc khai nguyên Phật-giáo, lại có cốt ông Sa-Nạt

dựng phía sau, nào là Phật Di-Lạc, còn hai bên đường, thì có rừng trẫy

sạch những tạp mộc,chừa lại nhiều cây cao lớn, có tàn che mát mẻ tốt

tươi, gọi là Vườn-Thiên-Nhiên.

        Ảnh dắc tôi lần lần ra nhà tịnh, rồi lại trở vòng qua nhà khác

nữa.

        Tôi nhắm coi thật rộng minh mông, ngó đà mỏn mắt, nghĩ cho

M.Cao-quỳnh-Cư, điều đình mà khai phá miếng đất nầy đã để công trình

rất dày, mới đặng vậy.

 

                                **********

 

 

                             PHU-THÊ YẾU-LUN

 

        Tôi đi coi trót buổi mà chưa hết, song tôi thấy M.Ðức có hơi

mỏi mệt, nên tôi khuyên ảnh đi nghỉ, còn tôi thì lần hồi trở lại bàu

Cà-Na, là chỗ sẽ tạo Ðộng-đình-hồ mà coi nữa.

        Ði vừa tới khóm rừng, chợt thấy một người đàn ông, một người

đàn bà, cả hai trạt lối 26, 27 tuổi, ngồi đâu mặt với nhau mà nói

chuyện, nhưng vì khuất cội cây, mà hai người không thấy tôi.

        Tôi liền đứng dừng lại, suy nghĩ rằng: nơi đây là chốn tu

hành, sao lại có việc lén lút nầy. Cũng ví tánh hay tọc mạch, nêntôi

lóng tai nghe.

        Người đàn ông nói: "Qua nghe người ta đồn đã lâu rằng, bà già

và em vô Ðạo Cao-Ðài, nhưng qua cũng có đến kiếm đôi ba lần mà không

gặp mặt".

        Người đờn bà nói: "Phải! Từ buổi, anh sa mê theo đàng điếm, bỏ

em lăn lóc ở nhà một mình quạnh hiu, trót năm trường, em cũng tưởng là

: chồng không đoái đến, thì cũng còn cha mẹ anh em, nên ở lại, rám làm

cho tròn phận dâu con, té ra em để ý dòm coi, chẳng có một người nào

thương em cả, liệu thế chẳng an thân, nên em lạy cha mẹ mà về hẩm hút

với mẹ già, đâu cũng đặng vài tháng, ở ăn cũng yên. Một ngày kia, em

đang xách nước, thình lình xây xẩm mày mặt, phát nóng lạnh vài ngày,

rồi mất trí luôn. Lúc ấy em chẳng còn biết chi hết; sau khi mạnh, em

nghe bà già thuật chuyện lại rằng: buỗi nọ em điên cho đến nỗi xé

quần, xé áo, song cũng may, sao em không nói chi bậy bạ, duy cứ lạy

hoài mà thôi, còn ăn uống, thì nhiều hơn mọi khi, nhưng chẳng chịu hơi

cá thịt, cứ ăn ròng những tương chao, rau muối cho đến ngày nay. Khi

đó bà già thấy em như vậy, thì đau lòng, rước nào là bóng chàng, thầy

pháp thầy phù gì thôi đã đủ. Kẻ nói đau ma, người ằng mắc quỉ, lập đàn

chuyên chửa rộn ràng, trót mấy tháng, không nên chi cả, rốt cuộc tiền

mất tật còn. Sau lại, nhờ có mấy ông trong Ðại-Ðạo, hết lòng cầu khẩn,

lớp thì truyền điển, người thì vải bông và cho uống nước Thánh, chưa

đầy ba ngày mà bịnh căn đã lần lần thuyên giảm. Lúc ấy trong nhà thì

nghèo, lại cũng có thiếu chút ít của người ta, vì lúc chạy thầy cho

em, thiếu sức nên buộc bà già phải vay hỏi, song cũng nhờ mấy ổng, kẻ

nhiều người ít, góp nhóp đâu đặng vài chục đồng. Với tiền ấy, bà già

đem trả cho người ta, còn dư bao nhiêu thì làm sở phí, chở em lên đến

đây ở dưỡng bịnh. Mấy ổng lại cho thuốc men uống, không ăn tiền bạc

chi, trong mười ngày thì em bình phục lại như xưa. Từ ấy đến nay, mẹ

con ở luôn nơi đây, lo công quả mà bồi đáp ân huệ đã rưới ban của Trời

Phật".

         Chừng nói đến đó tôi mới biết là hai vợ chồng, vì việc gia

đình nên phải cách bức nhau, nay mới gặp mặt đặng. Tôi lại nghe người

chồng tiếp rằng:

         Nay em đã mạnh rồi, còn ở chi nơi đây; vậy việc qua lỡ chơi

bời, biết là sự quấy, qua đã ăn năn nên đến kiếm em đem về. Em bằng

lòng chăng?

         Vợ _ Ấy là một điều rất khó tính, vì em đã ngán ngẫm tuồng

đời. Việc vợ chồng, tuy anh để ý phụ em, chứ em vẫn giữ tròn bổn phận

làm vợ. Từ ngày em về với anh, đã biết rằng chẳng có cưới hỏi chi,

song ở cùng nhau đã mấy năm dư, trên em giữ lòng kính thờ cha mẹ, dưới

lo phục sự cho chồng. Anh cũng chán biết, phận em chịu nhiều nỗi đắng

cay, nội nhà đều giữ đạo Thiên-Chúa, duy sót có mình em là người

ngoại. Em vẫn biết đạo nào cũng vậy, cứ dạy việc hiền lành đạo đức,

ngặt vì em còn cha mẹ già yếu, lại tùng theo Nho-Giáo nên em không nở

bỏ mà theo đạo của anh. Bởi cớ ấy, nên tuy là vợ chồng thương nhau, mà

cha mẹ, anh chị lại chẳng khứng cho anh ở với em, hằng ngày xô đuổi

coi em như cỏ rát, thị như mên mang mọi rợ, đối đãi với em chẳng khác

chi với kẻ thù nghịch; lại đày đọa em quá lẽ; nhưng đã lở việc vợ

chồng, không lẽ một lần đạp cứt, rồi phải chặt chơn, nên em rán chịu

mấy năm khốn khổ.

        Anh còn nhớ, lúc ông già em quá vản, em lạy cha mẹ xin về chịu

tang, và đưa ổng lên đàng. Cha mẹ nằng nằng quyết một không cho, lại

nói rằng: em muốn về đặng lạy thây ma thúi sao! Anh nghĩ coi, cha mẹ

đã lắm chịu nhọc nhằn sanh em ra nâng niu từ bé chí trưởng, biết bao

nhiêu công cán; theo phong hóa nhà Nam ta, đã mấy ngàn năm, giữ gốc

Nho gia, sự vong cũng như sự tồn, dầu mất dầu còn cũng kỉnh thờ như

một, huống chi Thánh Thần đâu chẳng biết, duy trước mắt em vẫn thấy:

cha là trời, mẹ là biển. Nay cha đã thác, dầu ơn sinh dưỡng, mà đối

với một vài lạy đưa lên đường, há tiếc hay sao?

        Vì em nghĩ thầm như vậy, nên năn nỉ khẫn cầu hết lời, tuy là

cha mẹ cho đi, nhưng trong ý , không chút nào ưng chịu. Từ ngày em lo

việc tống táng ông già em xong, trở về cho đến sau, thân em lại càng

khốn cùng hơn nữa, song đã thương chồng, nên em đành chử làm thinh, mà

gắn chịu đắng cay từ đấy.

        Bởi các cớ ấy, dầu cho em còn xét chút nghĩa vợ chồng, cũng

khó nỗi về với anh cho tiện. Một là vì em đã khấn vái với Trời-Phật,

mà nhập môn cầu đạo, nay chẳng lẽ em bán đồ nhi phế; hai là nay bà già

em, tuổi đã cao, mà lại góa bụa, không còn con cái chi khác hơn là em

nữa; nên bổn phận em là con, phải vì tình chắc chiu khi bé thơ, mà ở

vậy hủ hỉ với mẹ già, hầu thủ hiếu, cho đến ngày lâm chung của bả; đa'

vậy phần em lại ăn trường chay, cũng là một điều rất khó cho em về

chung cùng với anh đặng.

       Chồng _ Em khéo nghe lời họ, chuyện gì thì chẳng nói làm chi,

chớ việc ăn chay, là điều thúc xác, theo như đạo của qua, ấy là trái

hẳn với trời đất, vì Tạo-Hóa đã sanh vật ra mà dưỡng nhơn, lại chẳng

chịu dùng, bo bo mà ăn những thảo mộc, là chất chẳng bổ dưỡng xác thịt

của ta, thì phải mau chết, mà chết vậy lại có tội tháo trúc không chịu

ở thế gian, càng phải sa vào Ðịa-ngục.

       Vợ _ Em là phận nữ nhi,tuy có học nho chút ít, hồi thuở nhỏ, có

biết chi cho lắm, nhưng nghe mấy ông lớn trong Ðại-Ðạo Tam-Kỳ giải về

việc ăn chay, tuy em không hiểu cho hết, chớ cũng còn để ý chút ít,sơ

lược như vầy: Các sanh vật của Tạo-đoan đã biến hóa ra, đều có hằng

sống, cũng như loài người, nhưng khác nhau, là vì mình đứng hàng thứ

ba trong tam tài: "Thiên, Ðịa, Nhơn". Người nhờ hưởng đặng khí huyết

tinh tấn, trong sạch, nên trí não thông minh, biết nói biết luận và

biết nhiều điều khôn ngoan hơn cầm thú, còn sanh vật lại khác hơn ta

là do nơi chất, nên trí não chẳng có, ngu muội, dữ dằn,thô kịch, nếu

ta đem máu huyết ô trược của nó mà chung vào với sự trong sạch của ta,

thì chẳng khác chi, lấy bùn mà bỏ vào một ly nước trong, lần hồi, một

khi một ít, rốt lại thì nước ấy, trở nên đục đen. Em chỉ sơ cho anh

thấy những sanh vật có sự độc, mà ta vẫn thấy rõ ràng, như con cá rô,

ăn vào thì ho và nhức mỏi, con cua đinh, làm cho nổi đơn phung, và

nhiều thú khác nữa, huống chi heo bò, vẫn có chất khác với người, tuy

cái độc của nó, không hại ta hiện thời, mà nó vẫn làm cho ta, sanh ra

đau đớn về sau nữa. Lại trong các thú rừng, có nhiều con dữ dằn, ăn

vào lần lần thân thể ta đều truyền nhiểm các chất trược của nó. Bởi

cớ, nên chất thú pha với chất người, mà làm cho người hóa ra hung

tợn,mất cả chất thánh của tạo hóa sanh, mới làm ra những điều tàn bạo,

ghét lẫn nhau, giành giựt nhau, cho đến giết nhau và làm nhuẽng điều

tồi phong bại tục. Ấy mới trái hẳn với tạo đoan, là đấng háo sanh, ưa

sự sống mới biến hóa sanh linh, nay vì người lầm lạc mà hại lẫn nhau,

nên Ngài mới khai Ðại-Ðạo đặng bảo tồn nhơn vật. Huống chi, xưa buổi

tạo thiên lập địa mấy ngàn năm đầu, các Thánh-hiền trước, nào có ăn

sanh vật, nếu như lời của anh rằng: "Ăn chay là ép xác mà chết mau",

sao những người xưa, cứ dùng lê hoác mà sống trên vài trăm tuổi, mà

lại sách vở, hảy còn ràng ràng rằng: "Người bày biện mà dùng sanh vật,

phát khởi sau vua Thần-Nông mà thôi".

         Anh lại nói rằng: "Thảo mộc là vật chất không nuôi nấng tinh

thần", thì cũng còn một điều rất lầm lạc, là vì buổi xưa kia, các bậc

Thánh-hiền, đê" hết trí não,tiềm kiếm phương châm, đặng cứu sanh

linh, vì đem chất thú vào mình, mà nảy sanh ra bịnh hoạn, thì phần

nhiều lại dùng cỏ cây mà làm thuốc: cho đẾn hiện thời các nhà

Hiền-Triết về Y-khoa, toàn trong hoàn cầu đều noi theo đó mà bào chế

ra những y dược mà trị bịnh; thì tất nhiên thảo mộclà vật rất quí báu,

để bổ dưỡng và phục nguyên thân thể loài người chớ!

        Nếu có bớt ăn sanh vật, là một phương tránh đặng sự bịnh hoạn,

xảy ra một ít, còn dùng toàn lê hoác, lại chẳng khác nào là ngăn ngừa

bịnh trước, Người đã không đau ốm, vật lại khỏi bị sát hại; ấy chẳng

phải là điều hữu ích chung cho cả hai bên, nhơn và vật sao?

        Chồng _ Ấy là điều họ nói ma-ma Phật-Phật, có chi gọi là hiển

nhiên, em khéo nghe lời họ mà chi, họ kiếm tích nọ truyện kia, rồi bày

ra thờ phượng bụt thần, cũng là một đều sai, theo Ðạo của qua thì duy

có thờ, một Ðấng Ðức Chúa-Trời mà thôi!

        Vợ _ Việc ấy em chẳng cải, nhưng em thấy trong Ðại-Ðạo Tam-Kỳ,

trên thờ Ðức Cao-Ðài, là Chúa cả Càn-Khôn, còn theo Thánh-Giáo, thì

gọi là Ðức Chúa-Trời, vẫn cũng là một Ðấng ấy; dưới thì thờ mấy đấng,

đã ra công khai các Tôn-giáo buổi xưa, đều là, Phật, Tiên, Thánh,

Thần. Trong ấy có đức Giáo-chủ Jésus-Christ, là chơn linh của đấng

Tạo-hóa, thai xác phàm diều đạo Thánh, miền Âu-Châu và cũng có đức

Khổng-phu-Tử, là người đã khai Nho-giáo (Nhơn-đạo), ngài cũng là một

vị Giáo-Chủ. Các đấng đã thờ nơi Bát-quái-Ðài, đều có công lớn với

đời, tên tuổi vẫn còn roi truyền, nơi sử xanh bia tạc; trong hoàn cầu,

cònai là chẳng biết nữa. Thảy đều diều lành cải dữ cho sanh linh, thì

cái ân huệ ấy, chẳng đáng cho ta thờ phượng và kỉnh lạy sao? Huống chi

trong nền Ðạo-Thánh, em có thấy thờ đủ các thánh Âu-Châu, thì cũng

chẳng phải là việc ắt thờ có một đấng Ðức Chúa-Trời mà thôi đâu!

        Chồng _ Còn việc lạy nữa, theo qua thì duy có lạy Ðức

Chúa-Trời và người sống mà thôi, chẳng nên lạy bụt thần và những người

chết.

         Vợ _ Ðều ấy, anh luận rất sai lầm, anh có hiểu lạy là chi

không, mà vội bàn như vậy? Ðể em kiếm một ít lời, em còn nhớ mấy ổng

giải nghĩa, mà thuật lại cho anh nghe:

         Lạy hay là chào, đều là sự kỉnh nơi lòng, phô bày ra ngoài,

cho thấy cái hình trạng, nhưng tùy sự trọng khinh, cao thấp, thì cái

lạy ấy, dầu với ai, làm cũng đặng cả. Thí dụ như: Theo phong tục người

Âu, nếu kỉnh nhau, như trọng, thì quì gối cúi đầu, còn thường thì dở

nón, ngan vai lại nắm tay dục dặc; theo Annam ta, hể trọng kỉnh thì

lạy, vừa vừa thì xá và cúi đẦu; còn Chà-Và, Cao-mên, nếu gặp người

trưởng thượng, thì mọp dài xuống đất, bất kể nơi nào. Ấy là phong tục

của mỗi nước khác nhau. Nếu Annam ta, mà cấm lạy ca&c Thần, Thánh,

Tiên, Phật thì làm thế nào tỏ sự kỉnh của họ đối với các đấng

Thiêng-liêng ấy đặng. Còn các xác chết, dầu cho có lạy, thì cũng là

lạy cái vong linh; mà dầu cho lạy xác chết, thì lạy tội chi sao, cho

đến đỗi nắng hình đất, sành, cây kia, cũng còn có thể lạy xá đặng, hà

tất chi cái xác chết ấy, trước đã là ông bà, cha mẹ, cô bác của ta, ta

vẫn nhờ có xác đó, mới hóa sanh ra xác nầy, nếu ta vội quên cái ân

thâm nghĩa trọng của xác ấy, thì cái xác của mình đây mới liệu thế

nào? Dầu luận cho tột lý, thì bất quá là cái xác của con cháu, lạy cái

xác của ông bà cha mẹ, chớ có chi đâu mà từ chối. Lại nếu không cho

lạy xác chết, vì nghĩ rằng, đã thành ra ma quỉ, lại thêm một điều sái

hẳn nữa; là đến chừng tới phiên mình chết, thì cũng vậy, con cháu của

mình cũng cho mình là tà quái, truyền tử lưu tôn như thế, thì tu hành

làm chi, mà rốt kiếp, cũng hóa ra tà mị. Nếu như thật ắt vậy, thì thà là

đừng giữ đạo, hầu khỏi bị con cháu ngày sau khi dễ. Huống chi, phong

hóa nước nhà vẫn đã có sẵn tư cách như vầy:

         Một mình Ðức Chí-Tôn, là Ðấng tạo thành Càn-khôn thế-giái,

đứng về thập-nhị khai-thiên, lại trong tay Ngài, nắm thập-nhị

thời-phần; thì số mười hai, là số riêng của Ngài, tất nhiên ta phải

lạy Ngài, 12 lạy.

         Các đấng Phật-Tiên, hay về Cửu-thiên-khai-hóa, đứng vào hàng

Cửu-phẩm; ấy vậy số chín, lại là phần riêng của chư Phật-Tiên, thì ta

lạy các Ngài, 9 lạy.

         Các bậc Thánh-Thần, vẫn đứng về Tam-phẩm nơi Thiên-Ðình, thì

số ba là số riêng, của các bậc Thánh Thần; htì ta lạy các ngài, 3 lạy.

         Người trưởng thượng trong phàm gian, vì còn thọ khí Âm-dương,

mà hưởng sự sống nơi thế trần, thì ta lạy 2 lạy. Hai lạy ấy, tức là

một lạy Trời, một lạy Ðất; chớ người chưa hưởng đặng lạy nào cả.

         Bậc nhơn phẩm đã thác, thì ta phải lạy, bốn lạy; nghĩa là một

lạy Trời, một lạy Ðất, còn vong hồn của người, duy có hưởng hai lạy mà

thôi.

         Ấy cũng là một vẽ phân biệt về Lễ, rất có trật tự, thì nào

phải là điều lộn xộn đâu, mà ta mơ hồ, để bàn luận đến việc, kẻ lạy

người không, cho mất niềm hòa khí lại sanh ra lẽ khi dễ Thánh Thần.

        Em lại hằng thấy những người Âu Châu, mỗi khi đi ngang một đám

xác, bất câu là sang hèn gì, đều dở nón cúi đầu chào, ấy là người tỏ

lòng thương mến, và kỉnh cái xác chết chớ gì, nếu người cho là ma quỉ,

thì đã lánh xa trước, lẽ nào lại thi lễ. Theo như lời của anh nói, em

chưa ắt là phải, vì em rõ biết, đức Giáo-Chủ JÉSUS-CHRIST có để mới

sám truyền rằng: "Bây phải kỉnh thờ cha mẹ bây" -Adorer vos parents),

dầu sự vong như sự tồn, cũng là một điều rất chánh đáng ai ai cũng rỏ

biết cả.

        Chồng._ Con nhỏ nầy kỳ quá, qua nói phải trái cho em nghe, rồi

em muốn kích bát qua, lại chịu nghe theo họ. Em nghĩ coi, trong hoàn

cầu thiếu chi là đạo, lại bày đặt làm chi nữa cho rộn tang.

        Vợ. _ Phải, em đâu cãi anh các Ðạo như trong Ngủ chi đại đạo

của em đã nói hồi nảy, đều là chánh giáo cả, thảy đều dạy làm lành

lánh dữ, tránh vạy theo ngay, là buổi sơ khai của mối Ðạo mà thôi.

Những sanh linh nào hiện thời trong lúc ấy, thì còn giữ gìn lời

Thánh-giáo, mới thọ hưởng thái bình, lần lần một vài trăm năm sau,

nhằm thời kỳ khác, tất nhiên nhơn sanh cũng khác, đã xa lời truyền

dạy, đâu có thấu đáo cái nhiệm mầu của Ðạo, mỗi ông có trí thức tùy ý

của mình, bày chế ra một cách, hoặc đặng cầu danh, hoặc để thủ lợi,

Ðạo thì chánh, mà vì người sửa cãi ra lần lần mà phải hư hoại, cho đến

đổi chánh trở nên tà. Thí dụ như : Phật-giáo xưa kia, có dạy đi làm

đám đặng lấy tiền công đức, hoặc làm đồ mả, đốt như bây giờ đâu. Còn

những bí pháp của Tiên gia, chẳng phải để làm chuyện giả ngộ như bọn

Tả-đạo bày ra, ngồi nghinh xiêng quay gọi rằng trị tà, như thầy pháp

vậy. Nho-giáo xưa hằng dạy người giữ luân-lý, tam-cang, ngủ-thường,

theo như lời các Thánh roi truyền chỉ dẫn, mà nào có biểu, trung với

vua mình rồi dùng sức mạnh hiếp thế yếu, gây ra việc đồ khổ cho dân

sanh, còn hiếu thảo, cũng chẳng phải biểu ta dối trá, gạt gẫm người,

hoặc giết người giựt của về nuôi cha mẹ.

         Mà hiện thời,anh đã thấy rõ ràng, ứng chứng ngày nay trên thế

giái nầy, đều như vậy cả, cho nên các Ðạo vì nơi lầm lạc ấy, mà thành

ra điều kích bát gây lẫn nhau; cũng vì vậy mà sanh linh phải dổ máu,

chém giết nhau, chẳng biết bao nhiêu sanh mạng rồi, thậm chí cho đến,

người một sắc da, mà coi nhau như thù nghịch, thì còn chi gọi là Ðạo.

Bảo làm sao mà Tạo-hóa không lo hoằng khai Ðại-Ðạo, qui Tam-giáo, hiệp

Ngũ chi, chuyển kỳ hạ-ngươn là lối chót nầy, mà sấp dặt cho nhơn quần

xả hội cả hoàn cầu dạy phải biết thương yêu nhau, diều dắt lẫn nhau,

chẳng luận là sắc dân nào cả, cũng đều là con cái của Ngài cả thảy;

thậm chí cho đến sanh vật chót hết là côn trùng, ngài cũng muốn cho ta

ỷ khôn ngoan mà hiếp lẫn nó, vì chúng nó cũng thọ sanh như ta. Ðặng

vậy, mới xứng đáng phận làm người của Tạo-hóa ban ân cho, mà làm anh

cả các loài vật. Ấy là tôn chỉ của Ðại-Ðạo Tam-kỳ đương lúc nầy, muốn

diều sanh chúng, kết giây liên ái mà thọ hưởng hòa bình đó.

          Em nói cho cùng lời, là nếu sức phàm của người mà cải quá,

lập đạo kỳ nầy, mà cũng còn theo như làm sái tôn chỉ trước, thì Ðức

Chí-tôn chẳng hề ngồi yên, mà ngó sự tiêu giệt, trong buổi hạ-ngươn

nầy, thế nào cũng phải điều đình một mối Ðạo khác, cho sanh linh đặng

hưởng sự yên tịnh, mới nhằm Thánh Lý của Ngài, là một Ðấng háo sanh,ưa

sống, chớ chẳng chịu giết lẫn nhau.

         Chồng._ Em nghe lóm những lời của họ bịa ra mà ddụ người, rồi

hô lên Ðạo! Ðạo! chớ Ðạo là gì? Em tưởng hễ có Ðạo mới sống, còn không

Ðạo như những người chẳng biết kia rồi chết hay sao?

         Vợ. _ Nếu anh nói vậy lại sai lầm lần nữa. Ðạo là một điều

rất nhiệm mầu huyền bí cao xa, em chẳng hiểu cho thấu đáo, mà nói cho

cùng tột cho anh nghe, mà dầu cho bậc nào, trong thế gian nầy, là cao

thượng hơn hết, cũng khó giải cho tất lý.

         Em chẳng nói chi cho lắm, nhưng anh phải hiểu rằng: dầu cho

Trời-Ðất hay là chi chi trong càn khôn thế giái nầy, cũng là nơi dđạo

mà biến hóa ra; nếu chẳng có Ðạo, thì chẳng hề có mảy múng gì trước

mắt hết; ấy là em nói sơ việc huyền bí,là đều em không rõ ắt, nhưng

tùy theo sách vở của các đấng hiền triết xưa để lại. Còn nói chi việc

hiện tại trong trái cầu nầy: Bổn phận làm người rất khó, nếu vô Ðạo,

thì đâu có phải là bực nhơn phẩm, mà có thế mới bền vững đặng.

         Thí dụ như :

         Ðứng về hàng vua chúa lòng chẳng khoan hòa, coi thần dân như

cỏ rác, đắm mê tửu sắc, chẳng quản đến nước nhà, là vua vô đạo, ưa

nịnh xa trung, không nghe theo lời đoan chánh của tôi con, lại chịu

những sự nịnh hùa của tà mị, tức nhiên phải ngữa nghiên xã tắc, hư hại

giang san, rốt rồi luốn những điêu tàn, mà gây cho đoàn con dân phải

chịu bùn than khổ sở.

         Làm quan, trên chẳng trọn lòng thờ chúa, dưới chẳng hết dạ

thương dân, dua mị theo lủ nịnh tà, hầu lấy quyền to hiếp chúng. Ðã

chẳng lo đền ơn chúa, lại không thái độ trị dân, kiếm chước thâu đoạt

của người, lần lần gây cho con dân thán oán, mà làm loạn cho nước; ấy

là tham quan ô lại, tất là vô đạo.

        Dân vô đạo, thì chẳng biết đến vương quốc thủy thổ, không

kiêng sợ luật nước nhà, mà hóa sanh ra đều trộm cướp, tàn hại lẫn

nhau, nhiểu loạn cả sanh linh, lần lần hiệp nhau cho có sức, gầy vương

đồ bá, cướp giựt ngôi vua mà sanh rối cho nước.

        Vợ chồng ở với nhau vô đạo, chồng thì tửu điếm trà đình, ưa

theo phóng đãng, chẳng quản đến tình nhà, bỏ vợ bỏ con đói rách, việc

hư nên của gia đình không thấu đáo, chẳng diều vợ dạy con, theo đường

ngay nẻo thẳng, thiếu đức kém hạnh. Vì nơi vô đạo ấy, mà buộc vợ phải

gây thêm rối, không biết nể chồng, lần lần sanh ra cờ bạc, bỏ luốn bổn

phận đờn bà, là người tề gia nội trợ, chẳng còn giữ tiết trinh, hết

tưởng đến phận nưng khăn sửa tráp. Rốt rồi phải hư hoại gia đình, cũng

là điều vô đạo.

         Phận làm con, chẳng kỉnh thờ cha mẹ,quên ơn dưỡng dục, bỏ

nghĩa sanh thành, lời dạy dỗ chẳng nghe, quen theo đoàn du đãng, khi

thị cô bác, không tưởng cậu dì, làm cho hư hoại tông môn, ấy là con

ngổ nghịch tức là trái đạo làm con.

         Anh em ở với nhau vô đạo, là chẳng tưởng tình máu thịt, lớn

không diều nhỏ, nhỏ nghịch với lớn, chẳng biết thương nhau, lần hồi

mất niềm huynh đệ, sanh việc loạn dâm, anh chồng em dâu, hóa ra thù

nghịch, mà chém giết nhau, làm cho nhục nhả tổ tiên, vậy là vô đạo.

         Chủ ở với tớ vô đạo, là chẳng giữ phận bề trên tham công

tiếc việc, không xét cực nhọc của tớ, làm cho tớ chẳng phục lòng, mà

hóa ra những điều ngoan ngạng với chủ, thì chẳng khác nào, ép cho tớ

làm trái phận sự. Ít lâu rồi tớ không vâng mạng chủ, ấy mới gọi là tớ

phản tâm, mà mang chữ tớ vô đạo.

         Ðó là em luận sơ điều vô đạo của người, mà làm ra cho hư hoại

cả nước cả dân. Tuy về nhân đạo, ai ai cũng cho là thế tình đời, nhưng

cũng có ảnh hưởng hiệp về thiên đạo. Nên phận làm người muốn cho tròn,

phải biết mượn đời dồi đạo, lấy đạo diều đời, cả hai nương nhau mà đi

cho có cập mới đặng.

         Bởi cớ cho nên, của Trời-Ðất có rồi, thì hóa sanh ra các vật

trước, chừng sanh ra loài người, thì đấng Tạo Ðoan phải khai đạo, mà

diều dẫn cả nhơn vật, tức là con cái của Ngài cả thảy.

         Khi mang lốt phàm vào rồi, thì chẳng khác nào kẻ mù tối; lớn

khôn lên, vừa đủ trí hóa, trước mắt duy có thấy điều tranh danh đoạt

lợi, vật quí phẩm cao, rất phù hạp với thường tình, áp nhau giành giựt

cho đến giết lẫn nhau, đành quên phức cái nhơn phẩm của mình, là một

chủ khách, đến đây đặng bồi đáp sự trả vay cho nhau. Rốt cái đời của

người, thế cũng chẳng quá trăm năm; nào khác giấc chiêm bao; nghèo

cũng thế mà sang cũng thế, buỗi chung qui cứ nắm hai tay không, cao

dường bao, thấp cũng dường bao. Linh hồn cư& đến tòa phán xét, cân tội

với phước mà định đoạt; hoặc phải chịu luân hồi chuyển kiếp, hoặc

hưởng sự an nhàn vui vẻ thiêng liêng. Té ra cái giàu sang của ta, đã

làm quấy nơi thế trần nầy mà có ra, chẳng hề theo mà buộc tội cho ta,

lại còn đống xác trơ trơ, dẩu cho ai gẫm cũng như ai; vùi nơi nấm đất;

dầu tốt dầu không, lâu rồi cũng ra đám mồ hoan cỏ lạnh, nằm nơi đồng

trống sương gieo, thỏ lặn ác tà, đố ai tránh khỏi. Thế cũng chẳng nên

giành giựt mà chi, rồi phải vay thêm cho vun đống, lẫn kẻ nghèo hèn,

phải ra thân đói lạnh, làm cho trái với tạo hóa là một đấng Từ-bi, buổi

nầy là cùng tận, mà hãy còn lo phương cứu thế.

         Vì thương nhân loại, nên từ xưa những nay, mỗi khi trong nước

nào, vì sự hiếp lẫn nhau mà khởi loạn, thì chính mình Ngài đến mà khai

đạo, hoặc sai các Tiên-Phật thai phàm mà mở các tôn giáo, hầu làm cho

yên tịnh, nhưng cũng chưa hề thấy đặng sự hòa bình cho sanh chúng giờ

phút nào cả.

         Ấy vậy Ðạo, nghĩa là con đường ngay thẳng (la vérité) của Tạo

hóa khai ra, cho các chơn linh đã mang xác phàm nầy, noi theo sự chơn

thật, hiền lành mà thủ cái vai tuồng của ta, đã lảnh chịu trướcmặt

Ngài, mà đến trong cõi dinh hoàn nầy; làm xong phận sự rồi, buổi chung

qui mới có thể noi theo nấc thang cao hơn, cũng trong con đường ấy, mà

hội diện với Ngài, nhưng cũng tùy theo việc làm nặng nhẹ, phải chăng

nơi đây, mới sắp theo đẳng cấp: Phật, Tiên, Thánh, Thần, mà thọ ban

trong khi tới trước mặt Ngài mà phục mạng. Ấy là tôn chỉ của các Ðạo,

đã khai ra từ thỉ chí chung, đặng diều dẫn sanh linh.

         Còn những trang đã lảnh mạng trời đến đây, tuy cũng làm tròn

phận sự, nhưng có gieo ra những đều phải vay vay trả trả, chừng buổi

lâm chung so tội phước mà định, rồi tùy đẳng cấp nơi trần nầy, mà luân

hồi trở lại, phước nhiều thì làm quan, làm giàu; ít phước thì lảnh bực

thường dân, phải chịu cay đắng, mà trả cho nhau cho đến lúc xong, rồi

cũgn phải tu tâm dưỡng tánh, mới trông thoát khỏi nơi vòng chuyển

kiếp. lại những kẻ đã đến đây, làm trái nhân phẩm, thì còn nói chi.

Buổi thát cũng đến tòa phán xét mà chịu xử đoán, rốt rồi thì lộn trở

xuống, mà chuyển ra cầm thú, hoặc phải mất cả chơn linh, mà biến sanh

côn trùng; thảo mộc, rồi ra công tu luyện ngàn năm, may mà đắc quả,

mới trông lên tới bậc người. Là việc công bình của Trời-Ðất đã phân

định, ấy mới rỏ Tạo-hóa là một đấng cầm cân thiêng liêng.

        Cho nên em nói rằng : Ðạo vẫn thiệt nhiệm mầu cao xa khó giải

là vậy đó.

         Chồng._ Tuy là em nói vậy, chớ qua chẳng hề tin chút nào, vì

là đều không thấy hiển nhiên, bây giờ sống ở đây ăn theo đây, làm theo

đây, biết kịp người hay chưa, huống chi phải tính việc cao xa, là đều

hư thiệt không ắt, mà qua vẫn thấy họ bày điều mộng mị như: Các Ðạo

đều thờ, hoặc hình ảnh Phật-Tiên-Thánh, hay là viết chữ, còn Ðạo

Cao-Ðài, sao lại thờ có một con mắt là ý chi vậy?

        Vợ._ Anh hỏi thì em nói ngay, nhưng sự biết của em rất hẹp

hòi, vì nghe mấy ổng thuyết đạo, bổn đạo đến nghe thì đông, làm cho em

phận gái, duy có đứng xa xa phía ngoài, nghe lóm mà thôi; vậy để em

luận sơ cho anh nghe:

         Con mắt ấy, là của đấng Tạo-hóa, nên gọi là Thiên-nhãn. Vì

Ngài không có hình ảnh chi, đến tại thế cho ta thấy; nên phải tựa con

mắt ra mà thờ, ảnh hưởng chỉ về; Ngài là Ðấng Chúa cả Càn-khôn thế

giái, tức là mắt ngài soi khắp mọi nơi, nên thế tình hằng ví

câu:"Hoàng thiên hữu nhãn" nghĩa là Trời có mắt là vậy đó. Nếu ta muốn

thờ Ngài, mà ta vẫn chẳng biết tướng diện của Ngài ra thế nào, thì

không lẽ ta tượng hình ra là Annam, Tây, Cao-mên, hay là theo một sắc

dân nào khác nơi thế nầy, thì sao cho nhằm lý.

         Em nhớ mấy câu Thánh-ngôn của Ðức Cao-Ðài Thượng-đế chỉ phán

về thiên-nhãn, cho các môn đệ Ngài, trong buổi Ðại-Ðạo Tam kỳ mới khai

như vầy:

                              Nhãn thị chủ tâm,

                              Lưỡng quan chủ tể

                              Quang thị thần,

                              Thần thị Thiên,

                              Thiên giả ngả giả.

          Mấy câu thánh ngôn nầy nghĩa lý rất sâu xa, sức phàm khó

giải cho thấu cái rộng minh mông của câu văn, nhưng theo phận của em,

thiếu học lại trí thức ít oi, nên luận sơ như vầy:

          Thiên-nhãn nghĩa là Mắt Trời.

          Mà Mắt Trời lại thông đồng vớimắt của mình, cũng nên gọi là

"Thần-Lương-Tâm" (Conscience).

          Nên mỗi mỗi việc chi, mình muốn thi hành, tất nhiên trước

hết mình phải gọi Thần-Lương-Tâm mà cậy nhũ, chỉ giáo đều hư thiệt, tà

chánh thể nào, rồi mình mới định: làm hay là bỏ. Thoảng có điều chi,

mình gọi là không tốt, không hạp với thế tình đời,không đoan chánh,

thì mình còn dụ dự, chưa dám thi hành, là vì mình tính: nếu làm cho ra

cái hình, theo trí của mình độ, thì sợ e mắt mình xem không hạp mà hễ

mắt mình xem không hạp thì lại làm cho tâm tánh mình áy náy. Ðó là bị

Thần-Lương-Tâm cản trở rầy la; hể Thần-Lương-Tâm quỡ trách tất nhiên

là Trời quở vậy.

          Ấy vậy, mọi việc chi của ta đã tính nơi tâm, dầu hư dầu

thiệt, thì Thần-Lương-Tâm đều hiểu biết,mà chỉ dẫn cho ta rỏ điều tà

lẽ cháng; nếu Thần-Lương-Tâm hiểu thì tấc nhiên đấng Tạo-hóa đã biết

rõ hết. Nên chi tâm mình lay động thì Ngài đã thấu rồi. Bởi cớ, nên

phận làm người phải biết rằng, mọi việc chi của ta làm lén lút một

mình, dầu lớn dầu nhỏ, cũng vậy, là duy có giấu giếm, chớ chẳng hề khi

nào khuất mắt trời và các đấng thiêng liêng cho đặng. Nếu Tạo-hóa

riêng để cho ta giấu đặng Ngài, thì còn chi là mầu nhiệm của trời đất.

Vì vậy mà có câu:"Thiên thiên giả giả" chỉ là: hễ ta thấy, thì tấc

nhiên trời cũng thấy vậy, có thể thông đồng với nhau.

          Thí dụ theo trí ngu xuẩn của em tưởng như;

          Một đứa ăn trộm kia khi đã để ý, có một nhaé nào để cho nó

đột nhập, thì trước hết nó gạn hỏi Thần-Lương-Tâm coi có thế lấy của

người đặng chăng? Ấy là điều tà vạy, thì thần-lương-tâm cũng nói với

nó rằng: không đặng! lạigiải cho nó biết : nếu nó khoét vách, họ hay

đặng la lên, ắt có kẻ đến bắt nó. Nghe đến đó, nó hết hồn, rồi dụ dự,

tính tới tính lui, trong lúc dùng thẵng ấy, làm cho nó bối rối, lại

nếu sự ham muốn quá lẽ của nó có hơi sấn sướt thì Thần-Lương-Tâm vẻ

cái cảnh trạng sẽ tới cho nó, hoặc phải bị bắt, giải đilối nầy, chổ

nọ, hoặc bị tù, người hành hà thân nó, làm cho nó bỏ vợ con nó đói

khát, chừng ấy nó hoảng hốt mà xuất hạng. Ấy là đấng Tạo-hóa rầy quở

nó. Cũng có nhiều khi nó vưng theo lời ThẦn-Lương-Tâm mà bỏ qua, không

làm việc sái ấy.

          Còn nếu nó tính sước mà làm, là bởi tánh chất tà vạy, tuy

thần lươngtâm chỉ dẫn cho nó biết là sái, mà vì nó muốn quá rồi làm

bậy, chớ vẫn trong lòng sợ sệt luôn, vì bị rầy hoài cho đến cùng. Tỷ

như khi nó đương hành động cái sái ấy, thì Thần-Lương-Tâm hằng nhắc

chừng từ cái quấy của nó đương hành động, làm cho nó hồi hộp, cho đến

khi nó đem đồ gian ấy về dọc đường gặp người hoặc thoạt nghe nhánh cây

rớt, thì cũng làm cho nó dựt mình mà hoảng hốt, lúc bán đồ cũng vậy,

thậm chí cho đến nó thấy món nào, là đồ nó trộm của người còn trước

mắt nó, chẳng khác chi nó còn bày đồ gian trướcmắt Thần-Lương-tâm, thì

nó cũng bị quở mà bức rức hoài.

         Ấy vậy mọi việc chi trong thế gian nầy, đều có ảnh hưởng theo

đo& cả, chẳng kể là việc nhỏ hay lớn. Ðây là một điều ứng chứng của

mỗi người hằng thấy; việc nào của ta làm phải làm, thì Thần-Lương-Tâm

khen, mà làm cho ta vui lòng hớn hở, còn đều chi của ta làm sái,

ThẦn-Lương-Tâm quở rầy, lại làm cho trong lòng ta xốn xan là như thế.

         Trong Ðại-Ðạo Tam-Kỳ thờ "Thiên-Nhãn" là chủ ý đó; mà cu'ng

nơi đo& là nguồn cội của "Ðạo" tất là một điều huyền bí sâu xa, để cho

bậc nhơn phàm kiếm hiểu mỗi tứ riêng, tùy theo sự học thức cao thấp,

hầu răn lấy mình mà giữ cho trọn phận. Huống chi trước Chúa Giáng

Sanh; miền Âu-Châu cũng có thờ con Mắt, gọi là "L'oeil du Maitre" lại

có những sách vở của nhiều bậc Hiền-Triết xưa luận về Thiên-NHãn, còn

để lại ràng ràng mà anh không để ý tiềm biết.

 CHUNG