Nhân Loại Vào Thời Đại Phổ Độ

 

Nơi mặt tiền Ṭa Thánh Tây Ninh, trên nóc Phi Tưởng Đài, chúng ta thấy tượng Đức Di-Lạc Vương Phật ngự Ṭa sen đặt trên lưng một con cọp vàng, có ư nghĩa là :  Con cọp tượng trưng năm Dần, đó là năm Bính Dần (1926), Đức Chí Tôn khởi khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức là Đạo Cao Đài, để giáo hóa nhơn sanh tu hành trong buổi đời Mạt kiếp, và Đức Chí Tôn giao cho Đức Di-Lạc Vương Phật làm Chánh Chủ Khảo chấm thi đậu rớt, mà môn thi là : Công Đức (Công quả và Đạo đức).  " Thầy đến độ rỗi các con là thành lập một Trường Công đức cho các con nên đạo." (TNHT. I. 27)  " V́ vậy Thầy hằng nói cùng các con rằng : Một Trường thi Công quả. Các con muốn đến đặng nơi Cực Lạc Thế Giới th́ phải đi tại cửa nầy mà thôi." (TNHT. I. 34) Tất cả mọi người đều phải vào Trường thi. Người nào lập được nhiều công đức th́ được Đức Di-Lạc Vương Phật chấm đậu, phong thưởng vào các phẩm vị Thần Thánh Tiên Phật tương xứng với công đức của mỗi người, được rước về cơi Thiêng liêng Hằng sống và tham dự Đại Hội Long Hoa.  Người nào thiếu công đức th́ bị đánh rớt, phải ở lại cơi trần học hỏi thêm để tiến hóa và sẽ tham dự vào một Hội thi mới sau nầy.  Cho nên tượng h́nh Đức Di-Lạc Vương Phật ngự trên lưng cọp có ư nghĩa là kể từ năm Bính Dần (1926), là thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Phật Di-Lạc được Đức Chí Tôn giao trọn quyền phong thưởng Vạn linh và điều hành toàn bộ sự Tiến hóa trong Càn khôn Thế giới.

Nơi Bửu điện trước Bát Quái Đài, bên trên có tấm diềm, trên đó có đắp h́nh các Đấng Giáo chủ Tam giáo và Ngũ Chi Đại Đạo, tượng Tam Trấn Oai Nghiêm, kể ra : 

Hàng ngang bên trên : Đức Lăo Tử, Giáo chủ Tiên giáo; Đức Phật Thích Ca, Giáo chủ Phật giáo; Đức Khổng Tử, Giáo chủ Nho giáo.

- Hàng ngang kế dưới là Tam Trấn Oai Nghiêm : Đức Quan Âm Bồ Tát, Đức Lư Thái Bạch, Đức Quan Thánh Đế Quân.  Hàng thẳng đứng ở giữa, từ trên xuống dưới : Đức Phật Thích Ca, Đức Lư Thái Bạch, Đức Chúa Jésus (Gia Tô Giáo chủ), Đức Khương Thượng Tử Nha (Giáo chủ Thần đạo).  Sau đây là Tiểu sử các Đấng Giáo chủ vừa kể trên :

Di-Lạc Vương Phật Giáo chủ Hội Long HoaDi-Lạc, Phật giáo gọi là Di-Lặc, do phiên âm từ tiếng Phạn : Maitreya, dịch Hán văn là Từ Thị. Từ Thị nghĩa là : Ḍng lành, ḍng Phật, v́ Phật lấy Từ Bi làm gốc.  Vậy Di-Lạc là Từ Thị. Thuở xa xưa lâu đời, Ngài Từ Thị gặp Phật, liền phát tâm tu hành, chứng phép Từ Thị Tam Muội. Từ ấy đến nay, Ngài lấy chữ Từ làm họ của ḿnh.  Vương Phật là Phật vua, tức là vị Phật thay mặt Đức Chí Tôn làm vua cai trị Càn khôn Thế giới và Vạn linh trong thời Tam Kỳ Phổ Độ.  Di-Lạc Vương Phật là vị Phật tương lai, giáng sanh xuống cơi trần vào thời Tam Kỳ Phổ Độ, đắc đạo tại cội cây Long Hoa, làm Giáo chủ Đại Hội Long Hoa, thay mặt Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế mà làm vua cai trị Càn khôn Thế giới và Vạn linh.  Trong Kinh Thiên Đạo của Đạo Cao Đài, Đức Phật Thích Ca giáng cơ ban cho 2 Bài Kinh : Kinh Đại Tường và Di-Lạc Chơn Kinh, nhờ đó chúng ta biết được nhiệm vụ và quyền hành của Đức Di-Lạc Vương Phật.  Khi Ngài làm nhiệm vụ cai quản Càn khôn Thế giới th́ gọi Ngài là Đức Di-Lạc Vương Phật; nhưng khi Ngài làm nhiệm vụ cứu độ chúng sanh (năng cứu khổ ách, năng cứu tam tai, năng cứu tật bịnh, năng độ dẫn chúng sanh thoát chư nghiệt chướng) th́ gọi Ngài là Di-Lạc Vương Bồ Tát. Theo lời thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp trong Con đường Thiêng liêng Hằng sống : Tam Kỳ Phổ Độ nầy, Đức A-Di-Đà Phật giao quyền lại cho Đức Di-LạcVương Phật chưởng quản Cực Lạc Thế Giới, nên Đức Di-Lạc Vương Phật hiện nay ngự tại cửa Kim Tự Tháp, dưới tàn cây dương tối cổ ở Kinh đô Cực Lạc Thế Giới, c̣n Đức A-Di-Đà Phật vào ngự trong Lôi Âm Tự và Đức Phật Thích Ca ngự tại Kim Sa Đại điện trong Kim Tự Tháp.  Kim Tự Tháp tại Kinh đô Cưc Lạc Thế Giới có h́nh giống như Kim Tự Tháp bên Ai Cập, nhưng ḿnh nó lại tṛn, có nhiều từng, nhiều nấc, có rất nhiều chư Phật ngự trên đó, mỗi vị có liên đài riêng.

Bài Di-Lạc Chơn Kinh cho biết Đức Di-Lạc Vương Phật cai quản 2 từng Trời : Hỗn Nguơn Thiên và Hội Nguơn Thiên, là 2 từng thứ 12 và thứ 11, nằm kế bên trên Hư Vô Thiên, và bên dưới Hư Vô Thiên là Cửu Trùng Thiên.  Bài Kinh Đại Tường cho biết Đức Di-Lạc Vương Phật sẽ giáng sanh xuống trần vào thời Tam Kỳ Phổ Độ, có nhiệm vụ thực hiện các điều sau đây do Đức Chí Tôn giao phó :

- 1. Tái sanh sửa đổi Chơn truyền và Thâu các đạo hữu h́nh làm một : Đức Phật Di-Lạc sẽ giáng sanh xuống cơi trần để sửa đổi và chỉnh đốn các giáo lư chơn truyền của các Đấng Giáo chủ thời Nhị Kỳ Phổ Độ để lại, đă bị người đời canh cải sai lạc rất nhiều, đồng thời gom tất cả tín ngưỡng tôn giáo trên hoàn cầu thống nhứt lại làm một mối, để có một tín ngưỡng chung, cùng nh́n nhận Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu là hai Đấng Cha Mẹ chung thiêng liêng của toàn nhơn loại.

2. Khai cơ Tận độ, Cửu tuyền diệt vong : Đức Di-Lạc Vương Phật mở ra một cơ quan Tận độ chúng sanh, đóng cửa Địa ngục, giải phóng các tội hồn, cho đi đầu thai trả quả và lo tu hành để được cứu vớt trong sự Đại Ân Xá của Đức Chí Tôn.

3. Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị và Trường thi Tiên, Phật, duợt kiếp khiên : Đức Di-Lạc Vương Phật làm Chánh Chủ Khảo Trường thi công đức, tuyển lựa các ngôi vị Thần Thánh Tiên Phật để đưa vào tham dự Đại Hội Long Hoa do Ngài làm Giáo chủ. 

- 4. Tạo đời cải dữ ra hiền, Bảo sanh nắm giữ diệu huyền Chí Tôn : Đức Di-Lạc Vương Phật thay mặt Chí Tôn để tạo lập lại đời Thượng Nguơn Thánh đức, dân chúng hiền lương tôn thờ đạo đức, sống ḥa b́nh trong một xă hội đại đồng trong giềng bảo sanh của Thượng Đế.  Đức Di-Lạc Vương Phật có nhiều lần hóa sanh xuống cơi trần để giáo hóa và cứu độ nhơn sanh ở nước Ấn Độ và nước Trung Hoa. Phật giáo sử Trung Hoa c̣n ghi lại 3 lần hóa thân của Ngài là :

- Vào đời nhà Tùy, Ngài hóa thân là Tăng Can.

- Vào đời Ngũ Đại, Ngài là Bố Đại Ḥa Thượng.

- Vào đời Lục Triều, Ngài hóa thân là Phó Đại Sĩ.

Trong 3 lần hóa thân, nổi tiếng nhứt là Bố Đại Ḥa Thượng. Dân chúng vẽ h́nh, đúc tượng theo h́nh ảnh của Bố Đại Ḥa Thượng, có vóc dáng như Ông Địa, miệng cười toe toét, chung quanh có 6 đứa con nít đang chọc ghẹo.  Sau đây, xin kể lại 2 sự tích : Tăng Can và Bố Đại Ḥa Thượng.

I. TĂNG CAN.

Vào đời nhà Tùy bên Tàu, có một Ông sư gọi là Tăng Can, cất một cái am bên cạnh chùa Quốc Thanh để ở. Không ai biết gốc tích của Ông sư nầy ở đâu, chỉ biết Ông lúc Ông đến cất am. Ông thỉnh thoảng đi thuyết giáo nơi nầy nơi nọ. Có nhiều lúc Ông cỡi cọp đi về am khiến chúng tăng trong chùa Quốc Thanh hoảng sợ.

Có lần Ông ôm về một đứa bé gởi nuôi trong chùa Quốc Thanh đặt tên là Thập Đắc. Thỉnh thoảng có một Ông ăn mặc rách rưới từ trong núi tuyết đi ra, tên gọi Hàn Sơn, cũng đến ở chùa.

Hàn Sơn và Thập Đắc được người trong chùa xem như hai gă ăn mày. Khi chúng tăng ăn cơm xong th́ 2 người mới ăn những thức ăn c̣n thừa lại. Khi ngủ th́ chỉ được ngủ ngoài hành lang. Có lúc cao hứng thấy 2 người làm thơ, nhưng những bài thơ đó đọc lên không ai hiểu được ư nghĩa.

Một hôm, sau cơm trưa, chúng tăng đi nghỉ hết, hai người đi vào chỗ thờ, một người th́ leo lên ngồi trên cổ Đức Văn Thù Bồ Tát, c̣n người kia th́ leo lên ngồi trên vai Đức Phổ Hiền Bồ Tát. Một vị tăng t́nh cờ đi vào Chánh điện phát hiện ra việc nầy, vội chạy đi báo cho Ḥa Thượng trụ tŕ biết và chư tăng đến lôi 2 người xuống, quở mắng đủ điều về tội bất kính.

Lúc đó Ông Tăng Can đă tịch. Quan Huyện sở tại mắc một chứng bịnh nan y, Ông nằm chiêm bao thấy Ông Tăng Can hiện đến, tự xưng là Phật Di-Lạc, bảo quan Huyên muốn hết bịnh th́ hăy đến đảnh lễ Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát, xin 2 vị đó ban cho Ông phương thuốc trị dứt bịnh, mà muốn đảnh lễ 2 vị Bồ Tát đó th́ phải vào chùa Quốc Thanh, hỏi 2 người tên là Hàn Sơn và Thập Đắc, v́ đó là Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát hóa thân.

Sáng ngày, quan Huyện liền đi đến chùa Quốc Thanh như lời báo mộng, đ̣i gặp 2 vị Hàn Sơn và Thập Đắc. Ḥa Thượng trụ tŕ và chúng tăng trong chùa rất ngạc nhiên, không biết tại sao quan Huyện lại có vẻ kỉnh trọng 2 người ăn mày đó thế. Ḥa Thượng buộc ḷng gọi 2 người ấy ra. Hai vị liền nắm tay đi ra. Vừa thấy 2 vị, quan Huyện qú mọp xuống lạy.

Hai vị Hàn Sơn và Thập Đắc đồng cười nói :

- Cái Lăo Tăng Can bày đặt làm cho ta bại lộ rồi.

Nói rồi, 2 vị cỏng nhau chạy tuốt vô rừng mất dạng.

Quan Huyện mới thuật lại điềm chiêm bao của Ông cho vị Ḥa Thượng và chúng tăng trong chùa nghe, mới biết : Tăng Can là Đức Di-Lạc Bồ Tát hóa thân, c̣n 2 vị Hàn Sơn và Thập Đắc là Văn Thù và Phổ Hiền Bồ Tát hóa thân.

II. BỐ ĐẠI H̉A THƯỢNG.

Bố Đại Ḥa Thượng là một vị sư trọng tuổi có mang một túi vải lớn. (Bố Đại là cái túi vải lớn). Không ai biết tên tuổi và gốc gác của Ông, chỉ thấy Ông luôn luôn mang một cái túi vải lớn bên ḿnh nên đặt ra gọi như vậy.

Ai cho ǵ, Ông cũng bỏ vào cái túi vải đó, đến chỗ gặp con nít đông th́ Ông dừng lại, lấy tất cả đồ trong túi vải ra, rồi bày tṛ chơi vui đùa với lũ trẻ.

Ông có thân h́nh khác người thế tục, trán nhăn, mặt tṛn, bụng lớn, mập mạp, luôn luôn mặc áo phạch ngực, miệng lúc nào cũng cười vui.

Ông thường trú tại chùa Nhạc Lâm, huyện Phong Hóa, tỉnh Châu Minh.

Mỗi khi đi đường, Ông luôn luôn mang theo cái túi vải lớn và một cây tích trượng, không bao giờ rời xa 2 vật ấy. Lại c̣n có 18 đứa con nít nhỏ thường đeo đuổi bên Ông để chọc ghẹo mà Ông vẫn cười hề hề, không phiền trách chi cả, đứa th́ móc lỗ mũi, đứa dùi lỗ tai, đứa chọc vô rún, đứa móc miệng, đứa bịn mắt, vv. . . Mười tám đứa con nít đó là Lục căn, Lục trần, Lục thức, ở trong tịnh trí của Ông mà hiện ra do thần thông quảng đại của Ông. Nhưng người đời sau họa h́nh hay làm tượng Đức Phật Di-Lạc, họ bớt lại chỉ c̣n 6 đứa con nít, tượng trưng Lục căn, bởi v́ chính Lục căn làm cho con người vọng động phải bị ch́m đắm trong ṿng luân hồi sanh tử, mà cũng chính Lục căn làm cho con người đắc đạo Vô Thượng Bồ Đề.

Thời đó là đời Ngũ Đại sau đời nhà Đường, nước Tàu chia làm 5 nước : Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu, kéo dài từ năm 907 đến năm 960.

Thiền Tông bấy giờ rất mạnh. Một hôm, có một vị Thiền sư phái Thảo đường hỏi Bố Đại Ḥa Thượng :

- Đại ư Phật pháp là thế nào ?

Bố Đại Ḥa Thượng đang quảy cái bị trên vai, Ngài liền để xuống rồi đứng yên.

Thiền sư hỏi tiếp :

- Chỉ có thế thôi hay có con đường tiến lên chăng ?

Ngài lại xách túi vải mang lên vai rồi đi.

Hai cử chỉ ấy là 2 câu trả lời của Ngài. Ngài để cái bị xuống là ư nói buông tất cả, xả bỏ tất cả, đừng chấp cái ǵ hết kể cả Phật pháp. Buông tất cả rồi đứng yên là để tâm thanh tịnh, rồi quảy bị lên vai và đi là tự tại, là ung dung của bực thoát trần.

Khi Bố Đại Ḥa Thượng ở xứ Mân Trung th́ có một cư sĩ họ Trần thấy Ngài làm nhiều việc thần kỳ, nên đăi Ngài rất trọng. Lúc Ngài gần từ giă Ông Trần để đi qua xứ Lưỡng Chiết th́ Ông cư sĩ muốn rơ tên họ của Ngài, bèn hỏi rằng :

- Thưa Ḥa Thượng, xin cho tôi biết họ của Ngài, sanh năm nào và xuất gia đă bao lâu rồi ?

Ngài bèn đáp rằng :

- Ta tỏ thiệt cho ngươi rơ, ta chính họ Lư, sanh ngày mùng 8 tháng 2. Ta chỉ biểu hiệu cái túi vải nầy để độ đời đó thôi. Vậy ngươi chớ tiết lộ cho ai biết.

Trần cư sĩ nghe vậy th́ thưa rằng :

- Ḥa Thượng đi đây, nếu có ai hỏi việc chi th́ xin Ngài trả lời làm sao cho hợp lư, chớ tùy thuận theo người th́ không khỏi bàng nhơn dị nghị tiếng thị phi.

Ngài liền đáp bằng bài k

ệ :

Ghét thương phải quấy biết bao là,

Xét nét lo lường giữ lấy ta.

Tâm để rổng thông thường nhịn nhục,

Bữa hằng thong thả phải tiêu ma.

Nếu người tri kỷ nên y phận,

Dẫu kẻ oan gia cũng cộng ḥa.

Miễn tấm ḷng nầy không quái ngại,

Tự nhiên chứng đặng lục ba la.

Trần cư sĩ lại hỏi :

- Bạch Ḥa Thượng, Ngài có pháp hiệu chi không?

Bố Đại Ḥa Thượng lại đáp bằng bài kệ :

Ta có cái túi vải,

Rổng rang không quái ngại,

Mở ra khắp mười phương.

Thâu vào quán tự tại. Trần cư sĩ lại hỏi tiếp :

- Ngài có đem hành lư ǵ theo không ?

Ngài liền đáp bằng một bài kệ nữa :

B́nh bát cơm ngàn nhà,

Thân chơi muôn dặm xa,

Mắt xanh xem người thế,

Mây trắng hỏi đường qua. .

Trần cư sĩ hỏi tiếp :

- Đệ tử rất ngu muội, biết làm sao cho đặng thấy tánh Phật ? Ngài đáp bằng bài kệ :

Phật tức tâm, tâm tức Phật,

Mười phương thế giới là linh vật,

Tung hoành diệu dụng biết bao nhiêu,

Cả thảy chẳng bằng tâm chơn thật. .

Trần cư sĩ nói :

- Ḥa Thượng đi lần nầy nên ở chùa, chớ nên ở nhà thế gian. Ngài lại đáp rằng :

Ta có nhà Tam bảo,

Trong vốn không sắc tướng,

Chẳng cao cũng chẳng đê,

Không ngăn và không chướng.

Học vẫn khó làm bằng,

Cầu th́ không thấy dạng,

Người trí biết rơ ràng,

Ngàn đời không tạo đặng,

Bốn môn bốn quả sanh,

Mười phương đều cúng dường. .

Trần cư sĩ nghe rồi th́ lấy làm lạ, liền đảnh lễ Ngài mà thưa rằng :

- Xin Ḥa Thượng ở nán lại một đêm mà dùng cơm chay với đệ tử đặng tỏ dấu đệ tử hết ḷng cung kính. Xin Ngài từ bi hạ cố.

Đêm ấy, Bố Đại Ḥa Thượng ngụ tại nhà Trần cư sĩ, đến khi đi th́ Ngài viết một bài kệ dán nơi cửa như vầy :

Ta có một thân Phật,

Có ai đặng tường tất,

Chẳng vẽ cũng chẳng tô,

Không chạm cũng không khắc,

Chẳng có chút đất bùn,

Không phai màu thể sắc,

Thợ vẽ vẽ không xong,

Kẻ trộm trộm chẳng mất.

Thể tướng vốn tự nhiên,

Thanh tịnh trong vặc vặc,

Tuy là có một thân,

Phân đến ngàn trăm ức. .

Khi Ngài đến quận Tứ Minh, Ngài thường ở nhà Ông Tưởng Tôn Bá. Ngài có khuyên Ông nầy nên tŕ niệm Câu chú : " Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật Đa". Ông Bá nghe lời, luôn luôn tŕ niệm Câu chú nầy, trong lúc ngồi hay nằm đều niệm, nên người ta gọi Tưởng Tôn Bá là Ma Ha Cư sĩ.

Có một bữa nọ, Ngài cùng Ma Ha Cư sĩ ra tắm ở khe nước Trường đ́nh. Khi Ngài đưa lưng cho Ma Ha cư sĩ kỳ cọ giùm th́ ông nầy thấy nơi lưng Ngài có 4 con mắt rực rỡ chói ḷa, lấy làm kinh dị vô cùng. Ông đảnh lễ Ngài và nói rằng :

- Ḥa Thượng là một vị Phật tái thế.

Ngài liền khoát tay bảo nhỏ rằng :

- Ngươi chớ tiết lậu. Ta với ngươi vốn có nhân duyên rất lớn, rồi đây ta sẽ từ biệt ngươi mà đi, chớ nên buồn rầu.

Khi trở lại nhà, Ngài hỏi Ma Ha cư sĩ :

- Ư ngươi muốn giàu sang không ?

Ma Ha cư sĩ thưa rằng :

- Vả chăng, sự giàu sang như mây nổi, như giấc chiêm bao, nên tôi nguyện cho con cháu đời đời được miên viễn mà thôi.

Ngài thọc tay vào túi vải lấy ra cái hộp, trong đó đựng cái túi nhỏ và một sợi dây, đưa tặng Ma Ha cư sĩ, nói rằng :

- Ta tặng ngươi mấy vật nầy mà từ biệt. Song ta căn dặn ngươi phải ǵn giữ kỹ lưỡng mà làm biểu tín những việc hậu vận của ngươi.

Ma Ha cư sĩ lănh mấy món ấy mà chẳng hiểu được ư ǵ. Cách vài bữa sau, Bố Đại Ḥa Thượng trở lại hỏi rằng :

- Nhà ngươi hiểu được ư ta không ?

Cư sĩ thưa rằng :

- Thưa Ngài, đệ tử thiệt chẳng rơ.

- Đó là ta muốn cho con cháu của ngươi ngày sau cũng như mấy vật ta tặng đó vậy. Cái hộp là thể thân xác của ngươi, cái túi nhỏ là cái tâm, sợi dây là ư để liên lạc với Phật về mặt vô h́nh. Ngươi đă hiểu giàu sang là mây nổi, kiếp sống là chiêm bao, vậy nên thành ư.

Nói rồi Ngài liền từ giă đi ngay.

Đến sau, quả nhiên con cháu của Ma Ha cư sĩ đều được vinh hoa phú quí, hưởng lộc nước đời đời.

Bố Đại Ḥa Thượng trở về chùa Nhạc Lâm. Đến ngày mùng 3 tháng 3, năm thứ 3 niên hiệu Trinh Minh, Ngài không bịnh chi cả, ngồi trên bàn thạch gần mái chùa Nhạc Lâm, làm một bài kệ :

Di-Lạc chơn Di-Lạc,

Phân thân thiên bách ức,

Thời thời thị thời nhơn,

Thời nhơn tự bất thức.

Nghĩa là :

Di-Lạc thật Di-Lạc,

Phân thân thành muôn ức,

Thường thường dạy người đời,

Người đời tự không biết.

Làm bài kệ xong th́ Ngài nhập diệt.

Nhắc lại, ở vùng nầy có Ông Trần đ́nh Trưởng, thấy Bố Đại Ḥa Thượng hay khôi hài mà không lo sự ǵ cả, nên mỗi lần gặp Ngài th́ hay buông lời diễu cợt, rồi giựt cái túi vải đem đốt. Hễ bữa nay đốt rồi th́ hôm sau lại thấy Ngài mang cái túi vải như cũ. Ông lại giựt và đem đốt nữa, th́ hôm sau vẫn thấy Ngài mang cái túi vải đó. Ông Trần lấy làm lạ nên đem ḷng kính phục và chẳng dám chế diễu nữa.

Nay thấy Ngài nhập diệt rồi, Ông Trần đ́nh Trưởng lo mua áo quan để tẫn liệm Ngài, cốt ư chuộc tội với Ngài, nhưng đến chừng khiêng quan tài đi chôn, người rất đông mà khiêng cái quan tài không nổi.

Trong bọn ấy có người họ Đồng, ngày thường vẫn tỏ ḷng tôn kính Ngài, khi thấy việc linh hiển như vậy liền vội vă đi mua cái áo quan khác mà đổi, liệm thi hài của Ngài vào áo quan mới. Khi khiêng đi chôn th́ cảm thấy nhẹ phơi phới. Ai nấy đều kinh sợ, và đem ḷng cung kính. Người trong quận lập hội lớn, lo xây tháp cho Ngài tại núi Phong sơn.  Các vị Tổ Sư Thiền Tông Phật giáo Trung Hoa chọn ngày Vía Đức Phật Di-Lạc vào ngày đầu năm, mùng 1 Tết Nguyên đán hằng năm với ư nghĩa là :

- H́nh ảnh phúc hậu và nụ cười cởi mở của Đức Phật sẽ đem đến niềm vui và hạnh phúc cho gia đ́nh suốt năm.

- Đức Phật Di-Lạc là vị Phật tương lai, vị Phật trong niềm hy vọng của mọi người để lập đời Thượng nguơn Thánh đức, mà ngày mùng 1 Tết là ngày hy vọng, là ngày chúc tụng lẫn nhau được mọi điều tốt đẹp và thành công.  Thời kỳ khởi đầu của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Phật Di-Lạc chưa giáng sanh xuống cơi trần, Ngài c̣n ở Cung Trời Đâu Suất. Ngài chỉ thỉnh thoảng giáng cơ để giáo hóa nhơn sanh.  Sau đây xin trích một bài Thánh giáo của Đức Di-Lạc Vương Phật giáng cơ trong Thánh giáo sưu tập :

THI :

DI -LẠC THIÊN TÔN giáng cơi trần,

Chào chư Thiên mạng, bực nguyên nhân.

Mừng chung thiện tín hàng tâm đạo,

Để nghiệm lời đây đạo đức phân.

Nầy chư môn đồ ! Đương giữa lúc thế trần đau khổ, ách nước nạn dân, chư môn đồ đă là những thành phần giác ngộ, t́m Đạo học Đạo để tu thân và đem Đạo d́u dẫn người đời. Đó là chư môn đồ làm đúng theo ḷng Thượng Đế.

Cơi đời là tạm bợ, hăy nương vào đây để lập công bồi đức, chớ đừng xem đây là cơi thiệt vĩnh cửu trường tồn, rồi đắm say trần lụy, quên mất căn xưa, không ngày trở lại ngôi xưa vị cũ.

Một xă hội loài người muốn hưởng cảnh đất Thuấn Trời Nghiêu, thái b́nh thạnh trị, cần phải có đa số con người lương thiện để xây dựng xă hội đó.

Chư môn đồ ngày nay đang dấn thân vào nghiệp duyên trần cấu, chịu sự trả quả chung của dân tộc, đừng bi quan, đừng thối chí, hăy nươn cảnh ấy mà tu thân hành thiện, tự giải thoát cho ḿnh và giúp người khác cùng giải thoát.

Hằng ngày, Bần đạo thấy đa số nhơn sanh bá tánh đến trước Chánh điện lễ bái kỉnh thành, hiến dâng lễ vật, nghĩ thiệt là tội nghiệp. Thương thay cho ḷng mê muội của nhơn sanh c̣n quá nặng ! Có mấy ai thấy được mặt Di-Lạc Thiên Tôn bao giờ chưa ? Bần đạo chắc là chưa ai thấy, chỉ có lời truyền tụng hoặc huấn dụ xuyên qua đàn cơ cùng Thánh giáo.

Sự tạc tượng thờ đó là do ḷng kỉnh thành của nhơn sanh thiện tín để cụ thể tướng và thể hiện ḷng kỉnh thờ đối với bậc trọn lành đem Đạo cứu đời.

Thương hại cho người đời c̣n lầm tưởng rằng : Đem lễ vật hiến dâng lễ bái để cầu xin một việc tư riêng sẽ được Bần đạo hộ tŕ giúp đỡ ! . . . . .

- Sự lễ bái, cúng lạy, qú mọp, ngoài ư nghĩa trịnh trọng thi lễ với Phật Trời, lại c̣n có ư nghĩa câu thúc thân ḿnh trong sự khó khăn để trừ bớt nghiệp thân.

- Tịnh khẩu hoặc niệm Phật, tụng kinh để trừ bớt nghiệp khẩu.

- Nhắm mắt tham thiền hoặc ngó ngay vào tượng Phật hoặc ngọn nhang, ngọn đèn để trừ bớt nghiệp nhăn.

- Tham thiền định ư, khép chặt không cho tư tưởng suy nghĩ vẩn vơ phóng túng để trừ bớt nghiệp ư.

- Thiền định, khôn

g chấp nhận mọi tiếng động vào tai để trừ bớt nghiệp nhĩ.

Tóm lại, tất cả những điều ấy là những phương pháp trợ người tu hành được yên ổn trả dứt nghiệp cũ, không gây nghiệp mới và tạo thêm âm chất để làm vốn liếng sản nghiệp vô h́nh cho kiếp lai sanh hoặc cho bên kia thế giới.  Người tu hành nhờ rất nhiều phương pháp để trợ duyên, đừng quá chú trọng những h́nh thức đó tưởng là để Trời Phật thương rồi cho thành Chánh quả !  Mặc áo đạo để được nghiêm chỉnh, không nói, không dám làm điều trái đạo, làm cho thân thể ḿnh mất mỹ thuật như thí phát, áo bă nâu ṣng, chơn không đi dép, đó là ngăn chận sự quyến rũ của tha nhân mà quấy rầy, không được an thân hành Đạo, ăn chay ăn lạt cho nhiều để thể hiện ḷng bác ái hy sinh : Bác ái với loài vật, không nỡ giết chúng để nuôi ḿnh sống, hy sinh sự thèm thuồng rượu ngon thịt béo để làm chủ được Thất t́nh Lục dục.  Đó là phương tiện cần kíp cho người tu và cũng đừng chú trọng đến đó là được thành Chánh quả.  Nói cho rơ hơn, ăn chay, niệm Phật. cúng lạy, hiến dâng, áo bă nâu ṣng, là những phương tiện, không lấy đó làm đề tài chính để thành Chánh quả. Nhưng muốn thành Chánh quả, phải có những phương tiện đó gắn bó bên ḿnh từ nội tâm đến ngoại thể.  Chư môn đồ ơi ! Kỳ nầy là kỳ Đại Ân Xá, ai tu hành cũng dễ đắc quả vị, mà cũng chính thời kỳ nầy là thời kỳ hoàng kim, khoa học tiến bước vượt bực. Những chủ thuyết hiện sinh đang tràn ngập thị trường sách báo, những vật chất xa hoa đua đ̣i thụ hưởng cũng dễ quyến rũ hấp dẫn. V́ vậy, cũng chính thời kỳ nầy là thời kỳ dễ sa đọa, làm tiêu tán bổn chơn linh, nguyên nhân khó trở lại.  Đa số môn đồ tín hữu đều có ḷng mong vọng ngày Long Hoa Đại Hội, Phật Vương ra đời cầm quyền thưởng phạt. Ư niệm đó cũng tốt, nhưng muốn được Phật Vương ban thưởng, ngay từ bây giờ, hăy làm những phương tiện, phương pháp hành đạo mà Bần đạo vừa dạy khuyên. Có làm đúng được, ví như làm bài trúng, sẽ thi đậu trong kỳ chung cuộc của Đại Hội Long Hoa.  C̣n điều quan trọng nữa sau đây : Tất cả những môn đồ tín hữu, hoặc con chiên của Trời, của Phật, của Chúa, vv& hăy v́ ḷng Đạo mà thương yêu đoàn kết, quây quần với nhau thành một khối vĩ đại để kết tụ khối tinh thần đạo đức vĩ đại, thường xuyên liên giao thân hữu, thăm viếng để trao đổi học hỏi đạo lư thuần chơn. Hễ đạo đức thắng th́ Ma Vương Tà mị thối. Ngược lại, nếu đạo đức c̣n chia rẽ là đạo đức thối, ắt Ma Vương Tà mị thắng.  Nhớ đạo đức nơi đây có nghĩa là thuần túy tôn giáo. Có thuần túy tôn giáo mới thuận ḷng Trời, hạp ḷng người, mới mong thế gian được đạo đức bảo tồn trong kỳ Hạ nguơn Mạt kiếp nầy. THĂNG. "  Trong những ngày Đại lễ Khai Đạo Cao Đài tại Thánh Thất tạm đặt tại Chùa Từ Lâm Tự G̣ Kén (Tây Ninh), có trưng bày đôi liễn do Đức Chí Tôn ban cho :  Di-Lạc thất bá thiên niên quảng khai Đại Đạo,  Thích Ca nhị thập ngũ thế chung lập Thiền môn. Nghĩa là : Đức Phật Di-Lạc, 700.000 năm, rộng mở nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ,  Đức Phật Thích Ca, 25 thế kỷ (2.500 năm), chấm dứt việc lập nền Phật giáo.

Phật Thích Ca Giáo chủ Phật giáo

Đức Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, gọi tắt là Đức Phật Thích Ca, thế danh Sĩ-Đạt-Ta (Siddattha) có nghĩa là người được toại nguyện, họ Cồ-Đàm (Gotama), sau đổi họ lại là Thích Ca (Sakya).  Ngài được sanh ra vào ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch, năm 623 trước Chúa Giáng sinh, tại vườn Lâm-Tỳ-Ni (Lumbini), ở thủ đô Ca-Tỳ-La-Vệ (Kapilavatthu) của một nước nhỏ thuộc miền Bắc Ấn Độ, gần biên giới xứ Népal ngày nay. (Về sau nầy, Đại Hội Phật giáo Thế giới đổi ngày giáng sanh của Đức Phật là ngày trăng tṛn 15-4-âm lịch, và bên Phật giáo làm Đại lễ Phật đản vào ngày 15-4-âl nầy.)  Ngài là vị Hoàng tử con của vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và Hoàng Hậu Ma-Da (Maha Maya). Sau khi hạ sanh Hoàng tử được 7 ngày, Hoàng Hậu Ma-Da từ trần, trở về Cung Tiên. Em Bà là Maha Pajapati cũng kết duyên với vua Tịnh Phạn, thay thế người chị ruột, nuôi dưỡng Hoàng tử Sĩ-Đạt-Ta khôn lớn.  Hoàng tử Sĩ-Đạt-Ta lớn lên, hưởng được sự giáo dục hoàn hảo của bực vua chúa, để sau nầy lên nối ngôi vua cha trị v́ đất nước. Thái tử lại là người thông minh xuất chúng, nên Ngài trở thành một người văn vơ toàn tài.  Khi lên 16 tuổi, theo phong tục thời bấy giờ, Thái tử kết duyên cùng Công chúa Da-Du-Đà-La (Yasodhara), một người em cô cậu cùng tuổi với Ngài.  Trong suốt 13 năm chung sống sau hôn lễ,

 Thái tử hoàn toàn sống cuộc đời vương giả, không hay biết chi các nỗi thống khổ của dân chúng ở bên ngoài cửa cung điện.

Một ngày đẹp Trời, Thái tử cùng quan hầu cận đi du ngoạn bên ngoài Hoàng cung để ngắm xem thế giới bên ngoài và có thể tiếp xúc với dân chúng.  - Ngài chứng kiến được những nỗi vất vả khổ cực của kiếp sống con người phải lo làm lụng t́m phương sanh sống. Chúng sanh cũng v́ sự sống mà tranh giành giết hại lẫn nhau.

- Một ngày khác, Thái tử c̣n chứng kiến được các cảnh khổ như : Già yếu, ốm đau, chết chóc biệt ly.

Vậy th́ đời sống của con người có chi là sung sướng ?  Ngài nghĩ rằng chỉ riêng phần Ngài là một Thái tử, sắp sửa lên ngôi vua trị v́ Thiên hạ th́ nghèo đói, Ngài không cần lo, nhưng c̣n già yếu, ốm đau, rồi chết th́ không ai tránh khỏi được. Ngài âm thầm lập chí t́m phương giải khổ cho nhơn sanh.  T́nh cờ, Ngài gặp được một tu sĩ ngoài cửa Hoàng thành, với dáng điệu rất ung dung, mặt mày thơ thới vô tư. Ngài đến gần vị tu sĩ ấy để hỏi chuyện, được biết vị tu sĩ ấy xuất gia đi tu học đạo, quyết trừ hết ác căn, lấy ḷng từ bi kềm chế dục vọng, hộ niệm cho chúng sanh không nhiễm theo thế tục, để trước là giải thoát cho chính ḿnh, sau là giải thoát cho chúng sanh.  Nghe vậy, Thái tử Sĩ-Đạt-Ta rất hoan hỷ và nhứt quyết sẽ làm như vị tu sĩ ấy. Vua Tịnh Phạn thấy Thái tử có ư muốn đi tu th́ nhà vua không bằng ḷng, t́m đủ mọi cách để ngăn cản Thái tử.

Giữa lúc ấy th́ Công chúa Gia-Du-Đà-La, vợ của Thái tử vừa sanh được một hoàng nam. Thái tử không cảm thấy vui mừng trước việc nầy, mà lại than rằng : "Lại thêm một sợi dây trói buộc."  Do đó, vua Tịnh Phạn đặt tên cho cháu nội là : Ra-Hầu-La (Rahula, tiếng Phạn có nghĩa là Trở ngại).

Ngày mùng 7 tháng 2, năm Thái tử được 29 tuổi, trong lúc vợ con và quan binh trong Hoàng thành ngủ mê sau một buổi tiệc tùng ca xướng tưng bừng, Thái tử gọi quan hầu cận là Xa-Nặc (Chana) thắng ngựa Kiền trắc (Kanthaka) để Thái tử trốn khỏi Hoàng cung, đi vào rừng núi thanh vắng, t́m thầy học đạo tu hành.  Nhờ ngựa Kiền trắc chạy rất mau, nên đêm đó, nó đưa Thái tử vượt Hoàng cung, đến một nơi cách kinh đô rất xa. Thái tử tự ḿnh cắt tóc, gỡ gươm trao cho Xa-Nặc, bảo đem về tŕnh với phụ vương, rồi đưa ngựa Kiền trắc cho Xa-Nặc cỡi trở về triều.  Thái tử cổi áo Thái tử đổi lấy áo thâm của một người thợ săn, rồi đi vào núi tu hành.  Vua Tịnh Phạn sai các quan Đại Thần đi t́m Thái tử, khuyên nhủ Thái tử trở về triều, nhưng không thể lay chuyển được ư chí kiên quyết của Thái tử.  Thái tử t́m đến một Đạo sĩ lỗi lạc, tên là Alarama Kalama để xin thọ giáo. Ngài học hết giáo pháp của Alarama, nhưng cảm thấy chưa toại nguyện. Ngài xin từ giă và t́m đến một Đạo sĩ trứ danh khác là Uddaka Ramaputta để xin học Đạo. Ngài cũng học hết giáo pháp của Uddaka, nhưng vẫn chưa thấy được mục tiêu cứu cánh.  Ngài nhận thấy rằng không ai có thể dẫn dắt Ngài đến thành tựu v́ những vị mà Ngài đă học vẫn c̣n nhiều vướng mắc, chưa thoát khỏi vô minh.

Từ đó Thái tử không t́m thầy học đạo nữa, mà tự ḿnh đến chỗ thanh vắng để tự suy nghĩ t́m ṭi chơn lư.  Ngài gặp được nhóm 5 tu sĩ mà Ông Kiều Trần Như đứng đầu theo ủng hộ Ngài để Ngài thực hành một lối tu vô cùng khổ hạnh. Sau 6 năm tu khổ hạnh như thế, thân ḿnh của Ngài chỉ c̣n da bọc xương, hơi thở yếu ớt, gần như cái chết sắp đến với Ngài, mà Ngài vẫn chưa đạt được cứu cánh.  Bỗng nhiên có một Ông tiều đến gần chỗ Ngài đang thiền định, mang theo một cây đàn, lên dây đàn, đàn một khúc rất hay, đến lúc hay nhất th́ dây đàn bỗng đứt, tiếng đàn im bặt. Ông tiều nối lại dây đàn, lên dây cho đúng, rồi lại đàn, đàn đến khúc hay nhất th́ dây đàn lại đứt. Đứt rồi lại nối, nối rồi lên dây trở lại và đàn. Làm 3 hiệp như vậy.  Thái tử đang tŕ định phải bực bội tỉnh hồn than rằng :  - Ông đàn th́ hay mà lên dây chi cho cao quá, đến khúc hay th́ dây đứt, cái hay ấy phải hết mùi, rất đáng tiếc.  Ông tiều liền đáp rằng :  - Cái đàn của tôi cũng như cái tu của Ngài. Dây đàn tôi lên cao quá, nên đến chỗ hay th́ đứt th́ cái hay của tiếng đàn chẳng hữu ích chút nào; c̣n cái tu của Ngài, nếu cái cao siêu huyền bí đạt được cơ bất diệt đi nữa th́ nó cũng phải chết theo Ngài, c̣n chi hữu ích cho đời. Tôi cũng lấy làm tiếc vậy.  Lăo tiều nói xong, liền xách đàn đi mất. (Trong Kinh cho rằng Ông tiều ấy là một vị Phật hóa thân đến cảnh tỉnh Thái tử).  Thái tử suy nghĩ măi lời nói của Ông tiều, liền tỉnh giác, biết ḿnh lầm theo lối tu khổ hạnh, làm suy giảm trí thức và mệt mỏi tinh thần.  Ngài liền dứt khoát từ bỏ lối tu khổ hạnh, cũng như 6 năm trước đây, Ngài đă dứt khoát từ bỏ đời sống lợi dưỡng.

Ngài lại nhớ đến ngày lễ Hạ điền của vua cha trước kia, trong lúc mọi người đang lo làm lễ th́ Ngài đến dưới bóng mát của cây trâm, ngồi thiền định và đắc được Sơ Thiền. Ngài nhớ lại và thấy rơ rằng, đó chính mới là con đường dẫn đến giác ngộ. Đó là con đường tu, không sống theo lợi dưỡng, mà cũng không quá khắc khổ, gọi là Trung đạo.  Ngài nhứt định từ bỏ lối tu khổ hạnh. Ngài mệt nhọc lần bước đến bờ sông Ni-Liên-Thiền, xuống tắm rửa sạch sẽ, rồi đi lên, và kiệt sức ngă vào một cội cây bất tỉnh.  May mắn lúc đó có một thiện nữ bưng một bát sữa bột t́m đến cúng dường, thấy một Ông đạo đang nằm thoi thóp tại gốc cây, nàng liền đỡ dậy, rồi dâng bát sữa. Thái tử thọ lănh, uống hết, rồi Ngài định tỉnh trở lại, thấy sức khỏe dần dần được phục hồi, tinh thần bắt đầu sảng khoái.  Ngài cảm ơn nàng thiện nữ (nàng tên là Suyata), rồi Ngài t́m đến một gốc cây Bồ đề to lớn, cành lá sum suê, trăi cỏ làm nệm, ngồi tham thiền, phát đại thệ rằng : "Nếu không thành đạo th́ nhứt định không rời khỏi chỗ ngồi nầy". Trải qua 49 ngày đêm thiền định, Ngài liền ngộ đạo, biết được nguyên nhân sanh tử của con người, t́m được con đường giải thoát chúng sanh thoát ṿng luân hổi khổ năo. Ngài đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lúc đó, Thái tử được 35 tuổi, lấy hiệu là : Thích Ca Mâu Ni.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chưa quyết định truyền bá giáo pháp của Ngài, v́ Ngài nghĩ rằng : Như Lai đă khó khăn lắm mới chứng ngộ được giáo pháp ấy. Người đời c̣n mang nặng tham ái sân hận, không thể hiểu được, v́ giáo pháp ấy đi ngược ḍng tham ái, giáo pháp rất thâm diệu, khó mà nhận thức được.  Đấng Thượng Đế lo ngại Đức Phật Thích Ca không chịu đem giáo pháp của Ngài truyền dạy cho nhơn sanh, nên truyền lịnh cho vị Phạm Thiên Vương đến yêu cầu Phật truyền bá giáo pháp cứu độ chúng sanh.

Đức Phật Thích Ca nhận lời và tuyên bố : " Cửa vô sanh bất diệt đă mở cho chúng sanh. Hăy để ai có tai muốn nghe đặt trọn niềm tin tưởng."

Trong lúc đó th́ nhóm Ông Kiều Trần Như 5 người thấy Thái tử bỏ lối tu khổ hạnh ép xác, ăn uống trở lại, cho là Thái tử trở về lối sống lợi dưỡng, th́ 5 vị ấy thất vọng, từ bỏ Thái tử, không ủng hộ Ngài nữa, và họ đi đến vườn Lộc giả.  Đức Phật Thích Ca thầm nghĩ, cũng tội nghiệp cho 5 Ông nầy, v́ đă theo ủng hộ Phật trong một

 thời gian dài, gần 6 năm. Nay Ngài đă đắc đạo Vô thượng Bồ đề, Ngài cũng nên đến độ 5 Ông nầy trước tiên.

Đức Phật vận thần thông để t́m xem nhóm 5 Ông nầy đang ở đâu, th́ biết 5 Ông đang ở vườn Lộc giả xứ Bénarès.  Đức Phật liền đi đến đó. Nhóm 5 Ông định không đảnh lễ Ngài v́ cho rằng Ngài đă qui phàm, nhưng khi Đức Phật đến gần, với vẻ oai nghi đầy từ bi, khiến 5 Đạo sĩ đổi thái độ, ra đảnh lễ Đức Phật.  Đức Phật Thích Ca thuyết cho 5 Ông nghe Giáo pháp Tứ Diệu Đế. Đây là bài pháp đầu tiên mà Đức Phật thuyết cho 5 vị được nghe, cả 5 vị liền giác ngộ, đắc quả A-La-Hán, trở thành 5 đệ tử đầu tiên của Đức Phật. Nhóm 5 vị nầy có tên lần lượt là : Kiều Trần Như, A-Xá-Bà-Thệ, Ma-Ha-Bạt-Đề, Ma-Ha-Câu-Lợi, Thập-Lực-Ca-Diếp.  Đây là lần đầu tiên, Đức Phật chuyển diệu pháp luân, nói pháp Tứ Diệu Đế, giáo pháp căn bản của Phật giáo.  Bắt đầu từ đây có đủ Tam Bảo Phật giáo : Đức Phật Thích Ca là Phật Bảo, giáo pháp Tứ diệu Đế là Pháp Bảo, 5 vị Tỳ Kheo đệ tử đầu tiên của Phật là Tăng Bảo. Ấy là ngôi Tam Bảo đầu tiên của thế gian.

Đức Phật Thích Ca cùng 5 vị Tỳ Kheo đi khắp nơi thuyết pháp, độ được hằng vạn đệ tử xuất gia, đủ các hạng người trong tất cả giai cấp ở Ấn Độ, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, quan dân, hay vua chúa.  Những sự kiện quan trọng trong công cuộc hoằng hóa của Đức Phật là :  - Độ được 3 anh em Ca-Diếp-Ba đang tu theo đạo thờ Thần lửa. Ba Ông nầy có 1000 đệ tử, cùng qui y theo Phật.  - Độ được 2 Ông Xá-Lợi-Phất và Mục-Kiều-Liên, nguyên là 2 học giả của phái Lục sư ngoại đạo.  - Độ được Quốc vương Tần-Bà-Sa-La của nước Ma-Kiệt-Đà. Quốc vương đă kính tin Phật pháp, lại khuyến khích dân chúng qui y Phật pháp. Nhà vua cho xây dựng Tịnh Xá rộng răi trong nội thành để thỉnh Phật và chư tăng thuyết pháp thường xuyên.  - Độ được vị Phú Trưởng giả Cấp-Cô-Độc. Ông nầy kiến lập một ṭa Tịnh Xá cao rộng tôn nghiêm, gọi là Kỳ-Thọ Cấp-Cô-Độc Viên, để Đức Phật và chư Tăng giảng đạo.  - Độ được Phụ vương của Phật là vua Tịnh Phạn và quyến thuộc của Đức Phật.  Đức Phật Thích Ca chọn ra được 10 vị đại đệ tử xuất sắc nhất của Phật giáo, kể tên ra sau đây :

1. Xá Lợi Phất

2. Mục Kiều Liên

3. Đại Ca Diếp

4. 4. A Nan

5. A Na Luật

6. 6. Phú Lâu Na

7. Tu Bồ Đề

8. 8. Ưu Ba Ly

9. Ca Chiên Chiên

10. La Hầu La.

 

Đức Phật lập Giáo Hội Tỳ Kheo Ni :

Sau khi vua Tịnh Phạn qua đời, Hoàng Hậu Maha Pajapati (là mẹ nuôi, mà cũng là d́ ruột của Đức Phật) cầu xin Đức Phật cho hàng phụ nữ được xuất gia tu hành. Đức Phật liền từ chối ngay mà không cho biết lư do.  Bà Maha Pajapati đă 3 lần khẩn cầu như thế, nhưng Đức Phật đều từ chối.  Ông Ananda, cũng 3 lần dùng hết cách để cầu xin Đức Phật cho phụ nữ xuất gia, nhứt là đối với Bà mẹ nuôi của Đức Phật, nhưng Đức Phật vẫn cương quyết từ chối. Đến lần thứ 4, Đức Phật mới chấp thuận. Lư do từ chối của Đức Phật là :  " Trong Luật Tạng có ghi mấy lời của Đức Phật như vầy : Nền Chánh pháp của Ta, đáng lẽ trụ thế 1000 năm hoặc lâu hơn nữa, nhưng trót v́ Ta đă cho hàng phụ nữ xuất gia, nên nền Chánh pháp bị giảm bớt, chỉ trụ thế 500 năm mà thôi." (Trích trong Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung C̣n, trang 376, quyển 1 : Chánh Pháp).  Theo đó th́ chúng ta thấy rằng, nếu chấp thuận cho hàng phụ nữ xuất gia học Phật tu hành, lập Giáo Hội Tỳ Kheo Ni th́ Chánh pháp của Phật sớm bị sửa cải, chỉ kéo dài được 500 năm mà thôi, thay v́ được 1000 năm nếu không thâu nhận phụ nữ xuất gia.  Nhưng trước sự quyết tâm chân thành của Bà mẹ nuôi, với ḷng từ bi bác ái của Phật, Đức Phật không nỡ bỏ Nữ phái mà không lập Giáo Hội Tỳ Kheo Ni, mặc dầu biết rằng việc nầy làm cho thời kỳ Chánh pháp của Phật giảm đi một nửa, chỉ kéo dài 500 năm.  " Khi Đức Phật cho thành lập Giáo Hội Tỳ Kheo Ni, Ngài đă tiên đoán những hậu quả và lưu ư :  Nầy Ananda, nếu Nữ giới không được chấp thuận thoát ly thế tục để khép ḿnh vào nếp sống không nhà cửa trong khuôn khổ của Giáo pháp và Giới luật mà Như Lai đă công bố th́ đời sống xuất gia và Giáo pháp cao siêu sẽ tồn tại lâu dài. Nhưng Nữ giới đă được phép sống đời không nhà cửa th́ đời sống xuất gia và Giáo pháp cao siêu chỉ tồn tại phân nửa thời gian. " (Trích Đức Phật và Phật Pháp, của Đại Đức Narada, trang 152).  Sau khi Đức Phật lập Giáo Hội Tỳ Kheo Ni, Bà Maha Pajapati tu đắc quả A-La-Hán, được liệt vào hàng cao hạ có nhiều kinh nghiệm nhứt, không thua bên Nam phái.  Công Chúa Da-Du-Đà-La (vợ của Thái tử Sĩ-Đạt-Ta) cũng xuất gia tu hành, đắc quả A-La-Hán. Trong hàng Tỳ Kheo, Bà Da-Du-Đà-La đứng đầu những vị đắc Đại Thần Thông, và Bà nhập diệt lúc 78 tuổi.

Đức Phật đi khắp nơi trong miền Bắc Ấn Độ thuyết pháp được 45 năm mới nhập Niết Bàn, hưởng thọ 80 tuổi.

Trong Hội Linh Sơn trước đây, Đức Phật chọn Ma-Ha Ca-Diếp tức là Đại Ca-Diếp làm người kế vị cho Ngài điều khiển Giáo Hội. Hôm đó, Đức Phật cầm cành hoa sen đưa lên cao và im lặng. Cả hội chúng đều ngơ ngác không hiểu, chỉ có Ma-Ha Ca-Diếp đắc ư mĩm cười (gọi là Đức Phật niêm hoa, Ca-Diếp vi tiếu).  Đức Phật bảo Ma-Ha Ca-Diếp : " Ta có Chánh Pháp Nhăn Tạng, Niết Bàn Diệu Tâm, Pháp môn mầu nhiệm, chẳng lập văn tự, ngoài giáo lư truyền riêng, nay Ta giao phó cho ngươi. Ngươi khéo ǵn giữ Chánh pháp nầy, truyền măi đừng cho dứt, đến sau truyền lại cho A-Nan."  Rồi Đức Phật nói kệ :

Pháp bổn pháp vô pháp,

Pháp vô pháp diệc pháp,

Kim phó vô pháp thời,

Pháp pháp hà tằng pháp

Nghĩa là :

Pháp gốc pháp không pháp,

Pháp không pháp cũng pháp,

Nay khi trao không pháp,

Mỗi pháp đâu từng pháp.

Khi nghe tin Đức Phật nhập Niết Bàn, Ngài Ma-Ha Ca-Diếp từ núi Kỳ-Xà-Quật liền đến thành Câu-Thi-Na làm lễ hỏa táng thi hài Đức Phật, lấy Xá lợi của Phật chia làm 8 phần phân phát cho 8 nơi, kiến tạo đài tháp phụng thờ :

1. Câu-Thi-Na

2. Pa-Bà

3. Giá-La

4. La-Ma-Già

5. Ca-Tỳ-La-Vệ

6. Tỳ-Lưu-Đề

7. Tỳ-Xá-Ly

8. Ma-Kiệt-Đà.

Đức Phật Thích Ca trong Đạo Cao Đài :Đức Phật Thích Ca là Giáo chủ Phật giáo thời Nhị Kỳ Phổ Độ. Đạo Phật từ đó truyền đến nay được hơn 2500 năm.  Ngày nay thuộc Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế mở Đạo Cao Đài. Lúc ban sơ, Đức Phật Thích Ca có giáng cơ dạy đạo như sau :

Ngày 8 tháng 4năm Bính Dần (1926).

THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Chuyển Phật Đạo,

Chuyển Phật Pháp,

Chuyển Phật Tăng,

Qui nguyên Đại Đạo.

Tri hồ chư chúng sanh ?

Khánh hỷ ! Khánh hỷ ! Hội đắc Tam Kỳ Phổ Độ : Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, đại hỷ phát đại tiếu !

Ngă vô lự Tam đồ chi khổ. Khả tùng giáo Ngọc Đế viết Cao Đài Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. " (TNHT. I. 14)

Bài giáng cơ bằng chữ Nho trên của Đức Phật Thích Ca, diễn Nôm ra sau đây : Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chuyển Phật đạo, Phật pháp, Phật tăng, qui nguyên Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Chư chúng sanh có biết chăng ?

Vui mừng ! Vui mừng ! Được hội vào Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ : Chư Thần Thánh Tiên Phật quá mừng nên phát ra tiếng cười lớn.

Ta không c̣n lo lắng về 3 đường luân hồi khổ sở. Khá tùng theo lời dạy bảo của Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, gọi là Đấng Cao Đài Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Đức Phật Thích Ca có giáng cơ ban cho 2 Bài kinh rất quan trọng là : Kinh Đại Tường và Di-Lạc Chơn Kinh. Hai Bài kinh nầy cho chúng ta biết, Đức Phật Thích Ca đă giao quyền giáo hóa lại cho Đức Phật Di-Lạc trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, nên Đức Phật Thích Ca vào ngự nơi Kim Sa Đại điện trong Lôi Âm Tự, và Đức Phật Di-Lạc ngự tại Kim Tự Tháp ở Kinh đô Cực Lạc Thế Giới nơi cơi thiêng liêng. C̣n Đức Phật A-Di-Đà, trước đây là Giáo chủ CLTG, nay cũng giao quyền lại cho Đức Phật Di-Lạc, và Ngài cũng vào ngự nơi Lôi Âm Tự. (Vào Lôi Âm kiến A-Di). Hằng năm, vào ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch, tại Ṭa Thánh Tây Ninh cũng như tại các Thánh Thất địa phương, đều có thiết Đại Lễ cúng Vía Đức Phật Thích Ca, có Chức sắc thuyết đạo nhắc lại tiểu sử và công

Đức của Ngài

Lăo Tử  Giáo chủ Tiên giáo

Đức Lăo Tử là chơn linh của Đức Thái Thượng Đạo Tổ giáng trần vào thời nhà Thương bên Tàu.  Đức Thái Thượng Đạo Tổ, c̣n gọi là Đức Thái Thượng Đạo Quân, là Đấng do khí Tiên Thiên hóa sanh thuở chưa tạo Thiên lập Địa.

Tiên Thiên Khí hóa,

Thái Thượng Đạo Quân.

(Kinh Tiên giáo)

Đức Thái Thượng Đạo Tổ là Ông Thủy Tổ của Đạo Tiên. Ngài có pháp lực vô biên, biến hóa vô cùng, khi hiện xuống cơi trần để độ những người có duyên phần, khi trở về cơi Thượng Thiên.

Theo sách Tam Hoàng Thiên Kinh, Đức Thái Thượng hiện xuống cơi trần rất nhiều lần, kể ra sau đây :

" Vào thời Thái cổ nước Tàu :

- Đời Thiên Hoàng Thị, Ngài là Bàn Cổ.

- Đời Địa Hoàng Thị, Ngài là Vạn Pháp Thiên Sư.

- Đời Nhơn Hoàng Thị, Ngài là Đại Thanh Tử.

" Vào thời Thượng cổ, cũng ở nước Tàu :

- Đời vua Phục Hy, Ngài là Huất Hoa Tử.

- Đời vua Thần Nông, Ngài là Xích Tùng Tử.

- Đời vua Huỳnh Đế, Ngài là Quảng Thành Tử.

- Đời vua Thiếu Hạo, Ngài là Tùy Ưng Tử.

- Đời vua Chuyên Húc, Ngài là Xích Tinh Tử.

- Đời vua Nghiêu, Ngài là Vụ Thành Tử.

- Đời vua Thuấn, Ngài là Y Thọ Tử.

- Đời vua Hạ Vơ, Ngài là Chân Hành Tử.

- Đời vua Thành Thang, Ngài là Tích Tắc Tử.

Đến đời vua Vơ Đinh nhà Thương (1324 trước Tây lịch), Đức Thái Thượng Đạo Tổ mới giáng sanh xuống trần là Lăo Tử. Việc giáng sanh của Ngài rất huyền diệu phi thường.  Theo truyền thuyết kể lại, vào đời vua Bàn Canh nhà Thương (1461 trước Tây lịch), có một nàng con gái gọi là Ngọc Nữ vừa được 8 tuổi, con của một gia đ́nh đạo đức, ra chơi sau vườn, thấy trên cây lư có một trái chín thật ngon, cô liền hái ăn. Ăn xong, cô cảm thấy mỏi mệt và có thai.  Cha của Ngọc Nữ thấy sự lạ kỳ, liền toán quẻ Âm Dương, đoán biết có một vị Đại Tiên giáng trần trong bụng con gái của ḿnh, nên mừng rỡ và nuôi con gái rất kỹ.  Nàng Ngọc Nữ chịu mang thai như vậy măi cho đến già mà không đẻ. Đến năm Ngọc Nữ 80 tuổi, tức là đă mang thai ngót 72 năm, lúc đó đă qua 3 đời vua nhà Thương là : Vua Bàn Canh, vua Tiểu Tân, vua Tiểu Ất, và bắt đầu đời vua Vơ Đinh (1324 trước Tây lịch), Bà Ngọc Nữ thấy trăng tỏ, bèn đi dạo chơi nơi vườn. Khi đi ngang cội cây lư ngày xưa th́ đứa con từ trong bụng theo nách mẹ nhảy ra ngoài. Bà Ngọc Nữ giựt ḿnh kinh hăi, coi lại nách ḿnh liền lại như thường. Đứa con nhảy ra, đă ở trong bụng mẹ 72 năm nên đầu tóc bạc trắng, nên mới gọi là Lăo Tử (Con già). Lúc đó là giờ Sửu ngày 15 tháng 2 âm lịch năm Canh Th́n.  Lăo Tử chỉ cây Lư bảo rằng đó là họ của Ngài. Ngài xưng hiệu là Lăo Đam, tự là Bá Đương, lại mỗi bên tai có 3 lỗ nên c̣n gọi Ngài là Lư Nhĩ.  Ngài có miệng rộng, răng thưa, thiên đ́nh cao, râu tốt, mắt vắn, tai dài, sóng mũi cao lớn như chẻ hai, trên trán có đường nhăn như 3 chữ Tam Thiên.  Cội cây Lư, nơi giáng sanh của Đức Lăo Tử, ở tại xóm Khúc Nhơn, làng Lại, huyện Khổ, nước Sở, ngày nay thuộc tỉnh An Huy, tỉnh Hồ Nam.  Do đó, trong Kinh Tiên giáo có câu :

Nhị ngoạt thập ngũ,

Phân tánh giáng sanh.

Nghĩa là : Ngày 15 tháng 2,

Chiết chơn linh giáng sanh xuống cơi trần.

Đức Lăo Tử có giáng cơ cho biết năm giáng sanh của Ngài trong 4 câu thơ sau đây :

LƯ đào mầm tược tượng long lân,

LĂO luyện đơn thành nhị xác thân.

TỬ phủ ngồi tu lo nấu thuốc,

GIÁNG sanh Thương đợi Vơ Đinh quân.

Khoán thủ 4 chữ : Lư Lăo Tử giáng, và câu thơ chót có nghĩa là : Giáng sanh vào thời nhà Thương, đợi đến vua Vơ Đinh mới chào đời.  Hết thời nhà Thương, qua đến thời nhà Châu, đời vua Thành Vương (1115 trước Tây lịch), Lăo Tử có ra làm quan Trụ Hạ Sử tại Tàng Thư Viện nhà Châu để có cơ hội nghiên cứu Thái Cực Đồ. Ngài độ được Từ Giáp là người giữ Tàng Thư Viện, và sau đó, hai thầy tṛ từ chức để đi dạo các nước Thiên Trúc và Tây phương. Đến đời vua Châu Khương Vương, nối tiếp vua Thành Vương, Lăo Tử trở về, đặng 3 năm th́ Ngài lại đi giáo đạo miền Tây vức. Ngài ngồi xe trắng trâu xanh do Từ Giáp đánh xe, khi đến ải Hàm Cốc, quan Doăn giữ ải tên là Hỷ (nên thường gọi là Doăn Hỷ) coi Thiên văn biết có một vị Đại Thánh sắp đi qua ải, nên chuẩn bị mặc triều phục nghinh tiếp. Khi thấy Đức Lăo Tử tới, biết Ngài là Thánh nhân nên tôn Lăo Tử làm thầy, xin theo học đạo.  Nguyên Ông quan Doăn Hỷ nầy là chơn linh của Nguơn Thủy Thiên Tôn giáng trần. Khi Bà mẹ có nghén Ông th́ chiêm bao thấy một đoạn lụa đỏ từ Trời sa xuống vấn quanh ḿnh, sau sanh ra Doăn Hỷ th́ thấy sen mọc quanh nhà trổ bông. Ngài lớn lên, con mắt sáng như sao, râu dài, tướng tốt, có tài xem Thiên văn. Khi làm quan Doăn giữ ải Hàm cốc, Doăn Hỷ nh́n lên bầu Trời thấy một vầng mây tím bay ngang từ huớng Đông qua hướng Tây, Ngài biết đó là điềm có Thánh nhân sắp đi qua ải về hướng Tây, nên chuẩn bị chu đáo để nghinh tiếp. Do đó, trong Kinh Tiên giáo có câu :

Tử khí đông lai,

Quảng truyền Đạo đức./

Nghĩa là : Vầng khí mây màu tím từ hướng Đông bay tới,

Rộng truyền Kinh Đạo Đức.

Nhắc lại, khi Lăo Tử đến ải Hàm Cốc, thấy Doăn Hỷ có ḷng thành nên bằng ḷng ở lại ải ngót 3 tháng để dạy đạo cho Doăn Hỷ.  Khi thấy Đức Lăo Tử chuẩn bị ra đi th́ Doăn Hỷ bạch thầy xin cho biết danh tánh và t́nh nguyện đi theo thầy. Đức Lăo Tử đáp :  - Ta sanh ra đă nhiều đời, tên họ có biết bao nhiêu mà kể. Hiện thời, người đời gọi Ta là Lăo Tử. Ngươi có ḷng muốn theo Ta, song ngươi mới tu luyện c̣n non, chưa từng biến hóa thần thông, th́ theo Ta sao đặng. Ngươi cứ tu hành theo phép đă dạy cho lâu th́ sau nầy cũng được như Ta, đi đâu cũng đặng.  Nói rồi, Đức Lăo Tử truyền cho Doăn Hỷ quyển sách Đạo Đức Kinh gồm 5363 chữ, dặn rằng 

:  - Ngươi cứ theo sách nầy mà học, tu đúng phép 1000 ngày, rồi đi qua nước Thục, t́m Ta tại chợ Thanh Dương.  Nói xong, Đức Lăo Tử lên xe trắng trâu xanh, Từ Giáp đánh xe, hiện hào quang đi về hướng Tây mất dạng.  Doăn Hỷ ngó theo thầy, lạy tạ.  Sau đó, Doăn Hỷ cứ học theo Đạo Đức Kinh mà tu, lâu ngày trở nên thông huệ, tự viết ra được một cuốn sách gồm 36 bài gọi là Kinh Tây Thăng.  Gần đến kỳ ước hẹn với thầy, Doăn Hỷ sửa soạn đi qua nước Thục để t́m thầy y như lời thầy đă dặn. Khi đến nước Thục, Doăn Hỷ hỏi thăm chợ Thanh Dương ở đâu th́ không một ai biết cả.  Lúc ấy, Đức Lăo Tử đă trở lại Thiên Cung, rồi lại xuống trần đầu kiếp vào nhà họ Lư ở nước Thục, là nhà đạo đức hiền lương. Khi vợ họ Lư sanh được bé trai ít tháng th́ có một con dê xanh (Thanh dương) đến chơi giỡn với bé. Đó là Đức Lăo Tử dặn con Thanh dương ở Thiên cung hiện xuống. Ngày kia con dê xanh chạy đâu mất, cậu bé khóc hoài. Họ Lư phải sai đầy tớ đi khắp nơi t́m kiếm, bắt gặp dê xanh dẫn về, đi ngang qua một cái chợ.  Doăn Hỷ đang lúc hỏi thăm để t́m chợ Thanh dương, bỗng thấy có người dắt con dê xanh đi qua chợ, liền chợt nghĩ rằng chắc thầy ḿnh đang ở chỗ nầy. Nghĩ vậy, Doăn Hỷ liền chạy theo người dắt dê xanh hỏi : - Chú dắt con dê nầy đi đâu vậy ? Người ấy đáp :

- Chủ tôi có sanh một cậu trai, cách ít tháng có con dê nầy tới chơi với cậu nhỏ. Bữa kia nó đi mất, cậu nhỏ cứ khóc hoài. Chủ tôi sai tôi đi t́m kiếm mà dắt về. Doăn Hỷ đi theo người đầy tớ ấy đến nhà th́ bảo người đầy tớ :

- Chú vào thưa với cậu nhỏ là có Doăn Hỷ đến t́m. Anh đầy tớ cười thầm : Cậu nhỏ chưa giáp thôi nôi, biết chi mà thưa với gởi, nhưng anh ta cũng vào nói : - Có Doăn Hỷ đến t́m cậu.  Cậu bé nghe nói thế liền ngồi dậy đáp : - Doăn Hỷ y lời, không đến trễ.  Kế đó Doăn Hỷ bước vào. Bỗng thấy cậu bé vùng lớn lên như người thường, ngồi trên ṭa sen, hào quang sáng ḷa. Cả nhà đều kinh hăi. Người ấy nói: - Ta là Lăo Tử đầu thai một lần nữa.  Doăn Hỷ mừng rỡ, đến lạy thầy. Lăo Tử nói : - Khi trước, Ta chẳng dắt ngươi theo v́ sợ ngươi tu không bền chí. Nay ngươi đă tu luyện kỹ lưỡng, hào quang ẩn ẩn muốn ḷa. Nói rồi, Đức Lăo Tử niệm chú, truyền cho Thần Tiên xuống hầu, phong Doăn Hỷ phục chức Nguơn Thủy Chưởng giáo, cai trị 8 vạn Thần Tiên, lại truyền phép cho cả nhà họ Lư tu thành Tiên hết thảy. Về sau, đến đời vua Châu Kỉnh Vương, Đức Khổng Tử qua kinh đô nhà Châu học Lễ, nghe nói có Đức Lăo Tử tại đó, liền đến xin ra mắt và hỏi Đức Lăo Tử về Lễ. (Chuyện gặp gỡ nầy có chép trong sách Sử Kư của Tư Mă Thiên).  Đức Khổng Tử chủ trương theo các nghi lễ của các vua đời trước, nhưng Đức Lăo Tử bác bỏ ư kiến đó, nói rằng :  - Những người mà Ông nói đó đều tan xương nát thịt cả rồi, chỉ c̣n lời nói của họ mà thôi. Vả lại, người quân tử gặp thời th́ xe ngựa nghinh ngang, không gặp thời th́ tay vịn nón lá mà đi chơn không. Tôi nghe nói : Người buôn giỏi th́ biết giấu của báu, khiến người ta thấy dường như không có hàng; người quân tử có đức tốt th́ diện mạo thường như ngu si. Ông nên bỏ cái khí kiêu ngạo cùng cái ḷng ham muốn nhiều , cái vẻ hăm hở cùng cái khí tham lam đi, những thứ ấy đều không ích chi cho Ông. Tôi chỉ nói với Ông có thế thôi.  Đến khi Đức Khổng Tử cáo từ, Đức Lăo Tử tiễn Đức Khổng Tử ra cửa và nói :

- Tôi nghe nói : Người giàu sang lấy tiền bạc để tiễn nhau, người nhân đức dùng lời nói để tiễn nhau. Tôi không thể làm người giàu sang, nhưng trộm lấy tiếng là người nhân đức, xin có lời nầy tiễn Ông : Kẻ thông minh và sâu sắc là gần cái chết v́ họ khen chê người ta một cách đúng đắn; kẻ giỏi biện luận, đầu óc sâu rộng làm nguy hiểm đến thân ḿnh v́ họ nêu lên cái xấu của người khác. Kẻ làm con không có cách nào để giữ ḿnh, kẻ làm tôi cũng không có cách ǵ để giữ ḿnh. Ư của Đức Lăo Tử, khi nói ra các lời trên với Đức Khổng Tử, là Ngài chống lại sự thông minh, sự Trung và sự Hiếu, là những nguyên lư mà Đức Khổng Tử đang chủ trương, bởi v́ : Có trí khôn th́ dễ nguy, nếu cứ theo Trung và Hiếu th́ cứ hoàn toàn bị lệ thuộc vào vua và vào cha mẹ, khó ḷng được sống tự do tự tại, ung dung thơ thới. Đức Khổng Tử ra về, nói với các học tṛ :  - Con chim, ta biết nó bay; con cá ta biết nó lội, con thú ta biết nó chạy. Đối với loài chạy th́ ta có thể dùng lưới để săn, đối với loài lội th́ ta có thể dùng câu để bắt, đối với loài bay th́ ta có thể dùng cung tên mà bắn, đến như con rồng cỡi mây cỡi gió lên Trời, ta không sao biết được. Hôm nay, gặp được Lăo Tử, Ông ta có lẽ là con rồng chăng ?

Kể từ đó về sau, Đức Lăo Tử không đầu thai xuống trần nữa. Khi biết người nào có duyên phần th́ Ngài dùng thần thông hiện xuống cơi trần để dạy đạo cho người ấy tu luyên, rồi Ngài trở lại Cung Tiên.

Đến đời nhà Tấn, Đức Lăo Tử có hiện xuống xưng là Hà Thượng Công dạy An Kỳ học đạo.  Đến đời vua Hán Văn Đế, Đức Lăo Tử hiện xuống trần, xưng là Quảng Thành Tử. Hán Văn Đế rất mộ đạo, sai sứ đến rước về triều. Quảng Thành Tử nói : - Lẽ nào không đích thân tới rước mà lại sai sứ đến ?  Sứ giả về tâu lại, Hán Văn Đế đến gặp Quảng Thành Tử, nhà vua nói :  - Ở trong nước là bề tôi của vua, Thầy tuy có đạo mặc dầu, song cũng là dân của Trẫm, sao không chịu sụt lại một chút mà làm kiêu như vậy ? Hay là Trẫm không làm được họa phước cho thầy chăng ?  Quảng Thành Từ nghe vua nói như vậy, liền cất ḿnh bay lên cao độ 100 thước, ngồi trên thinh không, ngó xuống nói với vua Hán Văn Đế rằng :  - Nay, trên chẳng tới Trời, dưới chẳng tới Đất, Bệ hạ làm họa phước cho ta sao đặng.  Vua Hán Văn Đế biết lỗi, liền bước xuống xe làm lễ, xin thọ giáo. Quảng Thành Tử đưa cho nhà vua một cuốn kinh bảo cứ học theo đó mà tu luyện.  Qua đến đời vua Hán Thành Đế, Đức Lăo Tử lại hiện xuống tại suối Khúc Dương , truyền đạo cho Vu Kiết.  Đời vua Hán An Đế, Đức Lăo Tử truyền Kinh Tội Phước Tân Khoa cho Lưu Tiên.  Đời vua Hán Trinh Đế, Đức Lăo Tử hiện xuống truyền kinh Bắc Đẩu cho Trương thiên Sư.  Đời vua Hán Hoàn Đế, Đức Lăo Tử hiện xuống núi Thiên Thai truyền kinh Bác Động cho Vạn Niên Tiên sinh.  Đời vua Hán Linh Đế, Đức Lăo Tử hiện xuống truyền kinh cho Trương thiên Sư một lần nữa.  Qua đời nhà Đường, Đức Lăo Tử hiện xuống tại núi Dương Giác, truyền đạo cho Đường Công.  Đời vua Đường Cao Tổ, có người ở Phổ Châu, tên là Thiện Hành, đi ngang qua núi Dương Giác, gặp một Ông già mặc áo trắng, gọi đến nói rằng :  - Ngươi về tâu lại với Đường Thiên tử : Thái Thượng Lăo Quân là Ông nội.  Đường Cao Tổ hay tin, liền lập miếu thờ tại núi Dương Giác, và tôn Đức Lăo Tử là " Huyền Nguơn Hoàng Đế ".

Hồi thời nhà Châu, Đức Lăo Tử có hiện xuống truyền đạo cho Ông Lư Ngưng Dương, tu hành đắc đạo thành Tiên, hiệu là Lư Thiết Quày (thường gọi là Lư Thiết Quả), đứng đầu Bát Tiên. (Xem sự tích Bát Tiên trong Phần thứ 6).  Đức Thái Thượng Đạo Tổ có một kiếp giáng sanh xuống trần là Lăo Tử, nên Ngài cũng được gọi là Thái Thượng Lăo Quân.  Tóm lại, từ thời tạo dựng Trời Đất và có nhơn loại đến nay, không có thời nào mà Đức Thái Thượng Đạo Tổ không giáng trần để độ những người có căn lành tu hành đắc đạo.  Ngài do Khí Tiên Thiên hóa sanh, nên Ngài có pháp thuật vô biên, biến hóa vô cùng, khi hiện xuống cơi trần, khi trở về cơi Thượng Thiên, khi đầu thai xuống trần mang xác phàm để dễ truyền đạo và giáo hóa nhơn sanh.  Trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Thái Thượng Đạo Tổ không giáng sanh nữa, mà Ngài chỉ dùng huyền diệu cơ bút để giáng cơ dạy đạo. Ngài giao cho Đức Đại Tiên Trưởng Lư Thái Bạch thay mặt Ngài cầm quyền Tiên giáo.  Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, có một bài Thánh giáo rất hay của Ngài dạy Ông Bảo Văn Pháp Quân Cao quỳnh Diêu, Đạo hiệu Mỹ Ngọc, xin trích ra vài đoạn :

" Cơ Trời mầu nhiệm đối với Đời mà máy Thiên cơ đối với Đạo, lại c̣n huyền vi thậm trọng hơn nữa, có lẽ tâm phàm dầu cao kiến đến đâu cũng chưa đạt thấu được. Những vai tuồng của Chí Tôn sắp đặt trên sân khấu Đạo, nếu so sánh lại chẳng khác chi những bậc nguyên nhân lănh phận sự d́u đời từ xưa đến nay mà thôi.  Muốn an tâm tĩnh trí và đè nén lửa ḷng, cần phải có một nghị lực vô biên, một tâm trung quảng đại, th́ mới khỏi bực tức với những tṛ đă v́ mạng lịnh thiêng liêng phô diễn nơi thâm hiểm nặng nề nầy. . . . .

Cười . . . Trách nhậm là trách nhậm, muốn làm th́ dầu bao nhiêu cũng gọi là thiếu, dẫu ngày nào cũng gọi là chẳng sớm, sớm là sớm nơi cái tâm bất định mà thôi.  Chí Tôn đă v́ nỗi con cái của Ngài mà sửa chỉnh bước đường, th́ Hiền hữu lại há không v́ sự yêu đương quí hóa ấy mà sửa đổi tâm trí cho quảng đại sao ?  Tà Chánh, Cười . . . Bần đạo nói thiệt, cũng chưa dám định đoạt. Trong cái rủi thường có sự may, trong cái may vẫn khép cầm sự rủi, khó lường được. Điều cần là nên làm mà thôi.  Nếu luận Tà Chánh th́ chưa một ai dám, c̣n mang xác phàm, xưng tụng ḿnh là Chánh. Cái Tà, v́ Thiên thơ xử dụng, Tà v́ cơ thử thách của Tam Giáo Ṭa, Tà v́ những quỉ xác ma hồn lẫn lộn của Quỉ vương để làm cho công phu lỡ dở. Mỗi cái Tà có duyên cớ ấy, ngày sau đều có sự biến đổi thiêng liêng, hoặc có một kết quả.  Ngày chung qui chỉ đem về Thầy một chữ TÂM và những công nghiệp đă gây thành cho sanh chúng."(TNHT. II. 94)

Khổng Tử Giáo chủ Nho giáo

Đức Khổng Tử tên là Khâu, tự là Trọng Ni, sanh ngày 27 tháng 8 âm lịch năm Canh Tuất (551 trước Tây lịch), đời vua Châu Linh Vương năm thứ 21 nhà Châu, tương ứng với đời vua Lỗ Tương Công nămthứ 22, tại làng Xương B́nh, huyện Khúc Phụ, nước Lỗ, bây giờ là Tỉnh Sơn Đông nước Trung Hoa.  Đức Khổng Tử là ḍng dơi của Vi Tử Khải và Vi Tử Diễn, 2 người nầy là anh ruột của vua Trụ, con của vua Đế Ất nhà Thương (cũng c̣n gọi là nhà Ân).  Sau khi Châu Vơ Vương diệt vua Trụ, mở ra nhà Châu, Ông Châu Công Đán cho Vi Tử Khải làm vua nước Tống, gọi là Tống Công, để trông nom việc tế tự các vua nhà Thương. Vi Tử Khải mất, em là Vi Tử Diễn lên thay.  Cháu 13 đời của Vi Tử Diễn là Thúc Lương Ngột, làm quan Đại phu nước Lỗ, là thân phụ của Đức Khổng Tử.  Ngài lấy họ Khổng, bởi v́ Thúc Lương Ngột là ḍng dơi của Khổng Phùng Thúc, biệt lập ra họ Khổng kể từ Khổng Phụ Gia, sau 5 đời Công Khanh thế tập ở nước Tống.  Thúc Lương Ngột có người vợ cả họ Thi, sanh được 9 người con gái, một người vợ lẽ sanh được một con trai nhưng bị què một chân, tên là mạnh B́, tự là Bá Ni. Năm Thúc Lương Ngột 70 tuổi, sợ không có người kế tự, mới sai người đến nhà họ Nhan để cầu hôn. Họ Nhan có 5 người con gái đều chưa gả chồng, có ư chê Thúc Lương Ngột quá già, mới bảo với các con rằng :  - Các con có đứa nào thuận kết duyên với quan Đại phu ở Châu Ấp đó không?  Bốn người con gái lớn đều làm thinh, người con gái út là Trưng Tại đứng dậy thưa rằng :  - Phép làm con gái, khi c̣n ở nhà th́ theo lời cha, cha đặt đâu con xin ngồi đó.  Họ Nhan nghe con gái út nói thế th́ lấy làm lạ, liền gả Trưng Tại cho Thúc Lương Ngột.  Trưng Tại đă kết duyên với Thúc Lương Ngột rồi, vợ chồng lo về sự hiếm hoi không có con trai nối dơi, nên cùng nhau vào núi Ni Sơn cầu tự. Khi Trưng 

Tại trèo lên núi Ni sơn, bao nhiêu lá cây đều rung động lên cả. Khi làm lễ cầu tự xong, đi trở xuống th́ lá cây lại rủ xuống như cũ. Đêm hôm ấy, Trưng Tại nằm mộng thấy Thần Hắc Đế triệu đến mà bảo rằng :

- Sau nầy, nàng sẽ sanh con Thánh, nhưng khi nào lâm sản th́ nên vào ở trong hang núi Không Tang.

Đến khi nàng thức giấc tỉnh dậy th́ biết ḿnh có thai.  Một hôm khác, Trưng Tại mơ mơ màng màng như người chiêm bao, chợt thấy một Ông già đến đứng ở sân, tự xưng là Ngũ Tinh, dắt theo một con thú giống như con trâu con mà lại có một sừng, ḿnh có vằn. Con thú ấy trông thấy Trưng Tại th́ nằm phục xuống và nhả ra một cái ngọc xích, trên đó có thấy đề chữ : "Con nhà Thủy Tinh, nối đời Suy Châu mà làm vua không ngôi".

Trưng Tại biết là điềm lạ, liền lấy dải lụa buộc vào sừng con thú ấy. Khi tỉnh dậy, Trưng Tại thuật điềm chiêm bao ấy cho chồng nghe. Thúc Lương Ngột nói : - Con thú ấy là con kỳ lân.  Gần đến sản kỳ, Trưng Tại hỏi hang núi Không Tang ở đâu ? Thúc Lương Ngột nói :  - Núi Nam sơn có một cái hang đá, tục gọi là hang Không Tang.

Trưng Tại liền sửa soạn đến đó ở và sanh đẻ trong hang Không Tang đúng theo lời Thần nhân mách bảo. Đêm hôm sanh ra Khổng Tử, có 2 con rồng xanh từ trên Trời bay xuống nằm phục ở 2 bên sườn núi và có 2 vị Thần Nữ đem nước hương lộ đến gội đầu cho Trưng Tại. Gội xong th́ biến đi. Khi Trưng Tại lâm sản, bỗng thấy trong hang đá có một suối nước nóng chảy ra để cho Trưng Tại tắm. Tắm xong th́ suối cạn ngay.  Thúc Lương Ngột nói :  - V́ ta cầu tự nơi núi Ni sơn mà được đứa bé nầy, nên ta đặt tên cho nó là Khâu, tự là Trọng Ni. Trưng Tại biết đứa con nầy sẽ làm nên việc lớn, nên hết sức nuôi nấng và chăm sóc con.

Ông Khổng Tử có tướng lạ lắm : Môi như môi trâu, tay như tay hổ, vai như vai chim uyên, lưng rùa, miệng rộng, hầu lộ, trán phẳng và cao, khi lớn, ḿnh cao 9 thước 6 tấc (thước Tàu), có tánh ham học.  Năm Khổng Tử lên 3 tuổi th́ cha mất. Ngài sống với mẹ trong cảnh nhà nghèo. Khi lớn lên, mẹ cho đi học, Ngài chơi với trẻ hàng xóm, thích bày tṛ cúng tế. Năm 15 tuổi, lập chí học tập.  Năm 19 tuổi, Ngài cưới vợ, vợ của Ngài là con của họ Thượng Quan nước Tống.  Năm 20 tuổi, vợ Ngài sanh đặng một con trai. Hôm đó, Lỗ Chiêu Công sai đem đến ban cho Ngài một con cá chép (Lư ngư), nên nhân đó, Ngài đặt tên con là Lư tự là Bá Ngư, để tỏ ḷng tôn trọng vật của vua ban tặng. Về sau, Bá Ngư chết lúc 50 tuổi, chết trước Đức Khổng Tử. Con của Bá Ngư tên là Khổng Cấp, tự là Tử Tư, sau theo học với Tăng Sâm, rồi làm ra sách Trung Dung.

1. Đức tánh của Đức Khổng Tử :

Đức Khổng Tử là người rất thông minh, luôn luôn ham học. Bất cứ việc ǵ, Ngài cũng để ư xem xét rất kỹ lưỡng để biết cho cùng tận mới thôi.

Tánh Ngài ôn ḥa, nghiêm trang, khiêm tốn, làm việc ǵ cũng hết sức cẩn thận, đề cao lễ nhạc, luôn luôn tin vào Thiên mệnh.

2. Thời kỳ tham chánh và dạy học :

Năm 21 tuổi, Đức Khổng Tử được cử làm chức Ủy Lại, một chức quan nhỏ coi việc sổ sách của kho lúa, cùng là cân đo và gạt lúa. Sau đó, qua làm chức Tư Chức Lại, coi việc nuôi ḅ, dê, súc vật dùng trong việc tế tự.

Năm Ngài 25 tuổi th́ chịu tang mẹ.

Năm 29 tuổi, Ngài học đàn với Sư Tương, ở nước Lỗ.

Tuy làm chức quan nhỏ, nhưng Đức Khổng Tử đă nổi tiếng là người học rộng, biết nhiều, nên quan Đại phu nước Lỗ là Trọng Tôn Cồ, cho 2 người con trai là Hà Kỵ và Nam Cung Quát theo Ngài học Lễ.

Đức Khổng Tử muốn đến Lạc Dương, kinh đô nhà Châu, để nghiên cứu về nghi lễ, chế độ miếu đường, nhưng v́ nhà nghèo, không đủ tiền lộ phí, đành than thở mà thôi. Học tṛ Ngài là Nam Cung Quát nghe vây, liền về tâu với Lỗ Chiêu Công. Vua liền ban cho Ngài một cổ xe song mă và vài tên quân hầu cận để đưa Ngài và Nam Cung Quát đi Lạc Dương. Đến nơi, Đức Khổng Tử quan sát nhà Tôn miếu, nhà Minh đường, khảo cứu luật lệ và thư tịch đời cổ, đi xem Giao đàn là nơi nhà vua tế Thiên Địa và Tinh tú, rồi đến Xă đàn là nơi vua tế Thần Nông và Thần Hậu Thổ.

Nơi nào có quan hệ đến việc tế lễ th́ Ngài đến quan sát và hỏi han cho tường tận.

Ngài đến gặp Trành Hoành để hỏi về Nhạc.

Khi ở Lạc Dương, Đức Khổng Tử c̣n t́m đến gặp Đức Lăo Tử để hỏi về Lễ. (Xem trở lại Tiểu sử của Đức Lăo Tử để biết việc đối đáp của 2 vị Thánh nhân).

Đức Khổng Tử ở Lạc Dương khảo sát các việc xong th́ trở về nước Lỗ.

Từ đó, sự học của Ngài càng rộng hơn nhiều nên học tṛ xin theo học càng lúc càng đông. Nhưng vua Lỗ vẫn chưa dùng Ngài vào việc nước.

Được mấy năm, trong nước Lỗ, Quư B́nh Tử khởi loạn. Ngài theo Lỗ Chiêu Công tạm lánh sang nước Tề. Ở đây Ngài học được Nhạc thiều. Tề Cảnh Công mời Ngài tới để hỏi việc Chánh trị. Vua Tề rất khâm phục, muốn đem đất Ni Khê phong cho Ngài, nhưng quan Tướng Quốc nước Tề là Yến Anh ngăn cản không cho.

Năm sau, Ngài trở về nước Lỗ, thấy họ Quư dùng Dương Hổ để chuyên quyền, ư muốn tiếm đoạt. Ngài quay về quê lo việc dạy học, và nghiên cứu cho tường tận Đạo học của Thánh hiền. Lúc đó Ngài được 36 tuổi.

Đến năm thứ 9 đời vua Lỗ Định Công, Ngài được 51 tuổi, được vua Lỗ mời ra làm quan, phong cho chức Trung Đô Tể lo việc cai trị ở Ấp Trung Đô, tức là đất Kinh thành. Một năm sau, 4 phương lấy chính sự của Ngài làm khuôn mẫu.  Năm Lỗ Định Công thứ 10 (500 năm trước Tây lịch), Ngài pḥ vua Lỗ đi phó hội với Tề Cảnh Công ở Giáp Cốc. Nhờ tài ngôn luận và ứng đáp kịp thời, vua Tề rất khâm phục và trả lại cho nước Lỗ 3 khoảnh đất ở Quy Âm mà Tề đă chiếm của Lỗ từ mấy năm trước.  Qua năm sau, Đức Khổng Tử giữ chức Tư Không, rồi thăng lên Đại Tư Khấu (H́nh Bộ Thượng Thơ) coi việc h́nh án. Ngài đặt ra luật lệ để cứu giúp kẻ nghèo khổ, lập ra phép tắc, định việc tống táng, lớn nhỏ có trật tự, trai gái không lẫn lộn, gian phi trộm cắp không c̣n nữa, xă hội được an b́nh thạnh trị.  Sau 4 năm, Lỗ Định Công phong Ngài lên làm Nhiếp Tướng Sự (Tướng Quốc), coi việc Chánh trị trong nước. Ngài cầm quyền được 7 ngày th́ tâu với vua Lỗ xin giết gian thần Thiếu Chính Măo để chỉnh đốn quốc chính.

Đức Khổng Tử giết Thiếu Chính Măo :

Thiếu Chính Măo là một nịnh thần rất nguy hiểm dưới trào Lỗ Định Công. Bấy giờ, Đức Khổng Tử đang làm quan Tướng Quốc nước Lỗ. Quư Tôn Tư, một vị Đại Thần quyền thế trong triều, nhưng luôn luôn hỏi ư kiến của Đức Khổng Tử mỗi khi có một quyết định trong công việc trị nước. Nhưng phần Thiếu Chính Măo, khi Đức Khổng Tử nói ra câu ǵ th́ liền gièm pha khiến cho người nghe phân vân và đôi khi bị mê hoặc.

Đức Khổng Tử mật tâu với Lỗ Định Công :

- Nước Lỗ không cường thịnh lên được là v́ trung nịnh không phân biệt, thưởng phạt không nghiêm minh. Thí dụ như muốn trồng lúa tốt tất phải trừ bỏ cỏ xấu. Xin Chúa công cho đem các đồ phủ việt (dùng vào việc h́nh) trong nhà Thái miếu bày ra ở dưới Lưỡng quán để dùng vào việc h́nh.

Lỗ Định Công thuận cho.

Sáng hôm sau, Lỗ Định Công truyền cho các quan triều đ́nh hội nghị để bàn việc phá thành ấp xem lợi hại thế nào. Các quan người nói nên phá, người nói không nên phá.

Thiếu Chính Măo đón ư Đức Khổng Tử, nói rằng :

- Phá thành có 6 điều tiện :

1/. Để tôn trọng quyền vua không ai bằng.

2/. Để tôn trọng cái quyền thế Đô thành.

3/. Để ức quyền tư môn.

4/. Để khiến cho kẻ gia thần lộng quyền không chỗ nương cậy.

5/. Để yên ḷng 3 nhà : Mạnh, Thúc, Quư.

6/. Để khiến cho các nước nghe việc nước Lỗ ta làm mà phải kính phục.

Đức Khổng Tử tâu với Lỗ Định Công :

- Thành ấp nay đă thế cô c̣n làm ǵ được, huống chi Công Liễm Dương vẫn có ḷng trung với vua, sao dám bảo là lộng quyền. Thiếu Chính Măo dùng lời nói khéo để làm loạn chánh trị, khiến vua tôi ly gián, cứ theo phép th́ nên giết.

Các quan trong triều tâu :

- Thiếu Chính Măo là người danh giá ở nước Lỗ ta, dầu có nói lầm đi nữa cũng chưa đến tội chết.

Đức Khổng Tử lại tâu với Lỗ Định Công :

- Thiếu Chính Măo là người dối trá mà lại biện bác, làm cho người ta mê hoặc. Nếu không giết đi th́ việc chánh trị không thi hành nổi. Xin Chúa Công cho đem phủ việt ra để trị tội.

Đức Khổng Tử truyền cho lực sĩ trói Thiếu Chính Măo đem đến Lưỡng quán mà giết đi.

Các quan trong triều đều sợ hăi, xám xanh cả mặt. Ba nhà : Mạnh, Thúc Quư, trông thấy cũng đều kinh sợ.

Từ khi giết xong Thiếu Chính Măo, Lỗ Định Công và 3 nhà Mạnh, Thúc, Quư mới một ḷng nghe theo lời của Đức Khổng Tử. Nhờ vậy, Đức Khổng Tử chỉnh đốn kỷ cương trong nước, dạy dân những điều lễ, nghĩa, liêm, sĩ, nên dân không c̣n nhiễu loạn mà chánh trị mỗi ngày một hay.

Ba tháng sau, phong tục biến cải cả : Các nhà buôn gà và heo không dám nhồi cám để dối người mua; trong khi ra đường, trai gái đi phân biệt nhau, không hỗn loạn, thấy của rơi ngoài đường th́ không ai lượm, người nước khác du lịch đến nước Lỗ được tiếp đăi tử tế, không để cho thiếu thốn.

Dân nước Lỗ có làm một bài ca để tán tụng công đức của Khổng Tử. Bài ca ấy được truyền tụng sang nước Tề.

Tề Cảnh Công lo ngại nói rằng :

- Nước Lỗ biết dùng Khổng Khâu ắt nên nghiệp Bá, tất họa đến nước Tề, ta biết làm thế nào ?

Quan Đại Phu Lê Di tâu rằng :

- Chúa Công lo nước Lỗ biết dùng Khổng Khâu, sao không lập cách ngăn đi. Tề Cảnh Công nói :

- Nước Lỗ giao quyền chánh trị cho Khổng Khâu, ta dùng cách ǵ mà ngăn trở được ?

Lê Di tâu:

- Tính con người ta, hễ được cường thịnh tất sanh ḷng kiêu mạn. Xin Chúa Công lập một Bộ Nữ Nhạc mà đem dâng vua Lỗ. Vua Lỗ mà nhận Bộ Nữ Nhạc tất sanh lười biếng mà chán Khổng Khâu. Bấy giờ tất Khổng Khâu phải bỏ nước Lỗ mà đi, Chúa Công mới có thể ngồi yên được.

Quả vậy, Lỗ Định Công, không nghe lời can gián của Đức Khổng Tử, nhận Bộ Nữ Nhạc th́ mê say theo, bỏ bê việc triều chánh, có khi luôn 3 ngày không ra coi triều, mọi việc đều giao cả cho Họ Quí. Đức Khổng Tử can gián vua Lỗ nhiều lần nhưng không được, lại có thể bị hại v́ lời gièm siễm của bọn gian thần.

Do đó, trong ngày Lễ Tế Giao, vua Lỗ không nh́n đến, cũng không đem phần thịt tế biếu cho các quan Đại Phu. Đức Khổng Tử nhân việc lỗi nhỏ của vua Lỗ mà xin từ chức, bỏ nước Lỗ đi chu du các nước chư hầu.

3. Thời kỳ chu du các nước chư Hầu :

Đức Khổng Tử cùng các học tṛ đi qua các nước : Vệ, Khuông, Trần, Tống, Thái, Sở, để mong thuyết phục các vua chư Hầu chịu đem cái Đạo của Ngài ra ứng dụng để đem lại thái b́nh thạnh trị cho dân chúng. Nhưng cái Đạo của Ngài là Vương Đạo nên đi ngược ư đồ Bá Đạo của các vua chư Hầu và quyền lợi của các

quan Đại phu nên các vua chư Hầu đều không dám dùng Ngài.

Rốt cuộc, sau 14 năm đi chu du các nước không thành công, Ngài phải trở về nước Lỗ, có quan Đại Phu Quư Khang Tử sai Công Hoa ra đón Ngài.

Phu nhân của Đức Khổng Tử là bà Thượng Quan đă mất trước đó một năm, nhằm năm Lỗ Ai Công thứ 10.

4. Thời kỳ soạn sách và dạy học tṛ :

Khi trở về nước Lỗ, Đức Khổng Tử đă 68 tuổi. Ngài trở lại quê nhà để mở mang việc dạy học và soạn sách.

Tổng số môn đệ của Đức Khổng Tử có lúc lên tới 3000 người (Tam thiên đồ đệ), trong đó có 72 người được liệt vào hạng tài giỏi, nên gọi là Thất thập nhị Hiền. Đức Khổng Tử san định lại các kinh sách của Thánh Hiền đời trước như : Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Dịch.

Ngài ghi chú các lời nói của Thánh Hiền đời trước, xếp đặt lại cho có thứ tự, chú thích những chỗ khó hiểu, nhất là với Kinh Dịch, Ngài chú giải rất kỹ.

Sau đó, Đức Khổng Tử viết ra sách Xuân Thu, chép những việc của nước Lỗ và của nhà Châu (Chu) liên hệ với các nước chư Hầu từ đời Lỗ Ân Công nguyên niên (721 trước Tây lịch) đến đời Lỗ Ai Công thứ 14 (481 trước Tây lịch), tổng cộng là 242 năm.

Xem h́nh thể bề ngoài th́ sách Xuân Thu chỉ là một cuốn sử biên niên, lời lẽ vắn tắt, lắm chỗ h́nh như không có ư nghĩa ǵ cả, nhưng xét rơ đến tinh thần th́ thật là một bộ sách triết lư về chánh trị.

Mạnh Tử là người đă hiểu rơ nghĩa của Kinh Xuân Thu, nói : " Kinh Thi hết, nhiên hậu Kinh Xuân Thu mới làm ra. Việc ở trong sách Xuân Thu là việc Hoàn Công nước Tề, Văn Công nước Tống, văn trong sách là văn sử, nghĩa th́ Đức Khổng Tử nói rằng : Khâu nầy trộm lấy đó vậy. Nghĩa là Ngài lấy truyện ở trong các sách nước Tấn, nước Sở, nước Tề, nước Lỗ mà biểu thị cái ư nghĩa của Ngài muốn bày tỏ ra. Thời Xuân Thu lúc bấy giờ, xă hội nước Tàu loạn lạc, vua các nước chư Hầu làm nhiều điều bạo ngược và ai cũng muốn lấn quyền Thiên Tử nhà Châu. Ngài không muốn để sự phê b́nh phán đoán của Ngài động chạm đến những người quyền thế đương thời, vả lại cái học sâu xa của Ngài là cái học Tâm truyền, nên Ngài mượn lối văn viết sử , nói việc đă qua để ngụ cái vi ư của Ngài."

Sách Trang Tử cũng có nói ở thiên Thiên Hạ rằng : " Xuân Thu dĩ Đạo danh phận" : Sách Xuân Thu nói về cái đạo Danh và Phận.

Vậy, ư kiến của các nhà hiền triết đời Chiến quốc, th́ sách Xuân Thu là sách để Tâm truyền cái đại nghĩa Danh và Phận, về đường Luân lư và Chánh trị, chớ không phải là sách chép sử như người ta thường hiểu lầm.

Sách Xuân Thu có 3 chủ nghĩa là : - Chính danh tự. - Định danh phận. - Ngụ bao biếm.

Chủ ư của Đức Khổng Tử là tôn nhà Châu, dẫu đời bấy giờ, các nước chư Hầu có khi không muốn biết đến nhà Châu nữa, nhưng Ngài vẫn chép ngay đầu sách là : "Xuân Vương Chánh nguyệt", nghĩa là : Mùa Xuân, tháng Giêng vua nhà Châu, để tỏ cái ư vẫn nhận nhà Châu làm chủ Thiên hạ.

Đức Khổng Tử là bậc Chí Nhân Chí Thánh, nhưng Ngài vẫn khiêm tốn không dám nhận ḿnh là Thánh nhân.

Đối với các môn đệ, Ngài rất dễ dăi. Hễ ai theo đúng lễ đến xin học th́ Ngài không bao giờ từ chối. Ngài thâu nhận học tṛ, không kể giàu nghèo, con quan hay con dân. Ngài mở ra một nền giáo dục b́nh dân đại chúng, đào tạo được một lớp người trí thức mới, tài giỏi và có đức hạnh trong giới b́nh dân.

Sự giáo hóa của Ngài chủ yếu là làm sao cho sáng tỏ cái đức sáng của người, chớ không gom vào trong sự truyền thụ kiến thức. Đây là một phương pháp giáo dục rất hay để khai mở cái Tâm của con người vậy.

5. Đức Khổng Tử tạ thế :

Mùa Xuân năm Lỗ Ai Công thứ 14 (481 trước Tây lịch), người nước Lỗ đi săn bắt được một con kỳ lân què một chân bên trái phía trước. Đức Khổng Tử đến xem rồi bưng mặt khóc. Khi trở về, Ngài than rằng : " Ngô đạo cùng hỹ ! (Đạo của ta đến lúc cùng !).

Sách Xuân Thu chép đến chuyện nầy th́ hết, nên đời sau c̣n gọi sách Xuân Thu là Lân Kinh.

Năm Nhâm Tuất đời Lỗ Ai Công thứ 17 (479 trước Tây lịch), một hôm Đức Khổng Tử chống gậy đi tản bộ trước nhà, vừa đi vừa hát : Thái sơn kỳ đồi hồ ! Lương mộc kỳ hoại hồ ! Triết nhân kỳ nuy hồ ! (Núi Thái sơn đổ ư ! Cây gỗ tốt hư hoại ư ! Triết nhân ṃn mỏi ư !)

Học tṛ của Ngài là Tử Cống liền đến hỏi thăm Ngài. Ngài nói : " Ta biết ḿnh sắp chết."

Đến ngày Kỷ Sửu, tức là ngày 18 tháng 2 năm Nhâm Tuất, Đức Khổng Tử tạ thế, hưởng thọ 73 tuổi.

Mộ của Ngài ở bên bờ sông Tứ Thủy, phía Bắc thành nước Lỗ, nay gọi là Khổng Lâm, thuộc huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông.

Ba ngàn đồ đệ của Ngài đều thương tiếc và than khóc, nguyện để tang Thầy 3 năm. Có hơn 100 môn đệ làm nhà chung quanh phần mộ để lo phụng tự trong 3 năm, riêng Tử Cống ở đó hết 6 năm mới thôi.

Chu vi đất quanh mộ của Đức Khổng Tử rộng chừng 100 mẫu mà không hề có cây gai và cỏ may mọc. Học tṛ bảo nhau đi t́m các thứ hoa thơm cỏ lạ ở các nơi đem về trồng khắp chung quanh.

6. Các triều đại phong tặng Đức Khổng Tử :

- Năm 739, vua Đường Huyền Tôn phong tặng Đức Khổng Tử là Văn Tuyên Vương, mặc phẩm phục Hoàng đế, tặng cho các đệ tử các tước : Công, Hầu, Bá.

- Năm 1008, vua Tống Chân Tông phong Ngài là : Đại Thánh Văn Tuyên Vương, phong cho thân phụ Ngài là Lỗ Công, phong cho thân mẫu Ngài là Lỗ Phu Nhân, vợ là Bà Thượng Quan Thị làm Vân Phu Nhân, và ra lịnh cho các tỉnh lập miếu thờ Ngài.

- Năm 1306, vua Minh Thế Tông phong tặng Ngài là Chí Thánh Tiên Sư .

- Năm 1645, vua Thanh Thế Tổ phong là Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương Thánh Sư Khổng Phu Tử.

7. Văn miếu :

Văn miếu hay Văn Thánh miếu là ṭa nhà dựng lên để làm Đền thờ Đức Khổng Tử và các môn đệ của Ngài cùng với các Tiên hiền, Tiên nho qua các thời đại gồm :

a. Tứ Phối : Bốn vị Thánh cùng được phối hưởng cúng tế với Đức Khổng Tử. Tứ Phối gồm :

- Phục Thánh Nhan Tử (Nhan Hồi)

- Tông Thánh Tăng Tử (Tăng Sâm)

- Thuật Thánh Tử Tư (Khổng Cấp)

- Á Thánh Mạnh Tử (Mạnh Kha)

b. Thập Triết : Mười vị Hiền triết, học tṛ tài giỏi nhứt của Đức Khổng Tử. Thập Triết gồm :

- Mẫn Tổn (Mẫn Tử Khiên)

- Bá Ngưu (Nhiễm Canh)

- Trọng Cung (Nhiễm Ung)

- Tể Dư (Tử Ngă)

- Đoan Mộc Tứ (Tử Cống)

- Nhiễm Cầu (Tử Hữu)

- Trọng Do (Tử Lộ)

- Ngôn Yển (Tử Du)

- Bốc Thương (Tử Hạ)

- Chuyên Tôn Sư (Tử Trương).

c. Thất thập nhị Hiền : 72 vị học tṛ giỏi của Đức Khổng Tử, nhưng ở dưới Thập Triết một bực.

Nói là Thất thập nhị Hiền, chớ thật ra chỉ có 62 vị, v́ trong Thất thập nhị Hiền có Thập Triết, nên phải trừ ra 10 vị.

d. Tiên Hiền, Tiên Nho : gồm 120 vị, qua các triều đại từ xưa đến nay.

8. Đức Khổng Tử trong Đạo Cao Đài :

Đức Khổng Tử là một Đấng Giáo chủ trong Tam giáo thuộc thời Nhị Kỳ Phổ Độ. Nhờ Đức Khổng Tử mà Nho giáo mới được hưng hạnh, và trở thành một học thuyết triết học nhân sinh có hệ thống chặt chẽ và hoàn hảo, chủ yếu dạy về Nhơn Đạo (Đạo làm Người). Không có một giáo thuyết nào dạy Nhơn Đạo hoàn hảo bằng Nho giáo.

Trong Kinh Cúng Tứ Thời của Đạo Cao Đài có Bài Kinh Nho giáo để xưng tụng công đức của Đức Khổng Tử.

Ngày Đại Lễ Vía Đức Khổng Tử được chọn là ngày giáng sanh của Đức Khổng Tử, đó là ngày 27 tháng 8 âm lịch. Hằng năm, khi đến ngày nầy, tại Toà Thánh và các Thánh Thất địa phương đều có thiết lễ Đại Đàn cúng Vía Đức Khổng Tử, có Chức sắc thuyết đạo nhắc lại Tiểu sử của Ngài, và nói về sự ích lợi của Nho giáo đối với sự ổn định trật tự trong gia đ́nh và ngoài xă hội.

Do đó, Đức Chí Tôn mới có chủ trương NHO TÔNG CHUYỂN THẾ, tức là dùng tinh hoa của Giáo lư Nho giáo để dạy dỗ người đời, tái lập trật tự và đạo đức trong xă hội.

Trong Kinh Tam Nguơn Giác Thế, Đức Khổng Tử có giáng cơ dạy Đạo. Sau đây, xin chép lại bài Thánh giáo nầy :

Ngày 17 tháng Giêng năm Nhâm Thân (1932). THI :

NGĂ dĩ từ chương giáo nghĩa phương,

KHỔNG văn hoằng hóa sự luân thường.

PHU thê, phụ tử, quân thần Đạo,

TỬ đệ phùng thời độ thiện lương.

DIỄN DỤ : Các sĩ cùng chư khanh nghe cho rơ : Việc Tam giáo hiệp nhứt. Từ mới mở mang Trời Đất đă có Đại Đạo. Tam giáo vốn một nhà, đời sau chia làm ba, chớ kỳ trung một bổn, kẻ thế không thông hiểu nên tranh luận giành điều chơn giả với nhau hoài. Những người xưng ḿnh là Minh Sư, thọ truyền cho đồ đệ, th́ mỗi người cũng muốn khoe tài ḿnh mà truyền khẩu với chúng sanh rằng, đạo ḿnh chánh, đạo khác th́ tà : Té ra, ḿnh là Manh Sư gạt chúng. Nếu Đạo Tiên, Đạo Phật mà không dùng văn chương th́ lấy chi mà tả kinh diễn kệ. C̣n học Nho mà không học Đạo th́ ra người cuồng sĩ kiêu căng. Vậy khuyên mấy sĩ Ba Đạo cũng đồng t́m kiếm gốc cho minh chơn lư, đặng trước độ ḿnh, sau độ chúng. Vậy mới gọi là Chánh kỷ hóa nhơn. Thi rằng :

THI :

Tam giáo từ xưa vốn một nhà,

Người sau lầm tưởng, vọng chia ba.

Minh tâm may hiểu đường chơn giả,

Mẫn tánh mới thông nẻo chánh tà.

Thích, Đạo tỷ như hành bộ khách,

Nền Nho ví tợ chiếc đ̣ qua.

Muôn ngàn kinh kệ do nơi chữ,

Tam giáo từ xưa vốn một nhà.

KHỔNG PHU TỬ

Gia-Tô Giáo chủ [ Đức Chúa Jésus ]

Đức Chúa Jésus (hay Jésus Christ) là Giáo chủ của Thiên Chúa giáo. Thiên Chúa giáo c̣n được gọi là Công giáo, Đạo Gia-Tô, nên Đức Chúa Jésus c̣n được gọi là Gia-Tô Giáo chủ. Đạo Thiên Chúa do Đức Chúa Jésus lập ra ở nước Do Thái, sau Đạo Phật ở Ấn Độ 544 năm. Đạo Thiên Chúa là Thánh đạo trong Ngũ Chi Đại Đạo.  Đức Chúa Jésus là Chơn linh của Đức Phật Christna, một vị Phật trong Tam Thế Phật, giáng sanh để mở đạo Thánh nơi nước Do Thái, cứu độ các sắc dân ở Âu Châu trong thời Nhị Kỳ Phổ Độ.  Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo trong ngày Vía Đức Chúa Jésus 25-12-1948 và 25-12-1949, xin trích ra như sau :

" Có một Đấng Chơn linh Tam Thế Chí Tôn, nhơn loại đều biết danh đó : Brahma Phật, tức nhiên là Tạo hóa; Nhị thế Civa Phật, tức Tấn hóa; Tam thế Christna Phật, tức nhiên Bảo tồn; Đấng trọn quyền bảo tồn ấy là ḷng ái tuất thương sanh vậy. V́ cớ cho nên, Đức Chúa Jésus Christ thương nhơn loại một cách nồng nàn thâm thúy.  Ngài đă ngó thấy Nhứt Kỳ Phổ Độ, nhơn loại kư Hoà ước với Chí Tôn mà đă bội ước, nên phạm Thiên điều, nhơn quả nhơn loại gớm ghiết. Do nhơn quả ấy mà tội t́nh nhơn loại lưu trữ đến ngày nay. Thánh giáo gọi " Tội Tổ Tông ". Chính ḿnh Ngài đến, đến với một xác thịt phàm phu, Ngài đến giơ tay để kư Đệ nhị Ḥa ước với Đức Chí Tôn, chịu tội cho nhơn loại, kư Đệ nhị Ḥa ước đặng d́u dắt chúng sanh trở về cùng Đấng Cha Lành của họ tức nhiên là Đức Chí Tôn của chúng ta ngày nay đó vậy.  Đấng ấy vô tận vô biên, thấy nạn của nhơn loại đă dẫy đầy, Ngài chỉ xuống mặt thế nầy làm con tế vật đặng chuộc tội t́nh cho nhơn loại, mà lại c̣n đem quyền của Chí Tôn để nơi tay của nhơn loại, bàn tay đó đă kư Đệ nhị Ḥa ước cho nhơn loại, nó làm cho Ngài thế nào ? Do tay Ngài kư tờ Ḥa ước với Chí Tôn, nên 2 tay của Ngài bị đóng đinh trên cây Thập tự giá. Hai chân của Đấng ấy đă đi trước nhơn loại, d́u đường hằng sống cho họ, rồi 2 chân của Đấng ấy cũng bị đóng đinh trên cây Thánh giá. C̣n trái tim yêu ái nhơn sanh vô hạn ấy bị một mũi kiếm vô t́nh đâm cạnh hông Ngài, lấy gọt máu cuối cùng đó đặng cứu nhơn loại, một t́nh ái vô biên ấy để lại cho loài người một tôn chỉ yêu ái. Tôn chỉ nh́n nhơn loại là anh em cốt nhục và khuyên nhủ nhơn loại coi nhau đồng chủng.  Cho đến ngày nay, cả nhơn loại trên Địa cầu nầy không chịu nghe lời Ngài, không theo bước của Ngài, nên nạn tương tàn tương sát sắp diễn ra gần đây. Nhưng nếu chừng nào toàn cả nhơn loại biết thương yêu nhau, v́ t́nh cốt nhục, th́ cái nạn tương tàn tương sát trên mặt Địa cầu nầy sẽ không c̣n nữa.  Hai tấn tuồng, hai thảm trạng như thế, có thể đưa nhơn loại đến chỗ tiêu diệt mà chớ, v́ nhơn loại không biết nghe, Đấng ấy đă lấy máu thịt của ḿnh làm con tế vật dâng hiến cho Đức Chí Tôn để cầu xin tha tội cho nhơn loại.  Nhơn loại sẽ mất đức v́ không nghe theo Đấng Cứu thế. Đấng ấy đă bảo anh em phải yêu ái nhau, giúp đỡ nhau, sống cùng nhau cho trọn vẹn kiếp sanh.  Trái ngược lại, Đệ nhị Ḥa ước kia đă kư với Đức Chí Tôn bị nhơn loại bội ước nữa. V́ bội ước mà bảo nhơn loại không bị tội t́nh mắc mỏ sao được.  Đêm nay, nhờ hiển Thánh anh linh của Đấng Cứu thế, Đấng ấy đă để ḷng ưu ái vô tận, mong cứu văn t́nh thế nguy ngập, lấy cả t́nh ái ấy làm phương giải khổ cho nhơn loại.  Chúng ta để tâm cầu nguyện Ngài, để Ngài mở con mắt thiêng liêng cho chúng sanh đặng nh́n thấy cái chơn tánh của kiếp sống họ nơi nào, đừng mê muội, đừng ngu dốt, lấy tinh thần sáng suốt, bỏ cái Lục dục Thất t́nh đầy tội ác nầy."  " Cái chết của Đức Chúa Jésus Christ là ǵ ? Là Ngài đem xác Thánh quí trọng dâng cho Đức Chí Tôn làm tế vật. Xác Thánh chết trên Thánh giá là tế lễ đồng thể với Tam Bửu của chúng ta dâng cúng Đức Chí Tôn ngày nay đó vậy.  Vậy, Đức Chúa Jésus Christ đă làm con tế vật cho Đức Chí Tôn đặng cứu chuộc tội lỗi của loài người, nhứt là các sắc dân Âu Châu, nên danh thể Ngài để 2 chữ Cứu Thế chẳng có chi là quá đáng." " Ngài chết như thế ấy, nếu không phải con mắt thiêng liêng oai quyền của Đức Chí Tôn th́ cái chết của Jésus Christ mai một mờ ám mà thôi, không có cái ǵ gọi là Chí Thánh cả. Không phải vậy, Đức Chí Tôn đă hứa, đă nh́n nhơn loại là con và chính ḿnh Ngài đă ở trọn hiếu cùng hy sinh tánh mạng của ḿnh làm cho danh của Đức Chí Tôn cao trọng và làm cho nhơn loại đặng hưởng đặc ân của Đức Chí Tôn chan rưới, làm cho con cái của Đức Chí Tôn biết cái hiếu của Ngài đối với Đức Chí Tôn.  Từ thử tới giờ, chưa có một Giáo chủ nào đă làm. Cái hiếu của Ngài đến giờ chót đối với Đức Chí Tôn đă trọn.

C̣n Đức Chí Tôn, nếu không phải giữ " Nghĩa " với đứa con yêu dấu, con hiếu hạnh của Ngài, th́ cái chết của Jésus Christ bất quá như kẻ tù nhân chết mà thôi, có đâu lên phẩm vị Giáo chủ, ngồi trên ngai thiêng liêng vô cùng quí báu trên mặt địa cầu nầy gần 2000 năm.  Trong lúc Đức Chúa Jésus Christ làm con hiếu hạnh có 3 năm thôi, mà Đức Chí Tôn trả lại cái danh dự sang trọng cho Ngài đến 1949 năm là năm nay."

Tiểu sử Đức Chúa Jésus :

Đức Chúa Jésus giáng sanh trong một gia đ́nh bần hàn nhưng rất đạo đức : Gia đ́nh bà Maria và Ông Joseph.

Bà Maria trước đó là một Nữ tu trong Đền thờ Jérusalem, đến tuổi lấy chồng, Luật Đền thờ buộc các Nam tu sĩ trong Đền thờ phải có người đứng ra cưới, bởi v́ căn cứ theo lời dạy của Thượng Đế với Ông Adam và Bà Êve : "Unissez-vous et multipliez." (Bây phải chung sống cùng nhau đặng sanh sản ra nhiều nữa).

Lễ chọn chồng của Nữ tu Maria tổ chức theo luật của Đền thờ : Các vị Nam tu sĩ chưa có vợ, mỗi người lựa một nhánh bông, cắm vào b́nh bông đặt trong Đền thờ, sau 3 ngày, bông của người nào c̣n tươi tắn là duyên của người đó, phải cưới Maria.

Ông Joseph lúc đó đă 50 tuổi, cũng phải theo luật lệ đó. Các vị Nam tu sĩ trẻ tuổi đă lựa bông kỹ lưỡng với nhiều hy vọng và đă cắm vào b́nh hoa hết rồi. C̣n Joseph nghĩ ḿnh đă già rồi, có vợ con làm chi nữa, nhưng luật Đền thờ th́ phải vâng, nhưng làm cho có lệ. Ông lượm một nhánh bông huệ khô héo của ai bỏ dưới đất, đem cắm đại vào b́nh. Nhưng kỳ lạ thay, loài hoa huệ, những bông nở tàn rồi th́ rụng đi, c̣n bông búp bắt nước sống lại, nở ra tươi tốt. Các thứ hoa khác trong b́nh đều tàn rụi. Thế là Ông Joseph phải cưới Maria.  Luật Đền thờ lại buộc 2 vợ chồng mới cưới phải ra ở ngoài, không được ở trong Đền thờ nữa. Vợ chồng Maria và Joseph dắt ra ngoài mướn nhà ở, lo làm ăn sanh sống. Ông Joseph làm nghề thợ mộc, Bà Maria làm nghề vá may, đan thêu, tạm sống qua ngày.

Bà Maria có thai con đầu ḷng : Chúa Jésus. Bà được Thiên Thần Gabriel báo mộng cho biết Bà sẽ sanh ra cho loài người một Đấng Cứu Thế.

Đến ngày Lễ Noel hằng năm tổ chức long trọng

nơi Đền thờ Jérusalem, tuy bụng mang dạ chữa gần ngày sanh nở, nhưng v́ ḷng mộ đạo, hai vợ chồng Maria-Joseph đều cố gắng đi đến Đền thờ để chầu lễ. Khi đến nơi, các quán trọ đều bị khách đi dự lễ mướn hết, tiết Trời lại quá lạnh lẽo, hai vợ chồng phải đến Bêlem, xin với một chủ trại cho tạm trú đỡ trong chuồng chiên.  Đúng 12 giờ khuya đêm 24 tháng 12 dương lịch, Bà Maria chuyển bụng sanh ra Chúa Jésus. Chúa Hài đồng được quấn tả và được tạm đặt vào máng cỏ cho đỡ lạnh nơi chuồng chiên trong hang đá.

Các nhà Tiên tri đă báo trước ngày Chúa giáng sanh : Ngày nào sao chổi mọc là ngày đó Chúa giáng sanh, nên nhớ mà để ư t́m người. Trong giờ Chúa giáng sanh, có nhiều huyền diệu xảy ra : Đám chăn chiên ngoài đồng bỗng nghe giữa thinh không có tiếng nói của Thiên Thần : Có Chúa Cứu Thế giáng sanh, hào quang tỏa sáng ngời. Các người chăn chiên liền đi t́m và gặp Chúa Hài đồng nằm trong máng cỏ, họ đảnh lễ Chúa trước tiên hơn hết.

Vua Hérode đang cai trị dân Do Thái, bỗng tiếp kiến các Đạo sĩ từ phương Đông t́m đến và hỏi rằng : " Vua dân Do Thái mới sanh ra hiện ở đâu ? Chúng tôi đă thấy ngôi sao của Ngài bên Trời Đông, nên t́m đến để đảnh lễ Ngài."  Nghe vậy, vua Hérode hoảng hốt và cả thành Jérusalem cũng náo động lên. Ông cho triệu tập các vị Thượng Tế và Kư Lục để hỏi th́ họ cho biết Chúa đă được sanh ra ở Bêlem xứ Juđê. Vua Hérode lo sợ sự hiện diện của Chúa làm hại đến quyền lực của Ông, nên Ông t́m cách giết Chúa, nhưng Ông không biết trẻ con nào là Chúa. Ông ra lịnh giết tất cả những đứa trẻ từ 2 tuổi trở xuống, tính theo thời gian mà Ông đă hỏi nơi các Đạo sĩ.  Thiên Thần liền hiện ra báo mộng cho ông Joseph, bảo : Hăy chổi dậy và đem hài nhi và mẹ Ngài trốn qua Ai Cập và cứ ở đó cho đến khi ta nói lại, v́ vua Hérode sắp lùng bắt hài nhi mà giết đi.  Sáu năm sau, vua Hérode chết. Thiên Thần lại đến báo mộng bảo Joseph : Hăy chổi dậy và đem hài nhi và mẹ Ngài trở về Do Thái v́ kẻ t́m hại hài nhi đă chết.  Ông Joseph đem gia đ́nh về xứ Galilé ở thành Nazaret. Chúa Jésus được 6 tuổi. Hai Ông Bà c̣n sanh thêm được 4 người con nữa, cả gia đ́nh sống rất bẩn chật. Ông Joseph tiếp tục làm nghề thợ mộc, Bà Maria th́ vá may. Chúa Jésus là anh cả trong nhà thường giúp mẹ đội nước mướn ở bờ sông Jourdain.  Lúc Chúa Jésus được 12 tuổi, Ngài theo cha học nghề thợ mộc. Khi đó, Ông Joseph lănh làm nhà cho một người trong xóm, tính toán thế nào mà khi cắt gỗ, mấy cây cột đều cụt hết. Chủ nhà bắt đền.  Ông Joseph ngồi khóc ṛng, v́ nhà nghèo tiền đâu mà đền. Chúa Jésus liền cầu nguyện, rồi cha nắm một đầu cột, con nắm một đầu cột kéo dăn dài ra cho đủ thước tấc để bồi thường cho chủ nhà. Việc làm liều đó, lạ lùng thay, cây cột gỗ lại dăn dài ra như ư muốn.  Đó là Đấng Christ làm phép lạ lần đầu tiên lúc 12 tuổi Cũng trong năm đó, Chúa Jésus vô Đền thờ Jérusalem. Các vị Giáo sĩ trong Đền thờ nghe danh Chúa là thần đồng liền xúm lại chất vấn. Buổi đó, Đức Christna Phật giáng linh trên Chúa, nên Ngài đă ngồi giữa các vị Giáo sĩ thuyết pháp say mê làm mọi người rất đổi kinh ngạc. Từ đó, Chúa Jésus về nhà th́ cũng như mọi người, phụ làm thợ mộc với cha, hiếu hạnh với mẹ, ḥa nhă với em út. Nhưng các em thường hay lấn lướt Ngài. Cảm thấy khó khăn, Chúa Jésus bèn xin đi làm thuê bên ngoài, lấy tiền về phụ với cha mẹ nuôi gia đ́nh.  Thời gian dài trôi qua, đến năm Chúa Jésus được 30 tuổi, nghe Thánh Jean Baptiste đang làm lễ Giải Oan tại bờ sông Jourdain, Chúa Jésus liền đi đến đó. Khi nh́n thấy Chúa Jésus từ xa đi tới, Thánh Jean Baptiste biết đây là Chúa Cứu Thế, mới nói : "Từ sáng tới giờ, tôi chỉ chờ vị nầy thôi."  Đức Chúa đến thọ pháp Giải Oan nơi Thánh Jean. Khi Thánh Jean hành pháp vừa xong, Đức Chúa Jésus từ dưới sông vừa bước lên bờ th́ trên không trung hiện ra hào quang sa xuống giữa đầu Chúa và có tiếng phán rằng : Nầy con yêu dấu của Ta ! Cả ân đức của Ta để cho ngươi đó." Sau đó, Chúa Jésus được khiến đi vào Sa mạc để chịu sự thử thách của Quỉ Satan. Suốt 40 ngày đêm, Chúa bị Quỉ vương cám dỗ đủ điều, nhưng không dụ được Chúa. Quỉ vương đành khuất phục trước sự cao cả của Ngài. Từ buổi đó, Đức Chúa Jésus là Chơn linh của Đấng Christna Phật giáng hạ. Ngài bắt đầu truyền Đạo khắp nơi, thâu nhận 12 Tông đồ, làm nhiều phép lạ để cứu khổ nhơn sanh. Ngài xưng là con của Đức Chúa Trời, tức là con của Thượng Đế và tôn vinh Đấng Thượng Đế cao cả. Đức Chúa Jésus, với ḷng thương yêu nhơn sanh một cách nồng nàn, Ngài đă dạy dỗ các môn đồ ḷng thương yêu, bác ái, hạnh bố thí, sự chơn thật, khiêm nhượng, tự xét ḿnh để sửa ḿnh, các điều răn cấm, giữ tâm thanh cao trong sạch, lời nói trọn lành, hành động chơn chánh, thờ kính Đức Chúa Trời một cách hết ḷng.  Bởi luật vô vi, không ai thoát khỏi ngày Phán Xét cuối cùng, dù người đă chết hay người đang sống, cũng đều chịu sự thưởng phạt đúng mức công b́nh.  Tất cả những điều giáo huấn của Đức Chúa Jésus tạo thành một hệ thống giáo lư cho nền Đạo Thánh ở nước Do Thái, truyền bá mạnh mẽ sang Âu Châu. Uy quyền của bọn vua quan phong kiến và bọn Giáo chủ Cai-phe bị lung lay, nên chúng t́m cách giết Chúa Jésus.  Bọn chúng vu cáo Ngài mưu việc phản loạn, chúng lại mua chuộc Yuda, một Tông đồ của Chúa, phản lại Chúa. Tiền bạc đă làm chóa mắt Yuda, Ông đă điềm chỉ cho bọn lính bắt Chúa. Chúa Jésus bị chúng lên án tử h́nh và bị đóng đinh trên Thập tự giá.  Đức Chúa Jésus đă biết trước việc đó, nhưng Ngài không né tránh, mà cứ thể theo Thiên ư. Cái chết của Ngài có ư nghĩa ǵ ?  Đó là đem xác Thánh quí trọng hiến dâng lên Đức Thượng Đế, làm con tế vật hầu chuộc tội cho loài người. Việc làm nầy đồng thể với việc dâng Tam bửu của tín đồ Cao Đài lên Đức Chí Tôn, nhưng lại tuyệt đối cao trọng hơn.

Cái chết của Đức Chúa Jésus để chuộc tội cho các sắc dân Âu Châu thật là cao cả, xứng đáng là vị Chúa Cứu Thế của nhơn loại.

Mười hai vị Thánh Tông đồ của Đức Chúa Jésus là :

1. Simôn, cũng gọi là Phêrô (Thánh Pierre).

2. Anhrê, em của Phêrô.

3. Yacôbê, con của Zêbêđê.

4. Yoan, em của Yacôbê.

5. Philip.

6. Barthêlêmy.

7. Thôma.

8. Mathiơ là người thâu thuế.

9. Yacôbê, con của Alphê.

10. Thađê.

11. Simôn nhiệt thành người Ca-na-an.

12. Yuđa Iscariốt (được thay bằng Matthya).

Chính Yuđa đă bán Chúa để nhận tiền của bọn Cai-phe đem về mua ruộng đất, nhưng liền bị tai nạn té nhào, vỡ bụng ḷi ruột chết thảm.  Mười một Tông đồ c̣n lại của Chúa đă cử Ông Matthya thay thế Yuđa cho đủ số 12 Tông đồ như lúc đầu.  Đức Chúa Jésus Christ, tuy là Giáo chủ Thánh đạo, nhưng Chơn linh Ngài là một vị Phật. Ngài lănh lịnh Đức Chí Tôn mở Đạo Thánh nơi nước Do Thái để cứu độ các sắc dân ở Âu Châu.  Đức Chúa Jésus giáng sanh, dù do phàm thai hay do Thánh thai, dù là con ruột của Ông Joseph thuộc ḍng dơi vua David (tức là phàm thai, Đức mẹ Maria không đồng trinh), hay là con nuôi của Ông Joseph, không thuộc ḍng dơi của vua David (tức là Thánh thai, Đức mẹ Maria đồng trinh), th́ sự tôn thờ Chúa, không phải căn cứ vào điều đó, mà căn cứ vào công đức và sự nghiệp của Chúa đối với nhơn loại. Chúa Jésus đă dạy dỗ nhơn loại nhiều điều hữu ích và sau cùng dùng cái chết của ḿnh trên cây Thập giá để chuộc tội cho loài người và trả hiếu Thượng Đế. Đó mới là điều quan trọng. Nhơn loại mới tôn thờ Ngài, suy tôn Ngài là Đấng Cứu Thế.  Nếu nói rằng Đức Chúa Jésus giáng sanh bằng phàm thai là hạ thấp giá trị của Chúa th́ hoàn toàn không đúng, bởi v́ nếu đúng như vậy, Đức Phật Thích Ca hay Đức Khổng Tử đều giáng sanh bằng phàm thai th́ không đáng kính trọng hay sao ?  Các Đấng ấy là Giáo chủ tôn giáo, thuộc hàng Tiên, Phật, th́ không cần các môn đệ Thần Thánh hóa các Ngài, v́ điều đó chỉ đem lại sự mê tín cho các tín đồ, làm trở ngại bước đường tu tiến mà thôi.  Trong sự thờ phượng của Đạo Cao Đài, việc sắp xếp Đức Chúa Jésus ngồi dưới Đức Đại Tiên Trưởng Lư Thái Bạch không có nghĩa là Đức Chúa Jésus nhỏ hơn Đức Lư, mà đó chỉ là thứ tự trong Ngũ Chi Đại Đạo. Bắt đầu từ Nhơn đạo với phẩm Giáo Tông, đối phẩm với Thiên Tiên hay Phật vị, lên kế trên là Thần đạo (với Đức Khương Thượng Tử Nha), kế trên nữa là Thánh đạo (với Đức Chúa Jésus mà chơn linh là Đức Phật Christna), kế lên Tiên đạo (Đức Lư Thái Bạch) và trên cùng là Phật đạo với Đức Phật Thích Ca. Hằng năm, khi đến ngày Lễ Noel 25-12 dương lịch, là ngày giáng sanh của Đức Chúa Jésus, tại Ṭa Thánh và các Thánh Thất địa phương đều có thiết Đại lễ cúng Vía Đức Chúa Jésus, Gia Tô Giáo chủ, có Chức sắc thuyết đạo nhắc lại công đức của Chúa đối với nhơn loại.

"Vâng lịnh Vua Cha xuống thái bang,

Truyền ra Đạo Thánh rất gian nan.

Ba mươi năm lẽ chưa toàn vẹn,

Ngàn chín trăm dư thế muốn tàn.

Đắc lịnh Vua Cha truyền lập lại,

Vâng lời Kim Mẫu tá phàm gian.

Thuyết đàn vạn quốc nay mai sẽ,

Phổ độ Ngũ Châu, vạn sự toàn."

(Bài thi do Đức Chúa Jésus giáng cơ)

Trong sách Đại Đạo Căn Nguyên của Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu, có đăng một bài giáng cơ của Đức Chúa Jésus bằng Pháp văn, ngày 11 Septembre 1926, xin dịch ra Việt văn như dưới đây :

Ngă GIA TÔ GIÁO CHỦ giáng đàn. Hỷ chư Hiền sanh đẳng đẳng.  Ta đến, Ta là Đấng Cứu rỗi và là người phán xét các bạn.  Ta đến, như ngày xưa, với các con Do Thái lạc loài. Ta mang Chơn lư đến và làm tan biến Vô minh.  Các bạn hăy nghe Ta : Cơ bút, như trước kia, là Ngôi lời của Ta, cần nhắc nhở những đứa theo chủ nghĩa Duy Vật rằng trên chúng nó, Chơn lư bất di bất dịch ngự trị đời đời : Thượng Đế toàn thiện, Thượng Đế vĩ đại làm cây cối tăng trưởng và nổi sóng đại dương. Ta đă phát lộ Giáo lư của Thượng Đế. Ta như người thợ gặt, bó từ nạm lúa Thánh thiện trong nhơn sanh, và Ta nói rằng : Hăy đến với Ta, tất cả những người đau khổ. Nhưng loài người bội bạc đă đi lạc hướng, xa con đường chơn chánh và rộng răi dẫn dắt đến Thiên đường của Đại Từ Phụ, chúng nó đi lạc vào lối đi gồ ghề, bội phản, bất hiếu, bất trung. Đức Chúa Cha không muốn tàn hại ḍng giống loài người. Ngài chỉ muốn, không bởi các thầy Tiên tri, không bởi các Sứ đồ, các bạn hăy giúp đỡ lẫn nhau, người sống và người chết, nghĩa là tùy theo tánh chất của các bạn (bởi v́ sự chết không có), các bạn hăy cứu giúp lẫn nhau, và tiếng nói của những đứa không c̣n nữa cũng được đứa khác nghe kêu gọi : " Hăy cầu nguyện và hăy tin tưởng", bởi v́ cái chết là sự phục sinh, và đời sống là sự thử thách tốt nhất, trong đó đức tánh của các bạn được đào luyện phải lớn lên và phát triển như cây bá hương. Hăy tin tưởng vào những tiếng nói đang trả lời các bạn, đó chính là Chơn linh của các Đấng mà các bạn cầu khẩn. Ta rất ít khi giáng đàn với các bạn, v́ những vị đă dự phần vào đời sống của Ta và sự chết của Ta là những Thiên sứ truyền đạt Thánh ư của Đức Chúa Cha.  Những người yếu đuối bạc nhược đang tin tưởng vào sự sai lầm của tâm trí vô minh của ḿnh, hăy đốt sáng ngọn đuốc mà Đấng Đại Từ Bi thiêng liêng đặt trong đôi bàn tay của các người để soi đường cho các người, để đem các người, những đứa con lạc loài của Đức Chúa Cha, vào ḷng Đức Chúa Cha.  Ta nói thật với các bạn, hăy tin tưởng về sự khác biệt nhau và vô số các vị Thần linh bao quanh các bạn. Ta rất cảm thương về những khốn khổ, sự yếu đuối vô biên của các bạn, mà không thể ra tay cứu độ những kẻ bất hạnh lạc loài, mà họ đang nh́n bầu Trời th́ rơi xuống hố sâu tội lỗi.

Hăy tin tưởng, hăy thương yêu, hăy hiểu biết cái Chơn lư đă được phát lộ, không nên lầm lộn cái thiện và cái ác, phương tiện và Chơn lư. Hỡi các bạn thông linh ! Hăy thương yêu nhau, đó là điều giáo huấn thứ nhứt.

Hăy học hỏi nhau, đó là điều giáo huấn thứ nh́. Tất cả Chơn lư đều ở trong Đạo (Đạo Thiên Chúa, Đạo Lăo, Đạo Phật, Đạo Khổng). Những sự sai lầm bắt rễ từ Đạo là do nguồn gốc của con người. Và khi xuống mồ mới tin tưởng nơi Hư Vô, những tiếng kêu gọi : "Các huynh ơi ! Không có ǵ tận diệt, Jésus Christ là người chiến thắng điều ác, hăy là kẻ chiến thắng điều vô đạo."

Khương Thượng Tử Nha Giáo chủ Thần đạo

Khương Thượng Tử Nha là học tṛ của Đức Nguơn Thủy Thiên Tôn, Giáo chủ Xiển giáo.  Ông Khương Thượng không có số thành Tiên, nên Đức Giáo chủ Nguơn Thủy truyền cho Khương Thượng trở về trần lập Bảng Phong Thần và thay mặt cho Giáo chủ đọc Sắc Phong Thần. Do đó, Đức Khương Thượng Tử Nha là vị đứng đầu các Thần, tượng trưng Thần đạo Trung Hoa, và cũng có thể xem Ngài là Giáo chủ Thần đạo Trung Hoa.  Đức Khương Thượng được vua Châu Vơ Vương phong chức Thái Công, và được vua gọi là Tướng Phụ. Do đó, trong Đạo Cao Đài gọi Ngài là : Thái Công Tướng Phụ Quảng Pháp Thiên Tôn. Trên Thánh tượng Ngũ Chi thờ tại Thiên bàn, Đức Khương Thượng Tử Nha là Đấng ngồi dưới chót hết ở hàng giữa, tượng trưng Thần đạo. Ngài mặc áo vàng có thêu Bát Quái, tay mặt cầm cây roi gọi là Đả Thần tiên, tay trái cầm một cây cờ vàng gọi là Hạnh Huỳnh Kỳ.  - Đả Thần tiên (Đả là đánh, Thần là các vị Thần, tiên là cây roi) do Đức Nguơn Thủy ban cho, dài 3 thước 5 tấc 6 phân (thước Tàu), gồm có 26 mắc, mỗi mắc có 4 điệu bùa.  - Hạnh Huỳnh Kỳ là cây cờ vàng do Đức Nguơn Thủy ban cho, màu vàng thuộc Thổ, trong lá cờ có thẻ mà không có chữ. Khi có việc nguy biến, chữ sẽ hiện ra trên thẻ, chỉ cho cách đối phó và giải quyết. Khi xổ cờ ra che thân th́ có hàng ngàn bông sen vàng rủ xuống bảo vệ khắp thân thể không cho bất cứ vật ǵ xâm phạm vào thân thể.  Ngày Kỷ niệm Thánh đản của Đức Khương Thượng Tử Nha là ngày 18 tháng 4 âm lịch hằng năm.  Nguyên thuở trước, Ông Tổ của Khương Thượng là cháu của vua Thần Nông, tên Bá Ích, được phong làm Lữ Hầu, nên kể từ đó lấy họ Lữ (hay Lă), sau lại có công trị thủy nên theo họ Khương. Bởi vậy có hai họ : Lữ và Khương.  Đức Khương Thượng, tên tộc là Vọng, nên gọi là Lữ Vọng hay Lă Vọng, tên chữ là Tử Nha, hiệu là Phi Hùng (Gấu bay), quê quán ở Hứa Châu.

Năm Khương Thượng 32 tuổi, ḷng mộ đạo nên đến núi Côn Lôn xin học Đạo với Đức Nguơn Thủy Thiên Tôn, Giáo chủ Xiển giáo. Ở núi tu được 40 năm, Khương Thượng được 72 tuổi, th́ Đức Nguơn Thủy gọi lên bảo :  - Số ngươi chưa thành Tiên đặng, hưởng lộc có dư. Nay Thành Thang hết vận có Tây Châu ra đời. Ngươi phải thay mặt Ta mà xuống thế, ra công giúp nhà Châu, cầm Bảng Phong Thần, sống làm tướng, thác làm Thần, công tu 40 năm, danh để muôn thuở.  Khương Thượng nói : - Nay vâng lời thầy trở lại chốn phàm trần, chẳng hay việc tới thế nào, xin thầy cho biết.  - Ta có 8 câu kệ chỉ rơ trọn đời của ngươi, giống như lời sấm, rán mà nhớ lấy:

Mười năm chịu túng áo c̣n bâu,

Gượng gạo mua vui chớ chác sầu.

Ngồi đá Bàn Khê câu đợi vận,

Chờ xe vương giả rước về lầu.

Tám mươi lẻ nửa mang đai ngọc,

Chín chục dư ba buộc ấn hầu.

Mậu Ngũ chư Hầu trăm trấn phục,

Phong Thần chín tám bốn Xuân Thu.

Đức Nguơn Thủy ngâm kệ xong, nói :

- Tuy bây giờ ngươi xuống trần, nhưng ngày sau cũng trở về núi. Tử Nha lạy thầy, giă bạn, ra khỏi Cung Ngọc Hư, trở xuống trần. Nhớ lại không c̣n bà con, chỉ có một người bạn là Tống Dị Nhơn đang ở đất Triều ca, nên Tử Nha liền đến đó để nương nhờ. Tống Dị Nhơn gặp Tử Nha mừng rỡ hỏi : - Chú bây giờ ăn chay hay ăn mặn để tôi cho bày trẻ lo cơm nước ? - Cũng tiếng là kẻ tu hành, đâu dám dùng rượu thịt. Tống Dị Nhơn nhận Tử Nha làm em kết nghĩa, thấy Tử Nha đă già mà không có con nối hậu, nên tính cưới vợ cho Tử Nha. Dị Nhơn hỏi cưới Mă thị, con gái lỡ thời của Mă Viên Ngoại cho Tử Nha. Mă thị năm đó đă 68 tuổi.

Có bài thơ ghi lại việc nầy :

Tu chẳng thành Tiên, tiếc Tử Nha,

Về trần cưới vợ lạ thay la ụ !

Sáu mươi tám tuổi nhành dâu xế,

Bảy chục dư hai cái rễ già.

Xem đuốc hàm râu e lửa táp,

Soi gương mái tóc tợ sương sa.

Lá lay Nguyệt Lăo xe tơ muộn,

Dẫu đến trăm năm nhắm chẳng xa.

Mă thị nói với Tử Nha phải t́m cách làm ăn sinh sống, chớ nên nhờ vả Tống Dị Nhơn hoài. Tử Nha nói biết đan gàu giai, nên đi chẻ tre, đan một gánh gàu giai đem xuống chợ bán. Ngồi từ sáng đến chiều mà chẳng có ai hỏi mua gàu, đành gánh trở về, bụng đói lă, lại khát nước mà chẳng có một đồng trong túi để mua.

Mă thị lại bày ra việc xay bột lúa ḿ. Xay xong, bảo Tử Nha gánh bột xuống chợ Triều ca để bán, cũng vẫn không có ai mua, lại bị ngựa của quan chạy qua làm đổ hết gánh bột. Tống Dị Nhơn thấy Mă thị luôn luôn đốc thúc Tử Nha kiếm việc làm ăn, nên Dị Nhơn đề nghị, mỗi ngày Tử Nha đến một quán rượu của ông nơi chợ Triều ca, đứng làm chủ bán hàng và sẽ cho Tử Nha tất cả số tiền lời của ngày hôm đó. Ngày mai khởi sự để Tử Nha đứng bán tại quán họ Trương là chỗ đông khách nhứt. Họ Trương truyền cho bọn giúp việc trong quán làm thịt heo, dê, dọn bày đặc biệt hơn ngày thường để Tử Nha có cơ hội bán đắc hàng. Nào ngờ hôm đó, Trời mưa xối xả từ sáng đến chiều, ngoài đường vắng tanh, không khách vào quán, đồ ăn chờ đến chiều sắp thiu, nên Tử Nha đành cho các người làm công dọn ra ăn hết, c̣n dư th́ đem cho các người làm công ở các quán khác. Thế là hôm đó, Tử Nha bị lỗ nặng.

Tống Dị Nhơn an ủi :

- Hiền đệ chớ lo, bởi chưa đến thời nên mới xui như vậy. Ngày mai tôi sẽ sai bọn gia đinh đi mua cho Hiền đệ một số heo, dê, để Hiền đệ đem ra chợ bán lấy lời, nếu bán không hết th́ đem trở về, không sợ lỗ.

Hôm ấy, Tử Nha đem heo dê ra chợ bán, rủi nhằm ngày Trụ Vương đảo vơ, v́ Trời hạn hán đă nửa năm, yết thị dán khắp nơi kêu gọi dân chúng không được làm thịt súc vật trong ngày ấy. Tử Nha không biết, cứ lùa heo dê ra chợ, bị bọn lính rượt bắt. Tử Nha đành phải bỏ đàn heo, dê, chạy thoát lấy thân, trốn được về nhà.

Tống Dị Nhơn sai người nhà dọn rượu ra nơi vườn hoa để cùng Tử Nha vừa uống rượu vừa ngắm cảnh cho tiêu sầu. Tử Nha dạo vườn hoa, ngắm nh́n một lát rồi nói :  - Theo địa lư th́ nơi đây có khí tụ rất nhiều. Nếu anh cất nơi đây 5 căn nhà lớn th́ sau nầy trong nhà anh sẽ có 36 người làm quan. Dị Nhơn nói :

- Hiền đệ thạo về địa lư th́ đó cũng là một nghề sanh sống đó. Chỗ nầy, đă nhiều lần ngu huynh dựng lên mấy gian nhà, nhưng sau đó liền bị đốt cháy, tôi chắc đó là lửa ma, không thể làm nhà được, đành chừa đất trống vậy.

- Để em chọn ngày tốt cho anh xây cất. Anh cứ lo chuẩn bị cây ván và công thợ, c̣n vụ lửa ma để em lo cho, có em đây, nhứt định nó không làm ǵ được đâu.  Hôm cất nhà, Tử Nha núp trong nhà mát theo dơi sự t́nh. Nửa đêm hôm ấy, có 5 con yêu nổi gió bay đến, cát bụi bay mù mịt. Tử Nha vội bỏ tóc xỏa, cầm gươm chỉ mặt 5 con yêu rồi hét lớn : - Năm con yêu không sa xuống c̣n đợi chừng nào ? Nói vừa dứt tiếng th́ Tử Nha bắt ấn, tức th́ tiếng sấm nổ vang, 5 con yêu sa xuống qú trước mặt Tử Nha năn nỉ :

- Chúng tôi không ngờ có Tiên Ông tại đây, xin lấy lượng khoan hồng tha cho chúng tôi khỏi chết.

- Chúng bây quen thói hành hung, vô cớ đốt nhà của người ta mấy lượt, tội chúng bây đáng chết.

Tử Nha nói rồi cầm gươm toan chém, 5 con yêu khóc lóc van xin :

- Chúng tôi ra công tu luyện nên mới được như ngày nay, xin Tiên Ông tha mạng chúng tôi làm phước, chúng tôi hứa từ đây về sau chẳng dám làm càn nữa.

- Thôi ta cũng dung tha cho chúng bây một lần làm phước, nhưng chúng bây không được ở đây nữa, phải đến núi Kỳ Sơn tạm trú, chờ lúc chiến chinh ra cho ta sai khiến rồi ta sẽ phong Thần cho.

Dị Nhơn cất nhà được b́nh an, nên mừng rỡ nói :

- Hiền đệ có tài phép như vậy thật không uổng công tu luyện 40 năm. Hiền đệ lại có tài coi bói, nên tôi dành cho Hiền đệ một căn phố nơi chợ Triều ca để Hiền đệ mở tiệm coi bói, ngày đêm ở đó luôn.

Ngọc Mỹ Nhơn thử quẻ Khương Thượng :

Tử Nha nghe lời Tống Dị Nhơn mở tiệm coi bói, bói đâu trúng đó, nổi tiếng là vị Thánh nhân, dân chúng tấp nập đến xem bói, thâu được rất nhiều tiền giao cho Mă thị. Mă thị vui mừng và

trọng chồng hết sức, không c̣n chê bai hay đay nghiến chồng như trước nữa.

Bói được nửa năm th́ xảy ra vụ Tỳ Bà Tinh.

Tỳ Bà Tinh là một con yêu do cây đàn Tỳ Bà bằng đá hấp thụ khí Âm Dương của Trời Đất qua hàng ngàn năm biến thành. Hôm đó, Tỳ Bà Tinh đi thăm Đắc Kỷ trở về, lúc bay ngang qua căn phố của Tử Nha thấy thiên hạ tấp nập vào xem bói, ai cũng nói thầy bói linh lắm. Tỳ Bà Tinh không tin, cho là chuyện lừa bịp, nên biến h́nh thành một người đàn bà đẹp gọi là Ngọc Mỹ Nhơn, vào tiệm để thử quẻ Khương Thượng.

Thần nhăn của Khương Thượng thấy rơ người đàn bà nầy là một con yêu quái hiện h́nh, nên định giết đi để trừ hại cho dân, liền bảo Ngọc Mỹ Nhơn đưa bàn tay ra để xem bói.

Tử Nha nắm lấy cổ tay, ấn chặt vào mạch môn, dùng phép âm, không cho yêu quái biến h́nh. Dân chúng thấy vậy tưởng Tử Nha nắm tay con gái làm chuyện dâm đảng nên la lối. Tử Nha đáp :

- Đây là con yêu tinh nguy hiểm chớ không phải là người đàn bà b́nh thường, cần phải giết nó để trừ hại cho dân.  Nói rồi lấy nghiên mực đập vào đầu Ngọc Mỹ Nhơn, máu chảy đỏ ối. Ngọc Mỹ Nhơn giăy giụa lung tung nhưng không biến đi được. Dân chúng thấy vậy rất phẫn nộ, đi báo quan. Lúc ấy Thừa Tướng Tỷ Can cỡi ngựa đi qua. Dân chúng kéo cổ Tử Nha ra cho Thừa Tướng xét xử. Dân chúng nói :

- Có lăo thầy bói tên là Khương Thượng Tử Nha làm chuyện phạm pháp, lợi dụng nghề coi bói nắm tay đàn bà con gái. Cô ả không chịu, lăo thầy bói làm ngang, lấy nghiên mực đánh nàng đổ máu.

Tỷ Can nghe nói vậy th́ nổi xung mắng Tử Nha :

- Trên đầu ngươi đă hai thứ tóc, sao không biết xét ḿnh mà làm chi chuyện xấu xa như vậy ?

Tử Nha thưa rằng :

- Tôi là người có học, lẽ đâu không biết phép vua. Dầu có ĺ lợm đến đâu cũng không thể đối xử với đàn bà như vậy. Nhưng quả thật, người đàn bà nầy là yêu quái trá h́nh. Tôi thấy tại Triều ca có khí yêu quá lộng, e không trừ sớm th́ nước nhà không yên. Xin Thừa Tướng xét lại cho.

Tỷ Can thấy người đàn bà nằm mê man như chết, nói : - Người đàn bà nầy bị ngươi đánh chết rồi, ngươi tiếc ǵ mà c̣n nắm tay ? Tử Nha đáp :

- Nó làm bộ yêu đó. Nếu tôi thả tay ra, nó liền biến mất th́ c̣n đâu bằng cớ. Dầu Thừa Tướng không xét, chém đầu tôi, tôi cũng không dám thả tay ra.

Tỷ Can bảo quan địa phương giải Tử Nha và người đàn bà đến trước Đền vua, rồi vào tâu với vua Trụ. Vua Trụ truyền dẫn Tử Nha vào. Tử Nha vẫn nắm tay kéo thây Ngọc Mỹ Nhơn theo, qú trước bệ rồng tâu rằng :

- Tôi là Khương Thượng, quê ở Hứa Châu, trước đây có học phép Tiên nên biết rơ được yêu quái. Nay tôi đang xem bói, gặp con yêu nầy giả h́nh vào quấy rối, nên bắt nó dâng cho Bệ hạ trừ họa cho dân.

Trụ Vương hỏi :

- Nó là người đàn bà rơ ràng, sao ngươi nói nó là yêu quái ?

Lúc ấy, Đắt Kỷ ở trong cung biết chuyện, than thầm : Khổ quá ! Sao em không chịu về thẳng vào động mà lại ghé thử quẻ Khương Thượng làm ǵ cho phiền. Để chị báo thù cho.

Khương Thượng tâu với Trụ Vương :

- Con mắt người thường không thể phân biệt được yêu quái hay người thường. Xin Bệ hạ cho tôi dùng lửa đốt nó th́ nó sẽ hiện nguyên h́nh cho Bệ hạ thấy.

Trụ Vương bằng ḷng. Tử Nha hoạ bùa trên xoáy của Ngọc Mỹ Nhơn để nó không biến đi được, rồi quăng vào lửa. Lửa đốt ngót 2 giờ mà xác con yêu vẫn c̣n nguyên, không hề bị cháy. Mọi người lấy làm lạ, có phần tin lời của Khương Thượng nói nó là yêu quái, v́ xác người thường th́ đă cháy thành tro rồi.  Trụ Vương sai Tỷ Can hỏi xem nó là yêu quái ǵ ?  Tử Nha nói :

- Để tôi bắt nó hiện h́nh cho mọi người thấy.

Nói xong, Tử Nha dùng lửa Tam Muội trong con mắt và lỗ mũi phun ra. Tỳ Bà Tinh thất kinh, lồm cồm ngồi dậy nói lớn : - Ta không cừu oán chi với ngươi, sao ngươi dùng lửa Thần đốt ta ?

- Ngươi là yêu quái tác hại mọi người, ta giết ngươi để cứu dân chớ đâu phải thù oán.

Vua Trụ và triều thần thấy người đàn bà đă chết, lửa củi đốt không cháy, lại ngồi dậy trong lửa nói được th́ thất kinh hồn vía, hoảng sợ thối lui. Tử Nha tâu :

- Xin Bệ hạ lui vào trong cho mau kẻo sấm nổ.

Đợi cho vua Trụ vào khuất bên trong, Tử Nha vỗ hai tay, tức th́ sấm nổ vang, yêu tinh liền hiện nguyên h́nh là cây đàn Tỳ Bà bằng ngọc thạch rất đẹp nằm giữa sân chầu.

Hoạn quan vào cung báo cho vua Trụ biết.

Vua Trụ hỏi Đắc Kỷ :

- Đàn Tỳ Bà bằng ngọc thạch làm sao thành tinh được?

Đắt Kỷ rất đau xót, nhưng cố cứu Tỳ Bà Tinh, nói :

- Xin Bệ hạ cho thần thiếp cây đàn Tỳ Bà ấy để thần thiếp đờn cho Bê hạ nghe.

Trụ Vương sợ đàn Tỳ Bà thành tinh trở lại nên không muốn đem vào cung. Đắt Kỷ nói :

- Yêu tinh đă chết thành cây đàn vô tri, làm sao thành tinh trở lại được, Bệ bạ chớ lo.

Vua Trụ nghe theo, truyền lấy cây đàn Tỳ Bà giao cho Đắc Kỷ. Đắc Kỷ đem đàn Tỳ Bà đặt trên lầu Trích Tinh để cho hấp thụ khí Âm Dương của Nhựt Nguyệt trong 6 năm, Tỳ Bà Tinh sẽ hiện h́nh trở lại thành người.

Đắc Kỷ lập kế trả oán Khương Thượng, nên tâu với vua Trụ :

- Khương Thượng có tài giỏi trừ được yêu quái, đáng được trọng dụng, xin Bệ hạ phong tước cho Khương Thượng

Trụ Vương truyền đ̣i Khương Thượng vào triều, phong cho chức Tư Thiên, coi việc Thiên văn. Tử Nha vâng mạng lănh chức và lănh áo măo làm quan.

Tử Nha trở về nhà, Dị Nhơn thấy áo măo xuê xang th́ mừng lắm, nhứt là Mă thị, nay thấy chồng làm quan vinh hiển th́ trọng chồng hết sức, mở tiệc ăn mừng.  Đắc Kỷ luôn luôn t́m cách hăm hại Khương Thượng để trả thù cho Tỳ Bà Tinh. Ngày kia, Đắc Kỷ vẽ một họa đồ rất công phu xây cất Lộc đài theo kiểu cảnh Tiên ở Bồng Lai, để vui thú cùng Trụ Vương, lại có thể trả thù được Khương Thượng. Đắc Kỷ tiến cử Khương Thượng làm chức Đốc Công xây cất Lộc đài. Vua Trụ nghe theo, đ̣i Khương Thượng vào dạy việc. Khương Thượng được lịnh liền bói một quẻ th́ biết rơ tai họa sắp đến với ḿnh. Khương Thượng rất có cảm t́nh với Thừa Tướng Tỷ Can, nên viết mấy lời tiên tri bỏ vào bao thơ niêm kín lại, đem đến trao cho Tỷ Can và nói :  - Nếu sau nầy Ngài có điều nguy hiểm, Ngài nên theo lời dặn trong thơ nầy mà làm th́ may ra tránh khỏi tai vạ. Đó là tôi đền ơn Ngài vậy. Tử Nha vâng chiếu vào triều yết kiến Trụ Vương, thấy Trụ Vương đang ngồi uống rượu với Đắc Kỷ. Vua phán : - Nay Trẫm muốn cất Lộc đài, nhưng trong triều xem ra không ai đủ tài giúp Trẫm. Khanh thay mặt Trẫm hoàn thành Lộc đài th́ công của Khanh chẳng nhỏ.  Tử Nha tiếp lấy họa đồ Lộc đài xem th́ thấy công tŕnh nầy rất xa xí, dùng rất nhiều châu ngọc để trang trí, chạm trổ tinh vi, bèn nghĩ thầm : Triều ca là chỗ ở tạm của ta, lẽ đâu ta hùa theo hôn quân để hại dân hại nước. Chi bằng ta t́m lời thoái thác, không được th́ bôn tẩu, chẳng để lụy thân. Tử Nha tâu :  - Lộc đài cao 49 thước, dùng rất nhiều châu ngọc gắn khắp nơi, đâu đâu cũng đều chạm trổ tinh vi. Muốn hoàn thành đài nầy, ít nhất phải làm trong 35 năm.  Đắc Kỷ bắt bẻ : - Lăo thầy bói nầy quen tánh nối dối, cất một cái đài, dầu lâu đến đâu cũng không quá 3 năm. Tử Nha có ư khi quân, không muốn làm tôi Bệ hạ, xin đem xử bào lạc cho rồi. Trụ Vương c̣n đang lưỡng lự th́ Tứ Nha tâu tiếp :  - Tôi xin Bệ hạ chớ nghĩ đến việc hưởng hết lạc thú ở đời mà quên cái khổ của muôn dân. Trong lúc kho tàng trống rỗng, dân gặp hạn hán, lúa không đủ ăn, tôi trung chán năn triều chánh, lũ nịnh lợi dụng t́nh thế gièm pha, cái nguy vong của nước nhà thấy rơ. Xưa vua Kiệt lập cung Quỳnh Dao mà mất nước, nay Bệ hạ lập Lộc đài là đi theo con đường ấy, e cơ nghiệp sẽ về tay một chư Hầu khác. Tuy đă muộn, nhưng cũng c̣n có thể cứu nguy được nếu Bệ hạ biết sửa ḿnh, chinh phục nhơn tâm, lo cho xă tắc. Tôi tri ân Bệ hạ, nên có lời tâm huyết, không nỡ lấy mắt nh́n. Vua Trụ nổi giận mắng : - Đứa già miệng dám mắng vua, nếu không trừng phạt th́ c̣n ai kính nể Trẫm nữa. Quân bây, hăy đem bào lạc đốt lăo ǵa nầy để làm gương cho kẻ khác. Vơ sĩ áp tới bắt Tử Nha, Tử Nha lẹ chân nhảy xuống lầu, chạy một mạch đến cầu Cửu Long, quân ngự lâm của vua Trụ cũng đuổi theo gần tới. Tử Nha nói lớn :  - Vua Trụ truyền đem bào lạc đốt ta, tánh ta không ưa lửa, nên thà chết dưới nước cho được mát thân. Nói rồi nhảy ùm xuống nước mất dạng.  Quân ngự lâm trở về báo với vua Trụ là Tử Nha đă nhảy xuống sông tự vận, chết mất xác.  Tử Nha là học tṛ Tiên, có phép thần thông, nên khi nhảy xuống nước th́ độn thủy trở về nhà, đi vào trang viện của Tống Dị Nhơn. Măthị nghe chồng về, tưởng Tử Nha c̣n làm quan, nên vội vă đón tiếp.  Tử Nha thuật rơ đầu đuôi công việc xảy ra, rồi nói với vợ là Mă thị nên cùng trốn qua Tây Kỳ lánh nạn. Mă thị thấy Tử Nha không c̣n làm quan nữa, lại là kẻ đang có tội với vua, nên tức giận nói :  - Tôi là dân triều ca, không phải kẻ trôi sông lạc chợ mà quên tổ tông, bỏ quê bỏ xứ. Nay đă sanh ra cớ sự như vầy, ông là kẻ có tội với vua, không ở đây được nữa, c̣n tôi không thể theo ông qua xứ khác, vậy từ đây, mạnh ai nấy lo, ông làm tờ ly dị cho tôi. Tử Nha khuyên can vợ mấy lần mà không được, buộc phải viết tờ ly

dị giao cho Mă thị, buồn bă ngâm 4 câu thơ :

Miệng con rắn hà nàm,

Nọc con ong ṿ vẽ,

Hai món độc c̣n vừa,

Bụng đàn bà quá lẽ.

Tử Nha vội sửa soạn hành lư, vào từ giă Dị Nhơn :

- Nhờ anh chị đùm bọc bấy lâu nay, tôi chưa trả được ơn sâu, lại phải t́m đường trốn tránh. Nay tôi qua lánh nạn nơi Tây Kỳ, ở đó có sanh chúa Thánh, chờ đợi ít lâu để tiến thân.

Dị Nhơn hết sức an ủi, rồi làm tiệc tiễn hành, dặn Tử Nha sớm gởi thơ về cho biết tin tức. Tử Nha tạ ơn rồi từ biệt lên đường.

Tử Nha qua khỏi sông Mạnh Tân và sông Hoàng Hà, đến ải Đồng quan là ải địa đầu của triều ca, thấy một số người rất đông vừa đi vừa than thở. Nh́n lối ăn mặc, Tử Nha biết họ là dân ở Triều ca, vội hỏi :

- Các ngươi ở Triều ca, sao lại đến đây than khóc ?

Trong đám ấy, có người biết Tử Nha nên đáp :

- Chúng tôi thật là dân Triều ca, nhưng v́ vua Trụ cất Lộc đài, khiến Sùng Hầu Hổ làm Đốc Công, nó ăn của nhà giàu, bắt dân nghèo làm thục mạng, một số đă chết v́ đói khát, chúng tôi phải bỏ trốn, v́ chịu không nổi.

- Các ông trốn đến đây thoát nạn rồi, sao c̣n than thở?

- Chúng tôi bị Tổng Binh trấn ải không cho qua ải tỵ nạn, lại đuổi chúng tôi trở lại Triều ca, chắc phải chết.

Tử Nha bảo dân chúng hăy yên tâm, để ông làm phép đưa dân qua ải, vào canh ba, khi nghe có gió lớn th́ nhắm mắt lại, kẻ nào mở mắt ra th́ mang họa đó, xin báo trước.

Đến canh ba, Tử Nha hướng về núi Côn Lôn quỳ lạy một hồi rồi niệm chú. Tức th́ giông gió nổi lên, Tử Nha bảo dân chúng nhắm mắt lại, chừng gió hết thổi mới được mở mắt ra. Trận gió thần thổi đám dân chúng bay qua các ải Xuyên Vân, Tỵ Thủy, Giới Bài, đến núi Kim Kê xứ Tây Kỳ th́ Tử Nha thâu phép lại, giông gió lặng yên. Tử Nha bảo dân chúng hăy mở mắt ra rồi nói :

- Đây là núi Kim Kê thuộc xứ Tây Kỳ, đợi sáng, chúng ta sẽ đi vào Tây Kỳ.

Sáng sớm, dân chúng dắt díu nhau vào Tây Kỳ xin tỵ nạn. C̣n Tử Nha đến ẩn mặt tại Bàn Khê, gieo câu sông Vỵ chờ thời, đói ăn trái cây, khát uống nước suối, vui th́ xem kinh luyện phép, buồn th́ câu cá giải khuây, ngâm thơ :

Về thế tám thu chầy,

Trần ai chịu đọa đày,

Nửa năm nương đất Trụ,

Một khắc đến non Tây.

Sợi nhợ kinh luân đó,

Miếng mồi thao lược đây.

Trước là câu cá nước,

Sau đợi hội rồng mây. .

Có một chú tiều tên Vơ Kiết nghe Tử Nha ngâm thơ th́ đến hỏi, Tử Nha đáp : - Tôi ở Hứa Châu, họ Khương tên Thượng, tên chữ là Tử Nha, biệt hiệu là Phi Hùng, Vơ Kiết cười lớn nói : - Ông xưng hiệu là con khỉ ốm th́ khỏi ai bắt bẻ. Vơ Kiết lại nắm cần câu dở lên thấy lưỡi câu ngay đơ th́ vỗ tay cười ngất rồi chắc lưỡi than :

- Hễ có trí th́ tuổi thơ cũng có trí, hễ không mưu th́ đầu bạc cũng không mưu. Muốn câu cá mà để lưỡi câu ngay đơ th́ đời nào bắt được cá, để tôi dạy ông uốn lưỡi câu. Tử Nha nói : - Ngươi biết một mà chẳng biết hai. Ta không dùng lưỡi câu cong để câu cá câu tôm, chỉ dùng lưỡi câu ngay để câu thời câu vận.

Ngày chờ thời giờ quư,

Vậy được của không cầu,

Chẳng kiếm tôm kiếm cá,

Mà kiếm công kiếm hầu.

Rồi Tử Nha nh́n ngay mặt Vơ Kiết nói :

- Khí sắc của ngươi xấu lắm !

Nói rồi ngâm bài thơ :

Mắt nọ đỏ bầm bầm,

Tṛng kia xanh dạng sạng,

Ra phố đánh chết người,

Chúng bắt thường nhơn mạng.

Vơ Kiết nạt lớn :

- Năy giờ tôi nói giỡn với ông một chút không hại ǵ, sao ông lại độc miệng rủa tôi như vậy ?

Dứt lời, Vơ Kiết hậm hực gánh củi lên vai đi thẳng xuống chợ Tây Kỳ, không thèm quay đầu lại.

Hôm ấy, vua Văn Vương ngồi xe qua Linh đài bói quẻ, quan quân theo hầu rất đông. Vơ Kiết quay gánh củi tránh đường, rủi đụng vào màng tang của một tên lính làm tên lính chết tươi. Vơ Kiết bị bắt phải thường nhơn mạng. Văn Vương vẽ một ṿng tṛn dưới đất làm trại giam, cắm một cái cây trước cửa Nam làm tên quân canh, bắt Vơ Kiết đứng trong ṿng tṛn. Xong rồi ai nấy đi hết. Vơ Kiết ngồi trong ṿng 3 ngày, nhớ tới mẹ, khóc lớn. quan Đại phu Táng Nghi Sanh đi ngang qua thấy vậy hỏi :- Hôm trước ngươi đụng chết tên lính, mạng thế mạng là lẽ thường, oan ức ǵ mà khóc dữ vậy ?- Tôi rủi làm chết người nên đâu dám than thở, ngặt tôi c̣n mẹ già, không ai nuôi dưỡng, không có tôi chắc mẹ tôi phải chết đói. Tôi nghĩ tôi bất hiếu nên tủi phận khóc than. Táng Nghi Sanh thương t́nh nên tâu với vua Văn Vương cho Vơ Kiết trở về lo châu cấp cho mẹ nó rồi đến mùa thu năm tới sẽ trở lại nạp mạng. Văn Vương bằng ḷng.

Vơ Kiết trở về gặp mẹ than khóc, rồi thuật lại hết các việc xảy ra cho mẹ nghe. Bà mẹ nói :

- Ông già câu cá ở Bàn Khê có tài coi tướng rất hay, con đến cầu khẩn may ra ông già ấy cứu được con.

Vơ Kiết nghe lời mẹ, lật đật chạy đến Bàn Khê, xin Tử Nha cứu mạng. Tử Nha thương Vơ Kiết là con hiếu thảo, nên chịu cứu, nhận Vơ Kiết làm đồ đệ, dặn Vơ Kiết về nhà đào một cái huyệt dưới gầm giường, bề sâu 4 thước (thước Tàu), tối xuống nằm dưới huyệt ấy mà ngủ, dặn bà mẹ thắp 2 ngọn đèn chong : một đặt dưới chân, một đặt trên đầu, rồi hốt 3 nắm gạo rắc lên ḿnh, tủ một mớ cỏ xanh trên miệng huyệt. C̣n ta ở đây, sẽ làm phép cứu ngươi. Sáng dậy, ngươi cứ leo lên đi đốn củi như thường, ngươi sẽ b́nh an vô sự, không cần phải đi nạp mạng. Vơ Kiết mừng rỡ, lạy thầy rồi thoát chạy ngay về nhà lo làm các việc đúng như lời thầy dạy. Sau đó, Tử Nha dạy vơ nghệ cho Vơ Kiết luyện tập thuần thục chờ ngày sau xông pha trận mạc để lập công danh. Mùa thu năm sau, Táng Nghi Sanh không thấy Vơ Kiết đến nạp mạng nên tâu cho vua Văn Vương rơ. Văn Vương xủ quẻ thấy Vơ Kiết đă chết nên bỏ qua. Mùa Xuân năm sau, Văn Vương cùng triều thần cỡi ngựa du Xuân ngoài thành Tây Kỳ, chợt Táng Nghi Sanh trông thấy Vơ Kiết, truyền lính bắt lại, đem tŕnh Văn Vương. Táng Nghi Sanh hỏi : - Ngươi hứa với Chúa công là ngươi trở về lo châu cấp cho mẹ già xong th́ trở lại chịu tội, sao không giữ lời hứa. - Bẩm Chúa Công, tôi đâu dám bỏ phép. Bởi có Ông già câu cá ở Bàn Khê, họ Khương tên Thượng, tên chữ là Tử Nha, biệt hiệu là Phi Hùng, bảo tôi làm học tṛ th́ cứu tôi toàn tánh mạng. Tôi c̣n mẹ già, không nỡ chịu chết bỏ mẹ, nên nghe lời để cho thầy tôi làm phép cứu tôi trốn pháp luật, xin Chúa Công nghĩ lại. Táng Nghi Sanh nghe nói th́ mừng rỡ tâu rằng :

- Vơ Kiết nói có ông già câu cá ở Bàn Khê biệt hiệu là Phi Hùng th́ quả là người mà Chúa Công ứng mộng. Xưa, vua Thương Cao thấy gấu bay mà được ông Phó Duyệt ra pḥ, nay Chúa Công thấy cọp có cánh chắc là ứng với Khương Thượng. Xin Chúa Công tha tội cho Vơ Kiết, khiến nó dẫn đến Bàn Khê rước Khương Thượng về triều. Văn Vương ra lịnh cho triều thần cùng ăn chay 3 ngày, tắm gội cho tinh khiết, sắm sửa lễ vật đến Bàn Khê rước người hiền về triều. Văn Vương rước được Tử Nha về triều th́ trọng dụng ngay, phong Tử Nha làm Thừa Tướng, cầm quyền trị nước. Vua Văn Vương hay tin Sùng Hầu Hổ cùng con là Sùng Ứng Bưu a dua theo vua Trụ, nhập bọn với 2 tên nịnh thần là Vưu Hồn và Bí Trọng, hà khắc dân chúng, tiếng oán than thấu đến Trời xanh. Vua Văn Vương cùng với Khương Thượng, đem búa Việt cờ Mao, kéo quân Tây Kỳ chinh phạt Sùng Hầu Hổ, bắt được Sùng Hầu Hổ và Sùng Ứng Bưu, truyền bêu đầu răn chúng. Dân chúng nghe tin thảy đều hả dạ, c̣n các chư Hầu khác đều thán phục. Văn Vương kéo binh trở về Tây Kỳ. Sau đó, Văn Vương lâm trọng bịnh, gọi Thái tử Cơ Phát đến bảo làm lễ gọi Khương Thượng là Thượng phụ, rồi gởi gấm con lại cho Khương Thượng. Văn Vương từ trần, hưởng thọ 97 tuổi. Thái tử Cơ Phát lên nối ngôi xưng hiệu là Vơ Vương. Thái Sư Văn Trọng tại triều đ́nh vua Trụ, thấy thế lực Tây Kỳ càng ngày càng lớn mạnh, e nguy hiểm cho triều đ́nh Trụ Vương, nên cử Trương quế Phương, Tổng Trấn ải Thanh Long đem 10 muôn binh chinh phạt Tây Kỳ. Trương quế Phương có tà thuật, binh của Tử Nha đánh không lại. Tử Nha bế cửa thành, dặn Na Tra và Vơ Kiết giữ thành, Tử Nha độn thổ lên núi Côn Lôn cầu cứu với thầy là Đức Nguơn Thủy. Tử Nha được thầy trao cho BẢNG PHONG THẦN, và dặn nếu đi ra mà có ai kêu th́ đừng dừng lại và đừng nói chuyện với người ấy. Nếu không làm y lời th́ sẽ bị người ấy kêu 36 đạo binh đến đánh. Tử Nha ôm Bảng Phong Thần đi ra, gặp Thân Công Báo là sư đệ, cũng ở Cung Ngọc Hư kêu lại nói chuyện, nên sau nầy bị Thân Công Báo kêu 36 đạo binh Triệt giáo đến đánh Tử Nha. Nhưng số oan nghiệt của Tử Nha phải trả, làm sao tránh khỏi. Thái Sư Văn Trọng mời được 4 vị đạo sĩ ở Cửu Long đảo đến giúp Trương quế Phương. Bốn vị nầy là : Vương Ma, Dương Sum, Cao hữu Càng và Lư Hưng Bá, cỡi những con thú lạ, làm cho các ngựa chiến của Tử Nha sợ hăi ngă lăn xuống đất. Tử Nha cự không lại nên phải độn thổ lên núi Côn Lôn lần nữa để cầu cứu thầy. Lần nầy, Đức Nguơn Thủy Thiên Tôn ban cho Tử Nha một con thú linh để cỡi tên là Tứ Bất Tướng, và 2 bửu bối là cây Đả Thần tiên, và Hạnh Huỳnh Kỳ. Nhờ các sư huynh của Tử Nha cho các học tṛ Tiên có phép báu xuống núi giúp Tử Nha nên Tử Nha đánh thắng và giết chết được 4 đạo sĩ ở Cửu Long Đảo. Thái Sư Văn Trọng lại sai Lỗ Hùng cùng với Vưu Hồn và Bí Trọng đem quân tiếp chiến với Trương quế Phương. Tử Nha làm phép tuyết sa, bắt sống được cả 3 người, chém lấy 3 thủ cấp để tế đài Phong Thần tại núi Kỳ Sơn. Thái Sư Văn Trọng lại mời được 10 vị Địa Tiên ở Kim Ngao đảo lập trận Thập Tuyệt đánh Khương Thượng. Trận nầy rất dữ, Đức Nhiên Đăng Đạo Nhơn ở núi Linh Tựu động Kim Giáp chỉ huy 12 vị Đại Tiên ở Cung Ngọc Hư, học tṛ của Đức Nguơn Thủy Chưởng giáo, mới phá được trận. Thập nhị Đại Tiên ở Cung Ngọc Hư, học tṛ Xiển Giáo, kể ra như dưới đây :

1. Thái Ất Chơn Nhơn, núi Càn Nguơn, động Kim Quang, có học tṛ là Na Tra.

2. Ngọc Đảnh Chơn Nhơn, núi Ngọc Tuyền, động Kim Hà, có học tṛ là Dương Tiễn.

3. Xích Tinh Tử, núi Cửu Tiên động Đào nguyên, có học tṛ là Ân Hồng.

4. Quảng Thành Tử, núi Thái Ḥa động Vân Tiêu, có học tṛ là Ân Giao.

5. Vân Trung Tử, núi Chung Nam động Ngọc Trụ, có học tṛ là Lôi Chấn Tử.

6. Đạo Hạnh Thiên Tôn, núi Kim Đ́nh động Ngọc Ốc, có học tṛ là Vi Hộ.

7. Cù Lưu Tôn, núi Giáp Long động Phi Vân, có học tṛ là Thổ Hành Tôn.

8. Thanh Hư Đạo Đức Chơn Quân, núi Thanh Phong động Tử Dương, có học tṛ là Dương Nhậm.

9. Văn Thù Quảng Pháp Thiên Tôn, núi Ngũ Long động Vân Tiêu, có học tṛ là Kim Tra.

10. Phổ Hiền Chơn nhơn, núi Phổ Đà động Lạc Đà, có học tṛ là Mộc Tra.

11. Từ Hàng Chơn nhơn, núi Cửu Cung động Bạch Hạc.

12. Huỳnh Long Chơn Nhơn, núi Nhị Tiên động Ma Cô.

Trận Thập Tuyệt đă bị phá tan. Lần nầy Thái Sư Văn Trọng thân chinh đánh Khương Thượng, bị các Tiên Xiển Giáo vây đánh, phải bỏ mạng nơi núi Tuyệt Long, hồn bay lên đài Phong Thần. Về sau, Đức Khương Thượng đọc sắc phong cho Thái Sư Văn Trọng làm Cửu Thiên Cảm Ứng Lôi Thinh Phổ Hóa Thiên Tôn, đứng đầu Lôi Bộ. Trụ Vương sai thêm nhiều tướng tài khác chinh phạt Tây Kỳ, nhưng tất cả đều thất bại.

Ngày 15 tháng 3 năm thứ 13 đời Châu Vơ Vương, nhà vua lập đàn bái tướng, phong Tử Nha làm Đại Nguyên Soái Chinh Đông, họp binh với 800 chư Hầu tại sông Mạnh Tân, cùng đi phạt Trụ. Đức Nguơn Thủy Thiên Tôn giáng hạ ban lời huấn dụ Tử Nha, rồi sai Bạch Hạc Đồng tử rót 3 chung rượu đem đến tiễn hành Tử Nha :

- Chung nầy khuyên ngươi gắng công pḥ Chúa.

Tử Nha tiếp lấy chung rượu uống cạn.

- Chung nầy khuyên ngươi trị nước công minh.

Tử Nha cũng lănh lấy uống cạn.

- Chung nầy khuyên ngươi sớm họp mặt chư Hầu.

Tử Nha cũng lănh lấy chung rượu uống cạn.

Tử Nha bạch thầy :

- Nhờ ơn thầy dạy dỗ, đệ tử mới dám lănh ấn chinh Đông, song không biết đường đi hung kiết thế nào, xin thầy chỉ dạy.

- Ngươi đừng ngại chi cả, hăy nhớ bài kệ nầy :

Ải Giải Bài, Tru Tiên lập trận,

Xuyên Vân sao khỏi gặp Ôn Hoàng.

Giữ ǵn Đạt, Triệu, Quang, Tiên, Đức,

Qua trận Vạn Tiên thân mới an.

Sau đó, Đức Nguơn Thủy trở về Cung.

Các vị Tiên, sư huynh của Tử Nha, cũng rót rượu mừng và tiễn hành Tử Nha chinh Đông. Từ Nha chuẩn bị đầy đủ 60 muôn binh, vào thỉnh Vơ Vương ngự giá thân chinh. Hai nghĩa sĩ ở núi Thú Dương là Bá Di và Thúc Tề ra cản đầu ngựa, không cho Vơ Vương đi đánh Trụ. Tử Nha cố gắng giải thích nhưng 2 người nhứt định không chịu nghe. Quân sĩ phải gỡ tay 2 người ra, Vơ Vương mới đi khỏi được. Đi vừa tới núi Kim Kê th́ gặp đạo binh của Khổng Tuyên, tướng của vua Trụ cản đường. Nhờ Chuẩn Đề Bồ Tát ở Tây phương đến thâu phục Khổng Tuyên, bắt Khổng Tuyên hiện nguyên h́nh là một con công đỏ (Châu Khổng Tước), được Đức Chuẩn Đề thâu làm đệ tử, cỡi bay về Tây phương. Tử Nha kéo binh đến ải Giảùi Bài th́ gặp trận Tru Tiên, trận nầy rất dữ, do Thông Thiên Giáo chủ lập ra để đánh các Tiên Xiển giáo. Đức Lăo Tử, Đức Nguơn Thủy cùng 12 vị Tiên giáng phàm phá trận Tru Tiên nầy, có Đức Chuẩn Đề Bồ Tát và Tiếp Dẫn Đạo Nhơn ở Tây phương đến giúp sức. Đức Lăo Tử dùng Nguyên khí hoá Tam Thanh, đồng đánh vào 4 cửa trận, làm rối trí Thông Thiên Giáo chủ. Hôm sau, Đức Lăo Tử, Nguơn Thủy, Đức Chuẩn Đề và Tiếp Dẫn Đạo Nhơn dẫn các đệ tử đến đánh tan trận Tru Tiên, Thông Thiên giáo chủ đại bại hóa hào quang bay trốn mất. Tử Nha thâu được ải Giải Bài, rồi kéo quân đến ải Xuyên Vân, gặp trận Ôn Hoàng của Lữ Nhạc và Trần Canh. Tại đây, Khương Thượng bị nạn 100 ngày trong trận Ôn Hoàng. Thanh Hư Đạo Đức Chơn Quân sai học tṛ là Dương Nhậm đem cây quạt Ngũ Hỏa Thần Diệm xuống quạt tiêu trận Ôn Hoàng, cứu Tử Nha. Binh Châu đoạt ải Xuyên Vân, liền kéo binh đến ải Đồng Quan. Tướng giữ ải là Dư Hóa Long có 5 người con trai là : Dư Đạt, Dư Triệu, Dư Đức, Dư Quang, Dư Tiên, đều có học phép Triệt giáo, luyện được 5 sắc đậu, rải xuống dinh Châu làm cho tướng sĩ đều bị bịnh đậu đau đớn không dậy nổi. Nếu không có thuốc cứu chữa, th́ trong 5 ngày, bịnh phát ra phải chết. Ngọc Đảnh Chơn Nhơn sai Dương Tiễn lên Hỏa Vân Động, vào lạy 3 vị Hoàng Đế : Phục Hy, Thần Nông, Huỳnh Đế, để xin thuốc cứu bịnh. Thần Nông ban cho 3 hoàn thuốc và cây Thăng ma để trị bịnh đậu. Nhờ uống được thuốc, Tử Nha và tướng sĩ đều lành bịnh, đồng kéo quân đến đánh ải, giết cha con họ Dư, lấy được ải Đồng Quan. Thông Thiên Giáo chủ bị bại mấy trận, tức ḿnh lập trận Vạn Tiên, vô cùng lợi hại để đánh các Tiên Xiển giáo trả thù. Đức Lăo Tử, Đức Nguơn Thủy và 2 vị Phật ở Tây phương phải xuống phàm một lần nữa để phá trận Vạn Tiên. Thông Thiên Giáo chủ phải thua chạy, đến một chân núi kia mới dừng lại ngồi nghỉ, trong ḷng rất tức giận, định lập thêm một trận nữa gọi là trận Địa Thủy Hỏa Phong để giết chết 2 vị Giáo chủ Xiển giáo th́ mới hả dạ. Giữa lúc đó, nơi hướng Nam có một vừng mây Ngũ sắc hiện ra, hào quang sáng ḷa, mùi hương thơm nực, rồi có một Ông Lăo đi đến ngâm lớn :

Từ đời Bàn Cổ ẩn trong rừng,

Dạy được ba tṛ, dạ rất ưng,

Xiển giáo chia ra cùng Triệt giáo,

Cho hay cũng một gốc Hồng Quân.

Thông Thiên Giáo chủ giật ḿnh, biết Thầy ḿnh là Hồng Quân Lăo Tổ đi đến, liền qú mọp xuống nghinh tiếp. Hồng Quân Lăo Tổ phán : - Các ngươi, 2 bên đều có lỗi lầm cả. Nay phải bỏ lỗi lầm để ḥa thuận cùng nhau. Nếu đứa nào không nghe lời, Ta không nh́n là đệ tử của Ta nữa. Hồng Quân Lăo Tổ dắt Thông Thiên đến Lư Bồng để gặp Lăo Tử và Nguơn Thủy. Hai vị nầy lật đật chạy ra khỏi Lư Bồng, qú mọp xuống đất nghinh tiếp Lăo Tổ. Hồng Quân Lăo Tổ nói :

- Bởi các ngươi dạy đệ tử không nghiêm, nên sanh ra sát kiếp, Xiển giáo và Triệt giáo giao tranh nhau. Nay Ta xuống đây lo việc giải ḥa. Tai Ta không muốn nghe căi lư, từ nay phải ăn năn chừa lỗi. Lăo Tử và Nguơn Thủy đồng cúi đầu dạ một tiếng rồi thưa rằng :

- Chúng con không dám cải lịnh.

Hồng Quân Lăo Tổ nói :

- Ba đệ tử hăy lại đây Ta bảo.

Lăo Tử, Nguơn Thủy và Thông Thiên đến qú trước mặt Đức Hồng Quân Lăo Tổ. Lăo Tổ phán :

- Trên bước đường hành đạo, v́ giáo lư của hai bên khiếm khuyết nên mới có cuộc tranh hành. Nhưng cũng do mệnh Trời định, gấp rút cho đủ số phong Thần. Song về lỗi lầm th́ Thông Thiên lỗi nhiều hơn, không phải Ta thiên vị.Tuy vậy, Ta đến đây không phải để luận phải quấy mà chỉ muốn giảng ḥa, v́ phải quấy không ích ǵ, chỉ có thuận ḥa mới quí. Mỗi bên phải nhịn nhau một chút, rồi bỏ những tánh khí của ḿnh, trở về núi tu hành, đừng sanh sự lôi thôi nữa. Hồng Quân Lăo Tổ lấy trong bầu thuốc ra 3 viên chia cho 3 đệ tử, rồi nói :

- Chúng bây nuốt mỗi đứa 1 viên thuốc rồi Ta giảng cho nghe.

Ba vị đệ tử uống thuốc xong, Lăo Tổ nói :

- Thuốc nầy không phải thuốc bổ mà là thuốc bịnh, bịnh ấy là bịnh nóng giận. Hăy nghe bài kệ :

Bởi v́ ba gă khiến đua tranh,

Lỗi đạo làm em, lỗi phận anh.

Từ ấy c̣n mong ḷng cự địch,

Thuốc linh khắc phạt, mạng tan tành.

Ba vị đệ tử đồng tạ ơn Thầy. Hồng Quân Lăo Tổ bảo Thông Thiên theo chơn ḿnh về Cung Tử Tiêu, đừng dạy học tṛ nữa. Lăo Tử, Nguơn Thủy và các học tṛ Tiên đồng lạy đưa Hồng Quân Lăo Tổ. Xong, Nguơn Thủy nói :

- Nay hai ta và 12 vị đệ tử trở về động tu hành. C̣n Tử Nha lo việc phạt Trụ, hoàn thành Bảng Phong Thần rồi mới trở về núi tu luyện.

Khi Nguơn Thủy Thiên Tôn đi được một lúc, Bạch Hạc Đồng tử thấy Thân Công Báo cỡi cọp chạy trốn. Nguơn Thủy liền trao Ngọc Như Ư và truyền Huỳnh Cân Lực sĩ bắt Thân Công báo trị tội. Huỳnh Cân Lực sĩ đem nạp Thân Công Báo. Nguơn Thủy nói :

- Khi trước ngươi thề làm sao th́ bây giờ chịu vậy.

Thân Công Báo cúi mặt làm thinh chịu tội. Nguơn Thủy lấy tấm nệm quăng ra, Huỳnh Cân Lực sĩ bó Thân Công Báo lại rồi đem nhận đầu xuống biển Bắc cho chết đuối.

Tử Nha vào chiếm ải Lâm Đồng, chiêu an bá tánh.

Sau đó, Tử Nha tiến quân đến huyện Dẫn Tŕ, nhờ lá bùa của Cù Lưu Tôn, Vi Hộ mới giết được tướng thủ thành Dẫn Tŕ là Trương Khuê.

Tử Nha thỉnh Vơ Vương qua sông Hoàng Hà, rồi kéo quân đến Mạnh Tân đóng trại để hội các chư Hầu. Lúc bấy giờ, Trụ Vương phong Viên Hồng làm Đại Nguyên Soái, đem binh đến Mạnh Tân đánh với Khương Thượng.

Viên Hồng là con vượn bạch tu lâu năm, có Thất thập nhị Huyền Công giống như Dương Tiễn, nên Dương Tiễn đánh nó không thắng nổi, may nhờ bà Nữ Oa cho mượn phép báu là Sơn hà Xă Tắc Đồ, mới lập kế bắt Viên Hồng giết đi. Chư Hầu đă họp tại Mạnh Tân đủ mặt, Tử Nha mừng rỡ nói :

- Trời định ngày Mậu Ngũ, chư Hầu nhóm đủ mặt để kéo quân đến Triều ca, nay quả thật như vậy.

Các tướng xin Tử Nha cho đánh gấp thành Triều ca, Tử Nha không chịu, sợ chết nhiều dân chúng. Tử Nha bèn thảo Tờ Hịch kể tội vua Trụ, nêu cao nhơn đức của Vơ Vương, khuyên dân chúng trong thành sớm hàng đầu dâng thành, hoặc t́m phương trốn lánh để bảo vệ tánh mạng và tài sản khi quân lính đánh thành. Tờ Hịch nầy được chép ra nhiều bổn, rồi kẹp vào tên, bắn vào thành Triều ca. Dân chúng trong thành nhận được, xem xong th́ hưởng ứng, nửa đêm mở cửa thành rước Tử Nha và các trấn chư Hầu nhập thành.

Trụ Vương hay tin, biết không c̣n cách nào thoát chết nên lên lầu Trích Tinh tự thiêu ḿnh. Hồn vua Trụ bay lên đài Phong Thần.

C̣n 3 con yêu : Đắc Kỷ, Hồ Hỷ Mỵ, Tỳ Bà Tinh, bị Bà Nữ Oa dùng dây Phược yêu bắt trói giao cho Tử Nha. Ba con yên đồng kêu oan :

- Năm xưa, Nương Nương dùng cây phướn chiếu yêu gọi chị em tôi đến, sai vào cung phá trí khôn của Trụ Vương, phá tan cơ nghiệp Thành Thang. Chúng tôi vâng lịnh làm cho Trụ Vương hết vây cánh, nước nhà nghiêng ngửa. Nay chúng tôi đến định tâu cùng Nương Nương th́ bị Dương Tiễn và 2 tướng đuổi theo, xin Nương cứu mạng. Nếu Nương Nương bắt chị em tôi giao cho Khương Thượng th́ Nương Nương xuất hồ phản hồ sao ? Nữ Oa Nương Nương nói :

- Ta sai chúng bây phá cơ nghiệp vua Trụ là hợp ư Trời. Ta dặn các ngươi đừng giết hại kẻ vô tội, song chúng bây không nghe, làm nhiều điều tội ác, tội đáng chết. Sao chúng bây bảo ta xuất hồ phản hồ ?

Ba con yêu cúi mặt làm thinh chịu tội. Dương Tiễn, Lôi Chấn Tử và Vi Hộ đem 3 con yêu nạp Tử Nha.

Nhờ bầu gươm báu của Lục Yểm, Tử Nha mới chém đầu được 3 con yêu, rồi cho đem bêu đầu ngoài cửa thành. Vơ Vương bảo Tử Nha phá Lộc đài, lấy châu báu chia cho dân nghèo, mở kho lúa tại Cự Kiều phát chẩn cho dân bớt đói khổ. Các trấn chư Hầu đồng tôn Vơ Vương lên ngôi Thiên Tử, chấm dứt nhà Ân, mở ra nhà Châu, đại xá thiên hạ. Tử Nha và Châu Công Đán sắt đặt các việc xong xuôi th́ pḥ Vơ Vương trở lại Tây Kỳ. Tử Nha tâu rằng :

- Tôi phạt Trụ đă xong, Bệ hạ dựng nghiệp nhà Châu đă yên, song c̣n mấy trăm người tử trận chưa được phong Thần, xin Bệ hạ cho tôi lên núi Côn Lôn ít bữa để lănh sắc nơi Tôn Sư thi hành cho xong việc. Vơ Vương y tấu. Xảy có quân vào báo :

- Có Phi Liêm và Ác Lai là tôi của vua Trụ, trước đây bỏ trốn, nay đem Ngọc Tỷ đến dâng Bệ hạ.

Tử Nha tâu :

- Có Phi Liêm và Ác Lai là 2 đứa nịnh của vua Trụ, trong loạn lạc ẩn ḿnh, nay thái b́nh đến đây nhờ tước lộc. Loài gian hùng như vậy c̣n để làm chi, song tôi có việc dùng, xin Bệ hạ cứ đ̣i vào phong chức.

Sau đó, Tử Nha độn thổ lên Cung Ngọc Hư, vào ra mắt Đức Nguơn Thủy Thiên Tôn. Ngài nói :

- Ta đă định rồi, Tử Nha hăy trở về đài Phong Thần, sẽ có sắc chỉ đến đó, Tử Nha lạy thầy rồi độn thổ trở về tâu lại cho Vơ Vương rơ, xong đến đài Phong Thần chờ sắc chỉ tới. Bỗng nghe tiếng nhạc inh ỏi, mùi hương sực nức, ngó thấy Huỳnh Cân Lực sĩ cầm phướn che tàn, Bạch Hạc Đồng tử bưng Sắc ấn từ trên mây hạ xuống. Tử Nha đón nhận sắc chỉ để lên bàn Hương án rồi lạy tạ. Bạch Hạc và Huỳnh Cân Lực sĩ từ giă trở về.

Tử Nha sửa soạn đệ Sắc ấn lên núi Kỳ sơn. Bá Giám hay tin, vội ra nghinh tiếp. Tử Nha vào trong đài, để Sắc ấn trên hương án, truyền cho Vơ Kiết và Nam Cung Hoát làm phướn Bát Quái bằng giấy trấn 8 hướng, làm 10 cây cờ Thiên Can và 12 cây cờ Địa Chi, dẫn binh mă ba ngàn, lập trận Ngũ phương chung quanh đài.

Khương Thượng tắm gội sạch sẽ, truyền đặt bàn Hương án, bên tả dựng Hạnh Huỳnh Kỳ, bên hữu dựng Đả Thần tiên, mặc áo giáp hẳn hoi, mở Sắc ra tuyên đọc cho các hồn nghe cho rơ :

"Hỗn Nguơn Giáo Chủ Nguơn Thủy Thiên Tôn ban sắc: Hỡi ôi ! Tiên phàm khác bậc, người không đạo đức khó thành, quỉ riêng phần, kẻ ở gian tà phải đọa. Địa Tiên dầu rơ điều biến hóa, không ḷng lành cũng mất lẽ trường sanh. Thiên Tiên tuy thông hiểu huyền quan, ra trận dữ cũng khó thành Chánh quả. Các ngươi, tuy thông đạo cả, một điều không dập được lửa ḷng, ra trận giao phong, sa trường bạc mạng; kiếm kẻ tôi ngay con thảo, v́ trung nầy hiếu nọ bỏ ḿnh; có người đức hạnh tiết trinh, bởi lẽ ấy tiết trinh hủy hoại; bị luân hồi báo oán, mắc nhân quả trả oan; nên ta chẳng an, động ḷng phải thưởng.

Nay ban sắc cho Khương Thượng, thay mặt ta đứng phong Thần, từ 3 bậc 3 phần, phong vào 8 Bộ. Các ngươi khỏi luân hồi chịu khổ, một ḷng cố báo bổ giúp đời, nếu có công được hưởng lộc Trời, bằng có lỗi sẽ bị oai sấm sét."

Tử Nha đọc sắc rồi đem để trên bàn Hương án. Tay tả cầm Hạnh Huỳnh Kỳ, tay hữu cầm Đả Thần tiên, gọi lớn :

- Bá Giám, hăy treo Bảng Phong Thần trước đài cho các hồn xem rơ, lúc nào kêu tên, các hồn mới được lên đài. Bá Giám tuân lệnh, mở Bảng Phong Thần thấy tên ḿnh đứng trên hết. Các hồn đồng đến xem.  Bỗng Tử Nha goị : Bá Giám nghe sắc. Bá Giám liền cầm phướn đi lên đài qú xuống. Tử Nha đọc :

- Thái Thượng Nguơn Thủy truyền sắc : Bá Giám xưa là Nguyên soái của Huỳnh Đế, vâng lịnh đánh Xi Vưu, trước cũng lập công nhiều phen, sau bị chết nơi biển Bắc, hồn trung lạnh lẽo, cũng khá thương, chừng gặp Khương Thượng đem về giữ đài Phong Thần, đứng đầu 8 Bộ, gồm 365 vị.

Bá Giám lạy tạ ơn rồi xuống đài.

Rồi lần lượt Tử Nha đọc sắc Phong Thần cho các hồn khác đủ trong 8 Bộ. Các vị Thần được phong đều rời khỏi đài, bay đi đến các nơi nhận lănh phận sự. Tử Nha xuống đài, truyền cho Nam Cung Hoát về triều ra lịnh cho bá quan văn vơ, ngày mai phải đến Kỳ sơn đủ mặt. Ngày hôm sau, Tử Nha truyền lịnh trói Phi Liêm và Ác Lai đem xử trảm. Hai người kêu oan. Tử Nha nói :

- Hai đứa bây là lũ nịnh gian hùng, bày cho vua Trụ nhiều điều hại dân hại nước, lại trộm ngọc ấn đi đầu Châu, thật không chút lương tâm, sao hai ngươi bảo là vô tôi.

Vơ sĩ chém xong hai người, Tử Nha lên đài Phong Thần đọc sắc :

- Thái Thượng Nguơn Thủy truyền sắc : Phi Liêm và Ác Lai là 2 tên gian nịnh, ngỡ trộm ngọc ấn cầu vinh, không dè đem thân đi nạp. Bởi có tên trong Bảng Phong Thần nên khó trốn. Nay phong cho Phi Liêm làm Băng Tiêu, Ác Lai làm Ngơa Giải, tuy là chức xấu, không được làm hung.

Phi Liêm và Ác Lai qú nghe đọc sắc xong th́ lạy tạ rồi bay đi lănh chức. Việc Phong Thần chấm dứt, bá quan lui trở về triều. Hôm sau, Vơ Vương lâm triều. Bảy vị Thánh (Thất Thánh) gồm : Lư Tịnh, Mộc Tra, Kim Tra, Na Tra, Dương Tiễn, Lôi Chấn Tử và Vi Hộ, đồng qú tâu :

- Chúng tôi là người ở núi non, vâng lịnh thầy xuống giúp Bệ hạ. Nay đă thành công, chúng tôi xin trở về núi tu hành, c̣n việc phú quí, chúng tôi không muốn.

Vơ Vương rất buồn rầu, nhưng biết không thể cầm giữ Thất Thánh được, nên truyền làm tiệc tiễn hành tại Trường đ́nh. Vơ Vương và Tử Nha gạt lệ chia tay cùng Thất Thánh.

Hôm sau, Vơ Vương lâm triều phán :

- Hôm qua 7 vị về non, Trẫm buồn quá sức. Nay đến việc phân phong cho các tướng có công trận, Trẫm giao cho Thượng Phụ và Ngự đệ Châu Công Đán thay mặt Trẫm làm cho công bằng.

Hai vị liền trở về dinh, bàn tính với nhau, rồi làm sớ tâu tŕnh. Trong sớ xin truy phong cho 3 vị Vương tổ : Thái Vương, Vương Quí, Văn Vương, đồng làm Thiên Tử. Châu Công Đán làm Lỗ Hầu cai trị nước Lỗ, Khương Thượng làm Tề hầu cai trị nước Tề, vv . . . . . . .

Vơ Vương truyền dời đô về phủ Tây An, huyện Hàm Dương. Sau đó, ban búa Việt cờ Mao cho Khương Thái Công về nước Tề an dưỡng tuổi già, được quyền chinh phạt các nơi. Khương Thái Công đến nước Tề, nhớ đến người anh kết nghĩa Tống Dị Nhơn là ân nhân của ḿnh, nên t́m đến rước về chung hưởng giàu sang, nhưng vợ chồng Dị Nhơn đều đă qua đời, con cháu đều rất giàu sang.

Khương Thái Công cai trị nước Tề được 5 tháng th́ dân chúng nghiêm trang, thái b́nh thạnh trị.

Thái Công có vợ, sanh được 2 người con trai, con trưởng tên là Cáp. Thái Công nhớ lời thầy dặn, truyền ngôi cho con là Cáp, rồi Thái Công trở về non tu luyện. C̣n con trai kế được Vơ Vương phong làm Kỷ Hầu, cai trị nước Kỷ.

Trong Kinh Tam Nguơn Giác Thế, có đăng một bài Thánh giáo của Khương Thái Công giáng cơ ban cho, xin trích lục ra dưới đây :

Đêm 16 tháng Giêng năm Nhâm Thân (1932)

THI :

NGĂ ư tần giao kết thiện nhơn,

KHƯƠNG ninh duy hữu đức tài chơn.

THÁI dương nhứt xuất giang sơn hiện,

CÔNG trực pḥ tŕ hữu thiện duơn (duyên) .

DIỄN DỤ : Con người ở thế gian là chỗ ân oán trả vay, đền bồi đ̣i kéo, ấy là nợ tiền khiên oan trái. C̣n một điều khổ nhứt là : Sanh, Lăo, Bịnh, Tử. Người làm quan, dầu đeo ấn soái, đề binh khiển tướng, chinh Nam phạt Bắc, quản xuất vạn binh, sức mạnh như hùm, vạn phu nan địch, rủi cảm sương phong, nhuốm trầm kha chi bệnh, th́ gió thổi cũng xiêu, có lấy chi làm vơ nghệ, c̣n rủi bị sàm thần vu tấu, gặp lúc hôn quân mà bị h́nh th́ vinh hiển như huỳnh lương chi mộng. Làm giàu chịu chữ bất nhơn, cả nhà quyến thuộc chung hưởng, tội bất nhơn gánh vác một ḿnh. Khi giàu sang, thiếu chi thân bằng cố hữu, thê thê thiếp thiếp; gặp lúc nghèo, vợ ở lảng, thiếp làm ngơ, bà con biếng ngó, lời ngạn ngữ cũng chẳng thông, tôi tớ đều lờn mặt. Vậy, người ở thế gian, dầu giàu sang danh lợi, có ích chi mà lại buộc điều oan gia trái chủ, xét lại chẳng hơn một chữ nhàn, tu hành khỏi lo ràng buộc. Khuyên thế trước lo xở nợ tiền khiên và đừng gây thêm mối nợ rồi bị luân hồi mà vay trả Ta khi ở thế, xét đủ việc đời bĩ thới, nên ngă ḷng việc thế gian, tầm thầy học đạo, đặng mối chơn truyền. Học đạo Tiên gia đă 40 năm, cũng v́ kiếp trước gây nợ với Thân Công Báo 36 khoản, cho nên lúc phạt Trụ hưng Châu, thầy ta sai trở lại dương trần mà phụ tá Vơ Vương cho thành đế nghiệp, và trả việc cừu hận của Thân Công Báo cho rồi rảnh.

Ta khuyên thiện nam tín nữ lo tu và xở cho hết nợ hồng trần th́ ngày sau khỏi tái sanh mà trả nợ.

 

                                  THI rằng :

 

Trần gian là chỗ kết oan gia,

Nợ nước ơn vua với đạo nhà.

Trái chủ khi cho ra có một,

Người vay lúc trả phải huờn ba.

Bưng vinh thẳng bước niên c̣n trẻ,

Gánh nhục dừng chơn tuổi đă già.

Thuyền lỡ chơi vơi ḍng khổ hải,

Nhắm chừng bỉ ngạn rán lần qua.

 

KHƯƠNG THÁI CÔNG