Rút Bài Thuyết Đạo Của Đức Hộ Pháp, tại Đền Thánh đêm 17-8 Quư Tỵ (1953).
Đêm nay là ngày vía của Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ. Đức Lư Giáo Tông chúng ta lấy làm hân hạnh nhờ ơn Đức Chí Tôn ban
cho chúng ta một người Anh Cả Thiêng Liêng hiển linh quyền năng vô đối,
Bần Đạo nhớ lại hồi buổi ban sơ mới khai Đạo, thật ra Bần Đạo không có đức
tin ǵ hết, không có đức tin đến nước Đại Từ-Phụ tức cười. Ngài đến nhà
Bần Đạo năm Ất Sửu dạy cả mấy anh-lớn ngày nay là chức sắc của Đạo, đi đến
mọi nhà, thật ra Đức Chí Tôn đến thăm, đến viếng mọi con cái của Ngài, Bần
Đạo không đức tin ǵ hết , nghe nói Tiên giáng đi theo nghe Thi ( thơ ) chơi,
làm cho Đại Từ-Phụ phải tức cười. Ngài cho bài thi ai nấy cũng tốt, duy có
bài thi của Bần Đạo rất di hợm như vầy :
" Ngao ngán không phân lẽ thiệt khôn ,
Thấy thằng áp út quá buồn ḷng .
Muốn giàu Thầy hứa đem cho của ,
Cái của cái công phải trả đồng "
Đại Từ-Phụ c̣n thêm hai chử "Nghe con" cho bến bảy tháng lúc xuống ở Thủ Đức,
năm thiên hạ bị bịnh chướng, khi không khởi phù ḿnh rồi chết, nhứt là ở
tại Thủ Đức, lắm bịnh nhơn quá chừng, Đức Chí Tôn biểu xuống ở Thủ Đức cứu
bịnh cho họ trong bảy tháng, xuống ở thánh thất của Đạo, nhờ Đức Lư giảng
dạy với ng̣i bút, trọn bảy tháng trường mới biết Đạo. Có cái hay ho hơn
hết là những điều ǵ Ngài dạy trong cơ bút là những sở hành trong kiếp
sanh của Bần Đạo. Bần Đạo làm chứng một Đấng mà Đức Chí Tôn đă lựa làm Anh
Cả của chúng ta linh hiển lạ lùng, không cần lập đi lập lại, đối với Chức
sắc tức nhiên cả thánh thể của Đức Chí Tôn, Bần Đạo cốt yếu nói với toàn
con cái của Ngài nam nữ lưỡng phái phải định tâm và kiên cố đức tin của
ḿnh, các việc Đức Chí Tôn tiên tri Bần Đạo vừa nói từ từ, nói đủ hết, Bần
Đạo thú thật nhờ cái linh hiển của Ngài, nhờ Ngài giáo hóa nên Bần Đạo hôm
nay được khối đức tin mạnh mẽ to tát. Nếu không có nhờ anh cả vô biên linh
hiển ấy chắc là phận sự yếu trọng của Bần Đạo hôm nay chỉ mê hồ, đức tin
yếu ớt, thiếu đức tin, thiếu cương quyết, thiếu tâm đạo vững chắc .
Bần Đạo tưởng, nên ba điều ấy thiếu th́ nền chơn giáo không được nên h́nh
như thế nầy, cả thảy con cái Đức Chí Tôn điều biết không có nền chơn giáo
nào chỉ có hai mươi mấy năm mà đặng bành trướng, danh thể của nó cao trọng
truyền bá một cách mau chóng, như nền Đạo Cao Đài của Đức Chí Tôn.
Hôm nay Bần Đạo chứng chắc quả nhiên như vậy, cái năng lực của Đạo hôm nay
được như thế cũng nhờ Đức Lư Đại Tiên cầm quyền thiêng liêng vô đối, nhờ
người anh cả của ta là Đức Lư Giáo Tông điều khiển quyền năng vô h́nh của
Ngài. Bần Đạo hôm nay mới đặng cái quyền và năng lực bành trướng như thế
nầy. Có một điều Bần Đạo dặn trước những kẻ tưởng Ngài vô h́nh coi thường
Ngài, những kẻ thiếu đức tin dám khi rẽ quyền linh của Đạo, oai quyền của
Ngài coi chừng Ngài trừng trị, những kẻ nào phạm nhầm Thiên Điều, Bần Đạo
dám quả quyết khó tránh nơi tay của Ngài. Các con cái Đức Chí Tôn coi Ngài
rất công b́nh. Ngài dạy: " Phải lập công, lập đức, lập ngôn, tức nhiên là
(Tam-Lập) Ngài rất công b́nh, rất oai quyền, Thiên vị chúng ta nhờ Ngài
bảo vệ không thế ǵ sơ sót. Đức Chí Tôn coi Ngài như một tướng soái, oai
quyền của Ngài lớn lắm. Ở nơi Ngọc Hư Cung quyền của Ngài yếu trọng vĩ đại
to tát lắm. Cả con cái của Ngài cũng nên tin nơi Ngài mong mỏi nơi Ngài để
cả ước vọng và đức tin nơi Ngài . Bàn Đạo xin khuyên một điều, lớn nhỏ phải
yên tâm giử đạo, đừng sơ sót, nhứt là đừng có ỷ công khi lịnh, coi chừng
Ngài, Ngài trừng trị một cách oai quyền, trước mắt Bần Đạo đă thấy, hai
mươi mấy năm lập Đạo cùng Ngài, Bần Đạo quả quyết như vậy. Chúng ta hăy để
trọn đức tin nơi Ngài một Đấng công chánh oai quyền, nhưng rất yêu ái.
Chúng ta được Ngài bảo vệ cho thật là một sự an ủi vĩ đại trong kiếp sanh
của chúng ta đó vậy .
Lời Phi Lộ
Cây có cội, nước có nguồn, Đại Đạo khai sáng có nguyên lư, số là nhân dân
Việt Nam đă trải qua nhiều thế kỷ làm nô lệ cho ngoại bang như Tàu, Pháp,
nhưng việc ǵ cũng có giới hạn nên từ năm 1954 sau khi dân tộc Việt Nam
vùng dậy chống Pháp, làm cho quân Pháp rút ra khỏi xứ, trả đất lại cho ta
làm chủ trả quyền tự do ăn ở, đi lại, cho ta phục hưng trong trong đó có
tự do tín ngưỡng là trọng hệ, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ khai sáng tại Việt Nam
từ năm 1926, người bổn đạo lúc ấy c̣n bị quyền đời bó buộc. Măi tới năm
1956 Hội Thánh kư thỏa ước với chính phủ Cộng Ḥa ước hẹn không làm chính
trị và được trọn quyền truyền bá mối Đạo khắp xứ Việt Nam. Sự lư Đức Chí
Tôn không giao cho tay phàm chấp chưởng quyền bính là v́ tay phàm hay để
thất kỳ truyền và phổ truyền Chánh Pháp và Luật lệ. Buổi sơ khởi, Đức Chí
Tôn và Đức Phật Mẫu chịu nhiều nhọc nhằn và dụng nhiều phương pháp thâu
nhận những người hữu căn ra công giúp Đạo. Trong dịp nầy bà Chánh Phối Sư
Hương Hiếu được đại hạnh hầu nhiều Đàn-cơ, thọ nhiều Thánh Giáo, biết
nhiều, tức nhiên bà chịu khó viết bổn Đạo Sử để lưu truyền hậu thế. Xem
quyển Đạo Sử của bà, đọc giă dường như trải qua một giấc huỳnh-lương mộng,
tưởng ḿnh như có mặt tại chổ hồi mới mở Đạo bắt nguồn từ Sài G̣n lên G̣
Kén rồi tới trung tâm điểm Tây Ninh, không sót một chi tiết nào để giúp
ích cho người khảo cứu làm tài liệu. Công phu của bà Chánh Phối Sư rất
nhiều, thế hệ đương kim chỉ có công đọc mà hiểu biết phần nào mầu nhiệm
của Đạo nếu không đọc thật rất uổng .
Nay lời
Ṭa Thánh ngày 29 tháng 11 năm Đinh Mùi ( 30 - 12 - 1967 al )
Lê Thiện Phước
Giới Thiệu
Một cuốn Sử Đạo, muốn cho có giá trị và có tính cách khách quan, tả đúng
sự thật, th́ cần có sự cộng tác của người cố cựu rỏ thấu các việc từ đầu
chí cuối, như Bà Chánh Phối Sư Hương Hiếu chẳng hạn, v́ Bà luôn luôn có
mặt tại các nơi xây bàn lúc đầu và các đàn cơ về sau, nên mỗi việc ǵ xảy
ra hoặc mỗi bài Thánh Giáo do cơ bút giáng dạy, Bà điều ghi chép lưu lại
mà Bà đă thuộc ḷng một phần lớn .
Nay v́ tuổi cao, sợ không đủ th́ giờ để giúp sử liệu cho đạo, nên Bà xuất
bản cuốn (ĐạoSử Xây Bàn) nầy để lưu lại cho hậu thế. Âu cũng là điều đáng
mừng cho tiền đồ Quốc Đạo vậy.
Thay v́ đề tựa, tôi xin trân trọng giới thiệu cùng chư quư đọc gỉa cuốn lược
sử nầy do một một lăo thành biên soạn, đúng sự thật một trăm phần trăm, đáng
được lưu trử đời đời, để làm tài liệu cho sự khảo cứu có đầy đủ chi tiết
ngọn nguồn, có thể giúp ích một phần lớn cho các nhà soạn sử sau nầy
Nay kính
Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài
(Trương Hữu Đức)
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
ĐạO SỬ XÂY Bàn
Lời Xác Nhận
Đạo Cao Đài ra đời hơn 42 năm nay, phần đông các Chức sắc đều biết rơ là
lúc ban sơ Đức Chí Tôn dùng huyền diệu Cơ bút thâu phục các Chức Sắc thượng
cấp Hiệp Thiên Đài, dùng những vị nầy trong việc Pḥ Loan để lập thành Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Trước thời kỳ Chức Sắc Hiệp Thiên Đài được lịnh dùng
Đại Ngọc Cơ trong việc truyền giáo th́ chỉ là một giải trí của ba vị, cùng
nhau kết bạn đồng tâm để vui thú cầm thi trong khi nhàn rỗi. Cuộc chơi
giải trí đó là cuộc " Xây Bàn " và ba vị nói trên chính là : Cao Quyền Cư,
Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang ( Sau được đắc phong là Thượng Phẩm, Hộ
Pháp, Thượng Sanh ).Vốn là nhà thi sĩ và chấc chứa nơi tâm nổi câm hờn v́
nước nhà bị đô hộ, ba vị nầy mượn thú xây bàn, mời vong linh những người
quá văng để cầu hỏi về vận mạng tương lai của Tổ-quốc hoặc làm thi, xướng
họa chơi cho tiêu khiển. Lúc sơ khởi th́ cũng gặp nhiều khó khăn, v́ trong
đêm đầu, ba vị đốt nhang khấn vái, ngồi để tay trên bàn từ 9 giờ tối đến 2
giờ khuya mà không có kết quả chi hết. Cố tâm
nhẫn nại ba vị ngồi thêm đêm thứ nh́ ( nhằm ngày 26.7.1925 ) th́ đúng 12
giờ khuya có một vong linh nhập bàn, gỏ chử ráp thành bài thi đường luật 8
câu . Đó là bài thi tự thuật của cụ Cao Quỳnh Tuân thân sinh ông Cao Quỳnh
Cư. Sự cảm động và ngạc nhiên của ba vị đến thế nào quyển Đạo Sử nầy đă
nói rơ .
Cách mấy đêm sau, vong linh cô Đoàn Ngọc Quế nhập đàn cho bài thi Tự Thán,
thiệt là lời châu ngọc điệu thi văn nghe qua ngậm ngùi xúc cảm. ( Đoàn
Ngọc Quế là gỉa danh của cô Vương Thị Lễ tức là Tiên cô Thất NươngDiêu Tŕ
Cung ).
Thấy sự hiển linh và huyền diệu trong sự tiếp xúc với người cỏi vô h́nh,
ba
ông tích cực say mê việc xây bàn, đêm nào cũng hợp nhau, ngồi cho tới ba
hoặc bốn giờ sáng mới nghỉ. Từ đó đến sau th́ các vị Tiên-Thánh thường
nhập đàn, khi th́ cho thi phú hoặc giải nghiă thi văn khi th́ xác luận về
vận mạng nước nhà, đánh trúng chỗ yếu của tâm hồn ba ông , khiến cho cả ba
đều ngây ngất trong niềm vui sướng. Tiếp được bài thi nào hay th́ khi dứt
cuộc xây bàn, ba ông nán lại : Hai ông rao đờn, một ông ngâm thi rồi cùng
nhau mượn chung rượu đầy vơi trong lúc tàn canh để gợi hứng niềm hoài cảm.
Cái đêm mà ba ông ngậm ngùi và xúc động hơn hết là đêm 10.11.1925, Đức Tả
Quân Lê Văn Duyệt nhập đàn cho bài thi như sau :
" Đă nghe phen phấn khởi can qua ,
Thuộc địa trách ai nhượng nghiệp nhà .
Trăm họ than van ṇi bộc lại ,
Ba kỳ uất ức phép tây tà .
Xa thơ biến găy rời vương thất ,
Nam đảng hầu thay sáng quốc gia .
Ách nước nạn dân gần muốn măn ,
Hết hồi áp chế tới khi ḥa "
Cách mấy hôm sau, Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt cũng nhập đàn cho tiếp bài thi
thứ nh́ :
" Khi ḥa tùy có chí đồng thinh ,
Vận nước nên hư cũng bởi ḿnh .
Tôi giặc lắm người xô vơ trụ ,
Ḷng trung mấy kẻ sót sanh linh .
Đường dài chớ nệ ngàn công gắng ,
Bước nhọc đừng nao một dạ th́nh .
Đồ sộ giang sơn xưa phủi sạch ,
Trông vào tua vẹn nổi đinh ninh "
Ông Cao Hoài Sang bạch với đức Ngài: " Trong t́nh thế hiện tại, các nhóm
Càn Vương đất Việt có nên họp nhau đứng dậy làm cách mạng để thoát ách nô
lệ chăng ?
" Đức Ngài trả lời bằng bài thi :
" Mạnh yếu hai đàng đă hiển nhiên ,
Đôi mươi năm nữa nước nhà yên .
Dằn ḷng ẩn nhẩn xem thời thế ,
Đừng vội gây nên cuộc hảo huyền"
( Ba bài thi nầy không có biên trong cuốn sách " Đạo Sử Xây Bàn " nên tôi
soạn chép ra đây ) Nhờ chơi xây bàn mà ba ông Cư, Tắc, Sang học hỏi Đạo lư,
trau giồi trí thức cho tới ngày Đức A.Ă. ( chính là Đức Chí Tôn ) dạy ba
ông vọng Thiên Bàn ngoài sân, qùi giữa Trời mà cầu Đạo (nhằm ngày mùng 1
thánh 11 Ất Sửu, dl 16.12.1925 ) Đó là ba vị đệ tử mà Đức Chí Tôn thâu
nhập môn trước nhứt trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (Tây Ninh). Sau đó Đức Chí
Tôn thâu phục chư vị Thời Quân Hiệp Thiên Đài, vị Đầu Sư Thượng Trung Nhựt
và các vị đại Thiên phong Cửu Trùng Đài. Do lịnh của Đức Chí Tôn Ngọc
Hoàng Thượng Đế ba vị Thượng Phẩm, Hộ Pháp, Thượng Sanh hiệp với chư vị
Bảo Văn Pháp Quân, Bảo Pháp, Hiến Pháp, Khai Pháp, Tiếp Pháp chia nhau đi
khắp các tỉnh Nam phần để pḥ loan, thâu người cầu Đạo nhập môn .
Cuốn (Đạo Sử Xây Bàn) do Bà Chánh Phối Sư Hương Hiếu dày công biên soạn,
rất đầy đủ và đúng sự thật, từ lúc ba vị Thượng Phẩm, Hộ Pháp, Thượng Sanh
khởi sự xây bàn cho đến khi được lịnh dùng cơ bút cho Đức Chí Tôn lập
thành nền Đại Đạo. Đó là một kho tài liệu quí báu vô gía, phô bày rơ ràng
nguồn cội khai sáng Đạo Trời tại nước Việt Nam mà mỗi Chức sắc và Tín Hửu
cần nên đọc qua để nhận xét .
Ṭa Thánh ngày 22 tháng 12 Đinh Mùi ( DL. 21. 1. 1968 )
Thượng Sanh Cao Hoài Sang .
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
(Tam thập bát niên)
Ṭa Thánh Tây Ninh
Sơ Giải Sự Tích Xây Bàn
Nhận xét muôn việc chi chi cũng có Thiên thơ định giờ nên các chơn linh
mới dám t́nh nguyện lảnh lịnh hạ thế cứu đời lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ân
xá kỳ ba nầy .
Thời Kỳ Lập Đạo
Năm Đức Cao Thượng Phẩm 37 tuổi ( 1925 ) nhằm thời kỳ Đức Thượng Đế mở Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ dùng huyền diệu bố trí cho ba ông là : Hộ Pháp, Thượng
Phẩm, Thượng Sanh ham mộ xây bàn mỗi đêm, xây bàn đêm nào ba ông cũng hợp
lại với nhau để xây chiếc bàn lên, 3 ông thành tâm khẩn cầu hơi lâu lâu
th́ quả thực hiển linh. Có các đấng giáng đàn cho văn thi và nhiều bài
Thánh giáo triết lư cao siêu nhiệm mầu, cũng nhờ có phép linh của các đấng
mà 3 ông đêm nào cũng thích xây bàn cầu các đấng học hỏi Thiên cơ. Bởi v́
có cuộc xây bàn mới có mở được đường xuất Thánh cho nhơn sanh hưởng hồng
ân của Đức Chí Tôn trở về cựu vị, xây bàn là làm cho dễ dàng sự giao thông,
người dưới thế mà được gần gủi cùng các đấng vô h́nh, học hỏi nhiều sự
huyền pháp Thiêng Liêng ban cho, 3 ông mới mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ năm
Bính Dần (1926 ). Xây Bàn vô cùng linh hiển, đến gây cảm t́nh cùng ba ông
: Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh, các Đấng đến lập phương thế thông
công cơi vô h́nh hiệp với hửu h́nh đặng mở cơ tận độ 92 tức nguyên nhân đang
trầm luân nơi khổ hải nầy .
Ngày 15 tháng 10 năm Đinh Dậu ( 1958 ) Biên soạn Nữ Chánh Phối Sư Hương
Hiếu .
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
(Đệ Tứ Niên)
Ṭa Thánh Tây Ninh
TIỂU SỬ
Thượng tuần tháng 6 năm Ất Sửu ( 1925 ) Ông Cao Quỳnh Cư đến nhà ông Cao
Hoài Sang thăm chơi, để cùng ông Cao Hoài Sang và ông Phạm Công Tắc hàn
huyên t́nh h́nh thế sự, v́ ông Phạm Công Tắc cũng ở gần nhà ông Cao Hoài
Sang bên cạnh chợ Thái B́nh dăy phố hàng dừa Sài G̣n . Hết giờ đàm đạo với
chén trà câu thơ, giờ càng khuya, ông Cao Quỳnh Cư h́nh như có thần linh
thúc giục hay v́ linh tánh khích động mới nghĩ ra việc xây bàn tiếp xúc
với các vong linh khuất mặt, th́ hai ông Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang
cũng đồng t́nh hưởng ứng .
Ba Ông mới đem ra trước hiên một cái bàn vuông bốn chân rồi cả ba đồng để
tay lên bàn; chưa mấy phút th́ cái bàn run chuyễn liền một cách nhẹ nhàng
và nhanh chóng, dường như hâm hở lắm vậy. Tiếp đó bàn bắt đầu nhịp chơn gỏ
chữ, bàn gỏ một tiếng các Ông đọc A, hai tiếng các Ông đọc B, cứ như vậy
cho đến khi bàn ngưng lại tại chữ ǵ th́ lấy chữ đó, và cứ như vậy ráp vần
thành ra chữ và thành câu có ư nghĩa. Đêm ấy có nhiều vong linh nhập bàn
viết tiếng Anh, Pháp và Hoa, củng có vong linh học sinh Hà Nội viết tiếng
Việt Nam.
Buổi xây bàn đêm ấy là lần đầu tiên, có lẽ là có chư vong muốn nhập và
tranh nhau nói chuyện nên làm xáo trộn, cái bàn gỏ khi chửng chàng, khi
lựng chựng, làm cho ba Ông càng ngạc nhiên lại thêm chán nản nhứt là Ông
Cao Quỳnh Cư nghi rằng có hồn ma hay ngạ quỉ vô phá phách, liền đó Ông đề
nghị không chấp nhận các vong linh đó và đồng cùng hai Ông kia ngưng việc
xây bàn.
Qua đêm sau, nhằm ngày 6 tháng 6 Ất Sửu (26/07/1925) ba Ông lại tiếp tục
xây bàn nữa, v́ tánh các Ông này cũng hiếu kỳ muốn hiểu rỏ hiện tượng kỳ
lạ này coi tại sao cái bàn linh động nhanh nhẹ và viết thành chữ nhiều thứ
tiếng và có ư nghĩa nữa. Đêm nay ba Ông không gặp trở ngại nào mà lại tiếp
đặng một bài thi bát cú, tự thuật :
THI
" Ly trần tuổi đă quá năm mươi
Mi mới vừa lên ước đặng mười
Tổng mến lời khuyên bền mộ chép
T́nh thương căn dặn gắng tâm đời
Bên màn đôi lúc trêu hồn phách
Cơi thọ nhiều phen đặng thảnh thơi
Xót nỗi vợ hiền c̣n lụm cụm
Gặp nhau nhắn nhủ một đôi lời
Kư tên Cao Huỳnh Tuân (Thiên Đ́nh)
(Cao Quỳnh Tuân chính là phụ thân của ông Cao Quỳnh Cư ly trần hơn 25 năm
về trước.) Đọc tới câu thứ bảy ông Cao Quỳnh Cư quá mủi ḷng cảm động, lúc
này hai ông Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang cũng bùi ngùi; ông Cao Quỳnh Cư
vội thốt: Thưa thầy (ông Cư vốn quen gọi cha bằng thầy) ngày mai con nấu
một mâm cơm cúng, con kính thỉnh thầy về chứng thảo ḷng con. Vong linh
nhập bàn liền chuyễn cái bàn, ngỏ ư khứng lời mời của con và kế đó vong xuất.
Sau khi tiếp đặng bài thơ Đường luật, vừa cao sâu vừa thâm thúy v́ quá
hiển hích đúng với lời của một vị từ phụ nhắn nhủ lại cùng con, tinh thần
trí nảo ba ông càng thêm bấn loạn, vừa ngạc nhiên vừa cảm phục văn chương
và ư nghĩa bài thơ. Qua đêm mùng 10 tháng 6 Ất Sửu (30/07/1925) nghĩa là
bốn đêm sau, ba ông cùng họp tại nhà ông Cao Hoài Sang mở cuộc xây bàn nữa,
kỳ này cái bàn lay chuyễn một cách khoan thai, dịu dàng đoán chừng như
bóng dáng của một vị Tiên Nga hạ trần, th́ ra lời đoán không sai v́ đó là
vong linh một Nữ linh giáng Đàn cho thi.
THI
" Nỗi ḿnh tâm sự tỏ cùng ai
Mạng bạc c̣n xuân uổng sắc tài
Những ngỡ trao duyên vào ngọc các
Nào dè phủi nợ xuống tuyền đài
Dưỡng sinh cam lổi t́nh sông núi
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai
Dồn dập tương tư oằn một gánh
Nỗi ḿnh tâm sự tỏ cùng ai ?
Kư tên : Đoàn Ngọc Quế
Cũng trong đêm nầy chúng tôi hỏi cô Đoàn Ngọc Quế đau bệnh chi mà thác, cô
cho hai bài thi tiếp theo
Trời già đành đoạn nợ ba sinh
Bèo nước xẻ hai một gánh t́nh
Mấy bửa nhăn mày lâm chước quỉ
Khiến ôm mối thảm tại Diêm Đ́nh
* * *
Người thời Ngọc Mă với Kim Đàng
Quên kẻ dạ dài mối thảm mang
Ḿnh dặ lấy ḿnh, ḿnh lại biết
Mặc ai chung hưỡng, phận cao sang.
Ba ông họa lại bài thi bát cú của cô Đoàn Ngọc Quế dưới đây : Họa Vận
" Ngẩn bút hoà thi tủi phận ai
Trời xanh vội lấp nữ anh tài
T́nh thâm một gánh c̣n dương thế
Oan nặng ngàn thu xuống dạ dài
Để thảm xuân dường như ác xế
Gieo thương lữ khách ngóng tin mai
Hiềm ǵ chưa rỏ đầu đuôi thế
Ngẩn bút ḥa thi tủi phận ai.
Phạm Công Tắc :
Rằng liễu khóc oanh có mấy ai
Mộ người quốc sắc đấng thiên tài
Nh́n văn độ phẩm hàng khuê các
Xót bạn tri âm cỏi dạ dài
Ngàn dặm hoa trôi sầu cụm trước
Một mồ cỏ loáng ủ nhành mai
Cửu tuyền hồn Quế linh xin chứng
Rằng liễu khóc oanh có mấy ai
- Cao Quỳnh Cư :
" Nữa chừng xuân găy tủi thân ai
Nông nổi nghĩ thôi tiếc bấy tài
Ngọc thốt dám b́ trang tuấn kiệt
Vàng rơi riêng chạnh khách Chương đài
Những ngờ duyên thắm trao pḥng Bích
Hay nỗi xương tàn xủ giậu mai
Một dải đồng tâm bao thuở nối
Nữa chừng xuân găy tủi thân ai ".
- Cao Hoài Sang :
Ông Cư hỏi : Đoàn Ngọc Quế hồi c̣n tại thế xứ ở đâu ? Đáp ... ở Chợ Lớn.
Hỏi ... cô học ở đâu ? Đáp
... học trường Đầm.
Bửa sau ông mời ông Phạm Công Tắc và ông Cao Hoài Sang ra nhà ông xây bàn
(xây ghế) đặng mời Đoàn Ngọc Quế về dạy làm thi. Ba ông cứ hỏi cô Đoàn
Ngọc Quế những việc thượng giới th́ cô cũng khứng giải cho hiểu việc thiên
cơ chút ít, nhờ cô Đoàn dùng huyền diệu độ 3 ông và bố trí cho 3 ông ham
việc thiên cơ hơn trần thế.
Ban ngày làm việc, 3 ông trông cho mau tối để thỉnh bàn ra trước hàng ba,
tắt đèn điện phía trước đặng cầu hỏi cô Đoàn những việc cơi trên, và mỗi đêm
mỗi cầu cô về giăi nghĩa mấy bài thi. Khi cô giáng có bữa các Đấng giáng.
Đoàn Ngọc Quế gọi ông Cư là anh cả, ông Phạm Công Tắc là nhị ca, ông Cao
Hoài Sang là tam ca, cô để cô là em thứ tư (tứ muội) Ư tứ bài thơ của cô Đoàn
Ngọc Quế lạ thường, hay lắm, thật là tuyệt bút.
Nhớ lại lối hạ tuần tháng 7 năm Ất Sửu (1925), ba ông thỉnh bàn ra (lúc
này hơi in như say Đạo) tính xây bàn cầu cô Đoàn về dạy văn thi, ba ông để
tay dở lên bổng có một ông giáng, tôi hỏi tên ǵ, thật rất lạ ... xưng là
A, Ă, Â, gỏ làm một bài thi dưới đây :
THI
" Ớt cay cay ớt gẫm mà cay
Muối mặn ba năm muối mặn dai
Túng lúi đi chơi nên tấp lại
Ăn ḅn chẵng chịu tấp theo ai.
Ông Phạm Công Tắc nghe dứt câu liền nói với ông Cư rằng : Thôi anh, ai đâu
mà nói tiếng ǵ khó nghe quá, sao không có tên xưng là A, Ă, Â. Ông Cư nói
với ông Tắc : Ây, em ngồi lại cho qua hỏi, vị nầy không phăi tầm thường đâu
em. Ông Cư hỏi : Ông A, Ă, Â mấy chục tuổi ? Ông A, Ă, Â gỏ bàn, đếm hoài
không ngưng, đếm đến mấy trăm cái mà cũng không thôi. Liền đó ông Cư ngừng
lại không dám hỏi nữa, và kiếm hiểu ông nầy ở trển chắc lớn lắm. Từ đó về
sau có vị nào giáng cho thi, th́ ông cầu ông A, Ă, Â xin giải nghĩa. Lối
cuối tháng 7 năm Ất Sửu (1925) 3 ông hỏi cô Đoàn Ngọc Quế rằng : "Em c̣n
có chị em nào nữa biết làm thi th́ em mời giùm, nói 3 anh em qua có ḷng
ngưỡng mộ học làm thi, xin cầu khẩn quư cô đến dạy 3 anh em qua làm thi.
Cô Đoàn Ngọc Quế trả lời : "có chị Hớn Liên Bạch, lục nương, với nhứt nương
làm thi hay lắm."
Ba ông rất mừng nên tính mời quư cô ngày rằm Trung Thu, v́ là ngày tiết
trăng thanh gió mát, ngày ai cũng thích đi ngoạn cănh ngắm trăng.
Tích Hội Yến Diêu Tŕ
Cô Đoàn Ngọc Quế dạy 3 ông rằng : Ba anh muốn cầu th́ ngày đó 3 anh phăi
ăn chay, mới cầu được ( 3 ông vâng lệnh cô Đoàn Ngọc Quế, ngày cầu 3 ông
ăn chay ) Ngày qua tháng lại, tới ngài rằm tháng 8 năm Ất Sửu
(01/09/1925). Ngày rằm lập bàn hương án chưng những hoa thơm trầm trọn
ngày (nhà không tiếp khách nào hết, nhà ở đường Bourdais 134 Sài g̣n, nay
là đường Calmette.)
Ba ông vọng bàn cầu khẩn thắp hương thơm từ 10 giờ đêm đến giờ Tư (từ 23 -
01 giờ sáng) xông trầm hương thành tâm cầu quí cô. Lối 5 phút th́ có 4 cô
giáng cho bài thơ dưới đây :
" Im ĺm cây cỏ vẫn in màu
Mờ mệt vườn xuân điễm sắc thu
Gió dậy xao trời mây cuốn ngọc
Sương lồng ướt đất, liễu đeo châu
Ngựa vàng ruổi gió, thoi đưa sáng
Thỏ ngọc treo gương đậm vẻ làu
Non nước đ́u hiu xuân vắng chúa
Nh́n quê cảnh úa giục cơn sầu "
Lục nương
Ít bửa sau 3 ông cầu ông A, Ă, Â giải nghĩ các câu thi của Lục nương, câu
thứ năm và câu thứ sáu Ngựa vàng ruổi gió, thoi đưa sáng Thỏ ngọc treo gương
đậm vẻ làu A, Ă, Â - Trường quang ánh sáng mặt trời. Kim Mă Ngọc Thố - Kim
mă : ngựa vàng là mặt trời - Ngọc thố : thỏ ngọc là mặt trăng.
Thi văn lựa 2 thú ấy mà chỉ mặt trời và mặt trăng là v́ 2 con thú ấy chạy
mau, con này rượt con kia, hết ngày tới đêm, hết đêm tới ngày. Ư nói ngày
giờ qua rất lẹ . Rút bài thuyết đạo của Đức Hộ Pháp tại đền thánh, ngày 15
tháng 8 kỷ sửu do kỷ niệm vọng thiên cầu đạo thể theo thánh lệnh của đức
Phật Mẫu lễ Hội Yến Diêu Tŕ Kim Mạu. Hôm nay là ngày kỷ niệm Bí Pháp, Bí
Pháp Hội Yến Diêu Tŕ, Đức Chí tôn đă lập trong nền chơn giáo của Ngài.
Bần Đạo thừa dịp nên thuyết minh cho toàn cả con cái Đức Chí Tôn hiểu rỏ
cái huyền vi bí mật ấy, bởi có ảnh hưởng với cơ quan đạt Đạo chúng ta tại
mặt của thế gian nầy. Hơn nữa Bần Đạo có phương tiện tỏ ra một đức tin dị
thường của một Đấng yêu ái, một đấng tạo Càn Khôn Vủ Trụ, Đấng Tư hữu, Hằng
hữu, Đấng quyền năng vô tận, vô biên, cốt để cho con cái của Ngài thấu đáo
cái tâm t́nh của Ngài đối với ta và ta đối Ngài dường nào. Đạt đặng đức
tin phi thường ấy, năm Ất. Sửu tức năm 1925 Đức Chí Tôn đến với chúng ta,
nhưng Ngài đến với một t́nh bạn mà thôi, đến với một danh hiệu, giờ phút
này Bần Đạo không dám nói, Ngài đến cũng làm bạn Thượng Phẫm và Hộ Pháp.
Tháng 6 năm ấy, Ngài dùng bút huyền diệu của Ngài, Ngài dạy vọng Thiên cầu
Đạo ( điều mà chúng ta không thể tưởng tượng đây là một cử chỉ ) ai lấy
làm lạ , nhiều người muốn tầm Đạo phăi để một dấu hỏi, hỏi tại sao buổi ấyThượng
Phẫm và Hộ Pháp có một đức tin vững vàng nghe theo lời Ngài vọng Thiên Bàn
Cầu Đạo. Điều mà chúng ta không thể tưởng tượng, đây là một cử chỉ chung,
chớ không phăi cá nhân Thượng Phẫm hay Hộ Pháp mà lời huấn giáo của Ngài
cốt yếu để cho toàn thể nhân loại nơi mặt địa cầu này nhứt hơn hết là ṇi
giống Việt Nam chúng ta.
Bần Đạo nói đây : c̣n có Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu là người bạn Cao
Thương Phẫm và buổi ban sơ thấu hiểu điều ấy, Ngài đến với một t́nh cảm đáo
để, một đức tin vững vàng làm sao đâu ? Không dể sợ đặng, không c̣n biết
vị kỷ nhục nhả chi hết, giữa khoăng đường nơi Châu thành Sài G̣n, nơi
thiên hạ tấp nập, mà Đức Chí Tôn buộc phăi qú ngoài đường dựa bên lề ấy,
qú đặng cầu nguyện xin Đạo cho chúng sanh, tội nghiệp thay !!! Ngày thử
thách cho đến nước, thảng như ḿnh qú đó mà thiên hạ không hiểu ḿnh qú
làm ǵ th́ cũng ít mắc cở chút mà c̣n có thể qú, c̣n làm mà người biết
th́ xốn xang nhột nhạt khó chịu lắm, nhưng sợ Đức Chí Tôn phăi ráng mà làm.
Ngoài ra có ông bạn ai cũng điều biết là nhà thi sĩ danh tiếng, Bần Đạo
dám chắc nội trong Nam Bộ chúng ta đây chưa ai bằng, nỗi danh thi sĩ đứng
đầu hết thảy là người ấy, không biết chứng cớ ǵ mà người mê thi phú của Đức
Chí Tôn quá chừng qúa đổi, đến nước người thuộc ḷng thi phú của Đức Chí
Tôn, rồi người họa lại với Đức Chí Tôn làm như mê mang vậy.
Bần Đạo th́ nhột nhạt duy có sợ mà vâng mạng lệnh thi hành, quyền giáo hoá
của Đức Chí Tôn c̣n người thi sĩ Bồng Dinh hoạ theo đó mà ngâm, thiên hạ
thấy tấn tuồng dị hợm tụ lại đông lắm. Trước để một cái bàn Vọng Thiên Cầu
Đạo ngay chính giữa coi dị hợm lắm, Bần Đạo mới gát hai tay lên cho đở mắc
cở vừa gát tay lên th́ cái bàn quây gỏ nói chuyện. Các Đấng Thiêng Liêng
đến không biết bao nhiêu, đến các v́ giáo chủ cũng xuống giăng dạy chúng
ta và làm nhiều kiểu lạ lắm; cũng lúc này Đức Chí Tôn đâ giáo hóa khá lâu
các Đấng Thiêng Liêng cũng đến cùng Thượng Phẫm và Hộ Pháp, tuy mới mà đầu
óc có một đức tin vững vàng, đức tin ấy có thể nói rằng : tuy buổi ban sơ
mà dường như khối óc đă thâm hiểu nhiều rồi, nên Đức Chí Tôn mới ra lệnh
biểu làm một cái tiệc. Ngài dạy sắp đặt cái tiệc ấy để đăi Đấng vô h́nh, đăi
10 người : Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương. Phần hữu h́nh có 3 người :
Thượng Sanh, Thượng Phẫm và Hộ Pháp. Sắp tiệc ấy do Bà Nữ Đầu Sư
Hương Hiếu vâng mạng lệnh tạo thành một tiệc trên bàn thờ Phật Mẫu, ở dưới
sắp 9 cái ghế cũng giống như có người ngồi vậy. Chén đủa, muổng dĩa bất kỳ
cái ǵ cũng như đăi người hữu h́nh vậy ; duy chỉ có 3 người xác thịt là
Thượng Phẫm, Thượng Sanh, và Hộ Pháp. Bần Đạo mới hỏi tiệc này là tiệc ǵ
? Ngài nói là Hội Yến Diêu Tŕ. Bần Đạo nghe nói vậy th́ hay vậy, chớ
không biết giá trị Hội Yến ǵ cả Nghĩ chắc cũng có ảnh hưỏng ǵ cần yếu
đến tương lai của Đạo mà vâng lệnh thôi, chứ không hiểu nghĩa lư cho cùng
cạn ǵ hết . Ba người sống đồng ngồi ăn, c̣n Bà Chánh Phối Sư Hương Hiếu
gắp đồ ăn để vào chén cho 9 vị và trên bàn thờ cho Đức Phật Mẫu cũng như
người sống kia vậy. Bần đạo c̣n nhớ một chuyện lạ lùng, lúc đó lấy làm kỳ
quái không hiểu chi hết, giờ biết Đạo mới hiểu Đức Chí Tôn lấy một tên
riêng đối với Bần Đạo. Bây giờ Bần Đạo không dám nói lại, Ngài đến làm bạn
cùng Thượng Phẫm và Hộ Pháp.
Chứng Hội Yến Diêu Tŕ rồi, các Đấng Thiêng Liêng và các vị giáo chủ ra từ
giả (thăng) kế Đức Chí Tôn đến nhập cơ. Thượng Phẫm và Bần Đạo tọc mạch
hỏi :
Khi nảy Diêu Tŕ Cung đến có Ngài ở đó không ? Đức Chí Tôn trả lời : Có
chớ. Ta ở đây từ khi ban sơ đến giờ. Ngài có thấy Diêu Tŕ Cung đến không
? Có chớ, chính ḿnh ta tiếp đăi ! Cao Thượng Phẫm hỏi : Diêu Tŕ Cung ngó
thấy Ngài không ? Không ngó thấy. Cao Thượng Phẫm hỏi sao vậy ? Ngài trả
lời : ta dùng phép ẩn thân Bần Đạo tọc mạch hỏi tiếp : Như đứa em của tôi
là Thất Nương Diêu Tŕ có thể đạt đạo chăng ? Đạt đặng chớ. Cao Thượng
Phẫm hỏi : Phải làm sao ? Ngài nói : Phải tu, bằng không tu th́ chẳng đạt
đặng. Bần Đạo hỏi : Tu chừng bao lâu mới đạt đặng ?
Cái đó Ngài làm thinh. Bần Đạo hỏi một năm, 5 năm, một ngàn năm, mười ngàn
năm, một trăm ngàn năm. Ngài cũng làm thinh, rồi thôi không hơi sức nào
hỏi nữa, không biết chừng nào mới đạt đặng, nghe vậy, hay vậy. Các vị Nữ
Phái ráng nhớ, Diêu Tŕ Cung, Bần Đạo có giải nghĩa Hội Yến Diêu Tŕ là ǵ
rồi đó.
Toàn Thánh Thể Đức Chí Tôn là con cái của Ngài ráng để ư cho lắm : Từ khi
Đạo bị bế, Ngọc Hư Cung bác luật, Cực Lạc thế giới th́ đóng cửa nên chúng
sanh toàn cả Càn Khôn Vủ Trụ có tu mà thành th́ rất ít, bởi phương pháp
khó khăn lắm, muốn đạt pháp th́ không phăi dể. Cổ pháp định cho chơn hồn
về Diêu Tŕ Cung, hưởng được Hội Yến Bàn Đào tức nhiên hưởng được Hội Yến
Diêu Tŕ, ăn được quả đào tiên, uống được tiên tửu mới nhập vô cảnh Thiêng
Liêng Hằng Sống gọi là nhập tịch. Ôi thôi ! Từ thử đến giờ có ai đặng
hưởng cũng một phần rất ít. Giờ phút này Đức Chí Tôn quyết định tận độ con
cái của Ngài thay v́ bí pháp ấy độ con cái của Ngài về nơi Kim Bàn Phật
Mẫu đặng hưởng đặc ân thiêng liêng của Đức Chí Tôn..
Đức Chí Tôn buộc Phật Mẫu phải đến tại thế gian này để Bí Pháp Hội Yến
Diêu Tŕ tại cửa Đạo nầy cho: con cái của Ngài giải thoát ấy là một bí
pháp Thiêng Liêng duy chỉ có tay Ngài định pháp ấy mới đặng.
Hôm nay là Ngài Phật Mẫu đem Bí Pháp đặng giải thoát chúng sanh, tận độ
vạn linh sanh chúng. Ngài để tại mặt thế nầy trong cửa Đạo này mà thôi.
Hôm nay ngày lễ của Ngài mà cũng là ngày trọng hệ trong cửa Đạo, xin toàn
cả con cái của Ngài nhớ và để nơi tâm ḿnh, bởi thế năm nào Bần Đạo cũng
để ư đến Lễ của Ngài hơn hết : từ tạo Thiên lập Địa đến giờ cưa ai được
hưởng thời kỳ này. Ngài đến tại mặt địa cầu 68 này đặng tận độ con cái của
Ngài.
Chúng ta phải chiêm ngưỡng ơn vô biênvô tận của Ngài, chúng ta phải chiêm
nghiệm lễ nầy làm mật niệm cám ơn Đức Chí Tôn và Phật Mẫu, ấy là bí pháp
của chúng ta đó vậy.
Tiểu sử Bà HƯƠNG HIẾU
Tôi kư tên dưới đây là Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu Ngày tháng nhẹ nhàng
trôi qua thấm thoát, tuổi đạo ba mươi mấy năm rồi mà tôi mảng lo phục vụ
cho nhơn sanh từ buổi trung niên cho đến nay đầu bạc, chưa có th́ giờ nhàn
rổi để soạn lại những ǵ "Tôi" Trời Phật và Hội Thánh Tây Ninh.
Hôm nay tôi nghĩ rằng "Quang Âm như thạch hóa xá thế vô bá thế nhơn". V́
thế mà tôi viết quyễn sách này để nhắc lại kể từ ngày được may duyên sớm
gặp nền Đại Đạo cho đến ngày nay nay tôi đă 73 tuổi, đặng lưu lại trong
lúc tôi ... quí vị cho khỏi mất công quí vị t́m kiếm công quả những ngày
tôi hành Đạo tại thế.
Tôi là con của Ông Nguyễn Văn Niệm và Bà Trần Thị Huệ, cha mẹ tôi đă khuất
hết rồi. Ngày sanh tôi năm Đinh Hợi, date naissance 1986 (lieu de
naissance rue Paulbert, Dakao - Saigon) Khi tôi mới khai sanh, bà nội tôi
muốn tỏ dấu một nhà đạo đức, v́ cha tôi tên là Nguyễn Văn Niệm, nên bà nội
tôi đặt tên tôi là Nguyễn Thị Hương, c̣n bà ngoại tôi đặt tên tôi là
Nguyễn Thị Hiếu.
Cha tôi muốn vừa ḷng cả nội ngoại đôi bên, nên khi tôi ở nội th́ gọi tôi
tên Hương, mà khi tôi về bên ngoại th́ gọi tôi tên Hiếu. Thân sinh quê
quán tại Cần Thơ. Thân mẫu ở miền Gia Định. Thuở tôi vừa lên 7 tuổi, thân
mẫu tôi cho tôi vào học trường Bà Phước (Nhà Trắng) Sài G̣n, đến 17 tuổi
cho học nữ công, qua năm 21 tuổi sánh duyên cùng Ông Cao Quỳnh Cư ở làng
Hiệp Ninh (Tây Ninh) năm 23 tuổi tôi sanh được một trai tên là Cao Quỳnh
An.
Đến năm 38 tuổi, gặp thời kỳ Đức Chí Tôn đến khai nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ
Độ. Một sự ngẩu nhiên của cơ huyền bí mà trước kia 3 ông Hộ Pháp, Thượng
Phẫm, Thượng Sanh có tính cách xây bàn cầu vong để làm thi tiêu khiển, đâu
ngờ là thời kỳ Đức Chí Tôn khai cơ mở Đạo(xin xem quyễn Đạo Mạch Truy
Nguyên). Đức Chí Tôn giáng cơ tại nhà trước, đầu tiên ở đường Bourdais số
134 Sài G̣n. Năm 1925, khai Đạo chưa có Thánh Thất, nên các Đấng Thiêng
Liêng dạy tạm dùng nhà tôi để thờ Đức Chí Tôn và Phật Mẫu đặng có nơi cầu
cơ dạy đạo và d́u dắt nhơn sanh trong suốt buổi đầu tiên là năm 1925. Đến
năm 1926, mới mở Đạo lần đến Tân Kiệm, Tân Định, Lộc Giang, Thủ Đức. Trong
buổi chưa có Ngọc cơ c̣n xây bàn, các Đấng giăng dạy Đạo cho Đức Hộ Pháp,
Đức Cao Thượng Phẫm, và Đức Thượng Sanh th́ bàn gỏ từ chữ, Đức Thượng Phẫm
hô chữ nào th́ tôi ghép chữ nấy rồi mới ghép lại cho thành văn.
V́ thế mà lúc c̣n xây bàn, các Đấng giáng cho 1 bài thi bát cú hay tứ cú
hay dạy việc ǵ, khi chép xong rồi tôi mới ráp lại một bài thật là lâu
lắm, mà mỗi đêm mỗi cầu, tôi làm Biên tập viên (thơ kư) cho các Đấng. Thi
văn của các Đấng dạy Đạo, có nhiều câu văn rất cao kỳ và mầu nhiệm (xin
xem đoạn trước của Tiểu sử xây bàn th́ rỏ). V́ thế mà 3 ông mê thi văn của
các Đấng nên đêm nào cũng thức cầu cơ học hỏi cho đến khuya trong 7tháng
trường như vậy, ai cũng ốm gầy xanh xao hết mà không đêm nào buồn chán (sơ
lược khoản này xem tiểu sử của Đức Cao Thượng Phẫm th́ rỏ) Bổn phận tôi
ban đêm làm thơ kư chép Thánh giáo học hỏi, c̣n ban ngày th́ lo yến tiệc
tiếp đải quí khách thượng lưu, trung lưu, hạ lưu, thiên hạ rộn rịp tới
lui, t́m Đạo, ngày nào chẳng nhiều th́ ít, khách gần, khách xa lui tới
liền liền trong năm 1925.
Trong hai năm 1925 và 1926 chưa có người để chép Thánh giáo, nên tôi được
vừa làm thơ kư cho các Đấng và tiếp đón nhơn sanh, từ tháng 6 năm Ất Sửu
(1925) cho đến năm Bính Dần (1926); lúc sau dời về chùa G̣ Kén mới có
người chép phụ với tôi (mà cũng là phần ít ).
Tiểu sử Bà HƯƠNG HIẾU
Hồi chưa có Toà Thánh, c̣n trong buổi phôi thai, mỗi khi khai đàn thượng
tượng (thờ Thầy), riêng về phần tôi theo chép Thánh Giáo đem về cho Đức
Cao Thượng Phẩm chấm câu, c̣n chủ nhà chép riêng theo phần của chủ nhà
(khai Đạo tại Sài G̣n). Xin quư vị xem kỷ lại, có Thánh giáo Thầy kêu tôi
:"Hiếu, viết rỏ con" (Quư Ông Hiệp Thiên Đài đều biết rỏ hết). Lúc này nhà
tôi c̣n ở Sài G̣n, Đức Chí Tôn mở Đạo trước tại Sài G̣n bảo Đức Thượng
Phẩm về Thiên Nhăn (Thánh Tượng nhỏ c̣n đó), c̣n tôi th́ lo mua khuôn
kiếng đặng lồng Thiên Nhăn cho chư vị mới nhập môn, tôi cho thỉnh không
khỏi tră tiền và tôi c̣n phải dạy thờ cúng và dạy đọc kinh. Tôi giảng giải
sơ lược chớ c̣n nhiều chi tiết khác. Trải bao thỏ tận, ác tà, những hàng
trí thức cùng người mộ Đạo t́m đến nhập môn khá đông th́ tôi lại phải để
hết ḷng lo tiếp đăi và chỉ dẩn trong lẽ Đạo, thời gian ấy tôi quên cả gia
đ́nh và sản nghiệp, chỉ vui say theo đường Đạo mà các Đấng thường giáng
đến dạy dổ khuyên lơn.
Đến tháng ba năm Bính Dần (1926) Chí Tôn giáng cơ dạy tôi may Thiên Phục
cho Ông Đầu Sư Thượng Trung Nhựt trước hết, kế may Thiên Phục cho Hiệp
thiên Đài và Cửu Trùng Đài thông qui kể ra sau đây:
Thiên phục Cửu Trùng Đài :
Ông Đầu Sư Thượng Trung Nhật : 1 áo Đại Phục xanh, và 1 cái khăn chín lớp
Ông Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt: 1 áo Đại phục đỏ, 1 khăn chín lớp đỏ
Ông Thái Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh: 1 áo Đại phục vàng, và 1 khăn chín
lớp vàng Ông Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh: 1 áo Đại phục xanh, và 1
khăn xanh chín lớp. Ông Chánh Phối Sư Ngọc Trang Thanh: 1 áo Đại phục đỏ
và 1 khăn đỏ chín lớp. Ông Phủ Ngô Minh Chiêu (1): 1 áo Giáo Tông có thêu
chữ bùa Bát Quái và 1 cái măo Giáo Tông. Ông Phủ Vương Quang Kỳ Giáo Sư: 1
áo Đại phục xanh và 1 cái khăn bảy lớp.
** Ông Ngô
Văn Chiêu đáng lẽ phải đắc phong Giáo Tông chánh vị, nhưng tiếc thay ngày
lập Đàn Thiên Phong Ông Chiêu đến thấy đông người, nên Ông sợ bỏ ra về, v́
vậy Ông không được phong Giáo Tông, và về sau mất hẵn phẩm .
Thiên phục Hiệp Thiên Đài :
Đức Cao Thượng Phẩm: 1 cái áo Đại phục trắng, 1 cái áo lá xanh. Đức Thượng
xanh: 1 cái áo Đại phục trắng, 1 cái áo lá xanh . Quí vị Thập nhị Thời
Quân: 12 cái áo Đại phục trắng, 12 cái măo, nhựt nguyệt Mạo Thầy phong 4
vị Lễ sanh: anh chín Giăng, anh Phán Giỏi, anh Đốc Bản, anh Kư Tường. Bốn
anh trên đây sau thăng Giáo Hữu, tôi may 4 bộ sắc phục Lễ Sanh, 4 bộ sắc
phục Giáo Hữu (áo măo) Tôi may 3 bộ Thiên phục Hồng Y cho 3 Ông: Vân, Mùi,
Đạt.Tôi may Thiên phục áo măo kể trên đây là hồi tôi và cả chức sắc Hiệp
Thiên Đài và Cữu Trùng Đài c̣n ở Sài G̣n.
Trong lúc tôi đang may, tôi lại nhớ như ai nhắc tôi, nhớ lời Thầy giáng cơ
gọi tôi: "Hiếu con lo may Thiên phục cho mấy anh con cho kịp ngày Đại
Hội". Đại Hội là ngày khai Đạo tại chùa G̣ Kén . |