Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu

[ Đức Phật Mẫu ]

 

Báo Ân Từ là ṭa nhà lớn để thờ các bậc tiền bối có đại công với Đạo và các bậc vĩ nhân có đại công giúp nền văn minh của nhơn loại tiến hóa lên cao, và để nhơn sanh tỏ ḷng biết ơn các bậc ấy.

Hiện nay, Báo Ân Từ được tạm dùng làm Đền Thờ Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu (tức là Đức Phật Mẫu).  Khi nào Hội Thánh xây dựng được Điện Thờ Phật Mẫu Trung Ương th́ Báo Ân Từ sẽ được xử dụng đúng chức năng của nó, là nhà thờ các bậc tiền bối có đại công với Đạo và với nhơn loại.

Đức Phạm Hộ Pháp nói rằng : Báo Ân Từ là Panthéon của Đạo, tức là Công Thần Miếu của Đạo, và Đức Chí Tôn gọi nó là Vân Đài.

Cho nên, Báo Ân Từ thuở xưa có 2 đôi liễn sau đây, đều khởi đầu bằng 2 chữ BÁO ÂN để nói lên ư nghĩa của ngôi Báo Ân Từ :

- BÁO đắc Thánh danh hương hỏa thiên thu phụng tự,

- ÂN di thế đại uy linh vạn cổ lưu tồn.

Nghĩa là : Báo đáp được các bậc Thánh, ngàn năm thờ phượng cúng tế,

. Lưu lại cái công ơn to lớn cho đời, cái oai linh được măi măi lưu truyền tồn tại.

- BÁO đáp chí công tiền bối khai cơ Thiên đạo lưu truyền thiên vạn đại,

- ÂN từ đại đức hậu nhơn thừa kế tôn sùng Chánh giáo thất ức niên. Nghĩa là :

Đền đáp công nghiệp lớn lao của các bậc tiền bối đă mở ra nền tảng Đạo Cao Đài để truyền lại muôn đời về sau. Đền thờ những vị có ơn đức lớn, người sau thừa kế nền Đạo Chơn chánh, tôn sùng đến 700 000 năm.

Lịch sử kiến trúc Báo Ân Từ

Vào năm 1932, Đức Phạm Hộ Pháp bảo các vị công quả Phạm Môn đi tháo dở 3 căn nhà gỗ của 3 Sở Phạm Môn : Sở Dưỡng Lăo, Sở Nữ Công Nghệ, và Sở Trường Ḥa, v́ 3 căn nhà nầy đều có cùng kiểu vở và kích thước, đem chở tất cả vào Nội Ô Toà Thánh để ráp lại thành một ngôi nhà lớn bên cạnh Hộ Pháp Đường, dùng làm Báo Ân Tư.

Lúc đó, Báo Ân Từ có cột làm bằng gỗ, vách đắp bằng đất, và mái lợp ngói.  Qua năm sau, 1933, Hội Thánh khởi công xây dựng Ṭa Thánh (Đền Thánh) thiệt thọ bằng vật liệu nặng với bê-tông cốt sắt, nên phải tháo dở Đền Thánh cũ làm bằng cây ván lúc trước, và đem dời Quả Càn Khôn  đến tạm đặt thờ nơi Báo Ân Từ.

V́ không tính trước, nên khi Quả Càn Khôn đưa vào cửa Báo Ân Từ th́ không lọt, bề ngang cửa nhỏ hơn một chút, túng thề đành phải ép Quả Càn Khôn móp vô một chút đặng cho lọt qua khung cửa. Đứng trước cảnh nầy, Đức Phạm Hộ Pháp khóc và nói rằng : " Rồi đây Phước Thiện sẽ khổ lắm."  Việc xây cất Ṭa Thánh trải qua nhiều giai đoạn khó khăn, kéo dài ngót 14 năm, măi đến Tết năm Đinh Hợi (1947), Ṭa Thánh mới được xây cất và trang trí xong.  Ngày mùng 6 tháng Giêng năm Đinh Hợi (dl 27-1-1947), Đức Phạm Hộ Pháp làm lễ di chuyển Quả Càn  Khôn từ Báo Ân Từ trở về an vị nơi Bát Quái Đài của Ṭa Thánh mới để thờ.  Lúc bấy giờ, Đức Phạm Hộ Pháp cho dọn dẹp và sửa soạn trở lại Báo Ân Từ để dùng tạm làm Đền Thờ Đức Phật Mẫu, bởi v́ từ ngày Khai Đạo đến giờ, nơi Nội Ô Ṭa Thánh chưa có Đền Thờ Đức Phật Mẫu.  Đức Hộ Pháp dạy Hội Thánh Phước Thiện tổ chức buổi lễ thỉnh Long vị Phật Mẫu nơi Đền Thờ Phật Mẫu tại Trường Qui Thiện đem về thờ nơi Báo Ân Từ và dạy Lễ vụ Phước Thiện tạo thêm 2 Long vị chữ  Nho để thờ 2 gian bên là : Chư Chơn Linh Nam phái và Chư Chơn Linh Nữ phái.

Đây là một vinh dự cho các vị công quả nơi Trường Qui Thiện mà Ông Đinh công Trứ đứng đầu.

Nguyên Ông Đinh công Trứ là Chủ trưởng của Minh Thiện Đàn do Đức Lư Giáo Tông lập năm 1928 tại làng Phú Mỹ tỉnh Mỹ Tho; đến năm 1929, Đức Lư Giáo Tông bàn giao Minh Thiện Đàn cho Đức Hộ Pháp cai quản. Nơi đây có lập một Thánh Thất gọi là Thánh Thất Khổ Hiền Trang và một Sở Thảo Đường, do lời dạy của Đức Phật Mẫu giáng cơ năm 1928 với bài thi Thảo Đường, chép ra như sau:

Thảo Đường phước địa ngộ ṭng hoa, Lục ức dư niên vơ trụ ḥa. Cộng hưởng phàm gian an lạc nghiệp, Thế đăng Bồng đảo định âu ca. Thích nghĩa :

. Ngôi nhà tranh nơi đất phước gặp một mối Đạo mới mở ra,

. Hơn sáu trăm ngàn năm, vũ trụ được ḥa b́nh.

. Nhơn loại nơi cơi trần cùng nhau hưởng được cảnh an cư lạc nghiệp,

. Cơi trần tiến lên thành cơi Tiên, mọi người đều có đời sống thạnh vượng vui vẻ.

Do đó Đức Phạm Hộ Pháp có dạy Ông Đinh công Trứ lập bàn thờ Đức Phật Mẫu nơi Sở Thảo Đường.  Sự thờ phượng Đức Phật Mẫu nơi đây c̣n rất đơn sơ.  Thời gian kể từ năm 1941, giặc giă bắt đầu nổi lên và cuờng độ chiến tranh càng lúc càng lớn. Nơi làng  Phú Mỹ không c̣n được an ninh như trước, nên từ năm 1943 đến năm 1945, Ông Đinh công Trứ cùng với các bạn đạo trong Minh Thiện Đàn, rời bỏ Phú Mỹ, tản cư về Tây Ninh, lập ra Trường Qui Thiện để làm cơ sở tiếp tục tu hành.  Tại Trường Qui Thiện, Ông Đinh công Trứ tạo lập một Đền Thờ Đức Phật Mẫu khang trang hơn nhiều so với lúc c̣n ở Phú Mỹ, gọi là Đền Thờ Phẫt Mẫu Qui Thiện.

Long vị của Đức Phật Mẫu thờ nơi Báo Ân Từ có đề ở giữa 4 chữ Nho lớn theo đường thẳng đứng là :

DIÊU TR̀ KIM MẪU.

Phần tô điểm trang trí sơn phết th́ Đức Phạm Hộ Pháp giao cho Ban Kiến Trúc. Tá lư Sở Đắp Vẽ Lâm thành Kía và Nguyễn thế Trạch lănh đắp chơn dung Đức Cao Thượng Phẩm đứng trên mặt dựng trong Báo Ân Từ, tay cầm Long Tu Phiến đưa lên, mặc áo rộng trắng.  Đức Phạm Hộ Pháp dạy Lễ Viện Phước Thiện sửa soạn đúng 6 giờ chiều ngày mùng 9 tháng Giêng năm Đinh Hợi (dl 30-1-1947), thiết Lễ an vị Đức Phật Mẫu.

Từ từ, toàn thể Chức sắc và Đạo hữu tề tựu tại Báo Ân Từ, các Chức sắc đều mặc Đại phục theo sắc phái, khi thấy Đức Hộ Pháp mặc áo dài trắng thường phục, cả thảy đều trở về thay đổi, mặc áo dài trắng tay chẹt hết.  Đức Hộ Pháp nói : " Nơi triều Thiên ở Đền Thánh chầu Lễ Đức Chí Tôn là đẳng cấp nên phải có áo măo, c̣n về nơi đây là cửa Phật của Đức Phật Mẫu, chỉ với t́nh MẸ - CON mà thôi, nên không mặc Thiên phục với áo măo." Đức Ngài sắp đặt Chức sắc Nữ phái qú ban giữa, kế tiếp đến Nữ Đạo hữu qú chót. Ban bên hữu toàn là Nữ phái qú cúng; Ban bên tả th́ thuộc Nam phái, Chức sắc Nam phái qú trước, nối theo là các Nam Đạo hữu.

           Ngoại Nghi được gọi là Bàn Hội Đồng, cũng hương hoa trà tửu quả, để mời chư Chức sắc Đại Thiên Phong Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài quá văng như Đức Cao Thượng Phẩm, Đức Quyền Giáo Tông, vv...đến dự lễ cúng Phật Mẫu.

Phía sau Ngoại Nghi, dành cho Đức Hộ Pháp cùng chư vị Thời Quân và Chức sắc Hiệp Thiên Đài qú cúng Đức Phật Mẫu.  Sau khi cúng Đức Phật Mẫu xong, lễ thành, Đức Ngài gọi Lễ Viện Phước Thiện và các Giáo Nhi, Đồng Nhi, đến đứng chung quanh Bàn Hội Đồng (Ngoại Nghi).

Đức Ngài dạy :

" Khi cúng rồi phải day ra xá một xá, cũng như ở Đền Thánh vậy. Nên hiểu, không phải xá Hộ Pháp, mà là xá để kỉnh chào Khí Sanh Quang, tức là nguồn cội của Pháp biến sanh vạn vật : trước là Phật Pháp Tăng gọi là Tam Qui, trong Pháp ấy xuất hiện Phật Mẫu, kế tiếp vạn linh, vạn vật, vv ... Bởi cái Bí Pháp Diêu Tŕ Cung có liên quan mật thiết cùng Hiệp Thiên Đài (một căn cội Pháp) vận hành nguơn khí. Nơi nào có Hiệp Thiên Đài th́ có Tam Qui thường bộ Pháp giới. Mặc dầu nơi đây không có thờ chữ KHÍ mà buộc ḿnh phải xá ra, đó là ḷng tin tưởng biết ơn và chào mạng sanh của chúng ta đó vậy Mấy em lễ sĩ nhớ, khi cúng Đức Phật Mẫu, phải xướng câu : " NAM NỮ NHẬP ĐÀN." Nơi nầy về MẸ , ai cũng là con, không ai dám xưng Chức sắc, dầu Hộ Pháp cũng là con.

Lễ sĩ mặc áo vàng phái Thái, được phép đi giày mang vớ trắng. Theo lẽ có Lễ sĩ Nữ dâng Tam Bửu, mà thấy coi bộ bề bộn, phải mấy đứa thủ trinh, c̣n nhỏ, bắt nó tập lễ đi coi gọn hơn.

Mấy em Giáo Nhi, khi cúng đàn nơi Đền Thờ Phật Mẫu, đọc bài Kinh Tạo Hóa Thiên huyền vi Thiên Hậu, rồi kế Điện Hoa. Khi cúng Tứ Thời mới tụng bài Kinh Tán Tụng Công Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu, tụng đến câu : Cùng chung giáo hóa chung cùng lo âu, th́ sửa lại là : Cùng chung giáo hóa ân cần lo âu; để rồi Bần đạo cho lịnh Tiếp Lễ Nhạc Quân sửa lại những chữ trùng tự trong Kinh.

Bài Dâng Hoa đến chữ : Cúi mong Thượng Đế ...th́ sửa lại là : Cúi mong Phật Mẫu rưới ân Thiên.  Kỳ Lễ cúng Phật Mẫu nầy, theo lẽ cúng giờ Ngọ, nhưng Bần đạo định cúng thời Dậu là cốt yếu thuộc Âm, lại là ngày Vía Đức Chí Tôn. Buổi đầu, Bần đạo biết thế nào cũng bở ngở và sơ sót, nên cúng để chỉ dạy . Đến kỳ Sóc Vọng tới đây, phải chấn chỉnh cho trang hoàng. Từ đây, Lễ Viện Phước Thiện, Hành Chánh, phải tuân y lịnh dạy, đừng sửa đổi. Vào những ngày Sóc  Vọng cùng các ngày Lễ, Vía, phải thiết lễ cúng Đức Chí Tôn vào thời Tư, c̣n cúng Đức Phật Mẫu vào thời  Ngọ. Từ đây về sau, nơi nào muốn lập Đền Thờ Phật Mẫu th́ phải lập Thánh Thất trước, rồi mới lập Đền Thờ Phật Mẫu sau. Phải coi cách thức hành lễ nơi Đền Thánh và nơi Báo Ân Từ đây mà bắt chước làm y theo một khuôn mẫu, chẳng nên canh cải trái Pháp mà sanh biến, loạn hàng thất thứ."

 (Viết theo bài Tường thuật của Ông Truyền Trạng Phạm ngọc Trấn).

Ngày 2-2-Đinh Hợi (dl 22-2-1947), Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu giáng cơ tại Báo Ân Từ, bày tỏ sự cảm động v́ con cái của Phật Mẫu đă lập Đền Thờ Phật Mẫu trang trọng để thờ phụng Người. (Xin xem bài Thánh ngôn số 11 ở phần Thánh Ngôn Sưu Tập phía sau).

" Đức Phạm Hộ Pháp có dành một khu đất rộng 4 mẫu phía trước cửa Ḥa Viện để chánh thức kiến tạo Đền Thờ Phật Mẫu (Trung Ương). Nhưng ḷng từ bi của Phật Mẫu thấy con cái c̣n đang chịu loạn lạc khổ sở, trong cửa Đạo lại có sự chia phân, nên Đức Phật Mẫu dạy tạm thờ Phật Mẫu nơi Báo Ân Từ, là nhà thờ công nghiệp của con cái Phật Mẫu, đặng thấy ḷng thương yêu cưng con đáo để của Phật Mẫu dường nào, cho đến khi cổi xác phàm, c̣n

đem vô tế lễ cũng là tŕnh diện trước mắt Bà MẸ Thiêng liêng." (Thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp).

Khu đất rộng 4 mẫu mà Đức Phạm Hộ Pháp dành để cất Điện Thờ Phật Mẫu Trung Ương, nằm ở ngoại ô Ṭa Thánh, trên đường B́nh Dương, cách cửa Ḥa Viện (cửa số 1) chừng 1000 thước về hướng Núi Bà, bên tay mặt, tại xóm Tà Mun hiện nay.

Vào cuối năm Tân Măo (1951), nhận thấy Báo Ân Từ bằng cây ván, cất trước đây 20 năm, nay đă hư mục hầu hết, mái ngói quá cũ bị dột nhiều chỗ khi trời mưa, nên Bà Phối Sư Hương Nhiều, Chưởng quản Phước Thiện Nữ phái, có dâng tờ lên Đức Hộ Pháp và Hội Thánh xin cho Nữ phái Phước Thiện được lănh cất lại Báo Ân Từ bằng vật liệu nặng cho chắc chắn.

Đức Hộ Pháp chấp thuận, nhưng kiểu mẫu phải do Ngài chỉ định và Ban Kiến Trúc đứng ra xây dựng.

Đức Ngài kêu Tá Lư Đinh văn Cung (Ban Kiến Trúc) chỉ dẫn từng chi tiết để chỉ huy công quả thợ hồ làm việc.

Phần làm móng, đúc cột và đà ngang, hoàn toàn bằng bê-tông cốt sắt, cả mái lợp bên trên cũng đúc bê-tông luôn, vách xây hai mươi bằng gạch rất chắc chắn. Phần trang trí và đắp vẽ, Đức Phạm Hộ Pháp giao cho Tá Lư Hà văn Chỉnh của Ban Kiến Trúc, hướng dẫn công thợ đắp vẽ và sơn phết.

Đức Ngài dạy đắp một khuôn bao thật lớn ở ngay giữa tấm vách ngăn (mà phía sau làm Hậu điện) , để đắp các pho tượng thờ theo sự tích HỚN RƯỚC DIÊU TR̀, tức là vua Hớn Vơ Đế rước Đức Phật Mẫu, Cửu vị Tiên Nương và 4 Tiên đồng Nữ nhạc, cỡi chim Thanh loan đi xuống phàm trần để chứng lễ Khánh thọ của vua Hớn Vơ Đế.

- 1. Trên hết đắp chơn dung Đức Phật Mẫu cỡi chim Thanh loan. (Thanh loan là con chim loan màu xanh, cùng một loại với chim phụng, con chim trống gọi là phụng, con mái gọi là loan. Thanh loan được dùng làm con chim lịnh của Đức Phật Mẫu và để Đức Phật Mẫu cỡi đi du hành đến các cơi trần.).

- 2. Kế đó đắp 9 pho tượng của Cửu vị Tiên Nương. - 3. Tiếp theo đắp 4 pho tượng của 4 vị Tiên đồng Nữ  nhạc theo hầu Đức Phật Mẫu.

- 4. Đắp pho tượng của Ông Tiên Đông Phương Sóc đứng, 2 tay nâng một cái dĩa rước 4 quả đào Tiên do Đức Phật Mẫu đem xuống tặng mừng vua Hớn Vơ Đế . Tượng của Ông Đông Phương Sóc phải đặt bên phía tay mặt của Đức Phật Mẫu mới đúng.

- 5. Bên phía tả của Đức Phật Mẫu đắp lên một ngôi chùa cổ thật đẹp gọi là Hoa Điện, rồi đắp Pho tượng Đức Thượng Phẩm Cao quỳnh Cư (thường gọi là Cao Thượng Phẩm) qú trước sân Hoa Điện.

Anh em công quả Sở Đắp Vẽ bạch : Bạch Thầy, làm sao biết được h́nh dung của Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương cùng các Đấng mà đắp.

     Đức Hộ Pháp dạy : Tượng của Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương đắp theo h́nh chưng cộ lần đầu tiên năm Đinh Hợi (1947). Thầy có chỉ cho Chí Thiện Trạch với Trần phong Lưu làm và Tá Lư Lâm thành Kía cất giữ, coi theo đó làm mẫu. Khi trước có mượn bức ảnh của Bà Nữ Phối Sư Hương Hiếu về sự tích về đời  nhà Hớn bên Tàu. Biểu mấy đứa nó rọi lại bức ảnh và chép lại sự tích ấy.

Trong lúc anh em công thợ làm việc, Đức Hộ Pháp thường đến xem sóc, chỉ dạy việc nầy việc nọ, khơi nhắc nhiều chuyện vui vẻ làm phấn khởi tinh thần của các anh em công thợ.

Nơi khuôn bao h́nh chữ nhựt ở tấm vách ngoài, ngó ngay vào Chánh điện, Đức Hộ Pháp định cho đắp tượng Đức Cao Thượng Phẩm qú nghinh tiếp Đức Phật Mẫu, nhưng sau đó Đức Ngài đổi ư, dạy chừa trống.

Đức Ngài nói: - Chờ ngày nào tạo được Đền Thờ Phật Mẫu Trung Ương chánh thức th́ nơi đó sẽ đắp h́nh NAM B̀NH VƯƠNG PHẬT, cũng như nơi Đền Thánh có Hộ Pháp ngự trên ngai trông vào Bát Quái Đài. C̣n ở đây là Báo Ân Từ dùng tạm làm Đền Thờ Phật Mẫu , nên chỗ nầy không đắp, để trống.  Anh em thợ hồ bạch :

- Xin Thầy cho biết h́nh Nam B́nh Vương Phật để sau nầy mấy con đắp.  Đức Hộ Pháp nói :

- Chừng nào tạo Đền Thờ Phật Mẫu chánh thức th́ Thầy sẽ cho biết, không ǵ lạ. Đền Thánh tượng trưng Bạch Ngọc Kinh tại thế có h́nh Hộ Pháp mặc Thiên phục khôi giáp, th́ nơi Đền Thờ Phật Mẫu tượng trưng Lôi Âm Tự, lẽ dĩ nhiên có h́nh Ngài, nhưng không mặc Thiên phục , chỉ mặc áo cà sa nhà Phật mà thôi. Theo tài liệu của Ban Kiến Trúc, Báo Ân Từ được :

- Khởi công xây dựng ngày 16-1-Nhâm Th́n (dl 11-2-1952).

- Đức Hộ Pháp trấn Thần và An vị cúng Đức Phật Mẫu ngày 4-8-Quí Tỵ (dl 11-9-1953).

- Khánh thành ngày 9-1-Ất Mùi, nhân dịp Đại Lễ Khánh Thành Ṭa Thánh Tây Ninh từ ngày mùng 6 đến  ngày 16-1-Ất Mùi.

 

                Sự tích Hớn rước Diêu Tŕ

Ḷng mộ Đạo và sự tín ngưỡng nơi Trời Phật đă trải qua các triều đại Đế Vương, dĩ chí đến đời nhà Hớn (Hán), duy chỉ có vua Hớn Vơ Đế là thật ḷng thành kính và tin tưởng có Đấng Phật Mẫu hơn ai hết.

Từ ngàn xưa, nhơn loại đă tin tưởng và thờ phượng Đấng Phật Mẫu , cũng gọi là Diêu Tŕ Kim Mẫu hay Bà Thiên Hậu, tin chắc rằng Đấng Vô H́nh ấy tạo hóa ra nhơn loại và vạn vật, nhưng chưa ai được may mắn nh́n thấy Đức Phật Mẫu.

Vua Hớn Vơ Đế hay Hán Vũ Đế (141-87 trước Tây lịch) là vị vua thứ 5 của nhà Hớn (Hán) bên Tàu, có  hùng tài đại lược, nhưng cũng rất tín ngưỡng Trời Phật.  Khi Hớn Vơ Đế mới lên ngôi, Ngài có phát nguyện lập một cảnh chùa thật tráng lệ gọi là HOA ĐIỆN để sùng bái Trời Phật. Gọi là Hoa Điện, v́ chùa nầy được chạm khắc h́nh các thứ hoa trên các vật liệu xây dựng, nên mới trông vào thấy như là một Cung Điện toàn bằng hoa.  Ngôi chùa lớn lao cực kỳ xinh đẹp như thế, nhưng nhà vua chưa quyết định thờ Đấng nào, chỉ để trống,  chủ tâm là chờ đợi đến chừng nào nhà vua thấy được sự huyền diệu hiện tượng ra th́ nhà vua mới sùng bái.

Đến năm Hớn Vơ Đế được 61 tuổi, nhà vua định tổ chức một Lễ Khánh Thọ Đáo tuế long trọng, và Ngài có sở vọng là cầu khẩn thế nào cho có Đức Phật Mẫu giáng xuống chứng lễ, nên nhà vua lập bàn hương án trước sân chùa cầu khẩn ngày đêm, mà không biết Đức Phật Mẫu ngự ở nơi nào và có thấu biết chăng. Lúc bấy giờ có Ông Đông Phương Sóc, tu đắc đạo thành Tiên, mà trước kia Ông có làm quan trong triều đ́nh của vua Hớn Vơ Đế, sau về núi tu luyện , đang ngồi tịnh, chợt động tâm, liền đoán biết hiểu rơ mọi việc của Hớn Vơ Đế nơi triều đ́nh. Ông liền xuống núi, đi đến Kinh đô, vào triều đ́nh yết kiến Hớn Vơ Đế.

Vua Hớn Vơ Đế gặp được Đông Phương Sóc th́ rất mừng rỡ, thuật hết mọi việc cho Đông Phương Sóc nghe và nói rơ ước vọng của nhà vua nhân cuộc Lễ Khánh thọ Đáo tuế là sở cầu Đức Phật Mẫu đến chứng lễ, mà không biết Đức Phật Mẫu ở nơi nào, và nhờ ai đi thỉnh, may mắn có Đông Phương Sóc tới, vậy nhờ khanh giúp trẫm đi thỉnh Đức Phật Mẫu được chăng ?

Ông Đông Phương Sóc tâu rằng :

- Bệ Hạ đă định th́ Hạ thần xin phục mạng, dầu khổ nhọc thế nào, Hạ thần cũng sẽ đến Diêu Tŕ Cung thỉnh Đức Phật Mẫu, nhưng kết quả được cùng chăng là do ḷng thành cầu nguyện của Bệ Hạ. Vậy xin Bệ

Hạ ban ch

 Ông đă được thân nhân mai táng, śnh thúi hư hỏng hết rồi, v́ vụ thưa kiện nầy ḷng ṿng mất nhiều ngày giờ. Do đó, 3 Chơn hồn được đưa trở lại Địa phủ.

Diêm Vương làm tờ sớ tŕnh bày tỉ mỉ sự việc, dâng lên Thiên Tào phán định. Thượng Đế xem xong, phán rằng :

- Phước nghèo, đông con, giữ được ḷng thanh bạch. Thọ th́ độc thân, không tham, có nghĩa, nhân từ. Lộc  th́ có ḷng độ lượng.

Cho nên, Phước Lộc Thọ là 3 tánh đức của Trời, Đất, Người. Người mà có được 3 đức ấy để hưởng là một phúc hạnh lớn.  Nay phong cho 3 vị làm Tam Thiên Quân, và truyền cho thế gian tôn thờ 3 Đấng Thiên Quân nầy để làm gương. Đạo Nho lấy sự tích Phước-Lộc-Thọ nầy làm biểu tượng thờ Cửu Huyền Thất Tổ, thể sánh Tổ Phụ Ông Bà thuở xưa cũng đă từng hưởng được 3 đức ấy. Đức Phạm Hộ Pháp cho lập tại Hậu Điện Báo Ân Từ và nơi Khách Đ́nh , thờ 3 chữ PHƯỚC-LỘC-THỌ bằng chữ Nho đại tự, để làm Bàn thờ Ông Bà chung.

Trong truyện Tây Du Kư có chép chuyện Tôn Hành Giả đi ra Đảo Bồng Lai gặp 3 Ông Phước, Lộc, Thọ,  gọi là Thọ Tinh, Phước Tinh, Lộc Tinh. Chuyện ấy tóm tắt như sau :

" Sau khi Tôn Hành Giả nổi giận quật ngă cây Nhơn Sâm của Trấn Nguyên Đại Tiên ở Ngũ Trang Quán núi Vạn Thọ, bị Trấn Nguyên Đại Tiên dùng phép Tiên bắt hết 4 Thầy tṛ Tam Tạng để bắt đền cây Nhơn Sâm. Tôn Hành Giả hứa đi t́m thuốc cứu cây Nhơn Sâm ấy cho sống lại, hẹn trong 3 ngày trở lại, để Tam Tạng, Trư Bát Giới cùng với Sa Tăng ở lại làm tin.

Tôn Hành Giả thót lên mây, cân đẩu vân thẳng đến Đông Dương Đại Hải, tới nơi, Hành Giả đi thẳng đến Đảo Bồng Lai, thấy ngoài cửa Động Bạch Vân, dưới bóng tùng, có 3 ông già đang ngồi đánh cờ. Người ngồi xem là Thọ Tinh, c̣n 2 người đang đánh cờ là Lộc Tinh và Phước Tinh. Hành Giả bước tới chào hỏi :

- Kính chào 3 Ông Em.

Ba người bỏ ván cờ, đồng hỏi :

- Đại Thánh có việc chi tới đây ?

- Chẳng giấu ǵ các Ngài, Lăo Tôn nhận bảo hộ Đường tăng đi Tây phương thỉnh kinh, giữa đường gặp một chút trở ngại, có tí việc muốn nhờ đến các Ngài giúp đây.

Phước Tinh hỏi :

- Trở ngại ǵ, Đại Thánh nói ra để chúng tôi c̣n liệu.

- Trở ngại ở Ngũ Trang Quán, núi Vạn Thọ.

Ba vị Phước, Lộc, Thọ kinh ngạc hỏi :

- Quán Ngũ Trang là Cung Tiên của Trấn Nguyên Đại Tiên. Chắc Đại Thánh vào đấy ăn trộm quả nhơn sâm của ông ấy chớ ǵ ?

- Ăn trộm th́ đáng là bao, Lăo Tôn đă quật nó ngă chổng gọng chết rồi. Lăo ấy bắt đền. Ta hứa đi t́m thuốc chữa cho cây Nhơn sâm ấy sống lại. Nó bắt Thầy ta ở lại làm tin, hẹn trong 3 ngày phải có thuốc. Ba Ngài có phương thuốc nào chữa cho cây Nhơn sâm ấy sống lại không ?   Ba Ông Phước, Lộc, Thọ buồn rầu đáp :

- Con khỉ nầy chẳng biết ǵ hết. Trấn Nguyên Đại Tiên là Ông Tổ của ḍng Địa Tiên. Chúng tôi đây thuộc ḍng Thần Tiên, nhưng vẫn thuộc Thái Ất tán số, chưa phải là ḍng Chân truyền, nên thoát khỏi tay người ta làm sao được. Tưởng như Đại Thánh giết chết loài thú chạy chim bay th́ dùng Viên đơn lúa mạch  của chúng tôi đây là có thể cứu sống được. Đằng nầy cây Nhơn sâm là giống cây Tiên, th́ cứu làm sao được. Không có thuốc đâu ! Tôn Hành Giả nghe nói không có thuốc th́ châu mày trợn mắt. Phước Tinh nói :

- Đại Thánh ạ ! Ở đây chúng tôi không có thuốc thật mà. Biết đâu nơi khác có th́ sao, hơi đâu mà buồn phiền.

 - Dù đi khắp chơn trời góc biển, việc đó có khó ǵ đối với Lăo Tôn, ngặt Sư phụ của Lăo Tôn phép nghiêm lượng hẹp, hạn cho có 3 ngày. Quá hạn 3 ngày không về th́ ổng niệm Chú Cẩn Cô khổ lắm.

- Đúng ! Đúng ! Không có phép ấy để trói buộc Đại Thánh th́ Đại Thánh lại chọc trời mất !  Thọ Tinh nói :

- Đại Thánh yên tâm, chớ phiền năo. Vị Đại Tiên ấy, tuy là bậc trên của chúng tôi, nhưng cũng là chỗ quen biết. Để 3 chúng tôi đến đó thăm Ngài và nói giùm cho Đại Thánh, bảo Đường Tăng đừng đọc Chú Cẩn Cô, đợi khi nào Đại Thánh mang thuốc về, chúng tôi mới từ biệt. Đại Thánh an ḷng lo đi t́m thuốc.

- Cám ơn 3 Ngài. Lăo Tôn xin 3 Ngài đi ngay cho."

( Sau đó Hành Giả đến cầu được Đức Quan Âm Bồ Tát, dùng nước Cam Lồ trong Tịnh b́nh, cứu sống được cây Nhơn sâm. Trấn Nguyên Đại Tiên mới vui ḷng để cho 4 Thầy tṛ Đường Tăng lên đường thỉnh  kinh).

HỘI YẾN DIÊU TR̀ CUNG

Hội Yến là một tiệc rượu long trọng để đăi các vị khách quí. Hội Yến Diêu Tŕ Cung là tiệc long trọng của các tín đồ Cao Đài đăi Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương.

Hằng năm, vào đêm rằm Trung Thu (15 tháng 8 âm lịch), tại Báo Ân Từ, Đền Thờ tạm Đức Phật Mẫu trong Nội Ô Ṭa Thánh Tây Ninh, Hội Thánh có tổ chức một buổi lễ long trọng gọi là Hội Yến Diêu Tŕ Cung, trong đó có buổi tiệc dâng Tam Bửu : Hoa Quả, Rượu, Trà lên Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương.

        Gốc tích Lễ Hội Yến Diêu Tŕ Cung

Cuộc Lễ Hội Yến Diêu Tŕ Cung được tổ chức theo sự tích có từ năm Ất Sửu (1925), khi chưa Khai Đạo. Đức Chí Tôn lúc đó c̣n ẩn danh, chỉ xưng là Đấng A Ă Â, dạy 3 ông : Cao quỳnh Cư, Phạm công Tắc, Cao hoài Sang, làm một cái tiệc chay đăi 10 Đấng Vô h́nh ở Diêu Tŕ Cung là : Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương.

SỰ TÍCH ấy như sau:

Nguyên vào thượng tuần tháng 8 âm lịch năm Ất Sửu (1925), 3 ông Cư, Tắc, Sang được Thất Nương tiết lộ cho biết chút ít về Diêu Tŕ Cung ở từng Trời Tạo Hóa Thiên nơi cơi thiêng liêng : Trên hết có Cửu Thiên Nương Nương cai quản, dưới có Cửu vị Tiên Nương phụ tá, mà Cô đứng hàng thứ 7, gọi là Thất Nương, Hớn Liên Bạch là Bát Nương, vv ... Ba ông xin Cô cho biết cách cầu Cửu Thiên Nương Nương.

Thất Nương bảo : Ba Anh muốn cầu Nương Nương th́ phải ăn chay trước 3 ngày và t́m cho đặng Ngọc cơ th́ cầu Lịnh Bà mới được.

Ba ông không biết Ngọc cơ là chi. Cô mới mô tả Ngọc cơ, giải thích rơ căn cội buổi xưa lấy h́nh dạng chùm sao Bắc đẩu mà tạo thành, lại dạy cho cách pḥ cơ. Thất Nương cũng dặn mỗi vị làm sẵn một bài thơ đón mừng Cửu Thiên Nương Nương.

Ba ông không biết t́m Ngọc cơ ở đâu, nhưng như có linh tính xúi giục, ông Cư qua nhà một người bạn lối xóm là ông Phán Tư hỏi thăm. Ông Tư liền cho biết ông có một cây Ngọc cơ hiện đang cho ông Âu Kích

Chùa Tam Tông Miếu mượn, để ông lấy về cho ông Cư mượn mà cầu các Đấng, chớ lối Xây bàn của ông Cư đang áp dụng, tiếp nhận được một bài văn của các Đấng th́ tốn nhiều th́ giờ quá.  Ba ông rất mừng rỡ, chuẩn bị ăn chay cho đủ 3 ngày để cầu Cửu Thiên Nương Nương vào ngày Trung Thu sắp tới.

Đêm ấy có Đấng A Ă Â giáng bàn, bảo 3 Ông nhơn dịp đó mà làm một cái tiệc chay để đăi 10 Đấng Vô h́nh nơi Diêu Tŕ Cung là : Cửu Thiên Nương Nương và 9 vị Tiên Nương. Đấng A Ă Â c̣n dạy cách sắp đặt bàn ghế và trang hoàng nhà cửa. Ông Cao Huệ Chương, con của Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao quỳnh Diêu, thuở ấy c̣n là thanh niên, có theo Ngài Diêu và Ngài Cư để xây bàn. (Ông Cao Huệ Chương gọi ông Cư là Chú Tư, gọi ông Tắc là Chú Tám, gọi ông Sang là Anh Sang). Ông Huệ Chương có tham dự vào việc

chưng dọn và đứng hầu trong buổi lễ ấy, thuật lại trong quyển sách "Đại Đạo Truy Nguyên", chép ra sau đây :

" Qua đến ngày thứ ba, là buổi hẹn ḥ, lại nhằm tiết Trung Thu, đúng đêm 14 rạng mặt 15 tháng 8, ngoài trời th́ trăng thanh gió mát, trong nhà Chú Tư tôi lại dọn dẹp trang hoàng, xem vào có vẻ tinh khiết lắm. Đúng giờ Tư, cả thảy đều đủ mặt, tôi thấy Chú Tư tôi đă sắp đặt dọn bàn dài, rải bông lá xung quanh, phía trong bàn, ngay chính giữa, để một bộ đồ trà, c̣n 9 vị Tiên Cô, mỗi người một cái tách , sắp ṿng theo bàn, hàng giữa dọn những trái cây tươi tốt, ngó vào rất lịch sự, tựa h́nh như đăi tiệc, v́ chung quanh có để 9 cái ghế mây.

Cuộc cúng nầy, mấy ổng gọi là Phó Yến Diêu Tŕ, đến ngày nay hăy c̣n noi dấu lễ kỷ niệm nầy. Đoạn Chú Tư tôi đốt hương đèn lên, cả thảy đều qú lạy khấn vái, rồi đem Ngọc cơ ra cầu.  Thật quả có Lịnh Cửu Thiên Nương Nương đến, và đủ 9 vị Tiên Cô, mỗi vị đều có giáng cơ chào mừng mấy ổng.

Khi ấy, Thất Nương xin 3 ông đờn, rồi mỗi người ngâm bài thi của ḿnh làm đặng hiến lễ, c̣n Lịnh Bà và Cửu Cô an vị mà nghe.

Chừng nhập tiệc, Thất Nương lại mời 3 ông ngồi chung vào cho vui. Cũng tội nghiệp cho mấy ổng, v́  e thất lễ, nên không dám ngồi, rốt việc v́ ép uổng quá, mấy ổng liệu thế khó chối từ, mới đem thêm 3 cái ghế sắp sau lưng 9 cái ghế nọ, ba ông xá rồi ngồi xuống.  Tôi ḍm thấy mấy ổng, cũng bắt tức cười, nhưng không dám nhích mép, cứ đứng khoanh tay hầu mà thôi.  Cách chừng nửa giờ, Chú Tư tôi lại tái cầu. Lịnh Nương Nương và 9 vị Tiên Cô để lời cảm tạ chẳng cùng, lại hứa rằng : " Từ đây đă có Ngọc cơ rồi th́ tiện cho Diêu Tŕ Cung Cửu Cô đến dạy việc."  Đêm ấy, mấy ổng thức tới 3 giờ khuya mới nghỉ."

Đức Phạm Hộ Pháp, trong buổi thuyết đạo tại Đền Thánh ngày 15-8-Kỷ Sửu [dl 6-10-1949] cũng có thuật lại buổi đó như sau :

" Tuy buổi ban sơ mà dường như khối óc đă thâm nhiễm nhiều rồi, nên Đức Chí Tôn mới ra lịnh biểu làm một cái tiệc. Ngài dạy sắp đặt cái tiệc ấy để đăi 10 Đấng Vô h́nh : Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương.

Phần hữu h́nh có 3 người (Thượng Sanh, Thượng Phẩm và Hộ Pháp). Sắp đặt tiệc ấy do tay Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu, vâng mạng lịnh tạo thành một cái tiệc, trên là bàn thờ Đức Phật Mẫu, ở dưới sắp  9 cái ghế như có người ngồi vậy. Chén đủa, muỗng dĩa, bất kỳ cái ǵ cũng giống như đăi người hữu h́nh vậy, duy có 3 người xác thịt là Thượng Sanh, Thượng Phẩm, Hộ Pháp.  Bần đạo mới hỏi, tiệc nầy là tiệc ǵ ?  Ngài nói là : - Hội Yến Diêu Tŕ.

Bần đạo nghe nói vậy th́ hay vậy chớ không biết giá trị Hội Yến là ǵ cả. Nghĩ chắc cũng có ảnh hưởng ǵ cần yếu đến tương lai của Đạo mà vâng lịnh thôi, chớ không hiểu nghĩa lư cho cùng cạn hết.  Ba người sống đồng ngồi ăn, c̣n Bà Chánh Phối Sư Hương Hiếu gắp đồ ăn để vào chén cho 9 vị và trên bàn thờ cho Đức Phật Mẫu cũng như người sống vậy. Chừng Hội Yến Diêu Tŕ rồi, các Đấng Thiêng liêng từ giă (thăng), kế Đức Chí Tôn đến nhập cơ. Thượng Phẩm và Bần đạo tọc mạch hỏi :

- Khi năy Diêu Tŕ Cung đến, có Ngài đến ở đó không?

Đức Chí Tôn trả lời :

- Có chớ, Ta ở đây từ khi ban sơ tới giờ.

- Ngài có thấy Diêu Tŕ Cung đến không ?

- Có chứ, chính ḿnh Ta tiếp đăi.

Cao Thượng Phẩm hỏi :

- Diêu Tŕ Cung ngó thấy Ngài không ?

- Không ngó thấy.

Cao Thượng Phẩm hỏi : - Sao vậy ?

Ngài trả lời : - Ta dùng phép ẩn thân.

Bần đạo tọc mạch hỏi tiếp :

- Như đứa em của tôi là Thất Nương Diêu Tŕ Cung có thể đạt Đạo đặng

- Đạt đặng chớ.

Cao Thượng Phẩm hỏi : - Phải làm sao ?

Ngài đáp :

- Phải tu, bằng không tu th́ chẳng đạt đặng.

Bần đạo hỏi :

- Tu chừng bao lâu mới đạt đặng ?

Cái đó Ngài làm thinh. Bần đạo hỏi 1 năm, 5 năm, một ngàn năm, mười ngàn năm, một trăm ngàn năm, Ngài cũng làm thinh, rồi thôi không hơi sức nào hỏi nữa, không biết chừng nào mới đạt đặng, nghe vậy hay vậy.

Các vị Nữ phái rán nhớ, Bần đạo đă giải nghĩa Hội Yến Diêu Tŕ là ǵ rồi đó."

Như trên đă tŕnh bày, sau khi đăi tiệc Hội Yến Diêu Tŕ xong, Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương giáng cơ cám ơn 3 ông : Tắc (Đức Hộ Pháp), Cư (Đức thượng Phẩm), Sang (Đức Thượng Sanh), và sau đó mỗi vị cho một bài thi 4 câu để làm kỷ niệm buổi Hội Yến đầu tiên ấy. Xin chép 10 bài thi ấy ra sau đây :  CỬU THIÊâN NƯƠNG NƯƠNG

Cửu kiếp Hiên Viên thọ sắc Thiên,

Thiên Thiên Cửu phẩm đắc cao huyền.

Huyền hư tác thế Thần Tiên Nữ,

Nư ơ hảo thiện căn đoạt Cửu Thiên.

NHỨT NƯƠNG :

HOA thu ủ như màu thẹn nguyệt,

Giữa thu ba e tuyết đông về.

Non sông trải cánh Tiên ḷe,

Mượn câu thi hứng vui đề chào nhau.

NHỊ NƯƠNG :

CẨM tú văn chương hà khách đạo ?

Thi Thần tửu Thánh vấn thùy nhân ?

Tuy mang lấy tiếng hồng quần,

  Cảnh Tiên c̣n mến, cơi trần anh thư.

TAM NƯƠNG :

TUYẾN đức năng thành đạo,

Quảng trí đắc cao huyền.

Biển mê lắt lẻo con thuyền,

Chở che khách tục, Cửu tuyền ngăn sông.

TỨ NƯƠNG :

GẤM lót ngơ chưa vừa gót ngọc,

Vàng treo nhà ít học không ưa.

Đợi trông nho sĩ tài vừa,

Đằng giao khởi phụng khó ngừa Tiên thi.

NGŨ NƯƠNG :

LIỄU yểu điệu c̣n ghen nét đẹp,

Tuyết trong ngần khó phép so thân.

Hiu hiu nhẹ gót phong trần,

Đài sen mấy lượt gió thần đưa hương.

LỤC NƯƠNG :

HUỆ ngào ngạt đưa hơi ṿ dịu,

Đứng tài ba chẳng thiếu tư phong.

Nương mây như thả cánh hồng,

Tiêu Diêu phất phướn, cơi ṭng đưa Tiên.

THẤT NƯƠNG :

LỄ bái thường hành tâm đạo khởi,

Nhân từ tái thế tử vô ưu.

Ngày xuân gọi thế hảo cừu,

Trăm duyên phước tục khó bù buồn Tiên.

BÁT NƯƠNG :

HỒ HỚN HOA SEN TRAéNG nở ngày,

Càng gần hơi đẹp lại càng say.

Trêu trăng hằng thói dấu mày,

Cợt mây tranh chức Phật đài thêm hoa.

 

CỬU NƯƠNG :

KHIẾT saÏch duyên trần veÏn giữ,

Bạc Liêu ngôi cũ c̣n lời.

Chính chuyên buồn chẳng trọn đời,

Thương người noi Đạo, Phật Trời cũng thương

 Bí Pháp Hội Yến Diêu Tŕ Cung

Bí Pháp của Hội Yến Diêu Tŕ Cung được Đức Phạm Hộ Pháp giảng giải nhiều lần trong các Bài Thuyết đạo, xin lần lượt chép ra sau đây, theo thứ tự thời gian :

- Ngày 30-1-Đinh Hợi ( dl 20-2-1947) : " Hội Yến Diêu Tŕ là cơ quan đắc đạo tại thế. Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu cùng Cửu vị Nữ Phật đă giáng trần hội yến với chư Chức sắc, xướng họa thi phú và dạy Đạo. Ấy là Hội chư Tiên tại thế. Đức Chí Tôn thuộc về Phật, Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu thuộc về Pháp. Nếu có Đức Chí Tôn mà không có Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu th́ trong vũ trụ nầy không có chi về mặt hữu vi, c̣n Nhơn loại là Tăng.

Ta nh́n có Đức Chí Tôn khai hóa, nhưng cơ sanh hóa Càn khôn cũng như cơ sản xuất nhơn loại tại thế do nơi Âm Dương tương hiệp mới phát khởi vạn vật, cho nên con người gọi Đức Chí Tôn và Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu là 2 Đấng Đại Từ Phụ và Đại Từ Mẫu, và con người là Tiểu Thiên Địa."

- Tại Đền Thánh, ngày 15-8-Kỷ Sửu (dl 6-10-1949) : " Hôm nay là ngày Kỷ niệm Bí Pháp Hội Yến Diêu Tŕ, Đức Chí Tôn đă lập trong nền Chơn giáo của Ngài. Bần đạo thừa dịp nên thuyết minh cho toàn cả con cái Đức Chí Tôn hiểu rơ cái huyền vi bí mật ấy, bởi có ảnh hưởng với cơ quan đạt đạo của chúng ta tại mặt thế nầy. Hơn nữa, Bần đạo có phương tiện tỏ ra một đức tin dị thường nơi một Đấng yêu ái, một Đấng tạo Càn khôn Vũ trụ, Đấng tự hữu hằng hữu, Đấng quyền năng vô tận vô biên, cốt để cho con cái của Ngài thấu đáo cái thâm t́nh của Ngài đối vơi ta và ta đối với Ngài dường nào.

Toàn thể Thánh thể của Đức Chí Tôn là con cái của Ngài rán để ư cho lắm. Từ khi Đạo bị bế, Ngọc Hư Cung bác luật, Cực Lạc Thế giới th́ đóng cửa, nên chúng sanh toàn cả Càn khôn Vũ trụ có tu mà thành rất ít, bởi phương pháp khó khăn lắm, muốn đạt pháp th́ không phải dễ.

Cổ pháp định cho các chơn hồn về nơi Diêu Tŕ Cung hưởng được Hội Yến Bàn Đào, tức nhiên hưởng được Hội Yến Diêu Tŕ , ăn được quả Đào Tiên, uống được Tiên tửu, mới nhập vô cảnh Thiêng liêng Hằng sống gọi là Nhập Tịch. Ôi thôi ! Từ thử đến giờ có ai đặng hưởng, nếu có đặng hưởng th́ cũng một phần rất ít.  Giờ phút nầy, Đức Chí Tôn quyết định tận độ con cái của Ngài, thay v́ Bí Pháp ấy độ con cái của Ngài về nơi Kim Bàn Phật Mẫu đặng hưởng đặc ân thiêng liêng của Đức Chí Tôn. Đức Chí Tôn buộc Phật Mẫu phải đến tại thế gian nầy để Bí Pháp Hội Yến Diêu Tŕ tại cửa Đạo nầy cho con  cái  của  Ngài  giải  thoát.  Aáy  la ø Bí Pháp Thiêng liêng, duy có tay Ngài ( Đức Chí Tôn ) định pháp ấy mới đặng.

Hôm nay là ngày Đức Phật Mẫu đem Bí Pháp đặng giải thoát chúng sanh, tận độ toàn Vạn linh sanh chúng. Ngài để tại mặt thế nầy trong cửa Đạo nầy mà thôi. Hôm nay, ngày Lễ của Ngài mà cũng là ngày trọng hệ trong cửa Đạo, xin toàn cả con cái của Ngài nhớ và để nơi tâm ḿnh . Bởi thế, năm nào Bần đạo cũng để ư Lễ của Ngài hơn hết, từ tạo Thiên lập Địa đến giờ, chưa có ai hưởng được thời kỳ nầy. Ngài đến tại mặt Địa cầu 68 nầy đặng tận độ con cái của Ngài. Chúng ta phải chiêm ngưỡng ơn vô biên vô tận của Ngài. Chúng ta phải chiêm nghiệm lễ nầy để làm mật niệm cám ơn Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu. Ấy là Bí Pháp của chúng ta đó vậy."

- Tại Cửu Long Đài, chiều ngày 15-8-Tân Măo (dl 15-9-1951) : " Đức Chí Tôn giao cho Đức Phật Mẫu cơ quan siêu thoát, phải làm thế nào đặng tận độ 92 ức nguyên nhân trở về cựu vị.

Muốn đạt đặng Bí pháp siêu thoát ấy, chúng ta ngó thấy Đức Phật Mẫu đă làm ǵ ? Đức Chí Tôn giao cho Đức Phật Mẫu nắm quyền hành để rước hết những chơn hồn khi đă đạt pháp, tức nhiên đạt cơ siêu thoát, lập vị ḿnh đặng vào cái địa vị thiêng liêng, đạt đặng th́ phải về Hội Yến cùng Đức Phật Mẫu.

Lễ Hội Yến Diêu Tŕ Cung, mà người ta gọi là Hội, nhưng thật ra chúng ta về hội hiệp vui cùng MẸ SANH của chúng ta đó vậy.

Đạo pháp gọi là Hội Yến Diêu Tŕ , tức nhiên chúng ta đă đạt đặng cơ siêu thoát nơi cơi Thiêng liêng Hằng sống kia. Chưa biết, nếu chúng ta không tu th́ con đường ấy là ǵ mà chớ ?  Chính ḿnh Đức Chí Tôn biểu Đức Phật Mẫu, tức nhiên Mẹ Sanh của chúng ta, cầm cả quyền năng giải thoát trong tay, đến lập Hội Yến Diêu Tŕ tại mặt thế nầy cho cả con cái của Ngài, nhứt là 92 ức nguyên nhân ấy, nếu nhập vào cửa Đạo, tùng theo Chơn pháp th́ đặng hồng ân của Đức Chí Tôn cho hưởng Bí pháp Hội Yến Diêu Tŕ tại thế nầy.

Cái cơ siêu thoát thiên hạ đă đặt trong tay họ sẵn, tức nhiên giờ phút cuối cùng nầy là giờ phút hứng thú, giờ phút chết của họ, th́ họ đạt vị một cách dễ dàng, ngôi vị mà cơ quan siêu thoát của Đức Chí Tôn đă cho không họ đó vậy.  Nhờ đó mà cơ quan tận độ Vạn linh của Đức Chí Tôn đă lập tại thế nầy, từ đây sẽ mở rộng cửa Thiêng liêng Hằng sống, đặng đến gom góp cả con cái của Ngài trở về hiệp một cùng Ngài.  Bí pháp Hội Yến Diêu Tŕ là vậy đó."

- Cửu Long Đài, chiều ngày 15-8-Nhâm Th́n (dl 3-10-1952) :

Hôm nay là ngày chúng ta hội hiệp cùng Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu, Bần đạo nhớ lại lúc ban sơ, Đức Chí Tôn mới đến mở Đạo, Ngài làm một Bí pháp từ thử đến giờ chưa ai tưởng đến.  Ngài ra lịnh lập một cái tiệc rất trọng hậu, chay chớ không phải mặn như ngoài đời, lấy trong số 13 người chúng ta, kể : Cửu vị Nữ Phật và Đức Phật Mẫu, với 3 người sống, tức nhiên 3 người hữu h́nh và 10 người vô h́nh, dự tiệc ấy. Ba người hữu h́nh là Đức Cao Thượng Phẩm, Đức Cao Thượng Sanh và Bần đạo. Tưởng không có cái ngộ nghĩnh nào hơn là ngồi ăn uống với những vị khuất mặt. Buổi nọ, Bần đạo chưa có đức tin, thấy một cái đó là việc nghịch nhứt, nhưng khi vào ngồi tiệc rồi, không biết cái tinh thần nó thay đổi thế nào, chẳng khác ǵ như chúng ta dự một tiệc trọng hậu, có mặt đủ các bạn ngồi chung quanh chúng ta đó vậy.

Đức Chí Tôn thi hành Bí pháp ấy, buổi nọ chúng tôi không hiểu ǵ hết, Bần đạo cũng t́m ṭi kiếm nghĩa lư. Có lẽ những người đoạt được cơ siêu thoát , tức nhiên tầm được cái huyền bí giải thoát cho ḿnh, th́ có đặc ân thiêng liêng ban cho Bàn Đào Hội Yến, tức nhiên là Hội Yến Diêu Tŕ .

Cái nghĩa lư sâu xa ấy, chúng ta thử để dấu hỏi, tại sao Đức Chí Tôn đă đến bảo chúng ta Hội Yến Diêu Tŕ . Ngài muốn ǵ đó ? Muốn cho toàn cả con cái của Ngài, chớ không phải với 3 người đó mà thôi. Đoạt cơ siêu thoát, tức nhiên ta nói thường ngữ của chúng ta là muốn cho toàn thể con cái của Ngài đoạt đặng cơ siêu thoát đó vậy.  V́ cớ cho nên, hôm rồi Bần đạo có nói một câu rất chánh đáng : "Xưa kia, con người đi t́m Đạo, c̣n hôm nay, trái lại, Đạo đến t́m người." Ôi ! Nếu ta tưởng cái ân hậu vô biên của Đức Chí Tôn đă thi thố, th́ chúng ta hạnh phúc không thế ǵ có ngôn ngữ nào mà tả cho đặng.  Thật ra hôm nay chúng ta hội hiệp cùng nhau đây, nó sẽ trở thành một tương lai, cũng như bên Thánh giáo GiaTô, tức nhiên là Công giáo, họ có phương thông công cùng Đức Chí Tôn đó vậy.  Hạnh phúc thay cho những người đặng Hội Yến Diêu Tŕ hôm nay, tức nhiên đặng hồng phúc hội hiệp cùng Bà MẸ Thiêng liêng của chúng ta, lẽ dĩ nhiên được mang sứ mạng thiêng liêng nơi ḿnh, cả toàn con cái của Đức Chí Tôn cũng thế, Nam cũng thế, Nữ cũng thế, kẻ Đông người Tây, kẻ Nam người Bắc, đem cả cơ bí mật thiêng liêng của Đức Chí Tôn là ḷng yêu ái của Ngài mà rải khắp cho toàn thể con cái của Ngài đều hưởng.

Mỗi một năm, chúng ta được hưởng cái hạnh phúc hội hiệp cùng nhau, chính ḿnh Bần đạo mỗi khi Hội Yến Diêu Tŕ được sum hiệp cùng mấy em Nam Nữ đông đảo chừng nào th́ Bần đạo càng thêm vui mừng

hân hạnh chừng ấy.  Bần đạo có nhớ một tích xưa : Một bà mẹ có nhiều con, rồi họ xúm lại với nhau thay phiên đặng nuôi mẹ.

Hễ khi anh cả nuôi rồi th́ cân được bao nhiêu, tới phiên em thứ nuôi, rồi cân phải hơn hay là như số đó mới đặng. Nhưng trong đám con ấy, rủi thay có một đứa nghèo mà đứa nghèo ấy lại được bà mẹ yêu ái binh vực hơn, phần nghèo khó có phương chi nuôi mẹ cho đầy đủ được, nên hễ tới phiên người con nghèo ấy th́ bà mẹ ốm o gầy ṃn, v́ ăn không đủ th́ thế nào cũng ốm. Bây giờ đến ngày cân, th́ bà mẹ phải làm sao ? Bà lận lưng thêm mấy cục ch́ cho nặng thêm, không th́ tội nghiệp cho đứa con nghèo ấy.

Cho nên lời tục họ gọi là : "Bà mẹ thương con phải bù ch́." là lẽ ấy.

Bà MẸ thiêng liêng của chúng ta cũng vậy. Bần đạo tưởng nơi cơi Thiêng liêng Hằng sống kia, không ai bảo vệ binh vực cả linh hồn chúng ta hơn Bà MẸ thiêng liêng ấy. Mỗi phen chúng ta hội hiệp cùng Người mỗi năm một lần, thử thí nghiệm coi, cả con cái của Ngài khi về th́ sẽ đặng an ủi và có cái vui hứng làm sao đâu ! Không biết mấy em Nam Nữ có cái cảnh tượng đó hay chăng ? Chớ Bần đạo mỗi phen được Hội

Yến Diêu Tŕ, làm như Bần đạo uống một chén thuốc bổ. Tinh thần Bần đạo vui hứng, mạnh mẽ tráng kiện làm sao đâu ! Có phải là cái huyền diệu ấy duy để cho cả con cái, Chức sắc Thiên phong, những người lănh sứ mạng cao trọng trong Đạo hay cả cả toàn thể con cái của Đức Chí Tôn đều hưởng được ? Bần đạo dám quả quyết nơi Đền Thờ của Đại Từ Mẫu của chúng ta, Bà không kể con cái sang trọng của Bà đâu, trái ngược lại, Bà lại thương yêu binh vực những đứa con nào nó thiệt thà hèn yếu hơn hết. Ấy vậy, Qua nói rằng : Trong cả mấy em đây, nếu có đứa em nào thiếu thốn cả tinh thần và vật chất, thiệt tḥi nghèo khổ, tật nguyền, Qua dám chắc Bà MẸ thiêng liêng của chúng ta sẽ vui ở với những kẻ ấy lắm vậy.

Qua chỉ cho mấy em một cái Bí pháp là khi nào mấy em quá thống khổ, quá đau đớn tâm hồn, mấy em đừng vội sầu thảm, các em qú xuống giữa không trung, các em nguyện với Bà MẸ thiêng liêng ấy một lời cầu nguyện, Bần đạo quả quyết rằng : Bà chẳng hề khi nào từ chối cùng mấy em. Bần đạo đă thử nghiệm rồi. Cả toàn con cái của Đức Phật Mẫu thí nghiệm như Bần đạo thử coi.

Trong cảnh đồ lưu nơi hải ngoại, cái chết dựa bên lưng. Qua thấy cả hiện tượng Bà ở bên ta đó vậy.  Cái hiển hách anh linh của Bà, Qua đă quả quyết rằng, từ thử đến giờ chưa có trong cửa Đạo nào hưởng được.

Mấy em thí nghiệm coi rồi để tâm cả thảy. Nếu muốn cho Bà thương yêu, ḿnh có cái Bí pháp hay ho hơn hết là mấy em thương yêu những kẻ tật nguyền, đau khổ, ngu hèn, khốn mạt. Mấy em thử nghiệm lấy cái huyền linh của Bà.  Bần đạo cầu chúc ân huệ thiêng liêng của Bà chan rưới bủa khắp toàn thể con cái của Đức Chí Tôn, Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, nhứt là mấy đứa thơ sinh, mấy đứa trẻ nhỏ côi cút. "  Tóm lại, Bí pháp của Hội Yến Diêu Tŕ Cung là Đức Chí Tôn đem cơ quan giải thoát xuống thế đặt trong cửa Đạo Cao Đài để toàn thể các tín đồ được hưởng.  Theo Cổ luật th́, người tu một khi đắc đạo, Chơn hồn được lên Diêu Tŕ Cung dự Hội Yến Bàn Đào, được Đức Phật Mẫu ban cho ăn trái Đào Tiên và uống Tiên tửu.  Ngày nay, thời Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương vâng lịnh Đức Chí Tôn giáng xuống phàm trần, mở tiệc Hội Yến Diêu Tŕ Cung tại Đền thờ Phật Mẫu để toàn cả con cái của Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu về hội hiệp cùng Đức MẸ thiêng liêng, dâng Hoa Quả, Rượu, Trà lên Đức MẸ, và Đức MẸ sẽ ban tặng lại cho con cái của Ngài, để con cái gội hưởng hồng ân của Đức Phật Mẫu, làm cho tâm Đạo phấn chấn thêm lên, làm động cơ thúc đẩy con cái mau tiến hóa trên bước đường tu niệm, sớm trở về hội hiệp cùng Phật Mẫu. Mà một khi được hội hiệp cùng Đức Phật Mẫu th́ tức nhiên là đắc đạo, giải  thoát khỏi luân hồi.

Đó là Bí pháp của Hội Yến Diêu Tŕ Cung.

     Nghi thức Hội Yến DTC tại Báo Ân Từ

Hằng năm nhằm ngày Trung Thu (15 tháng 8 âl), tại Báo Ân Từ Ṭa Thánh Tây Ninh, Hội Thánh đều có thiết Lễ Hội Yến Diêu Tŕ Cung.  Ở hai bên hông và phía trước Báo Ân Từ, Hội Thánh dựng lên các dăy nhà triển lăm, giao cho mỗi đơn vị cơ quan của Đạo một căn để chưng triển lăm mừng Lễ Hội Yến DTC.  Ban Tổ chức của Hội Thánh có chấm thưởng đơn vị nào chưng bày đẹp nhứt và có ư nghĩa nhứt.

* Ngày 15 tháng 8 âm lịch cũng là ngày Đại lễ Đức Phật Mẫu theo sự tích Hớn Rước Diêu Tŕ, nên Hội Thánh có cúng Đại Đàn Đức Phật Mẫu tại Báo Ân Từ, có tổ chức làm các Cộ bông rất đẹp, nhiều ư nghĩa, đi biểu diễn qua các con đường trong Nội Ô, có múa Long Mă và múa Tứ Linh gồm Ngọc Kỳ Lân, Rồng nhan, Phụng và Qui. Trong các Cộ bông nầy, luôn luôn phải có một Cộ bông h́nh Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương dẫn đầu.

Các điệu múa của Long Mă, Ngọc Kỳ Lân, Rồng nhan, Qui và Phụng đều rất đặc sắc, mang nét độc đáo của Đạo Cao Đài mà không có ở bất cứ nơi nào khác.

          * Ngày 15 tháng 8 âl cũng được chọn là ngày Lễ Hội của Phụ nữ Cao Đài, nên trong ngày nầy có đấu xảo tài khéo léo về Nữ công Gia chánh của các Tín Nữ Cao Đài, có ban chấm thi phát thưởng.

          * Ngày 15 tháng 8 âl cũng là ngày Tết Nhi Đồng theo truyền thống của dân tộc, nên Hội Thánh tổ chức cho các Nhi đồng dâng đèn hoa vào lúc chiều tối ngày 14 và ngày 15, gọi là Dâng Cộ Đèn. Hội Thánh cũng có đặt ra các giải thưởng tặng cho những lồng đèn nào đẹp nhứt, và sau đó là phát quà cho các em vào sáng ngày 16.

          Do đó, ngày Rằm tháng Tám âm lịch là ngày Đại lễ lớn nhứt của Đạo Cao Đài, bao gồm :

          - Đại lễ cúng Đức Phật Mẫu.

          - Lễ Hội Yến Diêu Tŕ Cung.

          - Lễ Hội Phụ Nữ Cao Đài.

          - Tết Nhi đồng.

Lễ Hội Yến Diêu Tŕ Cung tổ chức tại Chánh điện Báo Ân Từ bắt đầu vào lúc 10 giờ tối đêm 15 tháng 8 âl.

Cách sắp đặt bàn ghế, vị trí hầu lễ của Chức sắc và các Tín đồ Nam Nữ, của các Giáo nhi và Ban Nhạc, được ghi trong Bảng vẽ sau đây : (Xem h́nh vẽ nơi trang kế bên)  Trong phần Nội Điện (giữa Nội nghi và Bàn thờ Đức Phật Mẫu), chúng ta thấy đặt một cái Bàn dài, phủ tấm trải bàn màu trắng thêu hoa rất lịch sự, chung quanh có đặt cả thảy 12 cái ghế ngồi có dựa, phân ra :

- 9 cái ghế sắp theo thứ tự từ 1 đến 9, có bọc nệm và vải thêu rất đẹp, dành cho Cửu vị Tiên Nương tọa vị, trên mỗi ghế nơi chỗ dựa đều có thêu chữ : Nhứt Nương, Nhị Nương, vv... đến Cửu Nương. Ở chính giữa, day lưng vào Bàn thờ Đức Phật Mẫu là ghế của Ngũ Nương.

- 3 cái ghế khác kiểu hơn, đặt ở đầu bàn phía ngoài là của Đức Hộ Pháp, Đức Thượng Phẩm và Đức  Thượng Sanh.  Trên bàn dài, ngay trước mỗi cái ghế đều có đặt 3 món : Một b́nh hoa tươi, một cái ly cao cẳng để rót rượu Champagne, một cái tách để rót nước trà.  Trên bàn thờ Đức Phật Mẫu cũng để 3 món tương tự.  Phía sau 2 dăy ghế của Cửu vị Tiên Nương, mỗi bên có đứng hầu 9 Cô Giáo nhi, sắp thành một hàng dài, mặc Đạo phục toàn trắng, đầu bịt khăn vàng. 18 Cô Giáo nhi nầy đều được tô điểm son phấn cho đẹp và xịt nước thơm.  Kế bàn Nội nghi, về phía trong có đặt thêm 2 cái bàn, một lớn một nhỏ. Bàn lớn dùng để đặt các hoa quả hay phẩm vật của quan khách đời hiến lễ Đức Phật Mẫu. Bàn nhỏ đặt chai rượu Champagne và Trà để Chức sắc Hiệp Thiên Đài bồi tửu và châm trà hiến lễ Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương.  Phía trước Bàn thờ Chư Chơn Linh Nam phái có đặt một bàn tṛn thấp và các băng ṿng cung bao quanh để Ban Nhạc ngồi đờn hiến lễ.  Trước giờ hành lễ chừng 10 phút, các Giáo nhi vào Chánh điện bái lễ Đức Phật Mẫu, có vị Hầu chuông nơi Nội điện khắc chuông điều khiển. Kế đó là các Nhạc sĩ của Ban Nhạc vào bái lễ. Tiếp theo là toàn thể Chức sắc Cửu Trùng Đài, Phước Thiện và các Tín đồ Nam Nữ bái lễ

Phật Mẫu.

Sau cùng, khi tới giờ hành lễ, các Chức sắc Hiệp Thiên Đài đi vào Chánh điện, bái lễ Đức Phật Mẫu và cầu nguyện Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nuơng giáng xuống Bửu điện chứng lễ Hội Yến Diêu Tŕ Cung.

Chức sắc Hiệp Thiên Đài (HTĐ) làm lễ xong th́ đứng luôn tại chỗ trước Nội nghi, khoanh tay hầu lễ.  Một vị Chức sắc cao cấp HTĐ đi lên Bàn thờ Đức Phật Mẫu , cầm lư trầm xá 3 xá rồi đem lư trầm xuống xông hương khử trược từng chiếc ghế nơi Bàn Hội Yến. Đầu tiên xông hương ghế của Nhứt Nương, tiếp theo là ghế của Nhị Nương, vv... đến ghế của Cửu Nương, bước qua xông hương ghế của Đức Hộ Pháp, rồi ghế của Đức Thượng Phẩm, và sau cùng là ghế của Đức Thượng Sanh. Xong th́ đem lư trầm đặt trở lại nơi Bàn thờ của Đức Phật Mẫu.

Vị Chức sắc ấy trở về chỗ đứng cũ, rồi ra hiệu cho Ban Nhạc khởi ḥa tấu 5 bài cổ nhạc hiến lễ Đức Phật Mẫu. 5 bài cổ nhạc nầy là 5 bài trong Nhạc tấu Quân Thiên cúng Đại Đàn Đức Phật Mẫu, gồm : Xàng xê, Ngũ Đối Thượng, Ngũ Đối Hạ, Long Đăng, Tiểu Khúc.  Dứt phần tấu nhạc là tới phần thài hiến lễ Dâng Tam Bửu : Bông, Rượu, Trà.

Thài 3 tuần :

- Tuần đầu Dâng Hoa,

- Tuần giữa Dâng Rượu,

- Tuần cuối Dâng Trà.

 

Tuần đầu : DÂNG HOA.

1/. Các b́nh hoa tươi đă đặt sẵn trên Bàn thờ và Bàn Hội Yến. 18 Cô Giáo nhi đứng thành 2 hàng hai bên Bàn Hội Yến khởi thài Bài Thài hiến lễ Đức Phật Mẫu. Ban Nhạc đờn Đảo Ngũ Cung để các Giáo nhi thài :

CỬU kiếp Hiên Viên thọ sắc Thiên,

THIÊN Thiên cửu phẩm đắc cao huyền.

HUYỀN hư tác thế Thần Tiên Nữ,

NỮ hảo thiện căn đoạt Cửu Thiên.

Thài xong, mọi người đều lạy Đức Phật Mẫu 3 lạy, mỗi lạy 3 gật, mỗi gật niệm danh hiệu Đức Phật Mẫu :

Nam mô Diêu Tŕ Kim Mẫu Vô Cực Thiên tôn. Lúc đó Chức sắc HTĐ đang đứng hầu, không lạy, chỉ xá 3 xá.

2/. Tiếp theo, các Giáo nhi thài bài Hiến lễ Nhứt Nương Diêu Tŕ Cung :

HOA thu ủ như màu thẹn nguyệt,

Giữa thu ba e tuyết đông về.

Non sông trải cánh Tiên ḷe.

Mượn câu thi hứng vui đề chào nhau.

Thài xong, mọi người đều lạy Nhứt Nương 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Nhứt Nương Diêu Tŕ Cung. Các Chức sắc Hiệp Thiên Đài xá 3 xá.

3/. Tiếp theo, các Giáo nhi thài Bài Hiến lễ Nhị Nương :

CẨM tú văn chương hà khách Đạo ?

 Thi Thần tửu Thánh vấn thùy nhân ?

Tuy mang lấy tiếng hồng quần,

Cảnh Tiên c̣n mến, cơi trần anh thư.

Thài xong, mọi người đều lạy Nhị Nương 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Nhị Nương Diêu Tŕ Cung.

Các Chức sắc Hiệp Thiên Đài xá 3 xá.

4/. Tiếp theo, các Giáo nhi thài Bài Hiến lễ Tam Nương :

TUYẾN đức năng thành đạo,

Quảng trí đắc cao huyền.

Biển mê lắt lẻo con thuyền,

Chở che khách tục, Cửu tuyền ngăn sông.

Thài xong, mọi người đều lạy Tam Nương 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Tam Nương Diêu Tŕ Cung.

Các Chức sắc Hiệp Thiên Đài xá 3 xá.

5/. Các Giáo nhi thài Bài Hiến lễ Tứ Nương :

GẤM lót ngơ chưa vừa gót ngọc.

Vàng treo nhà ít học không ưa.

Đợi trông nho sĩ tài vừa,

Đằng giao khởi phụng khó ngừa Tiên thi.

Thài xong, mọi người đều lạy Tứ Nương 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Tứ Nương Diêu Tŕ Cung.

Các Chức sắc HTĐ xá 3 xá.

6/.Các Giáo nhi thài Bài Hiến lễ Ngũ Nương:

LIỄU yểu điệu c̣n ghen nét đẹp.

Tuyết trong ngần khó phép so thân.

Hiu hiu nhẹ gót phong trần,

Đài sen mấy lượt gió Thần đưa hương.

Thài xong, mọi người đều lạy Ngũ Nương 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Ngũ Nương Diêu Tŕ Cung.

Các Chức sắc HTĐ xá 3 xá.

7/.Các Giáo nhi thài Bài Hiến lễ Lục Nương :

HUỆ ngào ngạt đưa hơi ṿ dịu,

Đứng tài ba chẳng thiếu tư phong.

Nương mây như thả cánh hồng,

Tiêu Diêu phất phướn, cơi ṭng đưa Tiên.

Thài xong, mọi người đều lạy Lục Nương 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Lục Nương Diêu Tŕ Cung.

Các Chức sắc HTĐ xá 3 xá.

8/. Các Giáo nhi thài tiếp Bài Hiến lễ Thất Nương :

LỄ bái thường hành tâm đạo khởi,

Nhân từ tái thế tử vô ưu.

Ngày xuân gọi thế hảo cừu,

Trăm duyên phước tục khó bù buồn Tiên.

Thài xong, mọi người đều lạy Thất Nương 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Thất Nương Diêu Tŕ Cung.

Các Chức sắc HTĐ xá 3 xá.

9/. Các Giáo nhi thài tiếp Bài Hiến lễ Bát Nương :

Hồ Hớn HOA SEN TRẮNG nở ngày,

Càng gần hơi đẹp lại càng say.

Trêu trăng hằng thói dấu mày,

Cợt mây tranh chức Phật đài thêm hoa.

Thài xong, mọi người đều lạy Bát Nương 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Bát Nương Diêu Tŕ Cung.

Các Chức sắc HTĐ xá 3 xá.

10/. Các Giáo nhi thài tiếp Bài Hiến lễ Cửu Nương :

KHIẾT sạch duyên trần vẹn giữ,

Bạc Liêu ngôi cũ c̣n

 lời.

Chính chuyên buồn chẳng trọn đời,

Thương người noi đạo, Phật Trời cũng thương.  Thài xong, mọi người đều lạy Cửu Nương 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Cửu Nương Diêu Tŕ Cung. Các Chức sắc HTĐ xá 3 xá.

11/. Đến đây là xong phần Dâng Hoa hiến lễ Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương. Các Giáo nhi thài tiếp Bài thài Hiến lễ Đức Phạm Hộ Pháp :

 

Trót đă ba năm ở xứ người,

Đem thân đổi lấy phút vui tươi.

Ngờ đâu vạn sự do Thiên định,

Tuổi đă bảy mươi cũng đủ rồi.

Nhớ tiếc sức phàm thừa chống chỏi,

Buồn nh́n cội Đạo luống chơi vơi.

Rồi đây ai đến cầm Chơn pháp,

Tô điểm non sông Đạo lẫn Đời.

 

 

 

 

Thài xong, mọi người đều lạy Đức Hộ Pháp 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Đức Phạm Hộ Pháp

Thiên Tôn. Các Chức sắc HTĐ xá 3 xá.

12/. Các Giáo nhi thài tiếp Bài thài Hiến lễ Đức Cao Thượng Phẩm :

Ngảnh lại mà đau cảnh đoạn tràng,

Cơi Thiên mừng đặng dứt dây oan.

Nợ trần đă phủi, ḷng son sắt,

Ngôi vị nay vinh, nghĩa đá vàng.

Cổi tấm chơn thành ḷa nhựt nguyệt,

Phơi gan chí sĩ nhuộm giang san.

Bốn mươi hai tuổi sanh chưa phỉ,

Để mắt xanh coi nước khải hoàn.

Thài xong, mọi người đều lạy Đức Cao Thượng Phẩm 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm: Nam mô Đức Cao

Thượng Phẩm. Các Chức sắc HTĐ xá 3 xá.

13/. Các Giáo nhi thài tiếp Bài Thài Hiến lễ Đức Cao Thượng Sanh :

Từ lúc đưa tay nắm Đạo quyền,

Nguyện đem thi thố tấm trung kiên.

Độ đời quyết lánh ṿng danh lợi,

Trau chí t́m noi bậc Thánh Hiền.

Từ ái làm nền an thổ vơ,

Những mong huệ trạch ơn nhuần gội,

Sứ mạng làm xong giữ trọn nguyền.

Thài xong, mọi người đều lạy Đức Cao Thượng Sanh 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Đức Cao Thượng Sanh. Các Chức sắc HTĐ xá 3 xá. Tới đây là dứt Tuần đầu hiến lễ Dâng Hoa. Tiếp theo là Tuần giữa hiến lễ Dâng Rượu. Tuần giữa : DÂNG RƯỢU. Một Chức sắc cao cấp của HTĐ, 2 tay được xông hương khử trược, đến bàn cầm chai Rượu Sâm banh  (Champagne) đặt trong một cái khăn trắng, mở nút, đi lên Bàn thờ Đức Phật Mẫu, xá 3 xá, rồi rót vào một cái ly đặt gần cái ly của Đức Phật Mẫu, dành để kỉnh lễ Đức Chí Tôn. Xong rồi mới rót Rượu Champagn vào ly của Đức Phật Mẫu, đi trở xuống, rót vào ly của Nhứt Nương, kế tiếp rót vào ly của Nhị Nương, vv...

tới ly của Cửu Nương, bước qua rót vào ly của Đức Phạm Hộ Pháp, rồi Đức Cao Thương Phẩm và sau cùng là rót vào ly của Đức Cao Thượng Sanh.  Vị Chức sắc HTĐ nầy rót Rượu xong th́ đem chai rượu trở lại bàn và về chỗ đứng cũ.  Các Giáo nhi khởi thài 13 Bài Thài Hiến lễ lần thứ nh́ để Dâng Rượu. Thứ tự các Bài thài, cách lạy, cách niệm sau mỗi Bài thài đều giống y như mục Dâng Hoa ở Tuần đầu.

Tuần cuối : DÂNG TRÀ.

Một Chức sắc cao cấp HTĐ (khác hơn vị đă bồi tửu) đi lên, 2 tay đă được xông hương khử trược, đến bàn đặt b́nh trà, cầm b́nh trà có bọc cái khăn trắng bên ngoài, đi lên Bàn thờ Đức Phật Mẫu, xá 3 xá, rồi châm trà vào tách gần bên tách của Đức Phật Mẫu để kỉnh lễ Đức Chí Tôn, xong mới rót vào tách của Đức Phật Mẫu, đi trở xuống, châm trà vào tách của Nhứt Nương, kế đến Nhị Nương, vv... cho đến Cửu Nương, bước qua châm trà cho Đức Hộ Pháp, Đức Thượng Phẩm và Đức Thượng Sanh. Xong th́ trở về đứng ở vị trí cũ.  18 Cô Giáo nhi bắt đầu thài hiệp 3, Tuần cuối : Dâng Trà hiến lễ, cũng thài đủ 13 Bài theo thứ tự giống y như ở Tuần đầu. Sau mỗi Bài thài đều lạy 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm danh hiệu của Đấng mà ḿnh hiến lễ.  Thài xong 13 Bài Thài đợt nầy là dứt phần Hiến lễ Hội Yến Diêu Tŕ Cung.  Tất cả Chức sắc Hiệp Thiên Đài đồng qú lạy Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương, lạy 3 lạy 9 gật, mỗi lạy niệm Danh hiệu của Đức Phật Mẫu. Lạy xong, đứng dậy xá 3 xá, quay lại phía sau xá l xá, rồi lui ra khỏi Chánh điện.  Tiếp theo là các Giáo Nhi vào Chánh điện bái lễ Đức Phật Mẫu.  Các Nhạc sĩ và Ban Nhạc nối theo vào lạy Đức Phật Mẫu. Xong th́ lui ra ngoài.  Các Chức sắc, các Tín đồ Nam Nữ lần lượt vào lạy Đức Phật Mẫu.  Buổi lễ Hội Yến Diêu Tŕ Cung đến đây chấm dứt.                               

ĐỨC PHẬT MẪU

[ DIÊU TR̀ KIM MẪU ]

Theo Vũ trụ quan của Đạo Cao Đài, khi chưa có Trời Đất, c̣n trong thời kỳ Hỗn Mang hay Hồng Mông, trong vũ trụ chỉ có một chất khí đương hỗn độn, mờ mờ mịt mịt, lặng lẽ vô vi, thanh trược hỗn hợp, nhưng vô cùng huyền diệu, gọi là Khí Hư Vô (c̣n gọi là Hư Vô chi Khí hay Tiên Thiên Hư Vô chi Khí).

          Khí Hư Vô ấy lần lần ngưng kết rồi nổ ra một tiếng thật lớn, sanh ra một khối Đại Linh Quang, cũng gọi là Thái Cực, trọn lành trọn tốt, toàn tri toàn năng, thiên biến vạn hóa, vô tận vô cùng, quyền hành thống cả Càn khôn Vũ trụ.

          Vũ trụ từ đây bắt đầu có một ngôi Thái Cực, duy nhứt, và Đấng Thống quản ấy được gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế mà chúng ta thường gọi là Đức Chí Tôn. Đức Chí Tôn phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi : Dương Quang và Âm Quang. Đức Chí Tôn chưởng quản Khí Dương Quang, c̣n Khí Âm Quang chưa có ai chưởng quản, v́ Càn khôn Vũ trụ lúc bấy giờ chỉ có một ḿnh Đức Chí Tôn mà thôi. Đức Chí Tôn mới hóa thân ra Đức Phật Mẫu để chưởng quản Khí Âm Quang.

          Vậy, nguồn gốc của Đức Phật Mẫu là một hóa thân đầu tiên của Đức Chí Tôn để làm chủ Khí Âm Quang, cầm phân nửa quyền lực của Đức Chí Tôn và luôn luôn tùng theo mạng lịnh của Đức Chí Tôn. ( Khi Đức Chí Tôn tạo dựng ra Càn khôn Vũ trụ tới đâu th́ Đức Chí Tôn tiếp tục hóa thân ra các Đấng khác để chưởng quản tới đó ).

          Vũ trụ tới đây đă có 2 khối chất khí vĩ đại là Dương Quang và Âm Quang, và có 2 Đấng đầu tiên cầm quyền Càn khôn Vũ trụ là Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu.  Sau đó, Đức Phật Mẫu vâng lịnh Đức Chí Tôn, thâu lằn sanh quang của ngôi Thái Cực, rồi đem Âm Quang phối hợp với Dương Quang để tạo hóa ra các từng Trời, các quả Tinh cầu và các Địa cầu, tạo thành Càn khôn Vũ trụ. Tiếp theo, Đức Phật Mẫu tạo hóa ra Vạn linh nơi cơi Thiêng liêng Vô h́nh. ( Vạn linh gồm đủ Bát hồn :

     Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn ). Rồi Đức Phật Mẫu lại cho Vạn linh đầu kiếp xuống các Địa cầu tạo thành Vạn vật, tức là Chúng sanh. ( Chúng sanh gồm : Kim thạch, Thảo mộc, Thú cầm, Nhơn loại ).

Phật Mẫu Chơn Kinh :

Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh.

* Mỗi một người nơi cơi thiêng liêng đều có 2 thể :

- Một Chơn linh, tức là Linh hồn, do Đức Chí Tôn ban cho. Chơn linh nầy chỉ là một điểm Linh quang do Đức Chí Tôn chiết ra từ khối Đại Linh quang của Ngài, ban cho mỗi người để con người có được Tánh linh,  có được sự sống và biết ǵn giữ sự sống ấy.

- Một Chơn thần, tức là một Xác thân thiêng liêng hay H́nh hài thiêng liêng, do Đức Phật Mẫu tạo ra và  ban cho để làm h́nh thể vô vi, bao bọc Chơn linh.  Do đó, con người nơi cơi thiêng liêng gọi Đức Chí Tôn là Đại Từ Phụ, gọi Đức Phật Mẫu là Đại Từ Mẫu. Ấy là 2 Đấng CHA MẸ chung thiêng liêng vĩ đại nơi cơi Hư linh. Khi con người ấy đầu kiếp xuống cơi phàm trần th́ Chơn linh và Chơn thần của người ấy liền nhập vào thai nhi ngay lúc được sanh ra từ trong bụng bà mẹ phàm trần. Vậy :

* Một con người nơi cơi phàm trần có 3 thể :

- Chơn linh (đă giải ở trên) do Đức Chí Tôn ban cho.  - Chơn thần (đă giải ở trên) do Đức Phật Mẫu tạo ra.  - Xác thân phàm trần do cha mẹ phàm trần tạo ra.

Như thế, một con người nơi cơi phàm trần có, ngoài 2 Đấng CHA MẸ chung thiêng liêng, c̣n có thêm 2 vị  cha mẹ phàm trần nữa.

Tóm lại, toàn cả chúng sanh trong Càn khôn Vũ trụ hay toàn cả Vạn linh, đều là con cái của Đức ChíTôn và Đức Phật Mẫu, dầu cho đó là những vị Phật cao siêu như Đức Phật Thích Ca, Đức Di-Lạc Vương Phật, Đức Lăo Tử, Đức Khổng Tử, Đức Chúa Jésus, vv ... cũng đều là con cái của Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu.

Hiện nay, Đức Phật Mẫu ngự tại Cung Diêu Tŕ, ở từng Trời Tạo Hóa Thiên, là từng Trời thứ 9 trong Cửu Trùng Thiên. Theo Di-Lạc Chơn Kinh, Đức Phật Mẫu cùng các vị Phật : Quảng Sanh Phật, Dưỡng Dục Phật, Chưởng

Hậu Phật, Thủ Luân Phật, cùng với Cửu vị Nữ Phật, và hằng hà sa số chư Phật khác, thường đi đến các cơi trần để dưỡng dục chúng sanh qui nguyên Phật vị.

Đức Phật Mẫu được nhơn loại tôn xưng bằng nhiều danh từ khác nhau, tùy theo tín ngưỡng tôn giáo, dân tộc và địa phương, kể ra như sau đây :

- Phật Mẫu, v́ là MẸ thiêng liêng của toàn cả Vạn linh và Chúng sanh.

- Diêu Tŕ Kim Mẫu, v́ Đức Phật Mẫu ngự tại Diêu Tŕ Cung.

- Kim Bàn Phật Mẫu, v́ Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn nơi Diêu Tŕ Cung.

- Cửu Thiên Huyền Nữ, v́ Đức Phật Mẫu rất huyền diệu, ngự tại từng Trời Tạo Hóa Thiên là từng thứ 9 trong Cửu Trùng Thiên.

- Đức MẸ thiêng liêng.

- Đại Từ Mẫu,

- Thiên Hậu,

- Địa Mẫu,

- MẸ sanh.

Đạo Cao Đài tôn thờ Đức Phật Mẫu là tôn thờ NGÔI ÂM, tức là Ngôi Thứ Nh́, c̣n NGÔI DƯƠNG là Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế, tức Ngôi Thứ Nhứt. Đây là một Triết lư hết sức mới mẻ và đúng đắn mà từ trước tới nay các tôn giáo chưa từng có . Họ chỉ biết thờ Ngôi Dương mà thôi.

Việc thờ phượng Đức Phật Mẫu hiện nay của Đạo Cao Đài c̣n tạm đặt tại Báo Ân Từ trong Nội Ô ṬaThánh Tây Ninh, v́ Điện Thờ Phật Mẫu Trung Ương chưa được xây dựng. Chừng nào Hội Thánh xây dựng được Điện Thờ Phật Mẫu Trung Ương th́ sẽ chánh thức thờ Đức Phật Mẫu tại đó và trả lại Báo Ân Từ dùng làm Đền thờ các bậc Vĩ nhân có đại công với nhơn loại và các bậc Tiền bối có đại công với Đạo, để hậu sanh tỏ ḷng biết ơn theo đúng chức năng của nó như tên gọi Báo Ân Từ (nhà thờ báo ơn).                                                                    Quyền năng của Đức Phật Mẫu

Quyền năng to lớn của Đức Phật Mẫu được cho biết trong 2 bài kinh : Phật Mẫu Chơn Kinh và Tán Tụng Công Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu, và trong các bài Thánh Ngôn của Đức Phật Mẫu giáng cơ ban cho ( Thánh Ngôn của Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu có chép trong phần thứ sáu ).

Một số quyền năng của Đức Phật Mẫu được biết kể ra như sau :

 * 1. Chủ Âm Quang :

 Đức Chí Tôn làm chủ Khí Dương Quang, Đức Phật Mẫu làm chủ Khí Âm Quang, nghĩa là Đức Chí Tôn giao cho Đức Phật Mẫu làm chủ Phần Âm trong toàn cả CKVT.

Phật Mẫu Chơn Kinh :

Chủ Âm Quang thường tùng Thiên mạng.

* 2. Chưởng quản Kim Bàn :

Kim Bàn hay Kim Bồn là nơi Đức Phật Mẫu dùng chứa các Nguyên chất để tạo Chơn thần (Xác thân thiêng liêng) cho con người nơi cơi thiêng liêng.

Kinh Đệ Cửu Cửu :

Nơi Kim Bồn vàn vàn nguơn chất,

Tạo h́nh hài các bậc nguyên nhân.

* 3. Chưởng quản Vườn Đào Tiên :

Đức Phật Mẫu tạo ra Vườn Đào Tiên và dùng các quả Đào Tiên ban thưởng cho các Chơn linh tu hành  đắc đạo khi trở về cơi Thiêng liêng Hằng sống.  Phật Mẫu Chơn Kinh :

Chưởng Đào Tiên thủ giải trường tồn.

Kinh Đệ Nhị Cửu :

Tây Vương Mẫu vườn Đào ướm chín,

Chén trường sanh có lịnh ngự ban.

Tiệc hồng đă dọn sẵn sàng,

Chơn thần khá đến hội hàng chư linh.

Hằng năm, đến kỳ Đào Tiên chín, Đức Phật Mẫu mở Hội Yến Bàn Đào nơi Diêu Tŕ Cung, dùng các quả Đào Tiên và Tiên tửu, đăi các Đấng Tiên Phật nơi cơi thiêng liêng.

* 4. Tận độ nhơn sanh :

Toàn cả nhơn loại, nhứt là 92 ức nguyên nhân đang c̣n trầm luân nơi cơi trần, đều là con cái thương yêu của Đức Phật Mẫu. Đức Phật Mẫu tận dụng các h́nh thức giáo hóa để cứu độ tất cả con cái của Ngài, đem trở về cơi thiêng liêng, giao cho Đức Chí Tôn phán định phẩm tước và ngôi vị.

Phật Mẫu Chơn kinh :

" Nghiệp hồng vận tử hồi môn,

Chí Công định vị vĩnh tồn Thiên Cung ".

* 5. Chưởng quản Tạo Hóa Thiên :

Tạo Hóa Thiên là từng Trời rất huyền diệu, cao nhứt trong Cửu Trùng Thiên.

Theo Di-Lạc Chơn Kinh :

" Tạo Hóa Huyền Thiên hữu : Quảng Sanh Phật, Dưỡng Dục Phật, Chưởng Hậu Phật, Thủ Luân Phật, dữ Cửu vị Nữ Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, tùng lịnh Kim Bàn Phật Mẫu, năng tạo năng hóa Vạn linh, năng du Ta-bà Thế giới, dưỡng dục quần sanh, qui nguyên Phật vị . Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, thính Ngă dục tu phát nguyện : Nam mô Kim Bàn Phật Mẫu dưỡng dục quần linh; nhược hữu sanh, nhược vị sanh, nhược hữu kiếp, nhược vô kiếp, nhược hữu tội, nhược vô tội, nhược hữu niệm, nhược vô niệm, huờn hư thi h́nh đắc A-Nậu Đa-La Tam-Diệu-Tam-Bồ-Đề xá lợi tử qui nguyên Phật vị, tất đắc giải thoát ."

Nghĩa là: Từng Trời Tạo Hóa Thiên huyền diệu có : Quảng Sanh Phật, Dưỡng Dục Phật, Chưởng Hậu Phật, Thủ Luân Phật, cùng với Chín vị Nữ Phật, như các cấp vô số các vị Phật, tuân theo mạng lịnh của Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn, có khả năng tạo hóa tất cả các Chơn linh, có khả năng đi đây đi đó đến các cơi trần, nuôi nấng chăm sóc chúng sanh, trở về nguồn cội là ngôi vị Phật. Nếu như có người Nam lành, người Nữ lành, nghe theo lời Ta, muốn tu hành th́ phát ra lời nguyện : Nam mô Kim Bàn Phật Mẫu nuôi nấng chăm sóc tất cả các Chơn linh ; nếu như có sanh ra, nếu như chưa sanh ra, nếu như có kiếp sống, nếu như không có kiếp sống, nếu như có tội, nếu như không tội, nếu như có ḷng tưởng niệm, nếu như không có ḷng tưởng niệm, trở lại cơi Hư Vô, thi hành đúng theo khuôn phép, được phẩm vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Chơn thần trở về nguồn cội là ngôi vị Phật, ắt được giải thoát.

* 6. Quyền làm MẸ Vạn linh :

Đức Phật Mẫu là bà MẸ thiêng liêng của toàn cả Vạn linh, mà Vạn linh th́ gồm đủ Bát Hồn (tức là 8 phẩm Chơn linh) gồm : Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật hồn.

Nhưng tại sao quyền hành của Đức Phật Mẫu lại nhỏ hơn quyền hành của Đức Nhiên Đăng Cổ Phật hay Đức Di-Lạc Vương Phật ?  Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo về Con Đường Thiêng liêng Hằng sống có một đoạn như sau :

" Bần đạo đi ngang Cung Hỗn Nguơn Thượng Thiên, là nơi Đức Di-Lạc đă thâu pháp, đă định vị nơi ấy. Bần đạo có tả mà trong tâm c̣n mờ hồ, không biết tại sao, v́ lẽ ǵ, Đức Phật Mẫu là MẸ mà phải chịu dưới quyền con là Đức Di-Lạc, trong bụng coi hơi bất măn.

Liền khi ấy, Bần đạo ngó thấy cái tướng h́nh của Đức Phật Mẫu đứng đằng trước, c̣n Đức Di-Lạc ở đằng sau lưng, qú xuống, đưa hai bàn tay lên, đặng tỏ cho Bần đạo hiểu, dầu cho người con ấy mạnh mẽ, quyền hành thế nào, mà quyền MẸ vẫn là quyền MẸ, không thế ǵ qua được. Ngài chỉ tuân theo mạng lịnh của Đức Phật Mẫu đặng trị thế mà thôi."

Cũng trong Con đường Thiêng liêng Hằng sống, Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo, thuật lại lúc Ngài vào Diêu Tŕ Cung bái kiến Đức Phật Mẫu, thấy cái huyền năng vô biên của Đức Phật Mẫu :

" Bần đạo cùng các bạn kỳ trước đă ghé nơi Tạo Hóa Thiên, tức Ṭa Thiên Cung Phật Mẫu là Diêu Tŕ Cung. Bần đạo có nói một điều làm cho chúng ta nên suy nghĩ nhiều là : Huyền bí vô biên của Phật Mẫu.

Bần đạo nói sơ lược huyền năng thế nào, mà khi chúng ta vào kiến diện Đức Phật Mẫu, ta ngó trên mặt Ngài, ta thấy mặt bà mẹ ta, sanh ta, đương như buổi sống, đương lo buổi trở về. Bần đạo tưởng ngó thấy bà mẹ sanh Bần đạo, tưởng cả thảy cũng đều ngó thấy người mẹ của họ vậy. Nếu lấy theo cái trí học tưởng tượng không biết con mắt thiêng liêng có chiếu h́nh mẹ ta chiếu diệu ra không ? hay là Huyền diệu vô biên của Phật Mẫu cho chúng ta thấy như vậy.  Bà mẹ h́nh hài chúng ta đây là nhơn viên của Đức Phật Mẫu bên phái Nữ đó. ....... Có điều trọng hệ là dầu Nam Nữ cũng vậy, rán giữ một điều nầy : Coi chừng đừng thất hiếu với cha mẹ. Ngày ḿnh ngó thấy h́nh ảnh Đức Phật Mẫu th́ thấy người Mẹ nhơn từ, hiền hậu vô cùng, hạnh phúc ḿnh được hưởng đó, c̣n trái ngược lụng lại, nếu ta thất hiếu, ta ḍm vào h́nh ảnh của Phật Mẫu, ta thấy nét mặt nghiêm nghị và lănh đạm, chúng ta sẽ hết sức đau khổ đó."

Nghi thức cúng Đức Phật Mẫu tại Báo Ân Từ

Khi cúng Đức Phật Mẫu tại Báo Ân Từ hay tại các Điện Thờ Phật Mẫu địa phương, tất cả mọi người, dù Chức sắc hay Chức việc Nam Nữ, đều phải mặc Đạo phục giống như hàng Đạo hữu, bởi v́ nơi đây, tất cả đều là con cái của Đức Phật Mẫu, không phân biệt phẩm tước. Cho nên trong đàn cúng Đức Phật Mẫu, chúng ta thấy một sự b́nh đẳng rơ rệt giữa mọi tín đồ. Ai ai cũng đều mặc áo dài trắng như nhau, Nữ th́ đầu để trần, Nam th́ đội khăn đóng đen.

Trong con cái của Phật Mẫu, có người giàu sang, có người nghèo hèn, địa vị cao thấp, trí thức hay ngu dốt, nhưng t́nh thương của Bà MẸ thiêng liêng chan đều cho con cái như nhau, không v́ giàu hay địa vị cao mà thương nhiều, không v́ nghèo hèn ngu dốt mà thương ít. Cái công b́nh của Đức Phật Mẫu thật là vô tận vô biên.

Đức Phạm Hộ Pháp qui định cho Báo Ân Từ là Đền thờ Đức Phật Mẫu tạm thời tại Trung Ương Ṭa Thánh, với một nghi thức thờ phượng và cúng kiếng Đức Phật Mẫu căn cứ theo nghi thức cúng Đức Chí Tôn tại Ṭa Thánh. Đại đàn cúng Đức Phật Mẫu tại Báo Ân Từ phải được cúng vào giờ Ngọ (12 giờ trưa), không được cúng vào giờ Tư (12 giờ khuya), v́ giờ Tư đặc biệt dành để cúng Đức Chí Tôn tại Đền Thánh. Tại Báo Ân Từ, cúng Đại đàn Đức Phật Mẫu vào các ngày Sóc Vọng, các ngày Lễ Vía và có cúng Phật Mẫu vào Tứ thời mỗi ngày.

- Cúng Đức Phật Mẫu Đại đàn vào giờ Ngọ tức là lúc 12 giờ trưa. Gọi cúng Đại đàn là v́ trong các thời cúng nầy đều có Lễ sĩ điện lễ Dâng Tam bửu. Nhưng có 2 trường hợp :

- Đại đàn với Nhạc tấu Quân Thiên 5 bài vào các ngày : Mùng 9 tháng Giêng, Rằm 3 Nguơn (tháng 1, tháng 7, tháng 10) và Rằm tháng 8 âm lịch Vía Đức Phật Mẫu.

- Đại đàn với Nhạc tấu Quân Thiên 3 bài vào các ngày mùng 1 và 15 của các tháng c̣n lại và ngày 24 tháng chạp Đưa Chư Thánh Triều Thiên.

 - Cúng Đức Phật Mẫu Tứ thời mỗi ngày vào các giờ : Tư (0 giờ tức 12 giờ khuya), Mẹo (6 giờ sáng), Ngo ï (12 giờ trưa), Dậu (18 giờ tức 6 giờ chiều).

A. Nghi thức cúng Đức Phật Mẫu Đại đàn

Sau đây, chúng tôi xin thuật lại diễn tiến của một thời cúng Đức Phật Mẫu Đại đàn lúc 12 giờ trưa tại Báo Ân Từ.

          1 - Đúng 12 giờ kém 10 phút :

Lễ vụ đánh 3 hồi kiểng : Khi đánh xong được 2 hồi th́ các tín đồ Nam Nữ theo 2 cửa chánh đi vào Báo

Ân Từ. Các vị Kiểm Đàn sắp đặt chỗ đứng cho thẳng hàng và trật tự.

- Các Nam tín đồ theo cửa bên Nam phái đi vào đứng sắp hàng trước Bàn thờ Chư Chơn Linh Nam Phái

nhưng quay mặt vào giữa, tay bắt Ấn Tư đặt trước ngực.

- Các Nữ tín đồ theo cửa bên Nữ phái đi vào đứng sắp hàng trước Bàn thờ Chư Chơn Linh Nữ Phái nhưng quay mặt vào giữa, tay cũng bắt Ấn Tư đặt trước ngực.

Các Nhạc sĩ của Ban Nhạc và các Đồng nhi Nam Nữ theo 2 cầu thang xoắn ở 2 bên, đi lên Lầu 1 Báo Ân Từ.

Khi sắp đặt chỗ đứng xong th́ vừa đúng 12 giờ trưa, nơi nhà gác trước Báo Ân Từ, trống canh điểm 12 tiếng.

2 - Đúng 12 giờ trưa : Khởi chuông nhứt.  Người Chấp sự đứng trước Đại hồng chung trên lầu chuông, nhịp 3 tiếng chuông, rồi khởi kệ 3 câu, dứt mỗi câu kệ th́ dọng một tiếng chuông lớn.

Bài Kệ Chuông Nhứt như sau :

" Văn chung khấu hướng huệ trưởng Càn khôn. (dọng 1 tiếng lớn) Pháp giới chúng sanh đồng đăng bỉ ngạn. (dọng 1 tiếng lớn)  Án dà ra đế dạ Ta bà ha. " (dọng 1 tiếng lớn)

3 - Lễ xướng : Tịnh túc thị lập. Tịnh túc thị lập là đều đứng hầu nghiêm trang.  Tất cả mọi người trong Đàn đều phải đứng hầu nghiêm trang, kính cẩn, chờ hành lễ.

4 - Lễ xướng : Chấp sự giả các tư kỳ sự.

Những tín đồ có phận sự trong Đàn cúng đến đứng tại vị trí của ḿnh để sẵn sàng làm phận sự của ḿnh theo nghi thức qui định.

5 - Khởi chuông nh́.

Người đứng trước cái Kiểng đánh lên 1 tiếng lớn để báo hiệu cho vị Chấp sự trên lầu chuông khởi kệ chuông nh́.

Người Chấp sự trên lầu chuông nhịp 3 tiếng chuông, rồi kệ 3 câu, dứt mỗi câu kệ, dọng một tiếng chuông lớn.

Bài Kệ Chuông Nh́ như sau :

" Nhứt vi u ám tất giai văn. (dọng 1 tiếng lớn)

Nhứt thiết chúng sanh thành Chánh giác. (dọng 1 tiếng lớn)

Án dà ra đế dạ Ta bà ha." (dọng 1 tiếng lớn)

Khi tiếng kệ chuông nh́ vừa dứt th́ : "

6 - Lễ xướng : Cung thành thứ tự Nam Nữ nhập đàn.

Người Hầu chuông nơi Bửu điện khắc liên tiếp 3 tiếng bong, mọi người trong đàn đều xá đàn một xá, rồi quay người đứng nh́n lên Bàn thờ, thành ra như sắp hàng ngang, đứng nghiêm chỉnh, tay vẫn bắt Ấn Tư đặt trên ngực.

7 - Lễ xướng : Nhạc tấu Quân Thiên.

Ban Nhạc đánh trống Tiếp giá (Nghinh Thiên). Đây là lúc Đức Phật Mẫu, Cửu vị Nữ Phật, Bạch Vân Động Chư Thánh, và các Đấng Thiêng liêng giáng ngự nơi Bửu điện.

Dứt trống, Ban Nhạc ḥa tấu 3 bài Cổ nhạc : Ngũ Đối Hạ, Long Đăng, Tiểu Khúc. Nếu ḥa tấu 5 bài th́ :

Xàng xê, Ngũ Đối Thượng, Ngũ Đối Hạ, Long Đăng, Tiểu Khúc.

Các tín đồ trong Đàn cúng phải tịnh tâm, đứng im lặng nghiêm trang tại chỗ, tuyệt đối không được đi tới đi lui.

8 - Lễ xướng : Nghệ hương án tiền.

Nghệ hương án tiền là đến trước bàn hương.

Các Lễ sĩ đều mặc áo rộng màu vàng. Hai cặp Lễ sĩ đăng-đài đứng hai bên chỗ Bàn Lễ sĩ (ở sau cùng). Cặp Lễ xướng đứng 2 bên Ngoại nghi. Cặp Lễ sĩ đăng th́ cầm chân đèn có gắn 1 cây đèn sáp đang cháy bên trên. Cặp Lễ sĩ đài th́ cầm đài (có một cây đèn sáp gắn bên cạnh đài), một bên đặt 3 cây nhang lớn bó lại (chưa đốt), bên kia đặt một lư trầm đă đốt cháy. Hai cặp đăng-đài đi lên đứng hai bên phía sau Ngoại nghi. Trống xây đờn bài Hạ.

9 - Lễ xướng : Giai qú.

Giai qú là đều qú xuống.

Người Hầu chuông khắc lần lượt 3 tiếng bong một cách chậm răi làm hiệu lịnh để mọi người trong đàn đều lần lượt xá xuống 3 xá rồi qú xuống.

C̣n hai cặp Lễ sĩ đăng-đài, 2 tay cầm đăng hay đài cung lên ngang trán, 2 chân lần lượt phết, nhúng và đá theo h́nh chữ TÂM ( ) theo 3 hồi trống đổ điều khiển, rồi qú xuống, một chân qú, một chân co lên đỡ đăng hay đài.

10 - Lễ xướng : Phần hương.

Phần hương là đốt nhang.

Vị tín đồ qú tại Ngoại nghi (Chức sắc Hiệp Thiên Đài) cầm bó nhang 3 cây đưa vào 2 ngọn đèn đang chụm lại của 2 Lễ sĩ đăng đốt cho cháy đều, cầm hương xá 1 xá, trao lại cho cặp Lễ sĩ đài. Trống đánh thét lên cho đến khi hai cặp Lễ sĩ đăng-đài đứng dậy và xoay ḿnh day vô Nội nghi.

11 - Lễ xướng : Điệân hương.

Điện hương là Lễ sĩ, với cách đi đặc biệt theo h́nh chữ Tâm, đem hương dâng vào cho vị Chứng đàn. Hai cặp Lễ sĩ đăng-đài đi từng bước lên Nội nghi, 2 tay cầm đăng hay đài cung lên ngang trán, 2 chân lần lượt phết, nhúng xuống rồi đá lên, vẽ h́nh chữ Tâm, đi 12 bước th́ lên tới Nội nghi, chỗ phía trước vị Chứng đàn qú , đứng day mặt vô. Mỗi bước đi lên của Lễ sĩ được điều khiển bởi trống và nhạc. Nhạc vô mặt trống đờn Nam Xuân chầu 4 lái. Hai vị Tiếp lễ đang đứng hầu Bàn thờ Đức Phật Mẫu đi xuống đứng phía dưới 4 Lễ sĩ đăng-đài.

12 - Lễ xướng : Qú.

Trống đổ cho hai cặp Lễ sĩ đăng-đài cùng với 2 vị Tiếp lễ (Nữ phái) đồng qú xuống ở hai bên trước vị Chứng đàn. Lễ sĩ đài trao bó hương cho vị Chứng đàn.

- Người Hầu chuông khắc 1 tiếng bong : Mọi người chấp tay Ấn Tư đưa lên trán xá xuống 1 xá, vừa niệm :

Nam mô Diêu Tŕ Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.

- Người Hầu chuông khắc 1 tiếng bong thứ nh́ : Mọi người đều chấp tay lên trán xá xuống 1 xá, vừa niệm :

Nam mô Cửu vị Tiên Nương.

- Người Hầu chuông khắc 1 tiếng bong thứ ba : Mọi người đều chấp tay lên trán xá xuống 1 xá thứ ba, vừa niệm : Nam mô Bạch Vân Động Chư Thánh.

Chúng ta thấy nơi gian giữa, từ Nội nghi ra đến Ngoại nghi, các Tín đồ Nữ phái qú thành 3 hàng dọc. Vị Chứng đàn qú trên hết và chính giữa. Từ Ngoại nghi đến Bàn Lễ sĩ, đặc biệt dành cho Chức sắc Hiệp Thiên Đài qú cúng.

 

13 - Lễ xướng : Thành kỉnh tụng Niệm Hương chú.

Nhạc gài trống đờn bản Nam Ai. Đồng nhi tụng bài Kinh Niệm Hương theo giọng Nam Ai :

" Đạo gốc bởi ḷng thành tín hiệp,

Ḷng nương nhang khói tiếp truyền ra ".

...........v.v...

" Nhờ Ơn Trên bổ báo phước lành.

Vị Chứng đàn cầm bó hương 3 cây đang cháy cung tay đưa lên ngang trán.

Khi Đồng nhi tụng kinh đến danh hiệu của các Đấng, Hầu chuông khắc 1 tiếng để mọi người trong Đàn cúi đầu xuống tỏ ư kỉnh lễ.

14 - Lễ xướng : Thượng hương.

Thượng hương là đem hương dâng lên trên.

Vị Chứng đàn cầm bó hương xá 3 xá rồi trao cho vị Tiếp lễ, vị nầy đem bó hương cắm vào lư hương trên bàn thờ, và vị Tiếp lễ kia đặt lư trầm kế bên.

Hai cặp Lễ sĩ đăng-đài đứng dậy rồi theo điệu trống, phết, nhúng, đá theo h́nh chữ Tâm, kẻ bước tới người bước lui, sắp đặt quay lại, đặt đăng và đài bên hông, rồi đi trở về Bàn Lễ sĩ theo cách đi thông thường.

15 - Lễ xướng : Cúc cung bái.

Hầu chuông khắc lần lượt 3 tiếng bong. Sau mỗi tiếng bong, mọi người đều lạy xuống 1 lạy 3 gật, mỗi gật đều niệm danh hiệu của Đức Phật Mẫu : " Nam mô Diêu Tŕ Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn."

Tất cả 3 lạy 9 gật, nhớ mỗi gật đều niệm danh hiệu của Phật Mẫu. Mỗi lần lạy đều có nhạc đánh trống lập ban.

16 - Lễ xướng : Thành kỉnh tụng Khai Kinh chú.

Nhạc gài đờn Nam Ai. Đồng nhi tụng bài Khai Kinh :

" Biển trần khổ vơi vơi trời nước,

Ánh Thái dương giọi trước phương đông ".

......................v.v...

Sửa ḷng trong sạch tụng cầu Thánh kinh.

17 - Lễ xướng : Thành kỉnh tụng Phật Mẫu Chơn Kinh.

Nhạc gài trống giọng Nam Xuân. Đồng nhi tụng bài Phật Mẫu Chơn Kinh :

" Tạo Hóa Thiên huyền vi Thiên Hậu,

Chưởng Kim Bàn Phật Mẫu Diêu Tŕ ".

 ...................v.v...

" Nhứt triêu nhứt tịch kỉnh bài mộ khang.

Nam mô Diêu Tŕ Kim Mẫu Tạo Hóa Huyền Thiên Cảm Bái.

Nam mô Đại Từ Bi Năng Hỷ Xả Thiên Hậu Chí Tôn Đại Bi Đại Ái  ".

 

18 - Lễ xướng : Cúc cung bái. ( Phần nầy giống y như mục số 15).

19( Lễ xướng : Cung hiến Tiên Hoa.

Nhạc xây tá đờn bài Hạ. Hai cặp Lễ sĩ đăng-đài bước lên đứng đối diện tại Ngoại nghi. Cặp Lễ sĩ đài, một bên có đặt một b́nh hoa tươi 5 màu, bên kia có đặt một dĩa trái cây.

20 - Lễ xướng : Qú.

Hai cặp Lễ sĩ đăng-đài đồng qú xuống. Lúc đó trống đổ giót 3 hồi.

21 - Lễ xướng : Chỉnh Tiên Hoa.

Vị qú nơi Ngoại nghi lần lượt cầm b́nh hoa và dĩa trái cây lên xem xét, sửa lại cho tề chỉnh, cầm lên xá xuống 1 xá, rồi trao lại cho cặp Lễ sĩ cầm đài.

Hai cặp Lễ sĩ đăng-đài đứng dậy,sắp hàng day vô Bửu Điện. Nhạc đánh thét rồi đổ cho Lễ sĩ đứng lên, dứt thét.

22 - Lễ xướng : Điện Tiên Hoa.

Hai cặp Lễ sĩ đăng-đài đi từng bước lên Nội nghi, 2 tay cầm đăng hay đài cung lên ngang trán, 2 chân lần lượt phết, nhúng xuống đá lên, vẽ h́nh chữ Tâm, đi lên từng bước, đủ 12 bước là tới Nội nghi, chỗ vị Chứng

đàn qú. Nhạc gài trống vô đờn Đảo Ngũ Cung, Lễ sĩ cung tay chầu 8 lái.

Hai cặp Lễ sĩ đăng-đài khi bắt đầu bước đi lên th́ Đồng nhi bắt đầu thài Bài Dâng Hoa :

"Từ Bi giá ngự rạng môn thiền,

Đệ tử mừng nay hữu huệ duyên.

Năm sắc hoa tươi xin kỉnh lễ,

Cúi mong Phật Mẫu rưới ân Thiên."

Khi thài vừa dứt th́ hai cặp lễ sĩ đăng-đài cũng vừa đến Nội nghi, rồi day vào giữa, đứng 2 bên trước vị Chứng đàn. Hai Tiếp lễ cũng đi xuống đứng phía bên dưới 4 Lễ sĩ.

23 - Lễ xướng : Qú.

Trống đổ, hai cặp Lễ sĩ đăng-đài và cặp Tiếp lễ đồng qú xuống hai bên vị Chứng đàn.

Vị Chứng đàn tiếp lấy b́nh hoa, xá 3 xá có khắc 3 tiếng chuông, đưa lên trán dâng lời cầu nguyện. Xong, xá xuống 1 xá rồi trao cho vị Tiếp lễ.

24 - Lễ xướng : Thượng Tiên Hoa.

Cặp Tiếp lễ đem b́nh hoa và dĩa trái cây đặt lên Bàn thờ. Hai cặp Lễ sĩ đăng đài đứng dậy, theo điệu trống đổ, hai chân vẽ h́nh chữ Tâm, kẻ bước tới, người bước lui, sắp đặt quay lại, đăng và đài đặt bên hông, bước đi thông thường trở về Bàn Lễ sĩ. Nhạc thúc bụa cho Lễ sĩ đi xuống.

 25 - Lễ xướng : Cúc cung bái.

 (Phần nầy giống y như mục số 15).

26 - Lễ xướng : Cung hiến Tiên Tửu.

Hai cặp Lễ sĩ đăng-đài, từ Bàn Lễ sĩ, bước lên đứng đối diện nhau tại Ngoại nghi. Cặp Lễ sĩ đài, một bên có đặt một cái chung (chưa có rượu), c̣n bên kia đặt cái nhạo đựng rượu trắng, loại tốt.

27 - Lễ xướng : Qú.

Hai cặp Lễ sĩ đăng-đài đồng qú xuống. Lúc đó trống đổ giót 3 hồi.

28 - Lễ xướng : Chước tửu.

Chước tửu là rót rượu.

Vị qú nơi Ngoại nghi đưa tay cầm nhạo rót rượu vào chung nhắm chừng đủ 8 phân, rồi cầm chung rượu xá 1 xá, trao lại cho Lễ sĩ cầm đài. Xong hai cặp Lễ sĩ đăng-đài đứng dậy, sắp hàng day vô Bửu điện. Nhạc đánh thét cho Lễ sĩ đứng lên, dứt thét.

29 - Lễ xướng : Điện Tiên Tửu.

Hai cặp Lễ sĩ đăng-đài đi từng bước lên chỗ vị Chứng đàn qú trước Nội nghi giống như khi Điện Tiên Hoa. Nhạc đờn bản Đảo Ngũ Cung.

Khi 2 cặp Lễ sĩ bắt đầu bước đi lên th́ Đồng nhi bắt đầu thài Bài Dâng Rượu theo giọng Đảo Ngũ Cung :

" Thiên ân huệ chiếu giáng thiền minh,

Thành kỉnh Trường Xuân chước tửu quỳnh.

Lạc hứng khấu cung giai miễn lễ,

Thoát tai bá tánh ngưỡng ân sinh ".

Khi thài vừa dứt th́ 2 cặp Lễ sĩ đăng-đài cũng vừa đến trước Nội nghi, nơi vị Chứng đàn qú, rồi đứng day vào giữa. Hai Tiếp lễ cũng vào đứng phía bên trên.

30 - Lễ xướng : Qú.

Hai cặp Lễ sĩ đăng-đài và cặp Tiếp lễ đồng qú xuống 2 bên vị Chứng đàn. Vị Chứng đàn cầm chung rượu, xá xuống 3 xá, có khắc 3 tiếng chuông, đưa lên trán cầu nguyện. Xong xá xuống 1 xá, rồi trao cho vị Tiếp lễ.

31 - Lễ xướng : Thượng Tiên Tửu.

Cặp Tiếp lễ đem chung rượu và nhạo rượu đặt trên bàn thờ. Hai cặp Lễ sĩ đăng-đài đứng dậy, nghe theo các điệu trống nhạc, bước theo h́nh chữ Tâm, kẻ bước tới người bước lui, sắp đặt quay lại, đăng hay đài được đặt ở hông, rồi đi trở về Bàn Lễ sĩ. (Bận đi xuống, bước đi thường, không theo chữ Tâm).

32 - Lễ xướng : Cúc cung bái.

 (Lạy xuống 3 lạy 9 gật, giống y như mục 15).

33 - Lễ xướng : Cung hiến Tiên Trà.

Hai cặp Lễ sĩ đăng đài bước lên đứng đối diện nhau nơi Ngoại nghi. Cặp Lễ sĩ đài, một bên có đặt một cái chung (chưa có nước trà), c̣n bên kia đặt một b́nh nước trà nóng.

34 - Lễ xướng : Qú.

Hai cặp Lễ sĩ đăng-đài đồng qú xuống nơi Ngoại nghi. Lúc đó trống đổ giót 3 hồi.

35 - Lễ xướng : Điểm Trà.

Điểm trà là rót nước trà.

Trống thét, vị qú nơi Ngoại nghi cầm b́nh trà rót nước trà vào chung nhắm chừng đủ 8 phân, cầm lên xá xuống 1 xá, rồi trao lại cho cặp Lễ sĩ đài.  Hai cặp Lễ sĩ đăng-đài đứng dậy, day vô Bửu Điện.

36 - Lễ xướng : Điện Tiên Trà.

Trống đổ giót, hai cặp Lễ sĩ đăng-đài đi từng bước lên Nội nghi, nơi vị Chứng đàn qú, 2 tay cầm đăng hay đài cung lên ngang trán, 2 chân lần lượt phết, nhúng xuống rồi đá lên, vẽ nên h́nh chữ Tâm, từng bước đi lên đến Nội nghi.

Trong lúc đó Ban Nhạc đờn bản Đảo Ngũ Cung.

Hai cặp Lễ sĩ đăng-đài khi bắt đầu điện lên th́ Đồng nhi bắt đầu thài Bài Dâng Trà theo giọng Đảo Ngũ Cung :

" Mai xuân nguyệt cúc vị trà hương,

Kỉnh lễ thành tâm hiến bửu tương.

Ngưỡng vọng Từ Bi gia tế phước,

Khai minh Đại Đạo hộ thanh bường ".

Khi thài vừa dứt th́ hai cặp Lễ sĩ đăng-đài cũng vừa đến Nội nghi, rồi đứng day mặt vào giữa. Hai vị Tiếp lễ đi xuống đứng phía dưới 4 Lễ sĩ.

37 - Lễ xướng : Qú.

Hai cặp Lễ sĩ đăng-đài và cặp Tiếp lễ đều qú xuống hai bên vị Chứng đàn. Vị Chứng đàn cầm chung nước trà xá xuống 3 xá có điểm chuông theo mỗi xá, đưa lên trán cầu nguyện. Xong, xá xuống 1 xá, rồi trao cho 2 vị Tiếp lễ.

38 - Lễ xướng : Thượng Tiên Trà.

Cặp Tiếp lễ đem b́nh trà và chung nước trà lên đặt trên Bàn thờ. Hai cặp Lễ sĩ đăng-đài đứng dậy, nghe theo điệu trống nhạc, bước theo h́nh chữ Tâm, kẻ bước tới người bước lui, sắp đặt quay lại rồi đặt đăng hay đài bên hông, đi theo cách thông thường trở về Bàn Lễ sĩ.

39 - Lễ xướng : Cúc cung bái.

(Lạy xuống 3 lạy 9 gật, giống y như mục 15).

 40 - Lễ xướng : Sớ văn thượng tấu.

Từ Bàn Lễ sĩ, cặp Lễ sĩ đăng đi lên Nội nghi (không điện), vị đọc sớ cũng nối bước lên theo. Cặp Tiếp lễ, một vị đi lên Bàn thờ thỉnh Sớ văn đem xuống, vị kia th́ bưng cái lư dùng để đốt sớ, cùng đi xuống đứng phía dưới cặp Lễ sĩ đăng. Tất cả 5 vị đứng sắp hàng hai bên vị Chứng đàn và quay mặt vào giữa. Nhạc xây tá đờn bài Hạ.

41 - Lễ xướng : Qú.

Tất cả 5 vị trên đều qú xuống. Vị Tiếp lễ đưa bao sớ có đựng Sớ văn cho vị Chứng đàn. Vị Chứng đàn cầm hai tay, xá xuống 3 xá có điểm 3 tiếng bong, đưa lên trán cầu nguyện, xong xá 1 xá.

42 - Lễ xướng : Thành độc Sớ văn.

Vị Chứng đàn lấy tờ Sớ văn trong bao sớ ra, trao cho vị đọc sớ, rồi hai tay cầm bao sớ kính cẩn đặt lên trán.

Vị đọc sớ mở tờ Sớ văn ra, bắt đầu đọc to lên, giọng trầm bổng, và dừng lại một chút nơi danh hiệu của các Đấng, để Hầu chuông khắc một tiếng bong làm hiệu cho mọi người trong đàn cúi đầu kỉnh lễ, có tiếng trống đổ theo.

Sau đây là Sớ văn cúng Đại đàn Đức Phật Mẫu ngày 16-6-Mậu Dần ( dl 6-8-1998 ), Nữ Chơn Nhơn Nguyễn thị Khéo ( Cơ Quan Phước Thiện ) đứng sớ chứng đàn.

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

( Thất thập tam niên )

TAM GIÁO QUI NGUYÊN, NGŨ CHI PHỤC NHỨT.

Thời duy,

Thiên vận Mậu Dần niên, Lục ngoạt, Thập ngũ nhựt, Ngọ thời, hiện tại Việt Nam quốc, Tây Ninh tỉnh, Ḥa Thành huyện, cư trụ Báo Ân Từ chi trung.

Kim Đệ tử Nguyễn thị Khéo, công đồng chư Thiện Nam Tín Nữ đẳng, qú tại Điện tiền, thành tâm tŕnh tấu.

HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI :

Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn, Diêu Tŕ Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn,

TAM TÔNG CHƠN GIÁO :

Tây Phương Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn,

Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn,

Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn,

TAM KỲ PHỔ ĐỘ TAM TRẤN OAI NGHIÊM

Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai,

Lư Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ,

Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân,

Gia Tô Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn,

Thái Công Tướng Phụ Quảng Pháp Thiên Tôn,

Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn.

Thập Phương Chư Phật, Vạn Chưởng Chư Tiên, Liên Đài chi Hạ

Kim v́ Vọng nhựt lương thần, chư Thiện Nam Tín Nữ đẳng nghiêm thiết đàn tràng, hương, đăng, hoa, trà, quả, thanh chước chi nghi, thành tâm hiến lễ.

Ngưỡng vọng Đức Kim Bàn Phật Mẫu dĩ đức từ bi, chuyển họa vi phước, thoát ách tiêu tai, thế giới an ninh, cộng ḥa nhơn loại, Tổ quốc Việt Nam đạt vinh quang, sanh chúng an cư lạc nghiệp, phục hồi Đường Ngu chi phong hóa.

Ngưỡng vọng Đức Kim Bàn Phật Mẫu phát hạ hồng ân, hoằng khai Đại Đạo, độ tận chúng sanh, hiệp trí ḥa tâm, tinh thần qui nhứt, vĩnh sùng Chánh giáo, giải thoát tiền khiên, triêm ngưỡng Mẫu ân tứ phước.

Ngưỡng vọng Đức Kim Bàn Phật Mẫu cứu độ các đẳng Chơn linh quá văng, tảo đắc siêu thăng, an nhàn Cực Lạc. Chư Đệ tử đồng thành tâm khẩn nguyện cúc cung khấu bái thượng tấu, dĩ văn.  Đệ tử : Nguyễn thị Khéo"

Đến đây, trống và Nhạc ngưng lại một chút để vị Chứng đàn và tất cả tín đồ trong đàn cầu nguyện.

43 - Lễ xướng : Cung phần Sớ văn.

Cung phần Sớ văn là cung kính đốt bài văn sớ.

Vị Chứng đàn xếp tờ Sớ đặt trở vào bao, xá 3 xá, rồi đưa vào 2 ngọn đèn chụm lại của cặp Lễ sĩ đăng, đốt cho cháy chừng phân nửa, rồi bỏ vào lư, vị Tiếp Lễ đem cái lư ấy lên đặt kế lư hương trên bàn thờ. Trống đổ 3 hồi dài.

Cặp Lễ sĩ đăng đứng dậy, đi trở về Bàn Lễ sĩ. Vị đọc sớ cũng bước theo trở về chỗ cũ.

44 - Lễ xướng : Cúc cung bái.

 (Tất cả lạy 3 lạy 9 gật, giống y như mục 15).

45* Lễ xướng : Thành tâm tụng Ngũ Nguyện. Nhạc tệt vô đờn lớp trống Xuân. Đồng nhi tụng Bài Ngũ Nguyện theo giọng Nam Xuân :

" Nam mô Nhứt Nguyện Đại Đạo hoằng khai,

Nh́ Nguyện Phổ độ chúng sanh,

Tam Nguyện xá tội đệ tử,

Tứ Nguyện thiên hạ thái b́nh,

Ngũ Nguyện Thánh Thất an ninh ".

Trống tịch theo mỗi câu nguyện, rồi điểm mỗi khi dứt câu nguyện, mọi người đều cúi đầu.

46 - Lễ xướng : Cúc cung bái.

 (Tất cả lạy 3 lạy 9 gật, giống y như nơi mục 15).

47 - Lễ xướng : Hưng b́nh thân.

Tất cả mọi người đang qú cúng trong đàn đều đứng dậy và đứng yên tại vị trí ḿnh. Nhạc đánh trống thét.

48 - Lễ xướng : Cung thành thứ tự phân lập Tam ban.

Hầu chuông lần lượt điểm 3 tiếng chuông, mọi người đang đứng, xá sâu xuống 3 xá, rồi quay ra phía sau theo chiều từ bên phải xoay qua bên trái ở trước mặt ( tức ngược chiều quay của kim đồng hồ ), xá 1 xá. Xong, tất cả quay ḿnh đứng day mặt vào giữa y như lúc nhập đàn.  Lúc đó, trống thét đánh tới không cho dứt, v́ e lúc lui ra làm xao động, mất nghiêm.

6 Lễ sĩ, 2 vị Tiếp lễ, vị đọc sớ đi vào đàn giữa, đứng sắp hàng ngang, chuẩn bị qú lạy Đức Phật Mẫu. Người Hầu chuông khắc chuông làm hiệu cho tất cả qú xuống, niệm danh hiệu Đức Phật Mẫu, Cửu vị Tiên Nương và Bạch Vân Động chư Thánh, cầu nguyện và lạy 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm danh hiệu của Đức Phật Mẫu. Lạy xong, đứng dậy xá 3 xá, quay ra sau xá 1 xá, rồi lui về chỗ cũ.

- Tiếp theo là các Đồng nhi vào lạy Đức Phật Mẫu theo cách thức giống như các Lễ sĩ ở trên.

- Kế đó là các Nhạc sĩ trong Ban Nhạc vào lạy Đức Phật Mẫu theo cách thức giống như các Lễ sĩ.

- Sau cùng các tín đồ bên ngoài vào lạy Phật Mẫu.

Lạy xong, tất cả đều trở về vị trí cũ.

- Một đoạn trống đánh thét lên rồi dứt. Người có phận sự đánh 1 tiếng kiểng lớn cho vị Chấp sự trên lầu chuông biết đặng dọng chuông Băi đàn.

Người Chấp sự nhịp 3 tiếng chuông rồi khởi kệ chuông Băi đàn. Sau mỗi câu kệ, dọng một tiếng chuông lớn.

Bài Kệ Chuông Băi đàn :

- Đàn tràng viên măn Chức sắc qui nguyên, vĩnh mộc từ ân phong điều vơ thuận. (dọng 1 tiếng lớn)

- Thiên phong hải chúng quốc thới dân an, hồi hướng đàn trường tận thâu Pháp giới. (dọng 1 tiếng lớn)

- Án dà ra đế dạ Ta bà ha. (dọng 1 tiếng lớn)  Khi tiếng chuông kệ thứ 3 vừa dứt th́ :

49 - Lễ xướng : Lễ thành.

Người Hầu chuông điểm liên tiếp 3 tiếng bong, tất cả đều xá đàn 1 xá, rồi vị Chứng đàn khởi đi ra trước, người đứng kế nối bước theo, lần lượt đi ra khỏi Chánh điện. Ở hai gian bên thờ Chư Chơn Linh Nam Phái và Nữ Phái, người đứng trong cùng đi ra trước, rồi người đứng kế nối theo đi ra cho đến hết. Nhạc đổ trống rồi thét, đánh tán điệu rồi qua Tiền bần Hậu phú và dứt tịch là hết .

 Đàn cúng chấm dứt.

Sau đây là Bài dạy các Nhạc sĩ Ban Nhạc đờn cúng Đại đàn Đức Phật Mẫu của Nhạc sư Trần thiện Niệm ngày 9-11-Tân Mùi (dl 14-12-1991) :

1. Tới 11 giờ 35 phút, Ban Nhạc lo chuẩn bị trước, nhứt là chỉnh soạn các món Nhạc khí và nhân viên của ḿnh. C̣n 15 phút là 12 giờ th́ đến lễ bái rồi đến ngồi vào ghế bán nguyệt, so dây đờn nhỏ nhẹ, nhứt là kèn và trống cơm, muốn thử kêu rơ ràng phải tại cơ sở của ḿnh, c̣n đến giờ cúng th́ thử nhỏ cho biết ăn giọng âm thanh với đờn mà thôi.

2. Lên trước Đại điện không được hút thuốc, nói chuyện quá ồn ào, mất vẻ trang nghiêm, v́ nơi đây tất cả phải tịnh tâm đảnh lễ. C̣n hút thuốc là trược đối với Thiêng liêng, hơn nữa khi đi cúng cũng đă súc miệng rồi.

3. Các môn chánh của Nhạc phải là người có phẩm lớn và đạo hạnh mà làm chuẩn hướng.

Nhạc Tấu Quân Thiên : Trống gài đầu trung b́nh, bạc không phép lướt trống, v́ thúc lẹ th́ lớp và âm thanh không phân minh, làm giảm uy hùng của Tiếp giá. C̣n đờn 3 hay 5 bài th́ cần đờn lẹ lên. Nhớ tôn ư của Đức Hộ Pháp : Không hối thúc Tiếp giá mà hối thúc đờn.

4. Tới từng Điện Hương : Đờn Xuân Điện không đờn lơi, cũng không đờn lớp trống Xuân. Khi Lễ qú, toàn thể nghe chuông thỉnh Thánh, Nhạc rao đặng vô đờn Nam Ai, Giáo nhi Đồng nhi đọc Kinh Niệm Hương, đừng đờn đọc kinh lơi v́ giọng kinh quá trầm, chữ kinh lệch lạc, bổn đạo mỏi, giảm tín ngưỡng. Tới bài Khai Kinh cũng giọng Nam Ai. Hai bài nầy cần thúc nhịp lại.

5. Trống lập ban : Trống nhỏ ngắn gọn. Các môn tum, bạc, kèn, và phụ, chờ gài thủ vô sau nghe đúng pháp, c̣n đổ ồn lên một lượt làm lấp mất tiếng câu xướng của Lễ sĩ, đổ kéo dài thời gian làm mất 1 lạy của tập thể.

6. Tới đờn Xuân, Giáo nhi Đồng nhi đọc Phật Mẫu Chơn Kinh, giữ mức trung b́nh, lẹ quá mất giọng Xuân, cũng không đờn lớp trống Xuân (v́ như đă nêu phần trên), dứt trống lập ban lạy.

7. Lễ Điện Tam Bửu : Qua những lớp bài Hạ và trống thét, lớp trống thét không mỏ bạc lẹ quá mất điệu thuần hậu trung dung, tới gài Đảo Ngũ Cung, giữ mực trung b́nh. Lễ tới Nội nghi, tới thượng Tam Bửu, Lễ sĩ đổi sang th́ Nhạc thúc mực trung b́nh mà thôi, lẹ quá giảm giá nhịp điệu Nhạc Thánh Đường.

8. Trống lập ban lạy, một ḿnh trống đổ nhỏ gài thủ th́ các môn phụ lập vô thủ nhịp sau c̣n đổ rầm lên lấp xướng, trễ lạy lụp chụp có khi Lễ phải chờ v́ Lễ hưng Nhạc tác.

9. Đến tấu Sớ Văn : Từ xây tá đến thét ngắn. Lưu ư tới câu sớ quan trọng, điểm trống. Tôn kính sự uy linh hơn (đổ ro roi điểm ba) câu trung b́nh th́ điểm trung b́nh (không ro mà điểm ba). Tới Phần Sớ, có vẻ tôn nghiêm dâng uy hùng tiếp thét luôn.

10. Đến Ngũ Nguyện, gài trống vô đờn, chừng mức hồi khởi đầu không lẹ không chậm (như đờn Xuân và Tiếp giá mới vô nhịp ban đầu) tới đây mới đờn lớp trống Xuân, với 5 câu Nguyện, cuối cùng tận tâm cầu đảo của toàn thể đặng măn đàn. Khi 3 lạy xong, nghe chuông, toàn thể đứng lên và đứng lưỡng ban.

11. Nhạc c̣n trổi đều, do Lễ sĩ, Giáo nhi Đồng nhi, Trật tự, Kiểm đàn lạy, c̣n Nhạc khi măn 5 câu Nguyện th́ lo thi nhau mà lễ bái. Đến đây đồng chờ tiếng Kiểng và 3 tiếng chuông.

12. Lễ sĩ xướng : Lễ Thành. Nhạc đổ trống gài lớp Thái b́nh, tiền bần hậu phú rồi dứt tịch măn đàn.

B. Nghi thức cúng Tứ thời thường ngày

Nghi thức cúng Đức Phật Mẫu tại Báo Ân Từ vào Tứ thời thường ngày đơn giản hơn rất nhiều so với Nghi thức cúng Đại đàn. Thời cúng Đại đàn thường kéo dài 1 giờ 30 phút, trong lúc đó, cúng Tứ thời chỉ kéo dài có 30 phút, v́ cúng Tứ thời không có Nhạc tấu Quân Thiên, không có Lễ sĩ điện lễ, không đọc Sớ văn.

1. Trước giờ cúng chừng 5 phút, các vị Trật tự ngăn không cho vào bái lễ Phật Mẫu để sắp đặt cúng thời.

2. Đúng giờ cúng, khi nghe tiếng trống canh nơi nhà gác điểm giờ, Lễ vụ trên lầu chuông khởi kệ chuông nhứt.

Các Tín đồ Nam Nữ đi vào Báo

 Ân Từ, đứng trong 2 gian 2 bên, Nam đứng trước Bàn thờ Chư Chơn Linh Nam phái, Nữ đứng trước Bàn thờ Chư Chơn Linh Nữ phái, quay mặt vào giữa, tay bắt Ấn Tư đặt trước ngực.

- Các Nhạc sĩ của Ban Nhạc ngồi đờn trên bàn tṛn sau Bàn Lễ sĩ, các Đồng nhi th́ đứng sắp hàng bên cạnh cái Kiểng. (Khi cúng Đại đàn th́ Nhạc sĩ và Đồng nhi không được ở vị trí nầy, mà phải lên Lầu 1).

Khi các vị Kiểm đàn Nam Nữ sắp đặt các chỗ đứng xong, th́ một Đồng nhi đánh 1 tiếng Kiểng lớn, báo cho vị Lễ vụ trên lầu kệ chuông nh́.

Sau mỗi câu kệ th́ dọng 1 tiếng chuông lớn, bên dưới đánh tiếp một tiếng Kiểng. Khi tiếng Kiểng thứ 3 vừa dứt th́ người Hầu chuông nơi Nội điện khắc 3 tiếng bong liên tiếp, các Nam Nữ Tín đồ xá đàn một xá, quay ḿnh đứng thành hàng ngang, mặt hướng lên Bàn thờ.

Nơi gian giữa, từ Nội nghi đến Ngoại nghi, các Nữ tín đồ bước vào đứng thành hàng ngang, 3 người mỗi hàng, tay bắt Ấn Tư đặt lên ngực, nh́n lên Bàn thờ.

Từ Ngoại nghi ra sau đến Bàn Lễ sĩ th́ dành cho Chức sắc Hiệp Thiên Đài.

3. Hầu chuông lần lượt khắc tiếp 3 tiếng bong, mọi người xá sâu xuống 3 xá, rồi qú xuống. Hầu chuông khắc lần lượt 3 tiếng bong nữa, các tín đồ lần lượt đưa tay Ấn Tư lên trán xá 3 xá, niệm lần lượt là :

- Nam mô Diêu Tŕ Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.

- Nam mô Cửu vị Tiên Nương.

- Nam mô Bạch Vân Động Chư Thánh.

4. Đồng nhi khởi tụng Kinh Niệm Hương theo giọng Nam Ai, có nhạc đệm theo : (không có trống)

" Đạo gốc bởi ḷng thành tín hiệp,

Ḷng nương nhang khói tiếp truyền ra ".

................v.v...

" Nhờ Ơn Trên bổ báo phước lành ".

Hầu chuông lần lượt khắc 3 tiếng bong, tất cả lần lựợt lạy 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm danh hiệu của Phật Mẫu : " Nam mô Diêu Tŕ Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn".

5. Đồng nhi tiếp tụng bài Khai Kinh với giọng Nam Ai, có nhạc đệm theo :

" Biển trần khổ vơi vơi trời nước,

Ánh thái dương giọi trước phương Đông ".

.........................v.v...

" Sửa ḷng trong sạch tụng cầu Thánh Kinh ".

Dứt bài kinh nầy, tất cả đều cúi đầu.

Khi Đồng nhi tụng đến danh hiệu các Đấng th́ Hầu chuông khắc 1 tiếng làm hiệu để mọi người cúi đầu kỉnh lễ.

6. Đồng nhi tiếp tụng bài Phật Mẫu Chơn Kinh theo giọng Nam Xuân, có nhạc đệm theo :

" Tạo Hóa Thiên Huyền Vi Thiên Hậu,

Chưởng Kim Bàn Phật Mẫ Diêu Tŕ ".

...........................v.v...

" Nhứt triêu nhứt tịch kỉnh bài mộ khang .

Nam mô Diêu Tŕ Kim Mẫu Tạo Hóa Huyền Thiên Cảm Bái.

Nam mô Đại Từ Bi Năng Hỷ Xả Thiên Hậu Chí Tôn Đại Bi Đại Aùi ".

Người Hầu chuông lần lượt khắc 3 tiếng, tất cả lần lượt lạy 3 lạy 9 gật, mỗi gật đều niệm danh hiệu Phật Mẫu.

7. Đồng nhi tiếp tụng bài Kinh Tán Tụng Công Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu, theo giọng Nam Ai, có nhạc đệm theo :

 "Kể từ Hỗn Độn sơ khai,

 Chí Tôn hạ chỉ trước Đài Linh Tiêu.

 .......................v.v...

Nén hương đạm bạc xin thương chứng ḷng.

Nam mô Tạo Hóa Huyền Thiên Diêu Tŕ Kim Mẫu.

Nam mô Tạo Hóa Huyền Thiên Cửu Vị Nữ Phật."

( Bài Kinh Tán Tụng Công Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu nầy không tụng trong Đại đàn cúng Đức Phật Mẫu, mà chỉ tụng khi cúng Tứ thời .)

Người Hầu chung lần lượt khắc 3 tiếng, tất cả đều lần lượt lạy 3 lạy 9 gật, mỗi gật nhớ niệm danh hiệu Phật Mẫu.

8. Theo qui định, khi cúng Tứ thời, chỉ dâng 1 Bửu mà thôi, hoặc Dâng Rượu, hoặc Dâng Trà tùy theo giờ  cúng :

- Vào thời Tư (12 giờ khuya) và thời Ngọ (12 giờ trưa) th́ Dâng Rượu, Đồng nhi thài Bài Dâng Rượu.

- Vào thời Mẹo (6 giờ sáng) và thời Dậu (6 giờ chiều) th́ Dâng Trà và Đồng nhi thài Bài Dâng Trà.

Bài Dâng Rượu :

" Thiên ân huệ chiếu giáng thiền minh,

Thành kỉnh Trường Xuân chước tửu quỳnh.

Lạc hứng khấu cung giai miễn lễ

Thoát tai bá tánh ngưỡng ân sinh ".

Bài Dâng Trà :

" Mai xuân nguyệt cúc vị trà hương,

Kỉnh lễ thành tâm hiến bửu tương.

Ngưỡng vọng Từ Bi gia tế phước,

Khai minh Đại Đạo hộ thanh bường ".

Khi thài chấm dứt, người hầu chuông lần lượt khắc 3 tiếng bong, tất cả lần lượt lạy xuống 3 lạy, mỗi lạy 3 gật, mỗi gật niệm danh hiệu của Đức Phật Mẫu.

9. Đồng nhi tụng Ngũ Nguyện theo giọng Nam Xuân :

" Nam mô Nhứt Nguyện Đại Đạo hoằng khai,

Nh́ Nguyện Phổ độ chúng sanh.

Tam Nguyện Xá tội đệ tử,

Tứ Nguyện thiên ha ï thái b́nh,

Ngũ Nguyện Thánh Thất an ninh ".

Người Hầu chuông lần lượt khắc 3 tiếng, tất cả lần lượt lạy xuống 3 lạy, mỗi lạy 3 gật, mỗi gật đều niệm danh hiệu của Đức Phật Mẫu.

Lạy xong, tất cả đều đứng dậy. Người Hầu chuông khắc tiếp 3 tiếng làm hiệu, tất cả xá sâu xuống 3 xá, rồi day ngược ra phía sau, nhớ xoay theo chiều ngược kim đồng hồ, khắc chuông, tất cả đều xá xuống 1 xá, rồi quay người đứng day mặt vô giữa y như lúc mới Nhập đàn.

10. Các Đồng nhi và các Kiểm đàn bước vào giữa Chánh điện, xá xuống 3 xá, qú xuống, niệm danh hiệu: Đức Phật Mẫu, Cửu vị Tiên Nương, Bạch Vân Động chư Thánh, đặt tay lên trán cầu nguyện, rồi lạy xuống

3 lạy, mỗi lạy 3 gật, mỗi gật niệm danh hiệu Phật Mẫu. Tất cả các động tác đều có khắc chuông làm hiệu để thi hành cho đồng nhứt với nhau. Xong, quay trở ra xá 1 xá, rồi trở về vị trí cũ. Tiếp đến là các Nhạc sĩ của Ban Nhạc vào lạy Đức Phật Mẫu giống như các Đồng nhi. Xong, người Hầu chuông đánh liên tiếp 3 tiếng bong lớn, Đồng nhi đánh tiếp1 tiếng Kiểng, báo cho Lễ vụ

trên lầu kệ chuông Băi đàn.

11. Kệ chuông Băi đàn : Lễ vụ kệ chuông Băi đàn. Sau mỗi câu kệ th́ dọng 1 tiếng chuông lớn, và ở dưới đánh 1 tiếng Kiểng.

Khi tiếng Kiểng thứ ba vừa dứt, tất cả xá đàn 1 xá rồi đi ra, ở trong đi ra trước, người đứng kế nối theo cho đến hết.

Đàn cúng chấm dứt.

Sau đây là Bài dạy các Nhạc sĩ Ban Nhạc khi cúng Tứ Thời Đức Phật Mẫu tại Báo Ân Từ. Bài dạy của Nhạc Sư Trần thiện Niệm ngày 9-11-Tân Mùi (dl 14-12-1991) : 1. C̣n 20 phút tới giờ cúng, Ban Nhạc phải ứng trực sẵn. C̣n 10 phút, Nhạc vào bái lễ, xong ra ghế bán nguyệt ngồi lên dây đờn nhỏ gọn và không nói chuyện ồn ào pha lẫn, thủ lễ nghiêm túc.

Tới giờ chuông nhứt, rao đờn vô bài Hạ, chuông nh́ lễ bái vô qú, dứt đờn bài Hạ, toàn thể thỉnh Thánh, Nhạc rao đờn vô Nam ai. Đồng nhi Giáo nhi đọc Kinh Niệm Hương. (đừng vô đờn và đọc kinh quá lơi). Dứt Bài Niệm Hương, lạy 3 lạy.Tiếp đọc Khai Kinh. Hai bài Nam ai nầy nếu đọc quá lơi, sẽ có nhiều chữ kinh lệch lạc.

2. Dứt Bài Khai Kinh, tiếp đờn Nam Xuân, cũng không quá lẹ. Giáo nhi Đồng nhi đọc Phật Mẫu Chơn Kinh. Nếu lẹ sẽ mất giọng phù ba của hơi Xuân. Nhạc cũng không đờn lớp trống Xuân như đă nêu phần trên. Dứt bài Xuân, lạy 3 lạy. Nhạc rao Xuân Nữ.

3. Nhạc vô đờn Xuân Nữ, đờn mức trung b́nh, nhứt là thuần túy trung dung pháp Nhạc Thánh Đường (chớ không phải Cải Lương Sân khấu). Giáo nhi Đồng nhi cũng không nên tụng Bài Kinh Xưng Tụng Công Đức Phật Mẫu kéo dài, ngược lại v́ kinh đọc cúng không phải như nói lối của Sân khấu, mà tưởng Sân khấu là phi pháp. Phi pháp là phi lễ.

 4, Măn bài Kinh, đờn giọng Xuân Nữ, Nhạc rao giọng Đảo, lạy 3 lạy xong, Nhạc vô đờn bài Đảo. Giáo nhi Đồng nhi chờ qua 1 nhịp mới khởi thài. Ấy là ư thức của Đạo nghiệp.

5. Ba lạy xong, chờ gơ vô nhịp trở đờn lớp trống Xuân một lớp. Giáo nhi Đồng nhi tụng dứt bài Kinh Ngũ Nguyện, liền đờn bài Hạ. Lạy 3 lạy xong, toàn thể đàn nội đứng lên. Nhạc dứt đờn. Toàn thể đứng lưỡng ban. Giáo nhi Đồng nhi và Nhạc đi lạy, có nghi lễ đánh chuông. Lạy xong trở về vị trí.

6. Nghi lễ băi đàn, bái măn đàn.

 

GIẢI THÍCH 10 BÀI THÀI

Trong buổi Lễ Hội Yến Diêu Tŕ Cung lần đầu tiên được tổ chức tại nhà Ngài Cao quỳnh Cư ở địa chỉ : 134 đường Bourdais Sài g̣n ngày 15-8-Ất Sửu (dl 2-10-1925), sau khi Đức Phật Mẫu giáng cơ để lời cảm tạ 3 vị : Cao quỳnh Cư, Phạm công Tắc, Cao hoài Sang, th́ Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương viết ra 10 Bài thi, mỗi vị viết một bài, để kỷ niệm buổi Hội Yến Diêu Tŕ Cung lần đầu tiên ấy.  10 Bài thi nầy, về sau được dùng làm 10 Bài Thài hiến lễ Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương mỗi khi tổ chức Lễ Hội Yến Diêu Tŕ Cung vào ngày Rằm tháng 8 hằng năm.  Sau đây là phần giải thích 10 Bài Thài nầy.

1. Bài Thài hiến lễ Đức Phật Mẫu

Cửu kiếp Hiên Viên thọ sắc Thiên,

Thiên Thiên cửu phẩm đắc cao huyền.

Huyền hư tác thế Thần Tiên Nữ,

Nữ hảo thiện căn đoạt Cửu Thiên.

Biên ra chữ Hán :

........................v.v...

GIẢI THÍCH :

Bài thi trên có 4 chữ đầu câu (khoán thủ) là : CỬU THIÊN HUYỀN NỮ. Đây là một danh hiệu đặc biệt của Đức Phật Mẫu.

Câu 1 : Cửu kiếp Hiên Viên thọ sắc Thiên.

Cửu kiếp : Kiếp giáng trần thứ 9. Hiên Viên : Vua Hiên Viên Huỳnh Đế bên Tàu (-2697 - 2597 trước Tây lịch). Thọ : Nhận lănh. Sắc Thiên : Tờ giấy viết lệnh của Đức Thượng Đế ban ra.

Đức Phật Mẫu thọ lănh sắc lịnh của Đức Chí Tôn, giáng trần kiếp thứ 9 vào thời vua Hiên Viên Huỳnh Đế.

Câu 2 : Thiên Thiên Cửu phẩm đắc cao huyền.

Thiên Thiên : Trời Trời, chỉ các cơi Trời. Cửu phẩm : 9 phẩm Thần Tiên. Đắc:

Được. Cao huyền : Cao siêu và huyền diệu.

Nơi các cơi Trời, Cửu phẩm Thần Tiên được cao siêu huyền diệu.

Câu 3 : Huyền hư tác thế Thần Tiên Nữ.

Huyền hư : Huyền diệu nơi cơi hư không. Tác : Làm ra. Thế : Cơi trần. Thần Tiên Nữ : Các Nữ Thần, Nữ Tiên.

Đức Phật Mẫu huyền diệu nơi cơi hư không, tạo hóa ra các cơi trần và các Đầng Thần Tiên Nữ phái.

Câu 4 : Nữ hảo thiện căn đoạt Cửu Thiên. Nữ : Phái Nữ. Hảo : Tốt. Thiện căn:

Gốc rễ lành, căn lành. Cái căn lành nầy có được là do những việclàm lương thiện đạo đức trong các kiếp sống trước tạo nên. Cửu Thiên : 9 từng Trời.  Người Nữ phái có tấm ḷng tốt, có căn lành, tu hành th́ sẽ đoạt được phẩm vị nơi 9 từng Trời.

2. Bài Thài hiến lễ Nhứt Nương

Hoa thu ủ như màu thẹn nguyệt,

Giữa thu ba e tuyết đông về.

Non sông trải cánh Tiên ḷe,

Mượn câu thi hứng vui đề chào nhau.

GIẢI THÍCH :

Câu 1 : HOA thu ủ như màu thẹn nguyệt. Hoa : Bông hoa. HOA cũng là tên của Nhứt Nương trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam (Xem sự tích bên dưới). Thu : Mùa thu. Hoa thu : Bông mùa thu. Khi xưa chỉ có bông cúc là nở rộ vào mùa thu, trong khi đó th́ các thứ hoa khác không nở được v́ không chịu được mưa gió. Ủ : Buồn rầu, ủ rủ. Nguyệt : Mặt trăng. Mặt trăng mùa thu tỏa ánh sáng lung linh trong bầu trời trong xanh rất đẹp.  Hoa cúc mùa thu buồn rầu như có ư e thẹn v́ không đẹp bằng ánh trăng thu.

Câu 2 : Giữa thu ba e tuyết đông về. Thu ba : Làn sóng nước mùa thu. E : Ngại. Tuyết : Hơi nước khi gặp nhiệt độ rất lạnh, đông lại thành những hột nước đá nhỏ trắng xóa rơi xuống mặt đất. Đông : Mùa đông.  Giữa sóng nước mùa thu, e ngại khi mùa Đông trở lại, có tuyết rơi xuống.

Câu 3 : Non sông trải cánh Tiên ḷe. Non sông : Khắp đất nước. Trải : Mở rộng ra trên mặt đất. Ḷe : Tỏa sáng, ư nói lộng lẫy.  Cánh Tiên : Ư nói các cánh hoa tuyệt đẹp.  Hoa nở khắp non sông, các cánh hoa tuyệt đẹp trải ra lộng lẫy.

Câu 4 : Mượn câu thi hứng vui đề chào nhau. Câu thi hứng : Làm ra các câu thơ trong lúc hứng khởi vui vẻ. Vui đề : Đề tài vui vẻ.  Mượn các câu thơ trong lúc hứng thú vui vẻ làm đề tài chào hỏi nhau.  Nhứt Nương có bửu pháp là Đờn Tỳ bà, có nhiệm vụ cai quản Vườn Ngạn Uyển nơi từng Trời thứ 1

trong Cửu Trùng Thiên, xem xét các Nguyên nhân đang c̣n sống nơi cơi trần hay đă qui vị, v́ mỗi đóa hoa trong Vườn Ngạn Uyển tượng trưng một Nguyên nhân. Khi Chơn linh Nguyên nhân ấy đầu kiếp xuống trần th́ hoa nở, khi Chơn linh làm điều thiện lương chơn chánh th́ sắc hoa tươi thắm, khi Chơn linh làm điều tà mị gian ác th́ sắc hoa ủ dột xấu xí, khi Chơn linh qui vị rời khỏi cơi trần th́ đóa hoa héo tàn.  Theo bài Kinh Đệ Nhứt Cửu, Nhứt Nương có nhiệm vụ tiếp dẫn các Chơn hồn của người tín đồ Cao Đài qui vị trong kỳ làm tuần Nhứt Cửu đến từng Trời thứ 1 trong Cửu Trùng Thiên.

 

SỰ TÍCH NHỨT NƯƠNG :

Trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam, Nhứt Nương có tên là HOA. Trong cuộc Lễ Hội Yến Diêu Tŕ Cung tổ chức tại Báo Ân Từ vào năm Ất Hợi (1995), Cơ quan Vườn Hoa Kiểng trong Nội Ô Ṭa Thánh có triển lăm pho tượng Nhứt Nương và có ghi ra sự tích của Nhứt Nương, xin chép nguyên văn ra sau đây :

1. Lược sử : Nhứt Nương Diêu Tŕ Cung tên là Hoàng Thiều Hoa, sanh khoảng năm 20 sau Tây lịch, tướng của Hai Bà Trưng. Người có công dẹp giặc Hán, được Hai Bà Trưng phong là Đông Cung Công Chúa (năm 40 sau Tây lịch), và sau khi chết được dân tôn thờ ở Chùa Phúc Khánh và lập miếu thờ ở xă Song Quang (nay là xă Hiền Quang, huyện Tam Nông, tỉnh Vĩnh Phú).

Theo truyền thuyết, vợ chồng Hoàng Phụ và Đào thị sống với nhau quá lâu mà không con. Ngày nọ, hai vợ chồng đi kiếm củi ở núi Tản Viên, khi mệt nhọc, cả hai nằm ngủ và người vợ mộng thấy một người con gái đẹp xưng tên Thiều Hoa, là con gái của Sơn Thánh Tản Viên, đến xin làm con của ông bà. Sau đó bà Đào thị mang thai và hạ sanh một người con gái đẹp như Tiên và giống y như người trong mộng nên đặt tên là Thiều Hoa.

Năm 14 tuổi, cha mẹ đều mất, Cô Thiều Hoa phải đi chăn trâu ở xă Song Quang. Một hôm đứng trên g̣

 giận định lấy gậy chạy xuống băi, chợt nghe tiếng gọi, Cô thấy một Ni Cô đang vẫy tay,Cô chạy tới,Ni Cô bảo :

- Con tuy có sức khỏe, nhưng việc con làm chưa có ích ǵ cho dân tộc. Ta không chỉ lo cho một người khỏi bị đánh mà phải lo cho cả nước khỏi bị đô hộ.  Thiều Hoa tỉnh ngộ và được Ni Cô thâu làm đệ tử về chùa học Đạo.

Năm 18 tuổi, Cô đến Mê Linh đầu quân được Hai Bà Trưng trọng dụng và cho về Song Quang mộ nghĩa quân.

Khi lịnh khởi nghĩa ban ra, Cô dẫn 500 quân trai gái Song Quang kéo về Mê Linh, được Hai Bà phong đến chức Tiên Phong Hữu Tướng. Sau khi công thành danh toại, Cô từ quan và trở về Chùa tiếp tục tu hành cho đến khi thoát trần.  Theo Cơ bút, khi mới khai Đạo, Cô là một trong 9 vị Tiên Nương hầu cận Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu.

 

2. Vai tṛ và nhiệm vụ của Nhứt Nương : Trong Tam Kỳ Phổ Độ, Nhứt Nương Diêu Tŕ Cung giữ vai tṛ phổ độ nhơn sanh miền Thượng du và Trung du Bắc Việt và nhiệm vụ cai quản Vườn Ngạn Uyển.  - Một chơn linh khi xuống trần th́ Vườn Ngạn Uyển có một hoa nở.  - Một chơn linh khi thoát xác th́ Vườn Ngạn Uyển có một hoa héo.  Chơn linh nào ở trần gian làm điều đạo đức th́ sắc hoa nơi Vườn tươi thắm, ngược lại làm điều gian ác tà mị th́ sắc hoa ủ dột xấu xí đi.  Hiện nay, Nhứt Nương Tiên Nữ đă đầy đủ công đức đắc quả Phật vị. "

3. Bài Thài hiến lễ Nhị Nương

Cẩm tú văn chương hà khách đạo ?

Thi Thần tửu Thánh vấn thùy nhân?

Tuy mang lấy tiếng hồng quần,

Cảnh Tiên c̣n mến cơi trần anh thư.

GIẢI THÍCH :

Câu 1 : Cẩm tú văn chương hà khách đạo ? Cẩm : Gấm. Tú : Thêu. Cẩm tú là gấm thêu. Văn chương cẩm tú là lời văn hay và đẹp như gấm thêu hoa. Cẩm cũng là tên của Nhị Nương Diêu Tŕ Cung trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam. Hà : Chữ dùng để hỏi : Sao, ǵ, nào ? Khách đạo : Người khách có tín ngưỡng đạo đức.  Người khách đạo nào có được văn chương hay đẹp ?

Câu 2 : Thi Thần tửu Thánh vấn thùy nhân ? Thi : Thơ văn. Tửu : Rượu. Thần Thánh : Những bậc siêu phàm thoát tục. Thi Thần tửu Thánh là chỉ những bậc siêu phàm, sốâng an nhàn ngoài ṿng cương tỏa với bầu rượu túi thơ, ngao du sơn thủy, chẳng vướng việc trần. Vấn : Hỏi. Thùy : Ai. Nhân : Người.

Hỏi ai là người tửu Thánh thi Thần, siêu phàm thoát tục ?

Câu 3 : Tuy mang lấy tiếng hồng quần. Hồng quần : Cái quần màu đỏ. Khi xưa, con gái nhà giàu bên Tàu thường mặc quần màu đỏ, do đó chữ Hồng quần là chỉ con gái, phụ nữ. Tuy là phận làm con gái.

Câu 4 : Cảnh Tiên c̣n mến, cơi trần anh thư. Anh : Tốt đẹp nhứt. Thư : Tiếng tôn xưng người con gái. Anh thư là người con gái tài giỏi.  Nơi cơi trần, là một người con gái tài giỏi, nhưng vẫn c̣n mến cảnh Tiên hơn.

Nhị Nương có bửu pháp là cái Lư hương, có nhiệm vụ cai quản Vườn Đào Tiên của Đức Phật Mẫu, đón tiếp các chơn hồn của những người qui liễu lên từng Trời thứ 2 của Cửu Trùng Thiên trong kỳ làm Tuần Nhị Cửu, mở tiệc Trường Sanh thết đăi, rồi đưa các chơn hồn đến Ngân Kiều, để cỡi Kim quang bay lên chầuNgọc Hư Cung.

 

4. Bài Thài hiến lễ Tam Nương

Tuyến đức năng thành đạo,

Quảng trí đắc cao huyền.

Biển mê lắt lẻo con thuyền,

Chở che khách tục, Cửu tuyền ngăn sông.

GIẢI THÍCH :

Câu 1 : TUYẾN đức năng thành đạo. Tuyến : Đường. TUYẾN cũng là tên của Tam Nương trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam. Đức : Đạo đức. Năng : Có khả năng làm được. Thành đạo : Đắc đạo, đạt được ngôi vị thiêng liêng.  Con đường đạo đức có khả năng giúp con người đắc đạo.

Câu 2 : Quảng trí đắc cao huyền.

Quảng : Rộng răi. Trí : Sự thông minh hiểu biết. Quảng trí là trí hiểu biết rộng răi, đó là Trí huệ, do theo con đường đạo đức mà có được. Đắc : Được. Cao huyền : Cao siêu huyền diệu.  Cái trí huệ được cao siêu huyền diệu.

Câu 3 : Biển mê lắt lẻo con thuyền.

Biển mê : V́ mê nên khổ, hết mê hết khổ. Do đó, biển mê chính là biển khổ. Lắt lẻo : Đưa qua đưa lại như không vững trong một khung cảnh vắng vẻ. Con thuyền : Ư nói chiếc thuyền Bát Nhă đi trên biển khổ, đưa người đạo đức từ bến mê qua bờ giác, đi vào cơi Thiêng liêng Hằng Sống.  Chèo chiếc thuyền Bát Nhă lắt lẻo trên biển khổ.

Câu 4 : Chở che khách tục, Cửu tuyền ngăn sông.

Khách tục : Khách trần (tục là tầm thường thấp kém, chỉ cơi trần). Gọi là Khách v́ cơi trần không phải là quê hương của các Chơn linh, mà quê hương thật sự của các Chơn linh là cơi Thiêng liêng Hằng sống. Các Chơn linh đến cơi trần chỉ ở tạm trong thời gian ngắn (nhiều lắm là 100 năm) để học hỏi và tiến hóa. Xong rồi th́ trở về cơi thiêng liêng là quê hương cũ. Cửu tuyền : 9 suối. Tương truyền nơi cơi Âm Phủ có 9 con suối chảy, nên Cửu tuyền là chỉ cơi Âm Phủ, Địa ngục.  Che chở các khách trần, ngăn cản không cho xuống cơi Địa ngục.

Hai câu 3-4 : Ư nói : Tam Nương có nhiệm vụ chèo chiếc thuyền Bát Nhă trên biển khổ nơi cơi thiêng liêng để rước những người đắc đạo từ bến mê qua bờ giác, đi vào cơi Thiêng liêng Hằng sống, và che chở Chơn linh của các khách trần không cho xuống cơi Địa ngục.  Tam Nương có bửu pháp là Quạt Long Tu, có nhiệm vụ tiếp dẫn các Chơn hồn lên từng Trời Thanh Thiên, là từng Trời thứ 3 trong Cửu Trùng Thiên, trong kỳ làm Tuần Tam Cửu, để đưa chơn hồn đến diện

kiến 7 vị Tiên (Chính là Trúc Lâm Thất Hiền vào thời nhà Tấn tu thành Tiên), vào Cung Như Ư bái kiến Đức Thái Thượng Lăo Quân, học sách Trường Xuân do Hội Thánh Minh giao cho. Ngoài ra, Tam Nương c̣n có nhiệm vụ chèo chiếc thuyền Bát Nhă để độ sanh, như đă nói ở trên.

                                                                                              

5. Bài Thài hiến lễ Tứ Nương

Gấm lót ngơ chưa vừa gót ngọc,

Vàng treo nhà ít học không ưa.

Đợi trông nho sĩ tài vừa,

Đằng giao khởi phụng khó ngừa Tiên thi.

GIẢI THÍCH :

Câu 1 : Gấm lót ngơ chưa vừa gót ngọc. Gấm : Hàng dệt bằng tơ nhiều màu rất đẹp, mắc tiền. GẤM cũng là tên của Tứ Nương Diêu Tŕ Cungtrong một kiếp giáng trần ở Việt Nam. Ngơ : Cổng vào sân nhà. Chưa vừa : Không vừa ḷng. Gót ngọc : Cái gót chân của người phụ nữ quí phái.

Câu 2 : Vàng treo nhà, ít học không ưa.Vàng treo nhà : Vàng treo đầy nhà, chỉ nhà rất giàu có, nhiều tiền của. Ít học : Dốt nát, không có học thức.

Hai câu 1-2 : Đem gấm trải dài từ cổng vào nhà để rước người con gái quí phái ấy th́ nàng cũng chưa vừa ư. Đem vàng treo đầy nhà mà chủ nhà dốt nát, nàng cũng không ưa. Ư nói : Người con gái quí phái ấy không ưa chuộng sự giàu có mà dốt nát, chỉ ưa chuộng người học thức tài giỏi.

Câu 3 : Đợi trông nho sĩ tài vừa.

Đợi trông : Trông đợi, mong chờ. Nho sĩ : Người học chữ Nho, chỉ người trí thức thời xưa. Vừa : Xứng hạp. Tài vừa : Có tài tương xứng. Câu 4 : Đằng giao khởi phụng khó ngừa Tiên thi.

Đằng : Vọt lên cao. Giao : Con rồng không có sừng. Khởi : Dấy lên. Phụng : Con chim phụng, một trong Tứ Linh. Con chim trống gọi là Phụng, con chim mái gọi là Loan, nên thường nói Phụng Loan.  Đằng giao khởi phụng : Con rồng bay vọt lên, con chim phụng dấy lên, tức là rồng bay phụng dậy. Thành ngữ nầy có ư nói : Tài giỏi vượt lên trên mọi người, xuất chúng. Ngừa : Chờ đợi, chờ đón. Tiên thi : Thơ văn của bực Tiên, chỉ người tài giỏi siêu phàm như bực Tiên.

Hai câu 3-4 : Mong đợi một trang trí thức tài giỏi xứng hạp, chớ khó mà chờ người tài giỏi siêu phàm thuộc bực Tiên.

Trong Bài Thài hiến lễ Tứ Nương nầy, ư nói : Tứ Nương có một kiếp giáng trần tên là GẤM. Nàng Gấm rất kén chồng, không thích kẻ giàu có mà dốt nát, chỉ kén chọn người trí thức, có văn tài lỗi lạc tương xứng, chớ khó mà chờ đợi người tài giỏi siêu phàm thuộc hàng Tiên.  Tứ Nương có bửu pháp là Kim Bảng (Bảng vàng để ghi tên những người thi đậu Trạng Nguyên, Tiến Sĩ), nên Tứ Nương có nhiệm vụ tuyển chọn người đủ tài đủ đức cho thi đậu để ra giúp nước.  Tứ Nương tiếp dẫn các Chơn hồn lên từng Trời Huỳnh Thiên, là từng thứ 4 trong Cửu Trùng Thiên. Nơi

đây, Chơn hồn được vào Cung Tuyệt Khổ bái kiến Đức Huyền Thiên Quân, được roi thần của Lôi Công trừ hết các trược khí c̣n bám vào Chơn thần, đi vào Lầu Bát Quái, lănh Kim Câu đi lên chờ ở cửa Thiên môn (Cửa Trời).

                                                                                               

6. Bài Thài hiến lễ Ngũ Nương

LIỄU yểu điệu c̣n ghen nét đẹp,

Tuyết trong ngần khó phép so thân.

Hiu hiu nhẹ gót phong trần,

Đài sen mấy lượt gió thần đưa hương.

GIẢI THÍCH :

Câu 1 : Liễu yểu điệu c̣n ghen nét đẹp. Liễu : Cây dương liễu, cành mềm, lá nhỏ và dài rủ xuống lả lướt trông rất nên thơ. Liễu c̣n là tên của Ngũ Nương Diêu Tŕ Cung trong một kiếp giáng trần tại Việt Nam. Yểu điệu : Có dáng mềm mại tha thướt. Ghen : So b́ ganh tỵ.  Cây liễu có dáng mềm mại tha thướt mà c̣n so b́ ganh tỵ với nét đẹp của Cô.

Câu 2 : Tuyết trong ngần khó phép so thân.

Tuyết : Hơi nước khi gặp lạnh đột ngột, đông lại thành những hạt nước đá nhỏ trắng xóa rơi xuống đất. Thông thường nói : Trắng như tuyết. Trong ngần : Rất trong, không chút dính bợn. So : So sánh. Thân : Thân thể.

Tuyết trắng trong ngần mà c̣n không thể so sánh được với nước da của Cô.

Câu 3 : Hiu hiu nhẹ gót phong trần.  Hiu hiu : Nhẹ nhàng, ở trạng thái êm nhẹ. Nhẹ gót : Bước chân đi nhẹ Phong trần : Gió bụi, chỉ những nỗi vất vả ở cơi đời.  Bước chân đi rất nhẹ nhàng, không c̣n vướng bận những nỗi vất vả nơi cơi trần.

Câu 4 : Đài sen mấy lượt gió thần đưa hương.

Đài sen : Ṭa sen, ngôi vị của Phật. Gió Thần : Ngọn gió huyền diệu. Hương : Mùi thơm. Mấy lượt gió thần thổi đưa mùi thơm tới để rước Cô về ngự nơi Ṭa sen. Ngũ Nương Diêu Tŕ Cung có bửu pháp là Cây Như Ư, có nhiệm vụ tiếp dẫn các chơn hồn đến từng Trời Xích Thiên, là từng Trời thứ 5 trong Cửu Trùng Thiên, trong kỳ làm Tuần Ngũ Cửu, đưa chơn hồn đến Minh Cảnh Đài để xem rơ ràng trở lại tất cả những việc làm thiện ác vừa qua của chơn hồn nơi cơi trần, rồi hướng dẫn chơn hồn đến trước quyển Kinh Vô Tự để cho chơn hồn thấy được quả duyên của ḿnh. Xong, đưa chơn hồn lên xe Như Ư, có các vị Oai Thần tiễn chân đi lên.

                                                                                               

7. Bài Thài hiến lễ Lục Nương

HUỆ ngào ngạt đưa hơi ṿ dịu,

Đứng tài ba chẳng thiếu tư phong.

Nương mây như thả cánh hồng,

Tiêu Diêu phất phướn cơi ṭng đưa Tiên.

GIẢI THÍCH :

Câu 1 : Huệ ngào ngạt đưa hơi ṿ dịu.

Huệ : Bông huệ, một loại hoa rất thơm. Huệ cũng là tên của Lục Nương Diêu Tŕ Cung trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam. Trước kiếp nầy, Lục Nương có giáng sanh bên nước Pháp ở Âu Châu, tên là Jeanne d'Arc, một Thánh Nữ của nước Pháp rất được dân tộc Pháp sùng kính. (Xin xem Tiểu sử nơi phần sau). Ngào ngạt : Mùi rất thơm và tỏa rộng ra xung quanh. Ṿ dịu : Mùi thơm nhẹ dễ chịu.  Hoa huệ thơm ngào ngạt, tỏa ra xung quanh mùi thơm dễ chịu.

Câu 2 : Đứng tài ba chẳng thiếu tư phong.

Đứng : Đấng, người có ngôi vị cao sang. Tài ba : Tài hoa, người có tài đặc sắc. Tư phong : Dáng dấp thùy mị và xinh đẹp. Đó là người có tài đặc sắc mà lại có dung mạo xinh đẹp và thùy mị.

Câu 3 : Nương mây như thả cánh hồng. Nương mây : Đi trên mây. Cánh hồng : Cánh của con chim hồng, một loại chim có tài bay cao và bay xa.

Lông của chim hồng rất nhẹ. Đi trên mây nhẹ nhàng như cánh chim hồng bay.

Câu 4 : Tiêu Diêu phất phướn cơi ṭng đưa Tiên. Tiêu Diêu phất phướn : Lục Nương cầm phướn Tiêu Diêu, cũng gọi là phướn Truy Hồn (Lục Nương phất phướn Truy Hồn, Tang thương nay lúc bảo tồn chúng sanh.), phất lên cho người sau thấy mà đi theo. Đó là cây phướn dẫn đường. Cơi ṭng : Cơi có nhiều cây ṭng, chỉ cơi thanh tịnh, cơi Tiên. Lục Nương cầm phướn Tiêu Diêu phất lên để hướng dẫn chơn hồn đắc đạo thành Tiên đi lên cơi Tiên.

Lục Nương có bửu pháp là Phướn Tiêu Diêu (Phướn Truy Hồn) tiếp dẫn các chơn hồn lên từng Trời Kim Thiên, là từng thứ 6 trong Cửu Trùng Thiên, đưa chơn hồn vào Cung Vạn Pháp xem cho biết rơ cựu nghiệp của ḿnh, vào Cung Lập Khuyết xem ngôi vị cũ, lănh một hột Kim Sa đi bái kiến Phật, được chim Khổng Tước chở lên Đài Huệ Hương, để mùi thơm của Đài nầy khử hết trược khí, đặng chơn thần thơm tho đi lên cơi Niết Bàn.  (Xem Tiểu sử của Lục Nương nơi Phần thứ năm phía sau).

                                                                                              

8. Bài Thài hiến lễ Thất Nương

LỄ bái thường hành tâm đạo khởi,

Nhân từ tái thế tử vô ưu.

Ngày xuân gọi thế hảo cừu,

Trăm duyên phước tục khó bù buồn Tiên.

    GIẢI THÍCH :

Câu 1 : Lễ bái thường hành tâm đạo khởi.

Lễ bái : Cúng lạy. LỄ cũng là tên của Thất Nương trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam, vào gia đ́nh họ Vương ở Sài g̣n, gọi là Vương thị Lễ. (Xem Tiểu sử của Thất Nương ở Phần thứ năm phía sau). Thường hành : Làm hoài. Tâm đạo : Cái tâm đạo đức tu hành. Khởi : Dấy lên.  Cúng lạy hằng ngày th́ cái tâm tu hành được khơi dậy.

Câu 2 : Nhân từ tái thế tử vô ưu.

Nhân từ : Ḷng thương yêu bao la, thương khắp chúng sanh. Tái thế : Đầu kiếp xuống cơi trần một lần nữa. Tử : Chết, tức là linh hồn trở về cơi thiêng liêng. Vô ưu : Không lo lắng, không phiền năo.  Người có ḷng nhơn từ, khi tái thế hay khi trở về đều không phiền năo. Câu 3 : Ngày xuân gọi thế hảo cừu.

Ngày xuân : Ngày c̣n trẻ tuổi. Hảo cừu : Đẹp đôi. Kinh Thi : Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cừu (cầu). Nghĩa là : Người con gái nết na, yểu điệu, đẹp đôi cùng người quân tử. Người con gái lúc c̣n trẻ gọi thế là đẹp đôi.

Câu 4 : Trăm duyên phước tục khó bù buồn Tiên. Duyên : Sự kết hơp thành vợ chồng. Phước : May mắn tốt lành. Tục : Cơi trần. Bù : Thêm vô chỗ thiếu hụt cho được đầy đủ.

Nơi cơi trần, dù hưởng được trăm cuộc nhơn duyên may mắn hạnh phúc, cũng không bù đắp được cái buồn nơi cơi Tiên.  Tại sao nơi cơi Tiên mà Thất Nương lại buồn ? Có lẽ là v́ Cô nhận biết nơi cơi trần, cha mẹ Cô vẫn cứ mải miết trên đường danh lợi nên gây lắm tội t́nh, không chịu khép ḿnh vào đường Đạo đức lo việc tu hành để giải trừ nghiệp chướng tiền khiên. (Xem Tiểu sử Thất Nương nơi phần thứ 5)

Thất Nương có bửu pháp là Hoa sen, có nhiệm vụ tiếp dẫn các chơn hồn lên từng Trời Haọ Nhiên Thiên là từng thứ 7 trong Cửu Trùng Thiên, đưa chơn hồn đến Cung Chưởng Pháp và Phổ Hiền Bồ Tát, được Phật Dà Lam dẫn đường đi đến cơi Tây Qui, rồi đứng trên cái bông sen thần (Liên Thần) để bông sen đưa lên cơi Niết Bàn.

Thất Nương c̣n lănh nhiệm vụ đến cơi Âm Quang để giáo hóa các Nữ hồn tội lỗi, khiến họ thức tỉnh mà cầu nguyện Đức Chí Tôn ân xá tội t́nh, được đầu kiếp lập công chuộc tội.

                                                                                              

9. Bài Thài hiến lễ Bát Nương

Hồ Hớn Hoa Sen Trắng nở ngày,

Càng gần hơi đẹp lại càng say.

Trêu trăng hằng thói dấu mày,

Cợt mây tranh chức Phật Đài thêm  hoa.

GIẢI THÍCH :

Câu 1 : Hồ Hớn Hoa Sen Trắng nở ngày.

Hồ Hớn : Họ Hồ và họ Hớn. Hoa Sen Trắng : Chữ Hán gọi là Bạch Liên hay Liên Bạch. Hớn Liên Bạch là tên của Bát Nương trong một kiếp giáng trần ở Trung Hoa. Cô cũng có giáng trần ở Việt Nam vào nhà họ Hồ.  Hoa sen trắng nở vào lúc ban ngày.

Câu 2 : Càng gần hơi đẹp lại càng say. Càng đến gần hoa sen th́ lại càng thơm khiến người ta càng say mê vẻ đẹp và mùi thơm của hoa sen.

Câu 3 : Trêu trăng hằng thói dấu mày. Hằng : Thường. Dấu mày : Cái dấu chân mày của phụ nữ thường cong và nhỏ như vành trăng non. Trêu cợt với trăng, thường có thói quen trang điểm chân mày cong như vành trăng non.

Câu 4 : Cợt mây tranh chức Phật đài thêm hoa. Tranh : Đua tranh. Chức : Chức tước, phẩm vị. Phật đài : Cái hoa sen làm ṭa ngự cho Phật. Phật đài thêm hoa : Thêm một đóa hoa sen làm ngôi vị cho vị Phật mới đắc đạo. Trêu cợt với mây, tranh đua đạt cho được ngôi vị Phật.

Bát Nương có bửu pháp là Giỏ Hoa lam, có nhiệm vụ tiếp dẫn các chơn hồn đến từng Trời Phi Tưởng Thiên, là từng Trời thứ 8 trong Cửu Trùng Thiên, vào Cung Tận Thức bái kiến Đức Từ Hàng Bồ Tát, chơn hồn được con Kim Mao Hẩu đưa đến tận Tịch San, rồi đi lên cơi Niết Bàn. Chơn hồn c̣n được các Đấng dùng nước Cam Lồ rửa sạch nỗi ai bi của kiếp người.

Bát Nương rất thường giáng cơ dạy Đạo, cho rất nhiều thi văn hay tuyệt.

Bài Kinh : Phật Mẫu Chơn Kinh, do Bát Nương giáng cơ ban cho tại Báo Ân Đường Kim Biên ở thủ đô Nam Vang, nước Cao Miên, khi Đức Phạm Hộ Pháp và Ngài Cao Tiếp Đạo pḥ loan tại đó. Sau đây xin chép một Bài thi của Bát Nương giáng dạy Nữ phái :

Trau giồi cho xứng phận nga mi,

Tấn thối riêng lo kịp thế th́.

Thanh sử từng nêu gương Nữ kiệt,

Hồng ân chi kém bạn Nam nhi.

Lọc lừa chớ để đen pha trắng,

Lui tới đừng cho bạc lộn ch́.

Hạnh đức điểm tô non nước Việt,

Muôn năm bia tạc tiếng c̣n ghi.

BÁT NƯƠNG

                                                                                           

10. Bài Thài hiến lễ Cửu Nương

Khiết sạch duyên trần vẹn giữ,

Bạc Liêu ngôi cũ c̣n lời.

Chính chuyên buồn chẳng trọn đời,

Thương người noi Đạo, Phật Trời cũng thương.

GIẢI THÍCH :

Câu 1 : Khiết sạch duyên trần vẹn giữ.

Khiết : Sạch sẽ. Khiết cũng là tên của Cửu Nương Diêu Tŕ Cung trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam, vào nhà họ Cao ở Bạc Liêu, tên là Cao thị Khiết, nhưng khai sanh ghi là Cao thị Kiết. (Xem Tiểu sử của Cửu Nương nơi phần thứ năm phía sau). Duyên trần : Cuộc nhơn duyên nơi cơi trần.  Cuộc nhơn duyên nơi cơi trần được giữ ǵn hoàn toàn trong sạch.

Câu 2 : Bạc Liêu ngôi cũ c̣n lời.

Bạc Liêu : Tỉnh Bạc Liêu, quê hương của Cô Cao thị Khiết. Cô mất năm 25 tuổi, mộ của Cô được làm bằng đá xanh rất chắc chắn và hùng vĩ, trong phần đất tư của ḍng họ Cao Triều dành làm nghĩa trang cho ḍng họ. Vị trí ngôi mộ nầy nằm cách Thị xă Bạc Liêu chừng 2 Km đi về hướng Vĩnh Châu. Dân quanh vùng gọi là mộ Cô Tiên. Nơi Bạc Liêu, ngôi mộ của Cô c̣n được người đời truyền lời cho nhau là mộ của Cô Tiên.

Câu 3 : Chính chuyên buồn chẳng trọn đời. Chính chuyên : Một ḷng chung thủy với chồng. Chẳng trọn đời : Ư nói chết sớm. (Mất năm 25 tuổi). Một ḷng chung thủy với chồng, nhưng buồn v́ mất sớm.

Câu 4 : Thương người noi Đạo, Phật Trời cũng thương. Noi Đạo : Tín ngưỡng theo một tôn giáo, tức là người có nhập môn cầu Đạo.  Mến thương người theo Đạo tu hành, Trời Phật cũng thương mến những người ấy.

Cửu Nương có bửu pháp là Ống Tiêu, có nhiệm vụ độ dẫn các chơn hồn đến từng Trời Tạo Hóa Thiên, là từng Trời thứ 9 trong Cửu Trùng Thiên, vào Diêu Tŕ Cung bái kiến Đức Phật Mẫu, được ban thưởng cho trái Đào Tiên và uống Tiên tửu, được học tập nghi lễ của Thiên Triều để chuẩn bị đi lên Ngọc Hư Cung khi có sắc lệnh kêu, để các Đấng trong Ngọc Hư Cung định phận : Thăng hay đọa. Sau đây là Bài thi của Bát Nương tả 9 vị Tiên Nữ :

Tả chín vị Tiên Nữ

Một mày liễu trong ngần đóa ngọc,

Hai má đào phải trọng tiết trinh.

Mảnh thân trọn hiếu thâm t́nh,

Phải h́nh thục nữ, phải ǵn căn duyên.

o0o

Ba yểu điệu thuyền quyên vóc hạc,

Bốn mỹ miều đài các trâm anh.

Khi vui bóng nguyệt rọi mành.

Khi ḍng bích thủy, khi cành hoa xuân.

o0o

Năm phận gái hồng quần đáng mặt,

Sáu vẹn toàn quốc sắc thiên hương.

Vào ra phụng trướng loan đường,

Vào ra ngọc các cẩm tường xem hoa.

o0o

Bảy trau chuốt thân ngà mặt ngọc,

Tám Chín phần rèn tập nữ nhi

Chung lo mối Đạo Tam Kỳ,

Giúp nhà Nam Việt kịp th́ Long Hoa.

 

BÁT NƯƠNG / (10-6-1950)

Chú Thích Ba Bài Thài Hiến Lễ:

. Đức Phạm Hộ Pháp, . Đức Cao Thượng Phẩm, . Đức Cao Thượng Sanh

Khi Đức Phạm Hộ Pháp, Đức Cao Thượng Phẩm, Đức Cao Thượng Sanh c̣n sanh tiền th́ mỗi khi Lễ Hội Yến Diêu Tŕ Cung, 3 vị nầy luân phiên dâng Hoa, rót Rượu và châm trà hiến lễ Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương.

Ngày nay 3 Ngài đă qui Thiên th́ nhiệm vụ ấy được trao lại cho chư vị Thời Quân Hiệp Thiên Đài, và trong nghi thức Hội Yến Diêu Tŕ Cung có sắp 3 ghế đặt ở đầu bàn Hội Yến dành cho 3 Ngài, y như thuở đầu tiên, 3 Ngài cùng ngồi dự yến với Cửu vị Tiên Nương.  Khi thài hiến lễ, các Giáo Nhi thài xong 10 Bài Thài hiến lễ Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương rồi th́ thài tiếp 3 Bài Thài hiến lễ Đức Phạm Hộ Pháp, Đức Cao Thượng Phẩm và Đức Cao Thượng Sanh.  Sau đây xin chép ra 3 Bài Thài ấy và chú thích các từ ngữ khó : Bài Thài hiến lễ

Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc:

Trót đă ba năm ở xứ người,

Đem thân đổi lấy phúc vui tươi.

Ngờ đâu vạn sự do Thiên định,

Tuổi đă bảy mươi cũng đủ rồi.

Nhớ tiếc sức phàm thừa chống chỏi,

Buồn nh́n cội Đạo luống chơi vơi.

Rồi đây ai đến cầm chơn pháp,

Tô điểm non sông Đạo lẫn Đời.

     CHÚ THÍCH :

Ba năm ở xứ người : Đức Phạm Hộ Pháp lưu vong 3 năm ở nước Cao Miên, tại kinh đô Nam Vang. Ngày Đức Hộ Pháp đến Nam Vang là 5-Giêng-Bính Thân (dl 16-2-1956), và Đức Hộ Pháp cư ngụ nơi đó cho đến ngày qui Thiên 10-4-Kỷ Hợi (dl 17-5-1959), tính ra được 3 năm 2 tháng.  Chỗ nầy có bản viết : "Trót đă bao năm". Chữ ba đúng hơn v́ nó xác định thời gian 3 năm Đức Hộ Pháp lưu vong ở nước Cao Miên.  Tuổi đă bảy mươi : Đức Hộ Pháp sanh năm Canh Dần (1890) và qui Thiên năm Kỷ Hợi (1959), hưởng thọ được 69 tuổi tây, hay 70 tuổi ta. Luống : Nhiều lần, luôn luôn diễn ra không dứt. Chỗ nầy có bản viết:"Vốn chơi vơi."Vốn: Nguyên từ trước.  Chơn pháp : Pháp luật chơn thật của Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng lập ra để điều hành nền Đại Đạo.

Bài Thài hiến lễ

Đức Thượng Phẩm Cao quỳnh Cư :

Ngảnh lại mà đau cảnh đoạn tràng,

Cơi Thiên mừng đặng dứt dây oan.

Nợ trần đă phủi, ḷng son sắt,

Ngôi vị nay vinh, nghĩa đá vàng.

Cổi tấm chơn thành ḷa nhựt nguyệt,

Phơi gan chí sĩ nhuộm giang san.

Bốn mươi hai tuổi sanh chưa phỉ,

Để mắt xanh coi nước khải hoàn.

CHÚ THÍCH :

Đoạn tràng : Đứt ruột, chỉ sự đau đớn dữ dội. Dây oan : Các mối dây oan nghiệt đă tạo ra lúc sống nơi cơi trần. Son sắt : Không phai như màu đỏ của son, bền vững như sắt. Ḷng son sắt là tấm ḷng trung nghĩa, đỏ và không phai như son, bền vững cứng cỏi như sắt. Ngôi vị nay vinh : Đạt được ngôi vị cao trọng nơi cơi thiêng liêng, ngày nay rất vinh hiển.  Đá vàng : Cứng như đá, bền vững quí báu như vàng. Nghĩa đá vàng là việc xử thế đúng theo đạo lư, luôn luôn giữ cho cứng chắc như đá, bền vững tốt đẹp như vàng.  Tấm chơn thành : Tấm ḷng thành thật trung hậu.  Ḷa nhựt nguyệt : Sáng chói như mặt trời mặt trăng.

Câu 5 : Mở ra để thấy tấm ḷng chơn thành sáng ḷa như hai vừng nhựt nguyệt. Đức Cao Thượng Phẩm viết ra câu nầy là v́ khi Ngài c̣n sanh tiền tại thế, nhóm Ông Tư Mắt và một số ít người ganh tỵ tố cáo Đức Cao Thượng Phẩm thụt két lấy tiền hành hương của Đạo để bỏ túi riêng. Họ dùng bạo lực xô đuổi Ngài ra khỏi Ṭa Thánh. Nhưng khi Ngài đăng Tiên về đến Ngọc Hư Cung th́ các Đấng Trọn Lành trên ấy hiểu rơ những việc làm ngay thẳng của Ngài và minh oan cho Ngài. Do đó Ngài mới đạt đặng ngôi vị Đại Tiên.

Chí sĩ : Người trí thức có chí khí và có quyết tâm tranh đấu cho chánh nghĩa.

Bốn mươi hai tuổi : Đức Cao Thương Phẩm đăng Tiên năm Ngài 42 tuổi. Ngài sanh năm Mậu Tư (1888), và mất năm l929, lúc đó Ngài được 41 tuổi tây, tức là 42 tuổi ta.  Chưa phỉ : Chưa thỏa măn nhu cầu tinh thần. Mắt xanh : - Theo Thông Chí, khi vui người ta thường nh́n thẳng, ḷng đen con mắt nằm chính giữa nên mắt xanh; khi tức giận, người ta nh́n nghiêng hay trợn mắt lên, ḷng trắng hiện ra nhiều hơn nên mắt trắng. Từ đó, mắt xanh chỉ sự hài ḷng vui vẻ.

- Lại theo Tấn Thư, Nguyễn Tịch, một trong Trúc Lâm Thất Hiền đời nhà Tấn bên Tàu, khi tiếp khách, vừa ư với ai th́ con mắt bèn xanh, không thích ai th́ con mắt lộ ra toàn trắng. Vậy mắt xanh cũng chỉ sự vừa ḷng, ưng ư. Khải hoàn : Khải là hát mừng thắng trận, hoàn là trở về. Khải hoàn là quân lính hát mừng thắng trận, kéo quân trở về.

Bài Thài hiến lễ

Đức Thượng Sanh Cao hoài Sang :

Từ lúc đưa tay nắm Đạo quyền,

Nguyện đem thi thố tấm trung kiên.

Độ đời quyết lánh ṿng danh lợi,

Trau chí t́m noi bậc Thánh Hiền.

Từ ái làm nền an thổ vơ,

Đức ân dụng phép tạo nhơn duyên.

Những mong huệ trạch ơn nhuần gội,

Sứ mạng làm xong giữ trọn nguyền.

CHÚ THÍCH :

Câu 1 : Sau khi Đức Phạm Hộ Pháp lưu vong sang Cao Miên ngày 16-2-1956 th́ Hội Thánh yêu cầu Đức Cao Thượng Sanh về Ṭa Thánh cầm giềng mối Đạo. Đức Thượng Sanh từ Sài g̣n về Ṭa Thánh vào cuối tháng 5 năm 1957 và bắt đầu cầm quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài, điều hành nền Đạo.

Thi thố : Đem hết tài sức ra làm việc. Tấm trung kiên : Tấm ḷng trung thành đến cùng, không ǵ lay chuyển được. Trau chí : Trau giồi chí khí.  Từ ái : Từ là ḷng thương yêu của người trên đối với kẻ dưới, Ái là ḷng thương yêu. Từ ái là ḷng thương yêu khắp cả chúng sanh. Thổ vơ : Đất đai của một nước.

Tạo nhơn duyên : Tạo ra cái nhân tốt và cái duyên lành. Hễ nhân tốt th́ tất nhiên hưởng được quả tốt, hễ duyên lành th́ tu hành mau đắc đạo. Huệ trạch : Huệ là ơn, trạch cũng là ơn. Huệ trạch là ơn huệ nói chung. Nhuần gội : Thấm ướt sâu vào, ư nói hưởng được nhiều ơn huệ của các Đấng Thiêng liêng.

- Sứ mạng : Nhiệm vụ quan trọng do các Đấng Thiêng liêng giao phó. Trọn nguyền : Trọn vẹn lời nguyền. Lời nguyền hay Lời nguyện là lời nói mà ḿnh tự cam kết sẽ thực hiện đúng như lời nói ấy.

TIỂU SỬ  LỤC NƯƠNG

Lục Nương Diêu Tŕ Cung

[ Tiểu sư  Cô JEANNE D'ARC ]

Trong một kiếp giáng trần ở nước Pháp bên Âu Châu, Lục Nương là Cô Jeanne d'Arc, một vị Nữ Thánh và cũng là một vị Nữ anh hùng của dân tộc Pháp.  Cô Jeanne d'Arc sanh năm 1412 tại Domrémy nước Pháp, trong một gia đ́nh nông dân b́nh thường. Cô là một cô gái rất ngoan hiền, và rất sùng tín Đạo Thánh (Đạo Thiên Chúa). Ngoài th́ giờ phụ việc gia đ́nh, Cô thường đi lễ ở nhà thờ. Sau khi dự Thánh lễ xong, Cô thường ra chiêm ngưỡng tượng Thánh Mẫu Maria, đứng hàng giờ như thế và Cô cảm thấy tâm hồn thơ thới nhẹ nhàng.  Những lúc không đi nhà thờ, Cô thường ngồi một ḿnh trầm ngâm, nhớ lại khung cảnh nhà thờ, nhớ đến những nét dịu hiền thanh thoát của Đức Mẹ Maria, tâm hồn Cô như ḥa vào Hư không.

Một hôm Cô đang ngồi yên lặng một ḿnh như thế, bỗng có một tiếng nói từ trên không trung đưa đến như một nghiêm lịnh, bảo Cô phải đi giải cứu nước Pháp, v́ lúc đó nước Pháp đang bị nước Anh đem quân xâm lấn. Nghe xong, Cô chợt bàng hoàng sực tỉnh, mở mắt nh́n ra 4 bên, cảnh vật vẫn im ĺm, không một bóng người lai văng.

Cứ như thế, đă mấy lần rồi, khi th́ Cô thấy Thánh Michel đến nói, khi th́ Cô thấy Thánh Nữ Cathechel đến bảo, cũng một âm điệu như một nghiêm lịnh như thế.  Cô tự nghĩ : Ḿnh là một cô gái quê, có tài cán chi đâu mà giải cứu được nước Pháp. Cô đâu có quyền lực ǵ, có nói cũng chẳng ai nghe. Thế là Cô bỏ qua, không nghĩ tới vấn đề ấy nữa.

Nhưng ít hôm sau, trong lúc ngủ mơ màng, Cô lại nghe tiếng nói ấy nữa, nhưng lần nầy lại có ư gằn giọng thúc giục. Đến khi sực tỉnh, Cô cảm thấy bồi hồi, nhất là mấy hôm nay có tin quân đội Anh đánh chiếm được nhiều nơi của nước Pháp, gây cảnh nhà cháy, người chết, bao nhiêu người phải tản cư chạy giặc.  Cô cảm thấy ḷng ḿnh ray rứt, như thấy chính ḿnh trong cảnh khói lửa binh đao. Cô tự thấy ḿnh như tộc ḿnh.

Tiếng nói thinh không lại tiếp tục thúc giục Cô. Cuối cùng, Cô đánh bạo đến gặp Đại Úy Robert de Baudricourt đang đóng quân tại Vaucouleurs, để tỏ bày hết mọi việc, và nhờ Đại Úy dẫn đến yết kiến vua nước Pháp là Charles VII.  Đại Úy Baudricourt không tin là Cô có thể đánh đuổi được quân Anh để cứu nước Pháp, nên không chịu hướng dẫn Cô đến yết kiến vua Pháp. Ông ta cho rằng Cô quá mê tín hoặc bị bịnh tâm thần.  Cô buồn bă ra về, tâm tư bị xao động mạnh v́ Cô cảm thấy vừa làm một việc hầu như không suy tính trước, chỉ nghe theo một động lực vô h́nh thúc đẩy. Chừng mấy hôm sau, người ta được tin thành phố Orléans sắp thất thủ trước quân đội hùng mạnh của nước Anh. Khi Cô hay tin, Cô bỗng đứng bật dậy như cái ḷ xo. Với vẻ cương quyết, Cô vội vàng đến gặp Đại Uùy Baudricourt lần nữa. Lần nầy, Cô cũng tŕnh bày như trước, nhưng có vẻ tự tin hơn, tha thiết hơn. Đại Úy hỏi Cô : - Cô xin yết kiến vua Charles để xin đi giải cứu nước Pháp, nhưng Cô định giải cứu bằng cách nào?  Cô nh́n viên Đại Úy và trả lời ngay : - Ơ ! Th́ đánh với quân Anh.  Đại Úy Baudricourt gật đầu nói tiếp :

- Điều đó chúng tôi đang cố gắng và đang nổ lực, như trước mắt Cô đă thấy.

Cô vẫn cương quyết nói :  - Nhưng dù sao, tôi cũng giúp thêm được một tay, đâu có hại ǵ cho nước Pháp ? C̣n đang nói chuyện th́ Đại

Úy Baudricourt nhận được tin thành Orléans sắp rơi vào tay quân Anh, Đại Úy bất đắc dĩ phải tiến dẫn Cô đến gặp vua Charles VII đang đóng quân ở tại Chinon. Cô đến thật bất ngờ, trong khi có đủ mặt các quan đang bàn định về chiến cuộc. Vua Charles vui vẻ cho Cô vào. Cô tỏ bày với vua Charles và với các quan đại thần tại triều, Cô xin đi giải cứu nước Pháp. Mọi người đều lấy làm lạ. Cô vẫn cương quyết tŕnh bày :

- Thưa Bệ hạ và Quí Ngài, sự cầu xin của tôi dù sao cũng thêm một cánh tay chớ không bớt. Tôi không ước mong ǵ hơn được sự chuẩn y của Bệ hạ, chỉ xin đi một ḿnh tôi cũng đủ, ngoài ra tôi không dám làm phiền đến các việc khác. Nếu kết quả thắng lợi vẻ vang th́ đó là một vinh hạnh, c̣n như thất bại th́ chỉ một ḿnh tôi cam chịu. Xin Bệ hạ ban ơn cho tôi. Vua Charles ngẫm nghĩ một lúc rồi gật đầu, truyền giao cho Cô một đội binh nhỏ để Cô chỉ huy và tức Cô tuy rất băn khoăn bối rối, không biết phải dẫn quân đánh như thế nào, nhưng việc cứu binh như cứu lửa, Cô tức tốc lên xe dẫn toán quân ra mặt trận. Cô chỉ huy đội quân của Cô đánh thẳng vào quân Anh đang bao vây Orléans. Lúc đầu th́ chưa thấy có tác dụng ǵ để làm cho quân Anh phải lo ngại, nhưng sau đó mấy tiếng đồng hồ, đội quân của Cô lại tiến như vũ băo. Không biết v́ lư do ǵ, quân đội Anh thấy quân của Cô tiến tới đâu th́ quân Anh bỏ chạy đến đó, rút lui ồ ạt. Họ thấy quân Pháp dưới quyền chỉ huy của Cô rất đông đảo, trùng trùng điệp điệp, hùng hổ tiến lên, bất chấp tên đạn do quân Anh bắn trả lại. Quân Pháp càng đánh càng đông. Vị chỉ huy quân đội Anh phải ra lịnh lui binh gấp, quân lính quăng bỏ vũ khí, đạp bừa lên nhau mà chạy thoát thân, nên quân Anh chết thôi vô số. Thành Orléans nhanh chóng được giải cứu hoàn toàn. Tin nầy được tức tốc đưa về Chinon . Vua Charles VII và các quan hết sức vui mừng. Dân thành Orléans hoan hô Cô Jeanne d'Arc nhiệt liệt. Lúc đó là năm 1429.

Kế đó, Cô được lịnh đem quân đến đánh quân Anh đang bao vây thành Patay. Cũng như trận đánh ở Orléans, toán quân nhỏ của Cô tiến đến đâu th́ quân Anh thấy quân Pháp trùng trùng điệp điệp, biết tiến chớ không biết dừng, quân Anh phải chịu thảm bại rút lui. Vua Charles liền nhận được tin chiến thắng. Cánh quân của Cô Jeanne d'Arc lập được chiến công hàng đầu.  Vua và các quan, nhứt là Đại Úy Baudricourt đều ngạc nhiên, không thể nào ngờ rằng một cô gái yếu đuối quê mùa như Jeanne d'Arc lại có thể đánh lui được quân Anh một cách dễ dàng và phi thường đến thế.

Thắng suốt hai trận đánh một cách nhanh chóng như thế, tên tuổi Cô Jeanne d'Arc nổi như sóng cồn, mọi người dân Pháp đều biết tiếng vị Nữ anh hùng nầy, c̣n quân Anh th́ khi nghe tiếng của Cô đều vỡ mật kinh hồn.

Vua Charles VII liền quyết định tổ chức Thánh Lễ Tôn Vương cho Ngài tại Nhà Thờ Reims và chính Cô Jeanne d'Arc đứng ra chứng lễ. Đây là một Thánh lễ rất quan trọng đối với một vị vua mà theo truyền thống từ trước, phải có một vị Giáo phẩm cao cấp Đại diện Giáo Hoàng La Mă ban cho mới đúng. Nhưng đàng nầy, vua Charles lại muốn được sự thừa nhận của chính Jeanne d'Arc mà thôi. Sau cuộc lễ Tôn Vương đó, Cô lại ra mặt trận, nhưng chẳng may Cô bị thương, và được đưa về hậu cứ điều trị.  Cách mấy hôm sau, Cô hay tin quân Anh tiến về thủ đô Paris. Cô vội vàng xin ra trận, nhưng vua Charles VII thấy Cô c̣n yếu nên không cho Cô đi.  Nhân việc bị thương của Cô Jeanne d'Arc, phe Bảo Cựu Bourguignons chống vua Charles, thân với nước Anh, tuyên truyền rằng sự chiến thắng của quân Pháp tại 2 mặt trận Orléans và Patay vừa qua chỉ là một dịp t́nh cờ trong chiến lược rút lui của quân Anh, chớ không phải do hiện tượng lạ lùng mà quân Anh thấy quân Pháp dày đặc trên chiến trường mà khiếp sợ. Không nên dựa vào đó mà tạo ra thần quyền tà mị, bởi v́ hiện nay, Jeanne d'Arc cũng đă bị thương như bao nhiêu người khác và quân Anh đang tiến vào Paris. Nếu Cô có phép lạ, sao không đi giải cứu Paris ?  Chiến lược tuyên truyền đó rất có lợi cho quân Anh. Quân Anh lên tinh thần trở lại và nhân đó cũng xác nhận chiến lược rút lui của quân Anh. Quân Pháp thắng được chỉ là biết lợi dụng sự rút lui của quân Anh và họ cũng xác nhận rằng Jeanne d'Arc chỉ là một người tầm thường như bao nhiêu người tầm thường khác.

Phe Bảo Cựu Bourguignons tuyên truyền đánh đúng vào tâm lư của nhân dân Pháp, làm cho đức tin của họ đối với Jeanne d'Arc bị lung lay. Thừa lúc bất ngờ, phe Bảo Cựu tổ chức bắt cóc Jeanne d'Arc và họ đem Cô nạp cho quân đội Anh là đồng minh của họ. Quân Anh giải giao Cô cho Ṭa Án của Giáo Hội Thiên Chúa Giáo tại Pháp xét xử.  Vị Giám Mục tỉnh Beauvais tên là Pierre Cauchon đứng ra làm Chủ tọa Ṭa Án Tôn giáo, kết tội Jeanne d'Arc theo Tà giáo, mê hoặc nhân dân, vi phạm quyền Thánh của Giáo Hội. (Xem Biên bản hỏi cung phía sau).  Cô Jeanne d'Arc bị Ṭa Án của Giáo Hội Thiên Chúa Giáo tại Pháp kết án tử h́nh, thiêu sống trên dàn hỏa tại Rouen năm 1431, lúc đó Cô được 19 tuổi.

Cô Jeanne d'Arc biết rằng việc làm của Cô không thể thanh minh được trước một Giáo Hội độc tài vô minh. Cô chỉ biết cầu nguyện và can đảm chờ đợi số phận mà Đấng Thượng Đế dành cho Cô.

Những người Anh khi nh́n thấy đống lửa thiêu đă phải thốt lên lời kính phục : "Chúng ta đă thiêu một vị Thánh."  Dân tộc Pháp biết ơn Cô, tôn Cô là : "Trinh nữ thành Orléans", vị "Nữ Anh hùng của dân tộc Pháp" .

Năm 1909, Cô được làm Lễ Tuyên Phúc (cho linh hồn Cô được vào Thiên Đường).  Đến năm 1920, Cô được phong Thánh. Ngày Lễ nầy trở thành ngày Quốc lễ của nước Pháp, được tổ chức vào ngày Chúa Nhựt thứ nh́ của tháng 5 hằng năm.

Tiểu sử của Nữ Thánh Jeanne d'Arc đă gây nhiều cảm hứng cho giới Văn nghệ sĩ Pháp, nên họ đă viết nhiều tác phẩm thơ văn, bi kịch và nhạc kịch ca ngợi Nữ Thánh Jeanne d'Arc sau đây :

- Bi kịch của Schiller (1801) : Jungfrau von Orleans.

- La Sainte Jeanne của G.B. Shaw (1923).

- Jeanne au bucher, nhạc kịch của P.Claudel (1937).

BIÊN BẢN về vụ án của Cô Jeanne d'Arc do ông Thomas de Courcelles lập , được dịch ra sau đây :

" Vị Giám Mục :

Tên và biệt danh của Cô ?

Jeanne : Ở làng tôi, người ta gọi tôi là Jeannette và sau nầy người ta gọi tôi là Jeanne. Tôi không biết ǵ

cả về biệt danh.

Vị Giám Mục : Cô sanh quán ở đâu ?

Jeanne : Tôi sanh ở làng Domrémy, sáp nhập với làng Greux. Ở làng Greux có Giáo đường chánh.

Vị Giám Mục : Tên của cha mẹ Cô ?

Jeanne : Cha tôi tên là Jacques d'Arc, mẹ tôi là Isabelle Romée.

Vị Giám mục : Cô được rửa tội ở đâu ?

Jeanne : Ở Giáo đường làng Domrémy.

Jean Beaupère: Thuở nhỏ, Cô có học nghề ǵ không ?

Jeanne : Có, học may những tấm bảng bằng vải gai và học đan. Tôi không thua một phụ nữ nào ở thành

phố Rouen về đan và may.

Jean Beaupère : Đă có một lần Cô rời khỏi nhà cha Cô phải không ?

Jeanne : V́ sợ phe Bourguignons, tôi có ĺa nhà cha tôi và đến Neufchâteau ở Loraine cư ngụ nơi nhà một phụ nữ có biệt danh là Chị Tóc hoe khoản 15 ngày.

Jean Beaupère : Cô làm ǵ thuở Cô ở nhà cha Cô ?

Jeanne : Khi tôi ở nhà cha tôi, tôi làm công việc nhà và không ra đồng với bầy trừu cái và thú vật khác.  Jean Beaupère : Mỗi năm Cô có xưng tội không ?

Jeanne : Có, xưng tội với Cha Cố và khi Cha Cố bận việc, tôi xưng tội với một tu sĩ khác, được sự chấp thuận của Cha Cố. Đôi khi dường như 2, 3 lần ǵ đó, tôi xưng tội với các tu sĩ hành khất trong thành phố Neufchâteau nói trên và tôi được ban phép làm Ḿnh Thánh Chúa vào Lễ Phục Sinh Jean Beaupère : Lúc nào Cô đă khởi nghe những ǵ mà Cô gọi là những tiếng nói ?

Jeanne : Lúc tôi 13 tuổi, tôi có nghe tiếng nói của Đức Chúa Trời giúp tôi tự sửa ḿnh. Đó là lần thứ nhứt, tôi sợ quá ! Và khoảng 12 giờ trưa, tiếng nói đó đến, vào mùa hè, trong khu vườn của cha tôi. Bữa trước, tôi đă không kiêng cử ăn. Tôi nghe tiếng nói phía tay mặt, hướng Giáo đường, và thường thường tôi nghe rất rơ ràng. Thật ra có ánh sáng từ phía đó. Từ thuở ấy, thông thường có một ánh sáng rực rỡ. Khi tôi đến gặp nhà vua để tôi tŕnh bày sứ mạng của tôi và chiến đấu, tôi thường nghe tiếng nói ấy.

 

Cô Jeanne d'Arc bị bắt ngày 23-5-1430, bị bán cho người Anh ngày 21-11-1430.  Cô bị đưa lên dàn hỏa ngày 30-5-1431 lúc Cô 19 tuổi.

Vua nước Pháp thời nầy là Charles VII (1422-1461).  (Tài liệu dịch ra Việt văn của ông Nguyễn lộc Thọ).

Sau đây, xin chép ra một bài Thánh giáo bằng Pháp văn của Cô Jeanne d'Arc, Lục Nương Diêu Tŕ Cung:

" Phnom-Pênh, nuit du 16/17 Février 1933, 2 h 15.  Médium : Hộ Pháp et Tiếp Đạo.  Présents à la séance : Giáo Sư LATAPIE et quelques dignitaires.

JEANNE D'ARC

J'y suis en effet, chère frère Latapie,

A qui puis-je donner une nouvelle vie.

Assoiffé de toute tendresse

Vous vous trouviez dans une réelle faiblesse.

Avec votre infidèle SÁU, vous l'encouragiez à vous trahir,

Elle est maintenant condamnée avec sévérité,

A des souffrances morales parmi les pires.

Elle n'obtiendra son salut que par vous.

 Aidez-moi donc dans vos prières et je pourrai tout.

Soyez fidèle à notre Maitre Divin,

Faites avec dévouement votre devoir de Saint.

Nous sommes là pour vous aider

Et faciliter votre tâche, il faut y penser.

Un corps d'Esprits européens est à ce jour constitué,

Ils travailleront avec vous en communauté.

Soyez donc vaillant,

La grandeur d'âme francaise en dépend.

Au revoir.

Dịch ra Việt văn :

Nam Vang, đêm 16/17 tháng 2 năm 1933, 2giờ 15.

Pḥ loan : Hộ Pháp và Tiếp Đạo.

Hầu đàn : Giáo Sư Latapie và vài chức sắc.

 

JEANNE D'ARC

Quả thật, Em đến đây, Hiền huynh Latapie thân mến,

Để cho Hiền huynh một nếp sống mới.

Khao khát t́nh triều mến

Hiền huynh lâm vào một nhược điểm thật sự.

Đối với nàng Sáu thất tiết của Hiền huynh,

Hiền huynh đă khuyến khích nàng phản bội,

Nay th́ nàng bị kết án nghiêm khắc,

Với những đau khổ tinh thần tệ hại nhứt.

Nàng sẽ được cứu rỗi bởi Hiền huynh mà thôi.

Vậy Hiền huynh hăy giúp Em trong lời cầu nguyện và Em sẽ làm được tất cả.

Hiền huynh hăy trung thành với THẦY của chúng ta,

Hăy thi hành tận tụy nhiệm vụ của một vị Thánh.

Chúng tôi ở đây để giúp đỡ Hiền huynh,

Và dễ làm tṛn bổn phận, hăy ghi nhớ.

với Hiền huynh trong cộng đồng.

Vậy Hiền huynh hăy dũng cảm,

Tâm hồn cao thượng của người Pháp tùy thuộc vào đây. Tạm biệt.

Thánh giáo của LỤC NƯƠNG bằng Việt văn:

Thảo Xá Hiền Cung, ngày 15-10-Kỷ Tỵ (dl 15-11-1929)

DIÊU TR̀ CUNG LỤC NƯƠNG

Em xin chào mấy chị. Cười . . .

Hèn lâu, Em ao ước sao đặng hội hiệp cùng mấy chị cho thân mật tâm t́nh, nhưng không phương chi đặng. Nay nhờ Hương Hiếu Đại Tỷ và Hộ Pháp Nhị Ca khẩn đảo Diêu Tŕ huấn độ Nữ nhi. Em lănh lịnh Thầy Em là Kim Mẫu Nương Nương mong đến tỏ tường Thánh giáo. Em chủ tính là nâng đỡ trí thức tinh thần của Nữ phái lên cao cho vừa cùng Nam phái. Em ước ao sao cho mấy chị đặng vậy là thỏa nguyện. Cười . . .

Trước khi giảng dạy điều Vô vi bất kiến, Em khởi giải phẩm vị Nữ Nam nơi trần hoàn nầy, bởi đâu mà phân biệt ? Mà cũng v́ phân biệt ấy mà đè nén, nghịch nhau, làm cho Cơ Trời ra dời đổi.  Nam Nữ vốn tương thân mà không tương ư, là tại nơi nào ? Th́ cũng tại học thức bất đồng, tinh thần bất ngộ. Cơ tạo thế do đó mà gầy ra toàn nhơn loại. Không đồng tâm đồng chí th́ là phân biệt sang hèn, làm cho cơ đời ra nghịch đời bởi đó. Nam là chi ? Nữ là chi ? Nam Nữ trước thiêng liêng vốn không phân biệt, chỉ tại thần đồng phẩm hạnh mới phải.  Em tỷ như ở cơi thiêng liêng, đời hằng biết danh hơn hết là Từ Hàng Bồ Tát, trước vẫn là Nam, sau hóa ra Nữ. Vậy Nữ với Nam vốn một phẩm quyền. Nam dường nào, Nữ cũng đối quyền. Duyên phận ấy tại quyền

ḿnh lập vững.  Mong sao cho mấy chị hiểu thấu giá trị của ḿnh, đừng để cho người khinh cam hổ phận. Từ đây, Diêu Tŕ Cung chung lo lập phận cho mỗi người, chỉ xin mấy chị một điều là làm thế nào cho ra xứng giá. Ngày mùng 1 tới, có Thầy Em giáng cơ cho Pháp hiệu. Vậy th́ đợi lịnh ấy, rồi các Em sẽ lo dạy dỗ. An ḷng chờ đợi, đừng đem dạ mờ hồ làm thất Thánh truyền rất uổng. Khá nhớ lời Em.

THĂNG                                                                                             

Thất Nương Diêu Tŕ Cung

 [ Tiểu sử  Cô VƯƠNG THỊ LỄ ]

Thất Nương có nhiều kiếp giáng trần, nhưng hiện nay chỉ biết được 2 kiếp của Thất Nương : Một kiếp ở Trung Hoa và một kiếp ở Việt Nam.

I. KIẾP SANH Ở TRUNG HOA.

Thất Nương đầu kiếp trong một gia đ́nh quan Đại Thần đương triều. Cô lớn lên trong sự giàu sang quyền

quí, nhưng không giống như các tiểu thư đài các khác, Cô rất hiền ḥa độ lượng. Tiếng tốt đồn vang, khiến cho một chàng thư sinh đem ḷng ngưỡng mộ thầm yêu. Chàng thư sinh không dám thố lộ cùng ai, v́ chàng thuộc gia đ́nh dân giả, c̣n nàng là tiểu thư khuê các con quan Đại Thần. Chàng chỉ biết im lặng ôm mối t́nh si tuyệt vọng.  Cô chẳng hề hay biết, vẫn ngây thơ sống trong nhung lụa. Nhưng chẳng may Cô vắn số, mới vừa ở tuổi cập kê là bị bạo bịnh qua đời, dầu gia đ́nh có rước lương y đến nhưng cứu Cô không kịp.

Chàng thư sinh hay tin, như sét đánh ngang tai, ôm chặt mối t́nh tuyệt vọng, ngơ ngẩn như kẻ mất hồn, dần dần thân h́nh tiều tụy và cũng qua đời.

Hồn chàng thư sinh phưởng phất bay về cơi thiêng liêng. Theo luật Thiên điều, dù vô t́nh hay cố ư, Cô cũng có quan hệ với oan hồn của chàng thư sinh, nên Cô phải tái kiếp một lần nữa để trả cái món nợ oan t́nh đơn phương đó.

II. KIẾP SANH Ở VIỆT NAM.

Hồn chàng thư sinh ấy đầu thai xuống trước tại Chợ Lớn, trong một gia đ́nh khá giả. Khi lớn lên, chàng được cha mẹ cho ăn học đầy đủ. Chàng rất chuyên cần học tập, nên học rất giỏi. Sau khi thi đậu xong bằng Tú Tài, cha mẹ cho chàng qua Pháp học Đại học Y khoa để sau nầy trở thành một Bác sĩ.

Phần Cô Thất Nương, sau đó cũng tái kiếp xuống trần, đầu thai vào gia đ́nh họ Vương ở Chợ Lớn. Cô sanh ngày 8-1-Canh Tư (1900) có tên là Vương thị Lễ. Thân phụ của Cô là Ông Vương quan Trân làm Đốc Phủ, Thân mẫu là Bà Đỗ thị Sang, con gái của quan Tổng Đốc Đỗ hữu Phương.  Ông Vương quan Trân là anh ruột của Ông Vương quan Kỳ. Ông Kỳ, sau nầy, được Ông Phủ Ngô văn Chiêu độ, nhập môn vào Đạo Cao Đài, được Đức Chí Tôn phong phẩm Giáo Sư Thượng Kỳ Thanh. Hai Oâng Trân và Kỳ là con của Ông Vương quan Để và Bà Huỳnh thị Bảy. Bà Huỳnh thị Bảy là con gái của Oâng Huỳnh mẫn Đạt, c̣n Ông Vương quan Để là con của quan Thống Chế Vương quan Hạc.  Trước kia, Ông Bà Vương quan Trân sanh con rất khó nuôi, nên phải ra tận kinh thành Huế, thỉnh lư hương cầu tự nơi Miếu Bà Cửu Thiên Huyền Nữ về thờ, mới có thai sanh ra Cô Vương thị Lễ.  Lớn lên, Cô Lễ theo học tại trường Trung Tiểu học Pháp Sainte Enfance, tới bậc Trung học. Cô Lễ rất được cha mẹ thương yêu chiều chuộng, lại rất hiền ḥa hiếu thảo, càng lớn càng đẹp. Đến tuổi cập kê, có nhiều gia đ́nh danh giá đến dạm hỏi, nhưng Cô nhứt định chưa muốn có chồng. Cha mẹ Cô cũng chiều ư con, không hề ép uổng. Bỗng một hôm, Cô lâm bịnh bất ngờ. Người nhà vội rước lương y điều trị, nhưng bịnh t́nh không thuyên giảm.  Hễ cha mẹ Cô nghe nơi nào có thầy hay thuốc giỏi th́ liền t́m tới rước về để trị bịnh cho Cô, không kể tốn hao. Nhưng bịnh của Cô cũng không hết. Kịp hay tin có một bác sĩ học rất giỏi từ bên Pháp mới trở về Việt Nam, ông bà Vương quan Trân t́m biết đó là con trai của một người quen cũ không thân lắm, nhưng thỉnh thoảng cũng có tới lui. Ông Bà đích thân đến chào người quen cũ ấy và hỏi thăm về cậu Bác sĩ, yêu cầu cậu Bác sĩ vui ḷng đến xem mạch và trị bịnh cho con gái ḿnh.  Nhận thấy cậu Bác sĩ cũng có dáng khôi ngô, ông bà Vương quan Trân mới nói rằng : Khi Bác sĩ trị bịnh cho con gái tôi hết bịnh rồi th́ chúng tôi sẽ gả con gái cho Bác sĩ.  Cậu Bác sĩ nghe vậy th́ hơi đỏ mặt, vui vẻ nói :

- Cháu xin cố gắng hết sức, c̣n việc kia, th́ ba má cháu sẽ bàn tính với hai bác, nếu hai bác thương t́nh. Nói xong, cậu Bác sĩ xin phép cho người nhà hướng dẫn vào thăm bịnh nhân, nhưng liền đó, người giúp việc hớt hăi chạy ra báo cáo : Bà ơi ! Cô làm sao lạ lắm, nghe Cô ực lên một tiếng rồi nằm im luôn, hai mắt nhắm nghiền.

Mọi người chạy nhanh đến pḥng của Cô. Vị Bác sĩ lật đật xem mạch, thấy mạch c̣n rất yếu, trong giây phút th́ tắt hẳn. Vị Bác sĩ đứng yên lặng ngắm nh́n khuôn mặt xinh đẹp của Cô lần đầu tiên mà cũng là lần cuối cùng, để nghe tim ḿnh rung động bàng hoàng, giữa tiếng khóc thảm những người thân yêu.  Mối oan t́nh giờ đây đă giải xong, chỉ một lời nói thôi cũng đủ. Ngày Cô mất là ngày 25-10-Mậu Ngọ (dl 28-11-1918) hưởng dương được 19 tuổi.

Mộ của Cô Vương thị Lễ ở trong khuôn viên đất của gia đ́nh Tổng Đốc Đỗ hữu Phương, thường gọi là Vườn Bà Lớn, ở gần Ngă Bảy Sài g̣n. Năm Mậu Thân 1968, mộ được lấy cốt và thiêu, lấy tro cất vào hủ để thờ. Đất ấy được trưng dụng để xây cất Chung cư Nguyễn Thiện Thuật ở Quận 3 ngày nay.

Năm Ất Sửu (1925), thời kỳ mới khởi sự Xây Bàn để thông công với cơi vô h́nh, 4 Ngài : Cao quỳnh Cư, Cao quỳnh Diêu, Phạm công Tắc và Cao hoài Sang, xây bàn đêm mùng 10-6-Ất Sửu (dl 30-7-1925) tại nhà Ngài Cao hoài Sang gần Chợ Thái B́nh Sàig̣n, Cô Vương thị Lễ giáng bàn, mượn danh Đoàn ngọc Quế, cho bài thi tự thuật như sau :

THI :

Nỗi ḿnh tâm sự tỏ cùng ai ?

Mạng bạc c̣n xuân uổng sắc tài.

Những ngỡ trao duyên duyên vào ngọc các,

Nào dè phủi nợ xuống tuyền đài.

Dưỡng sinh cam lỗi t́nh sông núi,

 Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai.

Dồn dập tương tư oằn một gánh,

Nỗi ḿnh tâm sự tỏ cùng ai ?

 

Cũng trong năm Ất Sửu (1925), trong một đàn cơ khác, có mặt ông Vương quan Trân, Cô Vương thị Lễ giáng bàn, viết một bài thi cho ông Vương quan Trân là thân sinh của Cô:

THI :

Cúi lạy thân sinh thứ lỗi con,

Âm Dương tuy cách, hiếu tâm c̣n.

Hồn quê níu nắm t́nh non nuớc,

Phách quế náo nương dạ sắt son.

Ác lặng hiên đoài già nhắc nhỏm,

Nguyệt trầm non Thái trẻ thon von.

Thấy nhau thêm tủi đường ly biệt,

Đá nát xương tan nghĩa vẫn c̣n.

 

Ngày 22-11-Đinh Hợi (1947), Ngài Khai Pháp Trần duy Nghĩa thuyết đạo tại Đền Thánh về Luật Công b́nh Thiêng liêng, nói Ngọc Hư Cung có cho biết rằng :

  " Vào năm 1929, Cô Thất Nương (Vương thị Lễ) hay tin thân phụ là Vương quan Trân qui liễu, bị tội đọa nơi Diêm Cung. Cô Thất Nương lén bỏ Diêu Tŕ Cung đặng đi xuống Diêm Cung để thức tỉnh cha của Cô.

V́ phế phận, nên Ngọc Hư Cung bắt tội Thất Nương, làm cho DiêuTŕ Cung náo nhiệt, nhứt là Bát Nương, sợ cho Thất Nương bị tội ấy mà thất vị. Bát Nương mới giáng cơ báo tin cho Đức Phạm Hộ Pháp hay và yêu cầu Đức Hộ Pháp xin với Ngọc Hư Cung ân xá cho Thất Nương.

Đức Hộ Pháp liền lập đàn cơ, Thất Nương giáng tỏ bày nỗi niềm hiếu đạo :

 

 THI :

Hỏi ai có biết hiếu ra sao ?

Chín chữ cù lao giá thế nào ?

H́nh vóc cảnh Tiên c̣n dính máu,

Chơn thần nước Phật giữ thai bào.

Nỗi riêng chưa vẹn thân từ phụ,

Nghĩa nặng đeo đai phận má đào.

Thà xuống Âm Cung chia khổ tội,

Cha vầy, ai nỡ ngự đài cao !

 

Đức Hộ Pháp đọc bài thi rồi th́ xúc động từ tâm, nghĩ v́ luật pháp quá nghiêm khắc, e rằng nơi mặt thế nầy không ai tránh khỏi tội. Cô Thất Nương v́ chữ hiếu mà phải bị phạt, thế th́ Luật Công B́nh có lẽ c̣n có chỗ khuyết điểm chăng ?

Đức Hộ Pháp quyết định dâng sớ lên Đức Chí Tôn xin tội cho Thất Nương.

Đức Chí Tôn nhận được tờ sớ, liền giao cho Đức Lư Thái Bạch và nói rằng : "Con coi, Tắc nó trách Thầy, ắt nó chưa hiểu rơ Luật Công B́nh Thiên Điều thế nào, con cũng nên đến giải cho nó đặng hiểu."  Vâng lịnh Đức Chí Tôn, Đức Lư giáng cơ nói cho Đức Hộ Pháp hiểu rơ và cho bài thi về Luật Công

B́nh Thiêng liêng :

 

THI :

Phải giữ chơn linh đặng trọn lành,

Ngọc Hư toàn ngự Đấng tinh anh.

Luật điều Cổ Phật không chừa tội,

H́nh phạt Chí Tôn chẳng vị t́nh.

Chánh trực kinh oai loài giả dối,

Công b́nh vừa sức kẻ chơn thành.

Mũi kim chẳng lọt xưa nay hẳn,

Biết sợ xin khuyên cẩn thận ḿnh.

LƯ GIÁO TÔNG

 

Trong bài Thuyết đạo của Ngài Tiếp Đạo Cao đức Trọng tại Đền Thánh vào thời Tư ngày 15-12-Đinh Hợi (1947), có một đoạn Ngài Cao Tiếp Đạo nói về cái khổ của Thất Nương v́ chữ Hiếu, trích ra như sau :

" Cái khổ đó chưa ai tránh được, dầu cho bực Thần Thánh có thân h́nh cũng phải vào cảnh khổ đó. Chính Thất Nương cũng v́ khổ đó, cho nên mới có để lời than, sau khi đă lănh lịnh xuống cơi Âm quang độ con cái của Chí Tôn đang bị giam hăm nơi đó, lựa chỗ cho đầu thai. Thật là một ân huệ vô cùng vô tận của Đức Chí Tôn để độ tận con cái của Người vậy.  Thất Nương là v́ Hiếu, khi hay tin cha mẹ mắc tội nơi Phong Đô, liền bỏ Cung Diêu Tŕ, xuống đó độ rỗi nên bị Thiên đ́nh bắt tội.

Đă hai kiếp sanh khổ v́ T́nh v́ Hiếu, nên sau khi Thất Nương được đặc ân của Ngọc Hư Cung xá tội, liền t́nh nguyện đến cơi Âm Quang độ rỗi các chơn hồn thất thệ, đặng trả nghĩa cho Thầy.

Trước khi đi, trong một kỳ đàn, Thất Nương có đến từ giă và để lời than với Đức Hộ Pháp và một vài Chức sắc Hiệp Thiên Đài.  Bài thơ ấy, tôi xin nhắc lại :

 

THI:

Hai kiếp đeo đai lắm nợ trần,

Cái thân v́ khổ bận cho thân.

Niềm duyên đổ ngọc lan pḥng nguyệt,

Nỗi hiếu rơi châu tưới mộ phần.

Giữ Đạo mong chờ ngày độc tịch,

Bán ḿnh quyết cứu độ song thân.

Nước non càng ngắm càng thêm chạnh,

Chạnh thảm khi mang mảnh xác trần.

THẤT NƯƠNG

 

Bần tăng tả cảnh khổ trên đây để các bạn nhập tâm ghi nhớ.

Thất Nương là một vị Nữ Phật thứ 7 trong hàng Cửu vị Nữ Phật mà c̣n không tránh khỏi khổ. Đó là bài học của tâm hồn trí năo, nếu tránh được khổ th́ trên con đường lập vị, chúng ta rất may duyên sẽ gặp đặng Đức Chí Tôn mà hằng ngày Người hằng trông ngóng."

Trong số Cửu vị Tiên Nương Diêu Tŕ Cung (hay Cửu vị Nữ Phật), chỉ có Bát Nương và Thất Nương là thường giáng cơ dạy Đạo và cho thi văn nhiều nhất, kế đó là Lục Nương. C̣n các vị khác th́ ít khi giáng cơ.

 

THẤT NƯƠNG giáng cơ dạy về PHƯỚC THIỆN :

Hộ Pháp Đường, ngày 3-2-Đinh Hợi (dl 23-2-1947).

 

THẤT NƯƠNG

Nhơn đạo rày đă suy vi,

Chay lạt dời đổi c̣n chi tu hành.

Mang câu thất hiếu đă đành,

Bao nhiêu công quả biển gành ră tan.

Làm cho thau nọ nên vàng,

Ch́ kia lộn bạc lại mang tiếng đời.

Càng ngày xa lánh Đạo Trời,

Đem thân vùi lấp vào nơi bụi trần.

Chơn linh lắm chịu mê tân,

Sanh tiền khó hưởng phước lành Trời ban.

Rồi đây giặc giă khắp tràn,

Khiến đường Đạo đức chịu đàng Thiên tai.

Cả kêu thức tỉnh hỡi ai !

Thành tâm hối ngộ Cao Đài cứu nguy.

Nếu mà dụ dự kiên tŕ,

Phải cam chịu lấy nạn nguy buổi nầy.

Phước Thiện Trời bày ra đây,

Đặng mà cứu khổ buổi nầy loạn ly.

Nhựt Đức lại với Tàu Tây,

Gây trường huyết chiến tới đây bây giờ.

B́nh Dương lập trận sờ sờ,

Cả chư vạn quốc dựng cờ chiến tranh.

Đánh nhau đổ nước nghiêng thành,

Lưu hồng một trận tan tành nhơn gian.

Thây phơi chật đất đầy đàng,

Cao Đài xuất hiện cứu an dân Trời.

             o0o

Chiêu an thế giới khắp nơi ḥa b́nh.

Người tu th́ được khương ninh,

Kẻ vô đạo đức chôn ḿnh vực sâu.

              o0o

Ăn chay chuộc tội khỏi hầu Phong Đô.

Phước Thiện cứu cấp đơn cô,

Phước Thiện lựa những tăng đồ Chí Tôn.

            o0o

Phước Thiện để rước chơn hồn nguyên nhân.

Phước Thiện chứa thuốc kim đơn,

Phước Thiện cứu thế khỏi cơn thảm sầu.

Phước Thiện độ cả hoàn cầu,

Phước Thiện có thể gồm thâu lợi quyền,

Phước Thiện của chung chẳng riêng,

Phước Thiện để rước bực hiền chơn tu.

Phước Thiện cải ác phá ngu,

Phước Thiện giải khổ tội tù Phong Đô.

Phước Thiện là vốn Phạm Môn,

Phước Thiện là cửa vĩnh tồn Phật Tiên.

Phước Thiện thống nhứt qui nguyên,

Phước Thiện là vốn chuồng chiên của Trời.

Phước Thiện bảo dưỡng khắp nơi,

Phước Thiện lập để cứu đời chúng sanh.

Phước Thiện là phước Trời dành,

Để cho nhơn loại lập ḿnh cửa tu,

Phước Thiện để rước ngoại bang,

Phước Thiện sản nghiệp bảo toàn thế gian.

Phước Thiện gầy dựng giang san,

Cả chư vạn quốc đồng sang phục tùng.

Phước Thiện bảo hộ người cùng,

Việt Nam làm chủ vẫy vùng tự do.

Phước Thiện nuôi nấng ấm no,

Phước Thiện vào đặng khỏi lo rách lành.

Phước Thiện hồn đặng cao thăng,

Về nơi Cực Lạc trường sanh đời đời.

Phước Thiện là chốn thảnh thơi,

Trở nên Thánh đức ra đời Tân Dân.

Phước Thiện nuôi nấng tinh thần,

Phước Thiện cứu kẻ lạc gần Bàng môn.

Phước Thiện báu quí Càn khôn,

Độ các Chi phái nhập môn hồi đầu.

Phước Thiện huyền diệu cao sâu,

Lập công chuộc tội mới hầu khỏi oan.

Phước Thiện cứu kẻ ngỗ ngang,

Độ Chi phái nghịch dễ dàng cảnh tu.

Phước Thiện giải tán nghịch thù,

Lấy câu ḥa thuận vận trù lập công.

Phước Thiện nay chuyển Đại đồng,

Phá tan giặc giă giao thông hoàn cầu.

Phước Thiện là phép nhiệm mầu,

Tóm thâu thiên hạ hồi đầu cửa tu.

THĂNG

                                                                                          

Cửu Nương Diêu Tŕ Cung

 [ Tiểu sử  Cô CAO THỊ KHIẾT  ]

Trong một kiếp giáng sanh xuống trần gần đây nhứt tại nước Việt Nam, Cửu Nương có tên là CAO THỊ KIẾT nhưng thường gọi là CAO THỊ KHIẾT. Cô sanh ngày 16 tháng giêng năm Bính Thân (1895) tại Thị Xă Bạc Liêu, con của Ông Đốc Phủ Cao Minh Thạnh và Bà Tào thị Phu Nhân.

Cửu Nương có người Anh ruột là Cao Triều Phát, đứng đầu Chi phái Minh Chơn Đạo ở Bạc Liêu.  Cô Cao thị Khiết được gia đ́nh hứa hôn gả cho Ông Nguyễn bá Tính, con thứ của Đốc Phủ Nguyễn bá Phước thời đó. Nhưng lúc chưa đám cưới th́ Cô Khiết thọ bệnh và mất.

Cô mất ngày 27 tháng 6 năm Canh Thân (dl 11-8-1920) hưởng dương được 25 tuổi. Mộ của Cô hiện nay vẫn c̣n, rất hùng vĩ và kiên cố, v́ làm toàn bằng đá xanh từ trên núi chở về, ở giữa đồng ruộng, cách Châu Thành Bạc Liêu chừng 2 cây số, đi về hướng Vĩnh Châu, trên phần đất dành riêng làm nghĩa trang cho ḍng họ Cao Triều ở Bạc Liêu.  Dân chúng quanh vùng gọi mộ của Cô là mộ Cô Tiên, hay mộ Cô Chín.

Ngày mùng 6-Giêng-Nhâm Th́n (dl 1-2-1952).

Pḥ loan : Luật sự Hưởng & Luật Sự Trường.

          

CỬU NƯƠNG DIÊU TR̀ CUNG

Chị chào mấy em. Chị Bát Nương đă chỉ các em khi nảy, các em c̣n nhớ không ?

Các em cố giữ vững Đức tin th́ các em sẽ nh́n thấy lời hứa của Chí Tôn ra thế nào. Có khó mới có công được chớ, nếu dễ dàng, ai làm chẳng được, mà làm được cũng là việc thường, có ǵ gọi rằng phi phàm.

Các em đă rơ biết cảnh khó dễ của quyền Đời trước kia mà hôm nay đến đó cũng là việc thường. Các em trông, mà tới th́ lại sợ, th́ trông để làm ǵ ?

Các em hăy vui lên để đón rước con Rồng Vàng (1) mới được. Mọi việc Chí Tôn đă sẵn định cho con cái của Người rồi, chỉ c̣n đợi coi các đứa con ấy có đủ khôn ngoan để thọ lănh phần thưởng đó mà thôi.Các em cố nối chí là đoạt được. Con đường đă vạch sẵn, chỉ c̣n tiến bước theo là xong việc.

Chị có mấy lời chỉ bảo cho các em. Vậy các em nên nhớ mà lo tṛn sứ mạng của các em.  Chị xin kiếu. THĂNG.

 (Trích trong Luật Tam Thể của Đức Cao Thượng Phẩm và Bát Nương)

(1) Con Rồng Vàng là ư nói : Năm Nhâm Th́n.

 

THI :

CỬU kiếp lo tu mới đặng thành,

NƯƠNG thuyền Bát Nhă hưởng Đài thanh.

Khuyên đời mau ráng ḅn âm chất,

Trễ bước đường Tiên chẳng trọn lành.

 (26-5-Tân Mùi 1931)

 

CỬU phẩm ṭa vàng mới bước sang,

NƯƠNG mây nay đến trước xem đàn.

Đôi lời cầu chúc mừng huynh tỷ,

Khá dắt d́u nhau bước rập ràng.

 (1-6-Tân Mùi 1931)

 

Huyền diệu nan tri lư diệu huyền,

Phong ba chưa dễ lắng đường duyên.

Đảnh Tần c̣n vướng lằn mây bạc,

Biển Bắc đang cơn thọ năo phiền.

Bởi chẳng hoàn lương, Đời mới diệt,

V́ chưa tỉnh giấc, Đạo qui nguyên.

Chớ đem chí cả mà phô diễn,

 

Đợi buổi quyền giao định sửa giềng.

CỬU NƯƠNG

 

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Ṭa Thánh Tây Ninh

THÁNH NGÔN

ĐỨC DIÊU TR̀ KIM MẪU

 [ Sưu tập Kim Hương ]

Kính chư Đồng Đạo,

Chúng tôi nhận thấy trong 2 quyển THÁNH NGÔN HIỆP TUYỂN I và II

của Hội Thánh xuất bản từ trước đến nay, không có bài Thánh Ngôn nào của

Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu (thường gọi là Đức Phật Mẫu). Do đó, trong quyển sách nói về Báo Ân Từ và Hội Yến Diêu Tŕ Cung nầy,

chúng tôi cố gắng sưu tập các bài Thánh Ngôn của Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu để cống hiến chư Đồng Đạo, nhứt là bên Nữ phái.

Việc sưu tập nầy chắc c̣n nhiều thiếu sót, ước mong các Bạn Đạo có những bài Thánh Ngôn của Đức Phật Mẫu khác với các bài trong tập sách nầy, xin cho chúng tôi sao lục đặng chép vào đây cho đầy đủ hơn.  Kính.

                  THÁNH NGÔN SƯU TẬP

     1 - Đàn cơ tại Thảo Xá Hiền Cung,

ngày 10-12-Kỷ Tỵ (dl 20-1-1929) Pḥ loan : Phạm Hộ Pháp - Cao Thượng Phẩm.

DIÊU TR̀ KIM MẪU

Thiếp chào chư Đạo hữu, chư Đạo muội, b́nh thân. Thiếp v́ cảm t́nh xưa mà phải chính ḿnh đến cùng Cửu Nương cho hiểu mọi điều.

Diêu Tŕ Cung đă thượng sớ cho Chí Tôn và Bảo Đạo Chơn Quân kiện nơi Ngọc Hư Cung. Thiếp c̣n nhớ khi đến d́u dắt chư Đạo hữu vào đường Đạo, phải mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, th́ Thiếp đă nói bởi v́ t́nh riêng của mấy Đấng Chơn Quân đến lo cứu độ chớ không phận sự chi trong lúc nầy, và cũng bởi lịnh Chí Tôn sai khiến, chắc rằng : Nếu không phải Thiếp mở Đạo th́ không phương thành Đạo đặng.  Khi Thiếp mở Đạo th́ độ ai ? Có phải là cả Chức sắc Hiệp Thiên Đài. Các Chơn Quân thiệt t́nh của Thiếp là ai chăng ?

Tái cầu :

Cười ... Ôi ! Cũng bởi nơi Thiếp mà chư Hiền hữu phải chịu hành hà phàm xác, khổ năo muôn phần. Chí Tôn có hứa khi ấy với Thiếp rằng : Thế nào cũng nâng đỡ chư Hiền hữu mà chẳng cho ai ỷ lộng quyền lấn hiếp, Thiếp mới đến Khai Đạo cho chúng sanh đặng phụ mẫu song toàn, nào dè v́ ḷng đại từ đại bi quá thương nhơn loại, đành để cho chư Hiền hữu chịu hành hà đến đổi.  Thiếp đă dâng sớ cầu xin Chí Tôn lượng xét, c̣n Bảo Đạo th́ kiện cùng Ngọc Hư Cung những kẻ vô đạo

của Cửu Trùng Đài.

Thiếp đă thấy chán chường khởi trị hành phạt. Lư Thái Bạch muốn lo ḥa đặng Đạo cho thành, nên đă nh́n nhận tội lỗi của nhiều người, nhưng v́ công dày nên không đành để Thiên điều định án, buộc giải nạp những kẻ ấy ra Ṭa Tam Giáo.  Thầy cũng nghĩ Thiếp nên ? và Lư Thái Bạch đành nhận quyền hành Hiệp Thiên Đài từ đây không ai chối nữa cho đặng.

THĂNG

 

THI :

Vú MẸ chưa ĺa đám trẻ con,

Độ sanh chưa rơ phận vuông tṛn.

Quyền cao Ngự Mă là vinh bấy,

Phận mỏng Hiệp Thiên biết giữ c̣n.

Lợt điểm Thánh Tâm trần tục khảo,

Vẻ tươi bợn thế nét ḍ đon.

Thà xưa ví bẵng nay ǵn vậy,

Ḷng MẸ ngại ngùng, con hỡi con!

DIÊU TR̀ KIM MẪU

 

2 - Đàn cơ tại Thảo Xá Hiền Cung,

ngày 28-1-Kỷ Tỵ (dl 9-3-1929).

Pḥ loan : Bảo Pháp Nguyễn trung Hậu -

Hiến Pháp Trương hữu Đức.

 

DIÊU TR̀ THÁNH MẪU

Hỷ chư Hiền đồ.

Từ ngày dùng Thánh chất nắn đúc Thánh thể của chư Hiền đồ, Tệ Thiếp những mong cho khỏi phụ ḷng Thượng Đế. Ngày nay, các Hiền đồ gặp hồi lập Đạo, phải nên biết cái chức trách của ḿnh đối đăi với nhơn sanh.

Hôm nay hội diện cũng không ai lạ mặt, chỉ có mấy người mà chư Hiền đồ độ dẫn chớ chẳng ai. Vậy th́ bề hội diện nhau cũng không chi là quan trọng. Nhưng phận sự của chư Hiền đồ là phải hết ḷng từ bi mà độ chúng, và phải giải cho rành cái chức vụ của mỗi đứa, sau nầy mới thấy sự vinh diệu của nền Đạo mà chư Hiền đồ đă hội ư nhau lập thành, chẳng v́ việc thường t́nh đê tiện mà bỏ qua những điều cao trọng.

Đức Chí Tôn đă đem kịp xâu chuỗi từ bi mà giao trong tay chư Hiền đồ. Vậy th́ phải nhứt niệm từ bi mà làm cho yên trong Đạo.  Tệ Thiếp mong thay !

THĂNG

 

3 - Đàn cơ tại Thảo Xá Hiền Cung,

ngày 30-10-Kỷ Tỵ (dl 30-11-1929).

Pḥ loan : Cao Thượng Sanh - Bảo văn Pháp Quân Cao quỳnh Diêu.

 

DIÊU TR̀ KIM MẪU

Thiếp chào chư Hiền đồ.

Thiếp lấy làm hân hạnh đặng hội hiệp cùng chư Hiền đồ Nữ phái. Thiếp xin để lời căn dặn rán lấy ḷng thành hiệp cùng Thiếp, sửa cơ đời cho khỏi phụ ḷng Chí Tôn sở định.  Ôi ! Biết bao phen Thiếp khẩn cầu khóc lóc giữa Ngọc Hư Cung xin lập thành Nữ phái. Chí Tôn buộc sửa cải Thiên thơ, chư Hiền đồ cũng nhớ lời Chí Tôn khi lập Pháp Chánh Truyền Nữ phái, Chí Tôn than rằng,

muốn bỏ đi cho đáng, nhưng ḷng Từ Phụ cũng chẳng đành. Thiếp cậy Quan Âm thay quyền Chưởng quản, nào dè lời từ bi không phương kềm thúc tánh phàm của chư Hiền đồ.  Thiếp chẳng phiền là v́ chán hiểu tâm t́nh mọi bề yếu ớt và chỉ trông mong ngày dài chế cải, nào dè đă 4 năm chầy, phàm tâm chư Hiền đồ vẫn y như trước, làm cho Quan Âm buồn ḷng cáo thối.

Ôi ! Một Đấng Trọn lành ấy c̣n cam tâm bỏ lẫy, Thiếp mới cậy mượn tay ai ? Thà Thiếp đến chính ḿnh dạy dỗ lấy con, dầu rủi may, cho đành dạ. Thiếp dặn Cửu Nương và Thanh Tâm Tài Nữ thay phiên nhau đem trí thức tinh thần thiêng liêng mà chế vào ḷng các con, họa may giảm đặng lần lần tục tánh. Thiếp cần dạy dỗ th́ Thiếp chỉ cầu chư Hiền đồ cũng rán nghe Thiếp, tùy ḷng chẳng ép nài ai làm quá trí, mượn ng̣i cơ bút đề áng văn chương, tỏ tấm t́nh thương, chư Hiền đồ để dạ. Từ đây, Thiếp dùng hiệu Qui Thiện mà cho pháp hiệu Trường đạo Diêu Tŕ.

Thiếp lại dặn hăy lựa chọn kẻ nào đặng từ bi, bác ái, đạo đức, khiêm cung, mới đặng nhập. Hương Hiếu, con khá nhớ nghe!  Thiếp xin từ giă và cảm tạ chư Hiền đồ Nam phái.  Hiền đồ rán lập công quả thêm cao có ngày vào chánh vị nghe.

THĂNG

 

THI :

Eo hẹp chưa từng lập cánh loan,

Muộn trông hồ hải khắp ba ngàn.

Lửa hương đă toại duyên trong trướng,

Hàng mắc mỏ chi gánh giữa đàng.

Biết phận ba giềng giồi bá hạnh,

Nhớ ơn chín chữ giữ tam cang.

Một dày một mỏng khuyên đừng lựa,

Biết phận dầu nghèo cũng đặng an.

DIÊU TR̀ KIM MẪU

 

4 - Đàn cơ tại Thảo Xá H. Cung,

ngày 15-11-Tân Mùi (dl 23-12-1931)

Pḥ loan : Phạm Hộ Pháp - Bảo Văn Pháp Quân .

 

DIÊU TR̀ KIM MẪU

Thiếp chào chư Hiền đồ Nam Nữ.

Có Từ Bi giá ngự, Thiếp nhượng cho Người, mà Người nhượng lại cho Thiếp giáng trước giáo hóa đôi điều. Thiếp phải tuân mạng.  Chư Hiền đồ b́nh thân.

 

THI :

Từ Hỗn độn Chí Tôn hạ chỉ,

Cho Thiếp quyền quản Khí Hư Vô,

Lấy Âm quang tạo phách tăng đồ,

Muôn vật cả lo cho sanh hóa.

Nuôi nấng lấy xác thân ḥa hỏa,

Thuận Âm Dương căn quả hữu vi,

Chưa ai vào đến cơi trần nầy,

Chẳng thọ lấy Chơn Thần tay Thiếp.

Sanh dưỡng đă biết bao căn kiếp,

Rồi dắt d́u cho hiệp với CHA.

Ḱa mớm cơm vú sữa cũng là,

Sanh một kiếp người ta đáng mấy !

Dầu hài cốt trăm năm cũng vậy,

Khối t́nh thương chẳng lấy chi nhiều.

Huống tạo Thiên đùm bọc chắt chiu,

Sanh một đứa liều ngàn thế kỷ.

Chịu mất trẻ cũng v́ Tà mị,

Cướp con thương bỏ vị quên ngôi,

Ôi ! Thương nhiều phen phải chịu ngậm ngùi,

Thấy thân trẻ nổi trôi biển khổ.

Trân trọng lấy h́nh hài dơ ố,

C̣n thiêng liêng vô số tiếc thương,

Hằng trông mong con đặng phi thường,

Đem vào đặng con đường Hằng Sống.

Kể từ trước Thiếp là h́nh bóng,

Biết thương con chẳng mộng con thương,

Đạo d́u Đời bởi Thiếp lo lường,

Trên mới thuận khoáng trương phổ tế.

Kể từ trước Đạo c̣n bị bế,

MẸ thương con chẳng thế dắt d́u,

Nay cơi trần nghiệt chướng giảm tiêu,

Ngọc Hư định đă nhiều phép cứu.

Thiếp từ đặng Phái Vàng chí bửu,

Lịnh Chí Tôn khai mối Tam Kỳ,

Hằng ngày lo cho đám Nữ nhi,

Chẳng đủ trí sánh b́ Nam tử.

Ơn nhờ có con là Long Nữ,

Đến thay thân Thiên sứ Từ Hàng,

Đùm bọc em, con rán bước một đàng,

Đặng cho MẸ dễ dàng cứu rỗi.

Ḱa Cực Lạc Niết Bàn đem đổi,

Lấy thân phàm làm mối giải oan,

MẸ trông con về cảnh an nhàn,

Ở trần thế muôn ngàn sầu thảm.

Cơi Thiên vị cho con c̣n dám,

Huống dạy khuyên mô phạm căn tu,

Chỉnh tiếc con chẳng rơ hiền ngu,

Đặng tự định công phu trọn phận.

Con th́ đứa đường đời lẩn bẩn,

Con th́ hay vay trở cơ mầu,

Mối huyền vi nào rơ cao sâu,

Cứ đeo đẳng mạch sầu nguồn thảm.

Con ví biết ḿnh cao bực phẩm,

Th́ phải toan cho dám phế đời,

Các em con chỉ để con ngươi,

Coi con bước mấy dời nối gót.

Lời cần yếu MẸ than cho trót,

Muốn dạy em, con khá xót xa chừng,

Phải hằng ngày ở dựa bên lưng,

Nhắc từ chuyện, khuyên răn từ việc.

Cửu Nương vốn nhọc nhằn chẳng tiếc,

Chỉ trách con chưa biết nhập trường,

Phải hiểu rằng ḷng MẸ hằng thương...

 

THĂNG

 

5 - Đêm mùng 1- Giêng- Bính Tư (1938).

 

DIÊU TR̀ KIM MẪU

THI :

Từ Mẫu xem qua bắt động ḷng,

T́nh thương vô tận, đứng, ngồi, trông.

Sớm chiều tựa cửa chờ tin nhạn,

Ngày tháng nương hiên đợi bóng hồng.

Lắm lúc ngậm ngùi bầy trẻ dại,

Đ̣i phen nhắc nhở đám con Rồng.

MẸ già thổn thức nào an dạ,

Đổ lụy v́ đâu vắng ẵm bồng.

 

Ẵm bồng nhớ bầy con vắng dạng,

Ngồi, đứng, trông tin nhạn mỏi ṃn.

Sớm chiều tựa cửa trông con,

Chẳng hay con trẻ vuông tṛn phận chưa?

Buồn than thở khi trưa lúc tối,

Quặn chín chiều ruột rối ṿ tơ.

Công danh ḷng trẻ đợi chờ,

E khi mến tục hững hờ nhà Huyên.

Nay Chí Tôn rộng quyền ân xá,

Chắc phen nầy MẸ đă gặp con.

Bỏ hồi cách trở nước non.

Bao nhiêu miếng ngọt miếng ngon để dành.

 

6 - Đức Phật Mẫu giáng cơ năm Đinh Sửu (1937).

DIÊU TR̀ KIM MẪU

MẸ mừng các con Ái Nữ.

Lành thay ! Lành thay ! Ngày nay MẸ rất hân hạnh vui mừng thấy các con níu nhau hồi về với MẸ, chạnh nhớ nỗi niềm từ lúc nọ, nung ḷ bảo sanh, đùm bọc các con cho đến nay đă 6 triệu niên dư, có lúc MẸ chi xiết nỗi mừng, MẸ tưởng nhớ rằng các con thân mến đă dắt nhau hồi về với MẸ.

Nào hay đâu MẸ mắc mưu với đàn con. MẸ hồi tưởng khi các con vắng MẸ trửng giỡn trước ao sen, gió thổi lắc lơ cành sen nghiêng qua lắc lại. Ôi ! Đau thảm cho già chống gậy ngóng trông, mà các con đành ĺa MẸ, xa khơi nơi ṿng trần thế tục mà quên cả cội căn.  Nay nhờ Đại Đạo hoằng khai ân xá, nên chi MẸ mới tầm đặng các con. Vậy các con hăy hiểu rằng:

Trong kiếp chót cuối cùng nầy mà lo tu niệm, bồi công lập đức, hầu có trở về với MẸ. MẸ ban ơn cho các con. Ṭa sen ngôi báu rực rỡ chói ngời, hạnh hưởng tiêu diêu, đời đời khoái lạc. Chớ các con ở chi trần thế mà bụi tục vấn vương cho tấm thân đày đọa.  Vậy MẸ cho các con phép cơ tạo Thiên.

MẸ dạy :

 

THI BÀI :

Nơi Diêu Điện, lưỡng ban chầu chực,

Nhớ đến con bứt rứt ḷng già.

Gậy nâng chẳng quản đường xa,

Gậy châm mây bạc đưa già đến đây.

Nơi đàn nội xum vầy đông đủ,

Nh́n các con ủ rủ tấm ḷng.

Thương con khổ năo chập chồng,

Đau ḷng MẸ xuống quyết bồng con lên.

Con ôi ! Khá tâm bền sức gắng,

Những lời vàng MẸ dặn ngày xưa.

Khiêm cung, nhẫn nại, lọc lừa,

Giúp đời nào nại sớm trưa tháng ngày.

Cơi trần tục trưng bày đủ cách,

Nhủ các con vào vách tứ tường.

Thảm cho con dại lầm đường,

Nay Thầy mở Đạo, buồm trương rước về.

Đem con trẻ trở về Tiên cảnh,

Chọn linh căn tánh hạnh thuần lương.

Long Hoa sắp soạn khai trường,

Thi tài chọn đức, con bươn kịp giờ.

Nh́n kỹ lại con thơ MẸ thảm,

Ruột chín chiều đ̣i đoạn thắt đau.

Thấy con ḷng Mẹ xót xao,

Con ơi Con hỡi ! Con nào thấu chăng ?

Nhắc đến đây khó dằn giọt lệ,

Thương con khờ chẳng kể thân già.

Nước non chớn chở bao la,

Quyết t́m một gậy mệt già viếng con.

Đối với trẻ cho tṛn phận MẸ,

Mượn vần thơ thỏ thẻ đêm khuya.

MẸ khuyên em chị chớ ĺa,

Học gương Diệâu Thiện danh bia lưu truyền.

MẸ dành để Đào Tiên cho trẻ,

Rượu bồ đào tay lẹ con nâng.

Mây vàng sẵn chực bên chân,

Đưa đường Tiên cảnh, Chín từng hồi nguyên.

 

MẸ từ giă.

Từ giă các con ở lại trần,

MẸ về Tiên cảnh dạ bâng khuâng.

Khuyên con gắng chí lo tu niệm,

Dứt điễn MẸ mau tách dặm lần.

THĂNG

 

THI :

Lần lừa mùi thế bước càng gay,

Biển khổ trăm năm nhọc xác đày.

Kẻ trí cắn răng theo lũ dạy,

Người ngoan nhắm mắt níu phường say.

Hư tràng nao nức nhiều lui tới,

 

Cơi tục mơ màng lớp đổi thay.

Sẵn gió buồm giương thuyền đợi khách,

Trễ chơn đợi đến ắt thâu ngày.

DIÊU TR̀ KIM MẪU

 

7 - Rằm tháng 8 năm Nhâm Ngọ (dl 2-9-1942).

Pḥ loan : Khai Đạo Phạm tấn Đăi -

Hiến Đạo Phạm văn Tươi.

 

DIÊU TR̀ KIM MẪU

Mừng các con Nam Nữ.

MẸ vui được thấy các con biết lo cho chúng sanh tức là lo cho ḿnh vậy.

Ḿnh tu cho chúng sanh, ḿnh lập vị cho chúng sanh, tức là ḿnh lập vị cho ḿnh. Phải hiểu cho rơ, nếu chúng sanh chưa ai đắc đạo th́ ta phải cầu nguyện cho người đắc đạo trước ta.

Nếu ḿnh cứ mong cho cao phẩm giá, tức là trái với Thiên ư, ḿnh phải hằng ngày trau giồi tánh đức, lo chung cho thiên hạ, ấy là phương pháp tu tắt đó.

Thường ngày công phu mà ḿnh chất chứa tánh tự kiêu th́ cũng không mong đắc Chánh quả được, bất quá đắc một vị Địa Tiên đó thôi.  Vậy muốn cho hoàn toàn th́ rán tập cho biết trừ các điều xấu xa, tập thường ngày tầm Chơn lư, kiếm hiểu huyền vi, răn ḿnh hằng bữa, đó là đường chánh sáng láng cứ lo bước tới.  Đạo chia ra 3 Chi : Thế, Pháp, Đạo. Ḿnh tu cho đúng theo Luật, hành theo Pháp, th́ chúng sanh nơi thế ca tụng công đức ḿnh, trọng kính ḿnh, ấy là ḿnh đắc Thế.  Hễ đắc Thế th́ phải tầm Pháp đặng cứu chữa, dạy bảo theo Pháp. Nếu ḿnh hành Pháp hiển linh , chúng sanh ứng mộ th́ ḿnh đắc Pháp. Nếu đắc Pháp th́ phải tầm Đạo. Đạo là vô vi, muốn tầm không phải dễ, mà dễ khó là do nơi ḿnh. Nếu đi được 2 khoản th́ khoản sau nầy phải rán, nếu đắc đạo th́ nhập cơi Niết Bàn.  MẸ ban ơn cho các con Nam Nữ.

o0o

Nhứt khí tạo đoan cả Địa cầu,

Nương theo Mẹ cả giảng vài câu.

Kính dâng Tam bửu hằng năm vẹn,

Tặng lễ mừng thầm đắc chẳng lâu.

o0o

Nhị châu Chơn vơ nhớ cùng không,

Nương cơi Thiên cung gởi bóng hồng.

Kính tặng vài câu mừng bạn cũ,

Tặng người hiếu hạnh chịu pḥng không.

 

Tam Kỳ khai mở Đạo lần ba,

Nương náu ít lâu rơ báu ḥa.

Kính lượng bề trên ban đức tánh,

Tặng người tài trí hứng Đài Cao.

o0o

Tứ đức vẹn toàn mới xứng danh,

Nương hơi nhang khói chỉ điềm lành.

Kính mừng quí vị ân cần tịnh,

Tặng khách nâu sồng diệt quới khanh.

o0o

Ngũ hành vận chuyển đoạt Huyền Thiên,

Nương níu đôi năm khỏe tự nhiên.

Kính có công tu nay gặp hội,

Tặng ḿnh hữu hạnh phục qui nguyên.

o0o

Lục lạc khua rân cả ngũ châu,

Nương chi vật chất phải âu sầu.

Kính xin tỉnh giấc lo tu sớm,

Tặng quyết cầu ân cổi ách sầu.

o0o

Thất thế náu nương chớ tưởng lâu,

Nương cùng quí vị chỉ đường cầu.

Kính đem đến tận bờ dương liễu,

Tặng nghĩa đài sơn kẻ chực chầu.

o0o

Bát vu hành khất bữa mơi chiều,

Nương tưởng ḿnh to giống kẻ thiêu.

Kính đến Tây phương tầm Xá lợi,

Tặng t́nh đồng đạo phải đồng yêu.

o0o

Cửu Thiên mở cửa rước người hiền,

Nương chí dắt d́u khách hữu duyên.

Kính lập công to qui cựu vị,

Tặng tiền phát khởi lập căn nguyên.

o0o

Thu cúc hứng sương khách kiếm mùi,

Chín Cô cùng MẸ đến chung vui.

Thương nhau tầm kiếm chừng nào gặp,

Công đức vẹn toàn sẽ hiệp ngôi.

THĂNG

 

8 -Đàn cơ tại Thảo Xá Hiền Cung,

đêm 6-5-Ất Dậu (dl 15-6-1945).

Pḥ loan : Cao Thượng Sanh - Bảo Văn Pháp Quân.

 

DIÊU TR̀ NƯƠNG NƯƠNG

Mừng chư Chức sắc Hiệp Thiên, Chức sắc Nữ phái.

Thiếp được hân hoan trông thấy nền Chánh giáo được dựng lại và d́u dắt cả con cái hiệp làm một để tạo lại đời tàn buổi sau nầy.

Nhờ Chí Tôn trợ giúp thêm vào sức hiệp chơn thành của các bậc anh tuấn của Đạo, nên non sông Đất Việt ngày nay mới được mở mang trên màu cờ độc lập. Đó là kết quả xứng đáng của sự lập Đạo của Đức Chí Tôn.

Thiếp ước mong cho Hiệp Thiên Đài để hết công tâm mà lo lắng chủ nghĩa chung là lập nền tảng chắc chắn để độ sanh linh đi đến con đường giải thoát. Đó là dâng cho Chí Tôn một lễ trọng hậu, và gặp dịp may để lập ngôi vị cho ḿnh. Nên lưu tâm.

Các con Nữ phái gắng công độ rỗi và làm cho Nữ phái được đạo đức dồi dào, đông đủ mới hiệp Thiên thơ. Bước đường trước, nếu chẳng đặng hay, th́ con đường sau nên dè dặt và thận trọng lấy trách nhiệm, đặng đi đến kết quả tốt đẹp. Thiếp trông mong nơi đó. Thiếp ban ơn chung. Nhượng cơ cho Cao Thượng Phẩm.

THĂNG

 

9 - Đàn cơ tại Ṭa Thánh,

ngày 15-8-Bính Tuất, Tư thời (dl 10-9-1946).

Pḥ loan : Phạm Hộ Pháp - Bảo Văn Pháp Quân.

Hầu bút : Sĩ Tải Phạm văn Ngọ.

 

DIÊU TR̀ KIM MẪU

Thiếp chào chư Thiên mạng Nam Nữ.

Thiếp xin tỏ đôi lời cùng Ngự Mă Thiên Quân Hộ Pháp. Từ ngày Thiếp đến chung cùng chư Thiên mạng đến nay th́ tính đă 20 năm có lẻ, chỉ lấy t́nh thân ái thiêng liêng mà xưng hô cùng nhau là v́ Thiên Thơ tiền định. Thiếp đến d́u đường cho con cái Chí Tôn đến ngày thành Đạo. Ngày nay đă đúng kỳ sở định, Thiếp mới đặng quyền nh́n nhận con cái của Thiếp.

Vậy từ đây, Thiếp chỉ dụng lời chí thiết yêu đương, là MẸ con tương hội. Vậy Thiên mạng đừng phiền Thiếp nghe !

Hộ Pháp xem bài văn Thiếp mà nghĩ đến t́nh trạng của Diêu Tŕ đau thảm đến dường bao, con ! Khi con mông trần buổi nọ.

Cửu Nương nối điệu toàn văn động đ́nh.  Các con Nữ phái b́nh thân.

 

VĂN :

Nhẫng ngồi giữ Huỳnh Hoa Ngự Uyển,

Mà quên nghe đặng tiếng vĩnh sanh.

Đoạn đường lều cỏ cḥi tranh,

Tay nương cây gậy một ḿnh trông vơi.

- Nhứt Nương DTC

 

Tiếp văn :

Trông động cũ màu trời biến sắc,

Trông cung nga thiếu bậc từ quân.

Trông xa đảnh Thánh non Thần,

Trông đền Ngọc Khuyết vắng phần Thiên lương.

- Nhị Nương DTC

 

Tiếp văn :

Nay đầm ấm con đường hạnh phúc,

Cơi phong trần gội chút hồng ân.

Tiêu diêu phai lợt mùi trần,

Tỉnh say với giọt nước ngần tẩy mê.

- Tam Nương DTC  .

Tiếp văn :

Tưởng trọn phận tô xuê đảnh Việt,

Nương thuyền từ cứu tuyệt trần ai.

Đường quê nào thấy Thiên thai,

Công tŕnh lập đặng Vân đài chí công.

- Tứ Nương DTC

 

Tiếp văn :

Mở rộng cửa đại đồng vạn chủng,

Khai nẻo sanh cứu sống nhơn gian.

Trị tâm mở mắt song quang,

Khai đường Cực Lạc, mở đàng Lôi Âm.

- Ngũ Nương DTC

 

Tiếp văn :

Đưa gương rạng Quan Âm dẫn thế,

Diệt mê hồn tồi tệ kiếp căn.

Cam lồ rửa sạch phong trần,

Gương xưa để bước đi lần cảnh thăng.

- Lục Nương DTC

 

Tiếp văn :

Nào dè phép Quỉ toan cải chánh,

Mượn quyền Yêu so sánh Chí Linh.

Đem thân lữ thứ làm binh,

Cầm gươm huệ chặt tan tành cung thương.

- Thất Nương DTC

 

Tiếp văn :

Hỡi nào kẻ lo lường nghiệp Đạo,

Hỡi những trang nóng máu anh phong.

Ngôi Thiên để dựa bóng hồng,

Phục hưng gầy nghiệp con Rồng cháu Tiên.

- Bát Nương DTC

 

Tiếp văn :

Gầy sự nghiệp tổ tiên ngày trước,

Dựng miếu đường hưởng phước tự do.

Mảng trông bến cũ đưa đ̣,

Chơn quân Lương tể gây tṛ vinh phong.

- Cửu Nương DTC

 

Xin nhượng bút cho Bát Nương.

            o0o

Đào nguyên lại trổ trái hai lần,

Ai ngỡ Việt Thường đă thấy lân.

Cung Đẩu vít xa gươm Xích quỉ,

Thiềm cung mở rọâng cửa Hà ngân.

Xuân Thu định vững ngôi Lương tể,

Phất Chủ quét tan lũ nịnh thần.

Thổi khí vĩnh sanh lau xă tắc,

Mở đường quốc thể định phong vân.

- Bát Nương

 

10 - Đàn cơ tại Ṭa Thánh,

ngày 9-Giêng-Đinh Hợi Tư thời (dl 30-1-1947).   (Sau khi Đức Chí Tôn giáng cơ, tái cầu th́ có Đức Phật Mẫu giáng).

 

DIÊU TR̀ KIM MẪU VÔ CỰC THIÊN TÔN

Mừng các con. B́nh thân.

Các con chưa rơ cái mùi phú quí cao sang nơi thế nầy là cái bẫy để gài những bậc Thần, Thánh, Tiên,

Phật, phải sa đọa không mong đắc quả. Bởi cớ ấy mà đứa nào đặng hưởng lộc cao quyền cả th́ MẸ lại lo cho đứa ấy sẽ quên cội bỏ nguồn, đành thả trôi chơi vơi nơi bể thảm. Trong đám nầy chỉ có một số ít đứa biết hối ngộ tu tâm, chun vào cửa Phật, cũng lắm đứa miệng niệm Nam mô mà ḷng lại cay nghiệt đè ép kẻ yếu thế cô, đương thâu của bá gia về tấn cúng, ḷng ham tưởng chúng khen ngợi mà không kiếm hiểu câu tội phước công b́nh kia.

Trời Phật, Thánh Thần chẳng đ̣i, không biểu lễ cúng chi cả. Các con v́ ḷng tín ngưỡng, chẳng biết điều chi, tạm dùng lễ để cung kính, rốt lại để khoe ḿnh và để ch́u theo thói phàm tục.

Các con hiểu Đạo, MẸ chẳng nói nhiều, các con khá suy nghĩ.  Chư Tiên, chư Phật cùng các Đấng Thiêng liêng chỉ dùng Tâm trong sạch, tín ngưỡng kỉnh thành, ấy là một vật báu để hiến lễ đó.

Trên Thế, cũng chẳng khác chi trên sân khấu, sắp cho đủ lớp, nào là trung nịnh, hiền dữ, chen lấn múa men, la gầm, than thở, rốt cuộc bôi mặt th́ đứa nào cũng ra đứa nấy. Dầu các con đặng địa vị cao sang thế nào cũng chẳng nên tự kiêu tự đắc, húng hiếp những đứa thấp hèn.  Các con rán ẩn nhẫn, hằng ngày bền chí trau tâm. Chỗ Hằng sống là nơi căn cội của các con.  Vậy các con cũng chẳng nên quyến luyến thế đời mà quên cựu vị nghe !

MẸ mừng đặng thấy các con hội hiệp với nhau. Vậy các con hăy nắm tay nhau cho chặt chẽ, đi cho vững.  MẸ ban ơn cho cả Nam Nữ. MẸ thăng.

 

THI :

Lượng sóng đời kia khó định chừng,

Vườn Xuân khô lá khó trông Xuân.

Hiên mai gió tạt nghiêng rèm hạnh,

Giậu tối trăng soi đổ bợn trần.

Tiếng hạc kêu vui xa thẳm thẳm,

Hơi quyên chào thảm lóng gần gần.

Chờ xem thế cuộc tùy duyên phận,

Đừng tính đeo mang gánh nợ trần.

o0o

Diêu Tŕ Kim Mẫu

11 - Đàn cơ tại Báo Ân Từ,

ngày 2-2-Đinh Hợi, lúc 1 giờ khuya, (dl 22-2-1947).

Pḥ loan : Phạm Hộ Pháp - Khai Pháp Trần duy Nghĩa

Hầu đàn : Bảo Thế, Khai Đạo, Phối Sư Hương Nhiều, Chức sắc Phước Thiện, Chức sắc Pháp Chánh.

 

DIÊU TR̀ KIM MẪU

Mụ chào các con. Mừng.

Mụ lấy làm thậm cảm t́nh, mặn nồng, hiếu hạnh của các con, nhứt là Hộ Pháp, đă lập nên Đền Thờ trọng hậu.. Cả Diêu Tŕ Cung đều để lời cảm ơn.

Nữ phái các con,  Kể từ đây, đă có nơi MẸ con hội hiệp. Khá nên để trí tưởng rằng, chẳng buổi nào MẸ không ở gần các con, chung chia đau thảm, chỉ xin các con có một điều trọng yếu là các con phải tập tánh ḥa nhă, yêu ái lẫn nhau mà chia buồn sớt thảm cùng nhau, ấy là lễ hiến cho MẸ quí hóa hơn hết.  Nếu biết thương yêu th́ chẳng có chi hơn là dạy dỗ trẻ thơ đặng khôn ngoan đạo đức.

 

THI :

Đầy ḷng yêu ái đám quần linh,

Nghĩa cử chỉ trông một tấc thành.

Lựa chọn những ǵ riêng kiếp trái,

Đớn đau chỉ nặng mối thâm t́nh.

 

Nếu Mụ c̣n điều ước vọng th́ chỉ trông Ngự Mă Thiên Quân giúp Mụ thường thường cơ bút đặng dạy dỗ Nữ phái .

Hộ Pháp, theo ư Mụ th́ chẳng nên làm lễ Mụ trong thời Tư, e cho thất lễ với Từ Bi. Vậy nên sửa lại trong giờ Ngọ Sóc Vọng cho có thế con cái của Từ Bi dâng lễ cho Người.

THĂNG

 

THI :

Chờ về vắng bặt tiếng thu qua,

Tiếng nhạn kêu sầu tiếng thiết tha.

Vườn trước ngơ trông cây liễu rủ,

Non xưa chạnh nhớ bóng trăng tà.

Thi đề thảm, lóng hơi oanh thán,

Cầm trổi buồn, nghe tiếng dế ḥa.

Dặm thẳng lương nhân xin khá gắng,

Đường dài nghĩa nọ dễ đâu xa.

DIÊU TR̀ KIM MẪU

 

11 - Đàn cơ tại Báo Ân Từ,

ngày 15-8-Đinh Hợi (dl 29-9-1947).

Pḥ loan : Cao Thượng Sanh - Bảo Văn Pháp Quân.

 

DIÊU TR̀ NƯƠNG NƯƠNG

Mừng mấy con Hiệp Thiên, Cửu Trùng.

Mấy con ! MẸ lấy làm đau đớn thấy nhơn sanh trong cửa Đạo, đă v́ Đạo v́ nhà chịu bao điều thảm khốc, bao nhiêu người đă bỏ mạng vùi xương, bao nhiêu điều c̣n ấp ôm thống khổ.

Cơ mầu nhiệm vẫn công b́nh, máy Thiêng liêng đâu tư vị. Cái họa diệt chủng nầy nếu chẳng phải nơi các con Hiệp Thiên cứu chữa th́ có trông nơi ai ?

Có hợp sức đồng t́nh mới dẹt xa được cám dỗ của bên ngoài mà đem cho nhau điều trong sạch, đạo đức, chớ có một hai đứa có đủ ǵ đởm đương trong buổi loạn lạc, là lúc Tà quyền lẫy lừng xâm phạm.

Trong cửa Đạo, từ đứa tín đồ nhỏ nhoi cho đến hạng Chức sắc Cửu Trùng khiêm tốn đều chịu dưới quyền áp bức khổ tâm, kẻ rách rưới cơ hàn, đứa cơm không no bữa, cho tới lớp Chiến sĩ cầm quân, biết bao nhiêu là khổ tâm, mà tiếng rên siết đau thương mấy ai ngó ngàn đến.

Ngoài ra c̣n thiếu giáo hóa dạy khuyên, có kẻ ngang dọc lỗi lầm, đó là chẳng phải nơi nó, mà tại nơi thiếu dạy vậy.

Đạo cứu đời là nơi lúc nầy. Nếu c̣n để tṛ cười và tạo quả nặng, nhân sâu, th́ non nước trông ǵ thoát khổ.  Cái trách nhiệm ấy, mấy con Hiệp Thiên Đài sẽ phải trả lời với Thiêng liêng nghe !  Đời hay Đạo cũng vậy, muốn lập nền tảng cho sự thái b́nh, phải cần lập Tâm cho chơn chánh, đỉnh đạt,

để gieo sự ḥa nhă yêu đương, rồi mới mong tề gia, trị quốc.  Bạo tàn áp bức, oai vơ chế kềm, chẳng qua là tạo cảnh khổ về sau, không thể trường tồn.

Vậy cần trau chữ Tâm cho lắm. Cái thất bại của Đạo và Đời vừa qua là nơi kẻ cầm quyền không trọn Tâm đức và nếu được ḥa hiệp thành một khối chặt chẽ, rồi th́ các con mới d́u dắt nhơn sanh khỏi lo lầm lạc.

MẸ khuyên các con, dầu Hiệp Thiên hay Cửu Trùng, nên gắng sức lập Tâm, đặng để công vào Đạo. Trong lúc nầy, nhơn sanh thiếu người giáo hóa, cửa Đạo thành ra bến chợ Đời. Hỗn loạn quanh co, mưu Thần chước quỉ, trông vào há chẳng hổ chung cho nhau ? Nếu ḿnh tự toại mà chẳng để công , dầu MẸ có thương cũng không tư vị sau nầy.

Văn Pháp, Tiếp Đạo, hai đứa lưu tâm. Nỗi khổ bức của hai con, ai hiểu hơn MẸ ? Nhưng phải thoát cái thường t́nh mới là bậc Thánh.

Thượng Sanh, Hiến Pháp, phải sắp đặt cho xong mà lo phận sự, không nên chần chờ, cái khổ của Đạo và Đời đă lắm, nên lưu tâm.

Từ Huệ, MẸ sẽ giúp sức cho con, gắng trở về hợp sức với mấy anh em mà giúp Đạo. Ṭa Thánh xơ rơ, nhơn sanh thống khổ, há tiếc công sao ?

MẸ để lời dưới đây cho các con dùng làm chuẩn thằng trong bước Đạo :

o0o

Gắng sức trau giồi một chữ Tâm,

Đạo đời muôn việc khỏi sai lầm.

Tâm thành ắt đoạt đường tu vững,

Tâm chánh mới mong mối Đạo cầm.

o0o

Tâm ái nhơn sanh an bốn biển,

Tâm ḥa Thiên hạ trị muôn năm.

Đường Tâm cửa Thánh dầu chưa vẹn,

Có buổi hoài công bước Đạo tầm.

 

Hăy suy nghĩ và thật hành bao nhiêu đó, các con sẽ đắc đạo tại thế vậy.

MẸ ban ơn cho các con.

THĂNG

 

THI :

Trước có căn duyên ở Ngọc Cung,

Cầu con nên phải đến phân cùng.

Thiên cơ mạt lộ chờ đôi lúc,

Nương cậy về sau khỏi năo nồng.

Bà Thiên Hậu

 

13 - Đàn cơ tại Báo Ân Từ,

đêm 15-8-Kỷ Sửu (dl 6-10-1949).

Pḥ loan : Phạm Hộ Pháp - Cao Tiếp Đạo.

 

DIÊU TR̀ KIM MẪU

Chào các con Nam Nữ.

Mụ lấy làm thậm cảm thành tâm của các con đoái tưởng đến Mụ. Mỗi phen gần gũi là mỗi phen làm cho Mụ phải nhớ đến oan nghiệt kiếp sanh của mỗi đứa. Thế thời vẫn đương cơn náo loạn, Mụ hoài tưởng đến công quả của chủng tộc các con th́ buộc phải nh́n rằng mặt công b́nh thiêng liêng không sai sót. Thử xem lại trong khoảng 200 năm trước, th́ tấn tuồng đời của mấy con vẫn y hệt như ngày nay không khác : Vay vay trả trả, chẳng mất mảy nào. Tây Sơn cũng Nguyễn, mà Nguyễn cũng Tây Sơn. Khi Chí Tôn giáng cơ dạy Đạo th́ Người đă t́m phương giải kiếp, buộc các con hành Đạo phế đời. Thử hỏi các con có tùng pháp y lời Minh Thệ của các con chăng ? Lấy thanh tâm đoán xét th́ phép Ngũ Lôi đă đúng Thiên điều. Mụ lấy làm xốn xang áo năo khi rước mấy đứa qui hồi với tràn trề giọt lụy, v́ chúng đă tạo nghiệt chớ không đoạt quả chút nào hết. Cái đau thảm ly t́nh của các con nó làm cho nao nư ḷng Mụ.  Các con Nữ phái, Nếu Mụ than rằng, cái họa tương tàn chủng tộc của các con là do bởi lỗi tu của các con là sự thật. Đại Từ Phụ của các con yêu ái các con bao nhiêu th́ v́ cái khổ của các con mà đổ lụy bấy nhiêu.  Các con là nguồn sống của đời mà các con lại tạo ra cái chết th́ lẽ dĩ nhiên các con phải thất đạo. Các con lỗi cùng Đại Từ Phụ của các con, chớ Người chưa hề lỗi hẹn. Điều ấy Mụ làm chứng chắc. Cứu văn t́nh thế nước nhà nguy hiểm của các con là do nơi tay của các con. Xin nhớ mà cố gắng chuộc tội.  Mụ ban ơn lành cho toàn thể các con Nam Nữ.

THĂNG

 

 

 

 

 

 

 

THI :

Cho Ngài Cao quỳnh Cư :

Hỏi số từ thân sẽ thế nào ?

Tám mươi gần măn số Thiên Tào.

Cháu con sum hội yên thân lăo,

Sung túc dài ḍng hỏi họ Cao.

Bà Thiên Hậu

 

14 - Đàn cơ tại Trí Huệ Cung,

đêm 7-1-Tân Măo ( dl 12-2-1951).

Pḥ loan : Phạm Hộ Pháp - Tiếp Đạo Cao đức Trọng.

 

CAO THƯỢNG PHẨM

Chào Hộ Pháp, mấy em.

Tiếp Đạo rán nâng loan cho Phật Mẫu giáng dạy nghe. Cười ... Viết không quen nên viết chậm. Hộ Pháp và em để mắt đọc kỹ lưỡng.

 

DIÊU TR̀ KIM MẪU

Mụ mừng các Thiên mạng.

Hộ Pháp, xin nghe :

 

Từ Vô Cực vào trong giới cảnh,

Mới để tâm so sánh Tiên, Phàm.

Chẳng từ ô trược dương gian,

V́ thương trẻ mới băng ngàn viếng thăm.

oOo

Vâng Thiên sắc độ phàm thoát tục,

Đóng phong đô, giải ngục đọa đày.

Máy linh cơ tạo nơi tay,

Giác mê cứu đám lạc loài nguyên nhân.

 oOo

Nên ôm rải hồng ân khắp thế,

Bỏ ngôi linh gươm huệ trau giồi.

Cơi Thiên định vị phân ngôi,

Vạn linh gặp hội phục hồi thiện duyên.

 oOo

Con đă nắm lái thuyền Bát Nhă,

Đủ quyền hành giải quả diệt căn.

Nguyên linh dầu đặng cao thăng,

Nơi Cung Trí Huệ làm đàng thiện duyên.

oOo

Từ khi sợ để khuyên buổi trước,

Nay duyên may mừng đặng con nên.

Chừ nay đă toại thửa nguyền,

Độ sanh vững nắm Chơn truyền Chí Tôn.

oOo

Đă thấy nẻo Thiên môn rộng mở,

Hội Long Hoa rỡ rỡ soi đời.

Nhập vào Thiên Hỷ an nơi,

Cơi Thiên, cảnh tục, một vời không xa.

oOo

Con đă biết quyền già cùng trẻ,

Mạng Chí Tôn đă để đủ phương.

Cứu nguy độ khổ là thường,

V́ rằng Bát phẩm chơn hồn Mụ sanh.

o0o

Hễ là MẸ quyền hành dạy trẻ,

Con đừng lo mạng thế thi phàm.

Huyền linh MẸ chịu phần cam,

Ban cho con trẻ vẹn toàn pháp môn.

oOo

Độ cho hết các hồn địa giới,

Độ vong linh từ ngoại càn khôn.

Cửa linh cắm phướn Chiêu hồn,

Độ trong cửu nhị nguyên nhân nhập trường.

oOo

Các tộc chủng c̣n đương t́m ngơ,

Soi huệ quang cho rơ cửa Thiên.

Máy linh để sẵn diệu huyền,

Giải căn đợi kẻ hữu duyên định phần.

oOo

Con nên vui phận an tâm.

Tiếp Đạo, đọc lại cho toàn Nam Nữ con cái của Mụ, rằng Mụ để lời mừng chung chúng nó.

THĂNG          

 

THI :

Thảo đường Phước địa ngộ ṭng hoa,

Lục ức dư niên vơ trụ ḥa.

Cộng hưởng phàm gian an lạc nghiệp,

Thế đăng Bồng đảo định âu ca.

 

DIÊU TR̀ KIM MẪU

15 - Đàn cơ ngày 12-1-Giáp Ngọ (dl 14-2-1954).

Pḥ loan : Cao Thượng Sanh - Nguyễn Bảo Pháp.

 

DIÊU TR̀ NƯƠNG NƯƠNG

Miễn lễ. Các con,

MẸ vui mừng trông thấy các con tỏ ḷng thành kỉnh đối với MẸ. Mấy con để tâm về Đạo, MẸ cũng khen đó. Nhưng các con thiếu đức tánh để d́u đời, thành thử sự loạn lạc chưa sớm kết liễu được, mà mấy con cũng không thế thật hành chi để giúp ích cho chúng sanh. Trong lúc nầy cũng như chim bằng tạm nghỉ cánh. Mấy con nên t́m thế d́u dắt thêm bạn đồng chí hướng, để rồi gặp lúc sẽ ra gánh vác nhiệm vụ trong buổi thanh bạch hơn. Mấy con nên nhận lời ban ơn của MẸ và MẸ có mấy lời đây :

Vó Kư nài chi vạn dặm dài,

Càng giồi càng đẻo chí càng hay.

Giang sơn hiệp sức tay tô điểm,

D́u bước quần sinh vẹn trả vay.

 

Bảo Thế, lời MẸ nói trên cũng đủ cho con an tâm.

Thiệt, con vững trí nghe. Khá tin nơi Chí Tôn và tin nơi tâm của con, được ổn thỏa luôn. MẸ thăng.

 

16 - Đàn cơ tại Nữ Đầu Sư Đường,

đêm 16-8-CanhTư lúc 9 giờ tối, (dl 6-10-1960).

Pḥ loan : Cao Thượng Sanh - Trương HIến Pháp.

Hầu đàn : Bảo Thế, Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu, Tả Phan Quân, Chức sắc Nữ phái CTĐ, Chức sắc B.  Pháp Chánh.

 

DIÊU TR̀ NƯƠNG NƯƠNG

Mừng các con Nam Nữ, Chức sắc và Thiện tín.  Các con b́nh thân.

MẸ đă vui ḷng chứng nhận lễ thành kính của các con Nam Nữ hiến dâng cho MẸ nhơn ngày Kỷ niệm Diêu Tŕ Cung vừa qua.

Cái tinh thần đoàn kết của các con , cái tinh hoa đạo đức của các con đă tiến bước phần nào. Nhưng MẸ cũng lắm lo lắng đường tu các con hằng bị trở ngại, v́ tà tâm c̣n nhiễu loạn trong một phần đáng kể các con của MẸ.  V́ vậy, mỗi con đều thận trọng ǵn giữ bổn phận của ḿnh để tránh khỏi bị lôi cuốn vào lối hiểm họa. Các con, nhứt là Nữ phái, công phu các con lắm nhọc nhằn, th́ con đường lánh giả tầm chơn, lập nên ngôi vị, không phải khó. MẸ trông ngày hội hiệp của các con sau khi trả vay hoàn tất, nhưng trường thi lắm gay go, lướt khỏi cũng không dễ dàng. Các Tiên Phật đọa trần v́ đó mà đành mất Thiên vị.  Các con nên gắng tâm khổ hạnh, quyết chí tu hành thế nào cho được ḷng trắng như băng, thanh như giá, không bợn một mảy lợi quyền bất chánh, th́ cái ư chí cứng rắn của các con mới thắng nổi mọi cơ thử thách.

Đời đă tàn, thuyền Đạo sắp xa bến. Sự hung bạo của nhơn loại đă tới mức nào, các con cũng thấy rơ.  MẸ băn khoăn v́ bầy con hạ thế, chưa chắc ngày tương hội thiếu đủ thế nào ? MẸ mong các con xét nghĩ đủ sáng suốt trọn hành phận sự cho xứng đáng ḷng tin cậy của MẸ th́ đó là đền ơn cho MẸ vậy.  MẸ có mấy lời sau đây, các Ái nữ của MẸ nên khá để tâm :

 

THI :

Đă dấn thân vào cửa sắc không,

Nữ nhi cực nhọc há nao ḷng.

Pḥng the vẹn phận trau gương thắm,

Liễu yếu đừng phen cợt gió Đông.

Sóng khổ dẫu xao ḍng nước trí,

Cành xuân gắng giữ mảnh hương nồng.

Đường về các trẻ xin ghi nhớ,

Cửa Khuyết hằng ngày MẸ ngóng trông.

 

MẸ ban ơn cho các con Nam Nữ.

THĂNG

 

17 - Đàn cơ tại Báo Ân Từ,

đêm 15 - 8 - Ất Tỵ, hồi 24 giờ (dl 10-9-1965).

Pḥ loan : Cao Thương Sanh - Trương Hiến Pháp.  Hầu đàn : Bảo Thế, Hiến Thế, Khai đạo, Chức sắc Hiệp Thiên, Cửu Trùng, Phước Thiện, Nam Nữ.

o0o

DIÊU thượng huyền linh ngự Cửu Thiên,

TR̀ danh thọ sắc phổ Chơn truyền.

PHẬT tâm độ chúng tiêu oan trái,

MẪU hóa quần sanh định nghiệp duyên.

o0o

MẸ mừng các con Nam Nữ.

Hôm nay MẸ lấy làm vui trông thấy các con chung nhau hiến lễ cho MẸ quá nên long trọng. MẸ chỉ để lời khuyên các con, nếu biết thương kính MẸ, th́ gắng công tu hành và lập công bồi đức để xây dựng Đại nghiệp của Chí Tôn tại thế.

MẸ cũng nói cho các con biết, lúc nầy Thiên điều đang hành pháp. Nhơn loại phải trải qua một lúc tang thương, sanh mạng hao kém không biết số nào mà kể, nhưng người tu chơn chánh nhờ đạo đức mà vượt qua lối Thiên khiển, những kẻ bạo tàn phải chịu diệt vong.  Các con nên thận trọng giữ ǵn phận sự. MẸ cũng không vui ǵ mà nói đến điều nầy, v́ MẸ cũng sẽ chịu mất một phần con cái yêu dấu của MẸ.  MẸ cũng để lời khuyên những con cái của MẸ nên thắt chặt t́nh đoàn kết thương yêu nâng đỡ nhau, tha thứ cho nhau, để làm vui ḷng Chí Tôn và cho Lư Bạch giảm cơn thạnh nộ, th́ Người mới châm chước mà lập vị cho các con.

MẸ ban ơn cho các con Nam Nữ và nhường cơ cho Cửu Tiên Nương.

 

NHỨT NƯƠNG,

Kính chào chư Hiền Huynh, Hiền đệ Hiệp Thiên Đài, chư Hiền Huynh, Hiền Tỷ, Hiền đệ, Hiền muội

Cửu Trùng Đài và Phước Thiện.

Xin tiếp:

 

HOA ngào ngạt mùi hương tỏa kín,

Cảm ḷng thành Điện Thánh nương về.

Khuyên đời mau tỉnh giấc mê,

Lo tu sau khỏi năo nề kiếp duyên.

oOo

Nhường cơ. NHỊ NƯƠNG xin tiếp :

CẨM tịch Dao Cung Tiên vị đắc,

Hạnh phùng vũ lộ sắc Thiên ban.

Đầy vơi vui hưởng kiếp nhàn,

Ngảnh trần có khác chi tràng mộng xuân.

o0o

Nhường cơ. TAM NƯƠNG xin tiếp :

TUYẾN nghiệp phàm vô vị,

Đạo khai dĩ định kỳ.

Hồng ân chan rưới mấy khi,

Bến mê há để lỡ th́ độ sanh.

o0o

Nhường cơ. TỨ NƯƠNG xin tiếp :

GẤM thêu hoa càng nh́n càng đẹp,

Đức thêm tài chẳng hẹp đường tu.

Mặc người lên vơng xuống dù.

Lợi danh xạo xự thiên thu lỡ làng.

o0o

Nhường cơ. NGŨ NƯƠNG xin tiếp :

LIỄU chiều gió xung xăng màn hạnh,

Như để lời cửa Thánh nhắn tin.

Đạo tâm xin gắng vẹn ǵn,

Đọa thăng hai lẽ nơi ḿnh liệu toan.

o0o

Nhường cơ. LỤC NƯƠNG xin tiếp :

HUỆ ân chan khắp toàn nhơn loại,

Vào đường tu phỉ toại kiếp sanh.

Lánh nơi tranh đấu giựt giành,

Nghiệt oan khỏi vướng thân danh vẹn phần.

 

o0o

Nhường cơ. THẤT NƯƠNG xin tiếp :

LỄ văn đủ định phân khách trí,

Hạnh đức toàn xứng vị Thánh nhân,

Cơi trần là chốn mê tân,

D́u nhau lánh giả tầm chân tiếc ǵ.

o0o

Nhường cơ. BÁT NƯƠNG xin tiếp :

SEN TRẮNG vóc tinh vi đảnh Hớn,

Nêu tiết trong soi sáng tài hoa.

Để lời nhủ bạn quần thoa,

Kiên trinh liệt nữ phẩm nhà chớ quên.

o0o

Nhường cơ. CỬU NƯƠNG xin tiếp :

KHIẾT kỷ tu chơn duyên quả định,

Xả thân vị Đạo đắc Thiên ân.

Lâng lâng giũ sạch bụi trần,

Cứu nhân độ thế phước phần hậu lai.

 

Tiên Thiếp và các vị Tiên Nương xin kiếu.

THĂNG

 

18 - Đàn cơ tại Báo Ân Từ,

đêm 15 - 8 - Đinh Mùi, hồi O giờ 45 (dl 18-9-1967).

Pḥ loan : Trương Hiến Pháp - Phạm Khai Đạo.

Hầu đàn : Thượng Sanh, Bảo Thế, Đầu Sư, Chức sắc Hiệp Thiên, Cửu Trùng, Phước Thiện, các Đạo hữu

Nam Nữ.

Hầu bút : Truyền Trạng Lê minh Khuyên.

 

DIÊU TR̀ KIM MẪU

Mừng các con Nam Nữ có mặt hôm nay để chung vui cùng MẸ và Cửu vị Tiên Nương.

MẸ mừng đến nỗi rơi nước mắt, v́ thấy các con hăy c̣n trong ṿng cương tỏa của thế t́nh. Tuy nhiên nhờ tánh đức của các con đă rèn luyện bấy lâu nên cũng lướt qua nhiều băo tố. MẸ ước mong các con được vậy măi th́ mới thoát khỏi mưu tà chước quỉ. MẸ khuyên Chức sắc Hiệp Thiên phải làm gương mẫu để xây dựng nền Đạo cho ra thiệt tướng. V́ gần đây sẽ thấy vai tuồng quan trọng của Đạo đối với toàn cầu. Nếu các con không sẵn sàng để đối phó với mọi việc sẽ đến, th́ phải hư việc chung của Đạo lẫn Đời.

Các con phải tự đặt nhiệm vụ của ḿnh cho phải phép, đừng phai lảng lập trường đă sẵn có. Nếu tinh thần giữ vững th́ mọi việc sẽ lướt qua.  MẸ cũng vui mừng thấy Bảo Thế được phục sức, nhưng thảm thay, con không tránh khỏi một lần thử thách, nhưng không sao, có các Đấng hộ tŕ.  MẸ xin kiếu.

THĂNG

 

19 - Đàn cơ tại Báo Ân Từ, đêm 15 - 8- Kỷ Dậu, hồi 9 giờ 45 (dl 26-9-1969).

Pḥ loan : Trương Hiến Pháp - Phạm Khai Đạo. Hầu Đàn : Đức Thượng Sanh, Hiến Đạo, Bảo Sanh Quân, Đầu Sư, Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Chư Chức sắc Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện Nam Nữ.

o0o

DIÊU động vân hành giáng hạ lai,

TR̀ trung thanh tịnh bạch liên khai.

KIM quang chiếu diệu Âm quang hiện,

MẪU ngự Cung Tiên Cửu phẩm đài.

o0o

MẸ mừng các con Nam Nữ.

Các con ôi ! Nỗi mừng của MẸ lẫn lộn với nỗi khổ tâm. Mừng là v́ các con đă sớm nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Đức Chí Tôn, nên một phần đă được gội nhuần ân đức của Đấng Vô Cực, nên mới được giảm phần tai nạn.

Nhưng những đứa con c̣n ngoài ṿng Đạo, cũng đều là con cái của MẸ, nên MẸ đau khổ lắm các con ơi !  MẸ xin để lời khuyên các con hăy để dạ thương hại chúng nó mà xây chuyển tinh thần nền Đạo cho thêm vững bền và đủ khả năng độ dẫn tất cả vào ṿng Đạo hạnh, cho chúng đều hưởng ân huệ.

Được vậy là các con báo hiếu cho Đức Chí Tôn và cho MẸ đó.  MẸ xin có mấy lời khuyên nhủ.

THĂNG

 

20 -Thi văn của Đức Phật Mẫu giáng cơ ban cho :

DIÊU TR̀ KIM MẪU

DIÊU điện kư lời gởi các con,

TR̀ tâm kiếm hiểu lẽ châu son.

KIM thơ học lấy cho thông thuộc,

MẪU huấn ghi ḷng khỏi héo von.

o0o

Lệ nḥa mực, MẸ đề thơ gởi,

Cho các con trần giới đôi câu.

Con ôi ! MẸ luống đau sầu,

V́ t́nh mẫu tử bấy lâu phai mờ.

o0o

Thương v́ trẻ ngây thơ khờ dại,

Đắm say trần nên phải xa ngôi.

MẸ đây trông đứng trông ngồi,

Các con th́ lại ham nơi biển trần.

o0o

MẸ xót dạ bao lần xuống thế,

Đă nhiều lần thỏ thẻ cùng con.

Thấy đời lắm cảnh héo von,

Thương cho con trẻ nặng đ̣n phải mang.

o0o

Nh́n máy tạo ngày càng thúc giục,

Khiến MẸ đây muôn khúc đoạn trường.

Nh́n con trước cuộc tang thương,

Thế mà con măi chủ trương lợi tài.

o0o

MẸ truyền lập Hoa Đài Đại hội,

Khuyên chúng sanh hăy vội tu hành.

Đời tàn khó tránh đao binh,

Dầu thương MẸ cũng không tranh luật Trời.

o0o

Ngày tận diệt c̣n thời bao lắm,

Mà nhơn sanh bước chậm quá rồi.

Cũng v́ danh lợi tŕ lôi,

MẸ đây v́ trẻ đứng ngồi không yên.

o0o

Mong Nam Nữ lửa phiền tưới tắt,

Để tránh cơn gió bắc thổi lùa.

Chữ TU vàng cũng khó mua,

Thân sanh con chỉ ở chùa mới an.

o0o

Đừng lầm tưởng bạc vàng là quí,

MẸ khuyên con phải nghĩ cho cùng.

Rồi đây trước cuộc hăi hùng,

Con đâu có được thung dung như vầy.

o0o

Bởi MẸ thấy gần đây sẽ khổ,

Khổ các con MẸ đổ gịng châu.

Hăy mau thức tỉnh hồi TU,

Mới là được MẸ hộ phù vững an.

o0o

Ôi ! Trước cảnh tương tàn tương sát,

Tấm thân con dời dạt nổi trôi.

MẸ dù ân huệ liên hồi,

Cũng không cứu văn cuộc đời chinh nghiêng.

o0o

Nay MẸ gởi lời khuyên chung tất,

Bớt lần đi vật chất thế trần.

Rán ǵn từ lúc xuân phân,

Nhơn sanh phải chịu hăi hùng đáng thương.

o0o

Con nghe MẸ liệu lường kẻo khổ,

Biết bao lần sụp đổ con ôi !

Hôm nay MẸ hé cơ Trời,

Các con hăy liệu giữ thời thân sanh.

o0o

Muốn vẹn chữ tu hành làm gốc,

Nếu các con chí dốc theo Thầy.

Dù cho cát chạy đá bay,

Có chư Thần Thánh hộ rày trẻ thơ.

o0o

Con nên biết ngày giờ đă hết,

Đừng tưởng rằng hễ chết là xong.

Khi ra Tam Giáo Công Đồng,

Con c̣n phải chịu ngồi trong ngục h́nh.

o0o

Thế là điểm chơn linh con mất,

Cái ngôi xưa Thánh Phật Thần Tiên.

Nhào lăn xuống cơi huỳnh tuyền,

Con chờ đến bảy ức niên sau nầy.

o0o

Đến lúc đó Đạo Thầy mới mở,

Phách hồn con ví tợ băi bùn.

Hết đường trở lại Thiên cung,

Để cho MẸ phải đau ḷng xiết bao.

Vậy con phải ngăn rào ngay trước,

Một chữ Thành cũng được hồi nguyên.

Kỳ cùng hưởng chút ân Thiên,

Mong rằng các trẻ trung kiên rán ǵn.

MẸ ban ơn cho các con.

THĂNG.

 

THI :

Đức Phật Mẫu cho Ngài Cao hoài Sang:

Bước đời ch́m nổi bấy nhiêu niên,

Tâm chí ghe phen dập lửa phiền.

Ấm lạnh dốc tṛn gương phấn đại,

Vui buồn chưa vẹn nỗi hàn huyên.

Ḷng trần nung nấu trăm mùi khổ,

Biển ái đầy vơi một chiếc thuyền.

Nín nẩm chờ ngày tiền quả sạch,

Trau giồi Đạo hạnh hưởng ân Thiên.

 

  [ 3-7-1927 ]

DIÊU TR̀ KIM MẪU

 

21 - Thi văn của Đức Phật Mẫu giáng cơ ban cho :

 

DIÊU TR̀ KIM MẪU

Chào chư Thiên mạng Nam Nữ.

Các con nghe lời MẸ dạy : Các con ôi ! Phận gái là khổ lắm, tội nhiều hơn cả, phải lo TU. Nghe câu kệ :

 

Vô vi cảnh giác khỏi ưu phiền,

Cực Lạc Niết Bàn mới có duyên.

Từ thiện dặn ḷng câu bác ái,

Tôn ti em chị bạn thuyền quyên .

 

B́nh thân, tịnh tâm, các con nghe :

o0o

Trời chuyển Đạo Nam phương Trung giái,

Khuyên các con phận gái lo tu.

Cực ḷng một chút công phu,

Ngày sau mới đặng ngàn thu hưởng nhàn.

o0o

Ham danh lợi thêm ràng thêm buộc,

Giọng khéo khôn trau chuốt gạt lường.

Người trong một Đạo không thương,

Nghĩa t́nh em chị dứt đường tới lui.

o0o

Ḍm thấy trẻ ngùi ngùi thêm tủi,

Miệng líu lo theo buổi văn minh.

Mảng vui quên sự tu hành,

Thấy lời Thánh huấn, dạ đành lấp che.

o0o

Khóc v́ con nghịch, phe giả dối,

Bóng thiều quang giục hối nhơn sanh.

Ngày qua tháng lại đă đành,

Tuổi già coi lại tóc xanh mấy hồi.

o0o

Thảm phận gái hoa trôi nước chảy,

Rán lo tu trở lại ngôi xưa.

Líu lo son phấn xin chừa,

Ai đành đi đến chợ trưa mà ngồi.

o0o

Đừng vọng tưởng đặng hồi vinh hiển,

Con ngó coi trời biển mây giăng.

Trắng đen một lúc dữ dằng,

Gió ḥa thổi lại mây xanh mấy hồi.

o0o

Cuộc trần thế than ôi quá ngán,

Người trăm năm chớp nháng qua liền.

Dữ hung thấy đă nhăn tiền,

Cảnh người dời đổi, cảnh Tiên vui hoài.

o0o

Người mắc tội xuống đày Diêm Đế,

Bị khảo tra khóc kể vang tai.

Lời khuyên nói vắn biết dài,

Giă con ở lại, Thiên Đài MẸ lui.

THĂNG

 

22 - Thi văn của Đức Phật Mẫu giáng cơ ban cho :

 

DIÊU TR̀ KIM MẪU

Mặt trời lố mọc nhành dương,

Mưa sa lác đác mùi hương nực nồng.

Thấy con trần thế có ḷng,

Thành tâm cầu khẩn, MẸ hồng văng lai.

Dạy con để dạ nhớ hoài,

Mai sau về chốn Thiên Đài chung vui.

Hễ con biết Đạo biết mùi,

Biết trau sửa tánh, biết giồi nết na.

Biết con là phận đàn bà,

Biết lời ăn nói thiệt thà hiền lương.

Biết dùng dưa muối rau tương,

Biết lo tụng niệm, biết đường tu thân.

Chớ nên quyến luyến hồng trần,

Chớ nên ham phú phụ bần rẽ hai.

Chớ cho t́nh lợt duyên phai,

Chớ vong nghĩa cũ, chớ hai tấm ḷng.

Có chồng trọn nghĩa cùng chồng,

Đắng cay phải chịu, mặn nồng phải cam.

Làm sao phải gái nhà Nam,

Phải ǵn đạo đức, phải ham tu hành.

Phải lo hai chữ sanh thành,

Phải thương cha mẹ nhọc nhành buổi xưa,

Phải cần sớm tối cùng trưa,

Phải lo tu niệm quả xưa đặng về.

Hồng trần cơi tạm chớ mê,

Sao bằng Tiên cảnh là quê hương ḿnh.

Thấy con có chí đắc thành,

Cho nên MẸ phải nhọc nhành v́ con.

Dầu cho biển cạn non ṃn,

Mấy lời MẸ dặn giữ tṛn chớ sai.

Giă con ở lại trần ai,

MẸ về Tiên cảnh Bồng Lai hưởng nhàn.

THĂNG

 

THI :

DIÊU Tŕ chưởng quản cả chư Tiên,

CUNG nội giá lâm đến ngự tiền.

KIM thạch đôi lời khuyên trẻ dại,

MẪU từ giảng dạy các con hiền.

o0o

Đạo Thầy huyền diệu lắm con ôi !

Đệ tử siêng năng phải đắp bồi.

Chớ có lửng lơ mà thối chí,

Ráng công tu luyện đặng về ngôi.

  [ MTĐ ]

DIÊU TR̀ KIM MẪU

 

23 - Thi văn của Đức Phật Mẫu giáng cơ ban cho :

DIÊU TR̀ KIM MẪU

Treo đai ngọc Đài vàng Long Hội,

Ớ con hiền bước vội đài sen.

Con ôi ! Đây MẸ đốt đèn.

Gắng đi tận đến bệ tiền Trời ban.

o0o

Người làm việc gian nan lắm nỗi,

Người thảo ngay sớm tối khổ đau.

Ma vương chen lấn Đạo Cao,

Đốt đèn trí huệ đừng nao tấc ḷng.

o0o

Nhớ hai chữ Đại Đồng nơi dạ,

Rằng thệ đường một ngả không hai.

Quyết đi tận đến kỳ khai,

Vào trường Long Hội gặp ngày định phân.

o0o

Con dầu gặp trăm lần cay đắng,

Nguyện với Thầy d́u dẫn giùm con.

Chẳng cho đạo đức hao ṃn,

Chẳng cho mực lộn với son đổi màu.

o0o

Trống đă giục con nào lơi dạ,

Thúc hối mau bươn bả kịp kỳ.

Bóng đèn dẫn đến trường thi,

Lẽ nào con lại tách đi về đời.

o0o

Tay rạch đất MẸ ôi ! trẻ nhớ,

Ngước mặt lên phú có cao xanh.

Con ghi nơi dạ làm lành,

Dốc ḷng đoạt đặng bảng danh đại đồng.

o0o

Nay con nắm ấn rồng Thượng Phụ,

Ngậm phù linh đặng giữ ḷng con.

Trăm năm con cứ giữ tṛn,

Nếu con bội tín thân con tan tành.

o0o

 

Nhớ MẸ già Cung Xanh đợi trẻ,

Tả tâm thơ thỏ thẻ bên con.

Bài nầy MẸ chép bút son,

Để làm kỷ niệm cho con học đ̣i.

o0o

Gặp cảnh khổ cho con bớt khổ,

Dầu lao tâm ấy số tiền căn.

Lời Thầy đă có dặn rằng,

Hữu chung hữu thủy đạo hằng đừng sai.

o0o

Ḷng con nguyện Cao Đài gắng sức,

Diệt khảo ḷng nắn đúc chí con.

Ấy là bài học để ḷng,

Gặp khi nghịch cảnh long đong con pḥng.

o0o

Hễ quên MẸ, muốn trông thấy MẸ,

Ngâm bài nầy có lẽ khuyên ḷng.

Dặn con nhớ giống nhớ ḍng,

Nhớ cùng bạn Đạo, nhớ trong cảnh buồn.

o0o

T́nh anh chị thịt xương một loại,

Hễ thương Thầy th́ phải mến nhau.

Biết rằng không phải rún nhau,

Mà Thầy đem lại đổi trao mối t́nh.

o0o

Con thương MẸ, con nh́n lấy nước,

Ắt ḷng con phải nhớ giống ṇi.

Nhớ rằng thảo chúa ngay tôi,

Khuôn pḥ đạo đức phục ngôi đại đồng.

o0o

Họa chữ Tâm trên ḍng Thiên Nhăn,

Cho Ma Vương chẳng dám lăng loàn.

Để con đường thẳng bước sang,

Khỏi ai tŕ kéo đặng an tinh thần.

o0o

Ve réo rắc xa gần rủ bạn,

Nhớ chị em lai láng ḷng trông.

Nữ Nam coi cũng một ḍng,

Trên Thầy giáo hóa tấc ḷng không sai.

o0o

Ơn đức ấy các con chạm dạ,

Đặng con lo đền trả đức nầy.

Măn rồi lại hiệp cùng Thầy,

Giáo Tông sắc mạng tại nầy năm châu.

o0o

Trời đă tối cung lầu trống đổ,

Các thú chim t́m tổ nghỉ ngơi.

Các con th́ cũng đua bơi,

Kẻo khi trễ bước ắt thời tối tăm.

o0o

Nguyện chí một dốc tầm chơn lư,

Không sai ḷng nản chí người tu.

Dẫu cho mưa nắng dăi dầu,

Thân con phú có trăng thu soi giùm.

o0o

Một ḷng trọn thủy trọn chung,

Mực đen giấy trắng thệ ḷng đừng sai.

 

24 - Thi văn của Đức Phật Mẫu giáng cơ ban cho :

DIÊU TR̀ KIM MẪU

Phụng đến bờ dương trổi tiếng kêu,

Gió mê vừa tạt lạnh pḥng tiêu.

Đỡ nâng vạc ngă nhờ Chung thị,

Gánh nổi ngôi Thiên tưởng Tiểu kiều.

Mở mặt hồng nhan hờn đức kém,

Nhăn mày thục nữ giận tài nhiều.

Bóng trăng khuất núi trời hầu tối,

Liệu thử phương hay trổ bóng thiều.

o0o

Bóng thiều vằn vặt bị mây che,

Tối mặt tà dương án phận ḥe.

Mở mắt ngó chừng nền ngọc cũ,

Đă ra vẻ đẹp hết sua se.

o0o

Sua se tùy phận, ở tùy th́,

Những sự nghèo nàn chẳng nại chi.

Miễn biết Phật Trời, người cũng độ,

Lựa là hổ mặt nỗi khinh khi.

o0o

Khinh khi người cũng tỷ khi Trời,

Người cũng như Trời trước mắt ngươi.

Lựa đến Chín từng trông mới thấy,

Một câu hoàn nguyện đủ trao lời.

 

CHUNG