Điển Tích Đạo Cao Đài Ṭa Thánh

 

Tích truyện trong kinh sách. INCLUREIMAGE  Tiểu sử tóm tắt của 5 vị có tượng tại Ṭa Thánh

· Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung.

· Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh..

· Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc..

· Đức Thượng Phẩm Cao quỳnh Cư..

· Đức Thượng Sanh Cao hoài Sang.

Đức Quyền Giáo Tông

Lê văn Trung (1876- 1934)

Ngài Lê văn Trung, sanh năm Bính Tư (1876) tại làng Phước Lâm tổng Phước Điền Trung, Chợ Lớn. Thân phụ là Lê văn Thanh (1845-1878) và thân mẫu là Văn thị Xuân (1949-1912). Ngài đậu bằng Thành Chung năm 1894 và được thâu nhận làm Thơ Kư tại Dinh Thống Đốc Nam Kỳ. Năm 1906, Ngài xin nghỉ việc và đắc cử vào Hội Đồng Quản Hạt Nam Ky,ø thuộc chánh quyền thuộc địa Pháp. Năm 1911, Ngài Lê văn Trung hợp với Bà Tổng Đốc Đỗ hữu Phương vận động cất Nữ Học Đường, kết quả là xây được một ngôi trường Nữ đầu tiên tại Sàig̣n, gọi là Collège des Jeunes filles, và sau đặt tên là Nữ Trung Học Gia Long, nay là Trường Nữ Trung Học Nguyễn thị Minh Khai.

Ngày 18-5-1912, Ngài Lê văn Trung được Chánh phủ Pháp thưởng cho Bắc Đẩu Bội Tinh Đệ ngũ đẳng. Ngày 10-12-1914, Ngài được nhà cầm quyền thuộc địa Pháp cử lên làm Nghị viên Hội Đồng Soái phủ Đông Dương, thường gọi là Hội Đồng Thượng Nghị Viện Đông Dương. Kể từ năm 1920 trở đi, công việc kinh doanh của Ngài Lê văn Trung bắt đầu gặp khó khăn, sau đó th́ thua lỗ, đi dần đến chỗ phá sản. Ngài rất lo buồn nên sinh ra nghiện ngập và đôi mắt bị bịnh, lờ mờ không thấy rơ. Ngày 7-11-1926, Đức Chí Tôn dạy 2 Ông Cao quỳnh Cư và Phạm công Tắc đem Đại ngọc cơ vào nhà Ngài Lê văn Trung ở Chợ Lớn để Đức Chí Tôn dạy việc. Đức Chí Tôn giáng cơ thâu nhận Ngài làm môn đệ, mà trước đó, Đức Chí Tôn đă dùng huyền diệu làm cho đôi mắt Ngài hết bịnh, sáng tỏ trở lại như trước. Đức Chí Tôn cũng dạy Ngài Lê văn Trung hiệp với 2 ông Cư, Tắc lo mở Đạo. Ngày 27-1-1926, Đức Chí Tôn dạy Ngài Lê văn Trung và 3 ông : Cư, Tắc, Sang đến nhà Ngài Đốc phủ Ngô văn Chiêu, để ông Chiêu chỉ cho cách thờ phượng Thượng Đế bằng biểu tượng Thiên Nhăn, và xem ông Chiêu là Anh Cả. Ngày 22-4-1926, đàn cơ tại Vĩnh Nguyên Tự Cần Giuộc, Đức Chí Tôn phong Ngài Lê văn Trung làm Đầu Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Trung Nhựt, cùng một lượt với Ngài Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt. Ngày 29-9-1926, Ngài vâng lịnh Đức Chí Tôn hiệp cùng Chức sắc Đại Thiên phong và chư Đạo hữu, tổng cộng 247 người, họp tại nhà Ông Nguyễn văn Tường ở đường Galiéni, nay là đường Trần Hưng Đạo, Quận 1 Sài g̣n, để lập Tờ Khai Đạo gởi lên Chánh quyền Pháp. Tờ Khai Đạo nầy được dâng lên Đức Chí Tôn duyệt trước. Ngày 7-10-1926, Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt đích thân đem Tờ Khai Đạo lên đưa cho Thống Đốc Nam Kỳ là Ông Le Foll và được Ông Le Foll vui vẻ tiếp nhận. Ngày Rằm Hạ nguơn năm Bính Dần, Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt, hiệp cùng chư Chức sắc Đại Tiên Phong, vâng lịnh Đức Chí Tôn, mượn chùa Từ Lâm Tự G̣ Kén Tây Ninh làm Thánh Thất tạm, tổ chức Lễ Khai Đạo Cao Đài, có sự hiện diện của quan chức các cấp của Chánh quyền và đại diện các tôn giáo đến dự. Ngài 22-11-1930, Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt được Đức Lư Giáo Tông giáng cơ ban cho Ngài Lê văn Trung cầm quyền Giáo Tông Hữu h́nh tại thế, theo Đạo Nghị Định thứ nh́, c̣n Đức Lư vẫn nắm quyền Giáo Tông thiêng liêng. Ngày 13-10-Giáp Tuất (1934), Đức Q. Giáo Tông Lê văn Trung lâm bịnh và nhẹ nhàng thoát xác qui Thiên tại Giáo Tông Đường Ṭa Thánh, lúc 3 giờ chiều, hưởng thọ 59 tuổi. Nếu tính từ ngày Đức Quyền Giáo Tông được Đức Chí Tôn thâu nhận làm môn đệ đến ngày qui Thiên, Đức Ngài hành đạo được 9 năm. Trong những năm hành đạo, Đức Ngài lo xây dựng Hội Thánh với đầy đủ các cơ quan, lo phổ thông nền đạo rất được kết quả, số tín đồ càng lúc càng nhiều. Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo cho biết, nguyên căn của Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung là Chơn linh của Đại Tiên Lư Thiết Quả, đứng đầu Bát Tiên.

Nữ Đầu Sư

Lâm Hương Thanh (1874-1937)

Bà Lâm Hương Thanh có thế danh là Lâm ngọc Thanh, sanh năm 1874 tại làng Trung Tín, Quận Vũng Liêm, Vĩnh Long. Bà là vợ của Ông Huyện Huỳnh văn Xây, một nghiệp chủ giàu có tại Vũng Liêm. Bà sanh một người con gái tên Huỳnh thị Hồ. Sau nầy Ông Huyện Xây chết, Bà tái giá với Ông Huyện Hàm Nguyễn ngọc Thơ, ở Tân Định, Sài g̣n. Bà và Ông Thơ nhập môn theo Đạo Cao Đài vào đầu năm 1926. Trước đó, 2 Ông Bà đều là đệ tử của Ḥa Thượng Như Nhăn, chủ chùa Từ Lâm Tự ở G̣ Kén Tây Ninh. Nhờ huyền diệu cơ bút, Đức Chí Tôn độ được Ḥa Thượng Như Nhăn theo Đạo Cao Đài nên Như Nhăn cho mượn chùa Từ Lâm làm Thánh Thất tạm để tổ chức Lễ Khai Đạo vào ngày 15-10-Bính Dần (1926). Trong dịp Lễ Khai Đạo, Đức Chí Tôn giáng cơ phong cho Bà chức Nữ Giáo Sư , Thánh danh Lâm Hương Thanh. Trong kỳ phong Thánh Nữ phái lần thứ 1, ngày 14-1-Đinh Măo (1927), Bà được thăng lên Nữ Phối Sư. Bà lănh lịnh Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt lo việc giao thiệp với Chánh quyền Pháp, xin mở cửa các Thánh Thất bị Chánh quyền áp chế đóng cửa trước đây. Bà làm đơn cam kết Đạo Cao Đài là Phật Giáo Chấn Hưng, thuần

 túy tu hành, không làm điều ǵ sai luật của Chánh phủ. Ngày 9-3-Kỷ Tỵ (dl 16-4-1929), Bà Lâm Hương Thanh được thăng phẩm Nữ Chánh Phối Sư. Bà đăng Tiên vào ngày 8-4-Đinh Sửu (dl 17-5-1937), và được truy thăng Nữ Đầu Sư ngày 25-4-Đinh Sửu (1937).  Đức Phạm Hộ Pháp cho biết nguyên căn của Bà là chơn linh của Long Nữ, đệ tử của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát.

Đức Hộ Pháp

Phạm công Tắc (1890-1959)

Ngài Phạm công Tắc sinh ngày 5-5-Canh Dần (1890) tại làng B́nh Lập, tỉnh Tân An, nhưng song thân của Ngài quê quán ở tại làng An Ḥa, quận Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Thân phụ của Ngài là Ông Phạm công Thiện và Thân mẫu là Bà La thị Đường. Ông Thiện là công chức dưới trào Pháp thuộc, được đổi đến làm việc ở tỉnh Tân An, đem gia đ́nh theo, và ở nơi đó sanh ra Ngài Phạm công Tắc. Năm 1907, Ngài thi đậu bằng Thần Chung. Sau đó Ngài xin làm Thơ kư nơi Sở Thương Chánh Sài g̣n. Năm 21 tuổi, Ngài lập gia đ́nh với Bà Nguyễn thị Nhiều, sanh đặng 3 người con, chỉ nuôi được 2 người con gái là : Phạm Hồ Cầm và Phạm Tần Tranh.

Đêm 24-7-1925 (Ất Sửu), Ngài Tắc cùng 3 bạn : Cao quỳnh Cư, Cao quỳnh Diêu, Cao hoài Sang, họp nhau tại nhà Ngài Sang ở phố hàng dừa Sàig̣n, để thực hành việc Xây Bàn theo lối Thông linh học tiếp xúc với thế giới vô h́nh. Ông Cao quỳnh Tuân, thân phụ của 2 Ngài Diêu và Cư giáng bàn cho một bài thi, khiến quí Ngài tin tưởng có các vong linh nơi thế giới vô h́nh. Sau đó, Cô Vương thị Lễ, Thất Nương Diêu Tŕ Cung giáng bàn, dùng thi phú xướng họa với quí Ngài, để lần lần dẫn dắt vào đường Đạo. Sau cùng, Đức Chí Tôn tá danh AĂÂ giáng bàn dạy Đạo cho quí Ngài. Đêm 14 rạng 15-8-Ất Sửu (1925), Đấng AĂÂ dạy quí Ngài làm một cái tiệc chay đăi Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương DTC gọi là Hội Yến Diêu Tŕ Cung, tại nhà Ngài Cư. Ngày 1-11-Ất Sửu (1925), Đấng AĂÂ dạy 3 Ngài Cư, Tắc, Sang, ra qú giữa Trời "Vọng Thiên cầu Đạo". Ngày 12-3-Bính Dần (1926), tại Chùa Vĩnh Nguyên Tự (Cần Giuộc), Đức Chí Tôn phong Ngài Phạm công Tắc chức Hộ Pháp, Ngài Cao quỳnh Cư chức Thượng Phẩm, Ngài Cao hoài Sang chức Thượng Sanh. Hai vị Hộ Pháp và Thượng Phẩm lập thành cặp Pḥ Loan Phong Thánh. Sau Đại lễ Khai Đạo tại chùa G̣ Kén Tây Ninh, Đức Phạm Hộ Pháp vâng lịnh Đức Chí Tôn lên Nam Vang mở Đạo và thành lập Hội Thánh Ngoại Giáo tại đây. Ngày 28-3-Canh Ngọ, Đức Phạm Hộ Pháp dẫn một phái đoàn đi xuống làng Phú Mỹ tỉnh Mỹ Tho để lấy Phép Ếm của Tàu là Long Tuyền Kiếm, do Bát Nương chỉ dẫn.

Ngày 3-10-Canh Ngọ (1930), Đức Lư Giáo Tông hiệp cùng Đức Phạm Hộ Pháp lập 6 Đạo Nghị Định để chỉnh đốn nền Đạo. Ngày 16-7-Giáp Tuất (1934) Đức Lư Giáo Tông và Đức Phạm Hộ Pháp lập thêm 2 Đạo Nghị Định để trị loạn trong nền Đạo. Tổng cộng tất cả 8 Đạo Nghị Định. Sau khi Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung qui Thiên, Đức Lư Giáo Tông giao cho Đức Phạm Hộ Pháp cầm quyền Giáo Tông tại thế để điều hành nền Đạo cho được mau lẹ, nên lúc đó, Đức Phạm Hộ Pháp chưởng quản Nhị Hữu H́nh Đài : Hiệp Thiên và Cửu Trùng. Trong suốt 34 năm hành đạo, Đức Phạm Hộ Pháp xây dựng được nhiều công tŕnh vĩ đại cho Đạo, lưu lại công nghiệp vĩ đại măi măi về sau, kể ra : Xây dựng Ṭa Thánh đồ sộ

 nguy nga thờ Đ. Chí Tôn.- Xây dựng Báo Ân Từ làm nơi thờ Đức Phật Mẫu.

- Xây dựng các cơ quan của Đạo trong Nội Ô : Giáo Tông đường, Nữ Đầu Sư đường, Ṭa Nội Chánh Cửu Trùng Đài, Hộ Pháp đường, Văn pḥng Hiệp Thiên Đài, Bộ Pháp Chánh, Đạo Đức Học đường, Bộ Nhạc Lễ, vv. . .

- Lập Phạm Môn và sau đó biến thành Cơ Quan Phước Thiện với Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng từ phẩm Minh Đức lên đến phẩm Phật Tử. - Lập các phẩm Chức sắc HTĐ cấp dưới, theo ư kiến của Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, từ phẩm Luật Sự lên phẩm Tiếp Dẫn Đạo Nhơn để thi hành quyền Tư Pháp của HTĐ. - Lập Ban Thế Đạo với 4 phẩm Chức sắc. - Xây dựng Chợ Long Hoa, mở mang vùng Thánh Địa. - Xây dựng 3 Cung 3 Động : Trí Huệ Cung Thiên Hỷ Động, Trí Giác Cung Địa Linh Động, Vạn Pháp Cung Nhơn Ḥa Động để dùng làm Tịnh Thất. Trong lúc đang xây dựng Ṭa Thánh gần xong, ngày 28-6-1941 (Tân Tỵ), Chánh quyền Pháp vào Ṭa Thánh bắt Đức Phạm Hộ Pháp và một số Chức sắc cao cấp đày đi Madagascar, một hải đảo ở Phi Châu, suốt 5 năm 2 tháng. V́ áp lực của chánh quyền Ngô đ́nh Diệm, Đức Phạm Hộ Pháp phải rời Ṭa Thánh, lưu vong sang Nam Vang, thủ đô nước Cao Miên, vào ngày 5-Giêng-Bính Thân (1956).  Ngày 10-4-Kỹ Hợi (1959), lúc 13 gờ 30 phút, Đức Ngài thoát xác qui Thiên, hưởng thọ 70 tuổi.

Nguyên căn và quyền hành của Đức Phạm Hộ Pháp được Đức Lư thố lộ trong bài thơ khoán thủ sau đây : 

HỘ giá Chí Tôn trước đến giờ,

PHÁP luân thường chuyển máy Thiên Thơ.

CHƯỞNG quyền Cực Lạc phân ngôi vị, QUẢN xuất Càn Khôn định cơi bờ.

NHỊ kiếp Tây Âu cầm máy tạo,

HỮU duyên Đông Á nắm Thiên Thơ.

H̀NH hài Thánh thể chừ nên tướng,

ĐÀI trọng hồng ân gắng cậy nhờ.

 

Đức Thượng Phẩm

Cao Quỳnh Cư (1888-1929)

Ngài Cao quỳnh Cư sanh năm Mậu Tư (1888) tại làng Hiệp Ninh, tổng Hàm Ninh thượng, tỉnh Tây Ninh. Thân phụ là Ông Cao quỳnh Tuân, Thân mẫu là Trịnh thị Huệ, bào huynh là Cao quỳnh Diêu, đắc phong Bảo Văn Pháp Quân. Năm 1907, Ngài Cư lập gia đ́nh với Cô Nguyễn thị Hiếu, sau đắc phong Nữ Đầu Sư (1968). Năm 1915, Ngài làm Thơ kư tại Sở Hỏa Xa Sài g̣n.  (Việc Xây bàn, tổ chức Lễ Hội Yến Diêu Tŕ Cung, Vọng Thiên Cầu Đạo, việc thọ phong chức Thượng Phẩm, xin xem nơi phần Tiểu Sử Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc). Nhờ sự hướng dẫn của Đức Lư Giáo Tông, Đức Cao Thượng Phẩm cùng Hội Thánh mua được miếng đất rừng ở làng Long Thành để cất Ṭa Thánh. Việc tổ chức di chuyển từ Chùa Từ Lâm ở G̣ Kén về đất mới mua, do Đức Cao Thượng Phẩm đảm nhiệm.  Đức Cao Thượng Phẩm chỉ huy những người Miên làm công quả lo khai hoang, chặt cây phá rừng, để cất Ṭa Thánh tạm, cất Hậu Điện, Đông Lang, Tây Lang, Trù pḥng, Trường học, đều làm bằng cây, vách đất, lợp tranh, tạm thời có chỗ làm việc cho Hội Thánh. Tạo dựng đâu đó xong xuôi, Ngài bị bọn xấu vu oan cho Ngài nhiều việc xấu và buộc Ngài phải rời Ṭa Thánh, trở về tư gia của Ngài ở gần chợ Tây Ninh. Tại đây, Ngài dựng nên Thảo Xá Hiền Cung làm nơi tu dưỡng. Ngài buồn phiền nên sanh bịnh và thoát xác đăng Tiên vào ngày 1-3-Kỷ Tỵ (1929), lúc 11 giờ trưa, hưởng 42 tuổi.  Đức Phạm Hộ Pháp cho biết, nguyên căn của Đức Cao Thượng Phẩm là Đại Tiên Hớn Chung Ly trong Bát Tiên.

Đức Thượng Sanh

Cao hoài Sang (1901-1971)

Ngài Cao hoài Sang, sanh ngày 11-9-1901 (Tân Sửu) tại làng Thái B́nh tỉnh Tây Ninh. Thân phụ là Cao Hoài Ân, Thân mẫu là Hồ thị Lự, sau đắc phong Nữ Đầu Sư hàm phong (1968), bào huynh là Thời Quân Tiếp Đạo Cao đức Trọng. Buổi xây bàn đầu tiên để tiếp xúc với các vong linh được tổ chức tại nhà Ngài Sang ở phố Hàng dừa Sàig̣n.

(Việc Xây bàn, tổ chức Lễ Hội Yến Diêu Tŕ Cung, Vọng Thiên Cầu Đạo, việc thọ phong chức Thượng Sanh, xin xem nơi phần Tiểu Sử Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc). Sau khi Đức Phạm Hộ Pháp lưu vong sang Cao Miên năm 1956, Hội Thánh thiếu người trực tiếp cầm giềng mối Đạo, nên thỉnh Đức Cao Thượng Sanh, từ Sàig̣n về Ṭa Thánh Tây Ninh đặng điều hành nền Đạo.  Từ đây, Ngài trọn phế đời hành đạo. Ngài tiếp nối Đức Phạm Hộ Pháp, xây dựng thêm các cơ quan trong đạo, như Nhà Hội Vạn Linh, Cơ quan Phát thanh Giáo lư, Văn pḥng Ban Thế Đạo, Bắc Tông Đạo, Tần Nhơn, Nam Đầu Sư Đường, Học Đường Bộ Nhạc, vv . và phát huy việc phổ thông giáo lư Đại Đạo. Đức Cao Thượng Sanh có tài năng đặc biệt về Cổ nhạc Việt Nam, nhờ vậy mà nền Âm Nhạc của Đạo Cao Đài được Ngài chỉnh đốn hoàn hảo. Tuổi già sức yếu, công việc Đạo đa đoan, Đức Cao Thượng Sanh ngọa bịnh và đăng Tiên ngày 26-3-Tân Hợi, lúc 5 giờ chiều, hưởng thọ 71 tuổi.

(LƯU Ư : Muốn biết Tiểu sử chi tiết của 5 vị Chức sắc Đại Thiên Phong kể trên, xin xem quyển sách : Danh Nhân Đại Đạo).

2. Đạo kỳ

Đạo kỳ là lá cờ đạo, tượng trưng Đạo Cao Đài, gồm 3 màu : Vàng, Xanh, Đỏ.

Do đó, lá cờ đạo nầy c̣n được gọi là Cờ Tam Thanh, v́ Thái Thanh có màu vàng, Thượng Thanh có màu xanh và Ngọc Thanh có màu đỏ. Tại bao lơn trước Ṭa Thánh, trong những ngày lễ của Đạo đều có treo lá cờ Đạo rất lớn, h́nh chữ nhựt, có màu vàng ở bên trên, màu xanh ở giữa và màu đỏ ở dưới chót. Trên phần nền vàng, có thêu 6 chữ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, trên phần nền xanh ở giữa có thêu một Thiên Nhăn và Cổ Pháp Tam giáo : B́nh Bát Du, Cây Phất Chủ và quyển Kinh Xuân Thu. Trên phần màu đỏ không có thêu ǵ cả. Ư nghĩa của lá cờ Đạo Cao Đài được Đức Phạm Hộ Pháp giải thích , xin tóm tắt như sau : - Màu vàng là của phái Thái, tượng trưng Phật giáo. - Màu xanh là của phái Thượng, tượng trưng Tiên giáo.

- Màu đỏ là của phái Ngọc, tượng trưng Thánh giáo tức Nho giáo.

Ghép 3 màu lại trong một khuôn h́nh chữ nhựt, với 3 phần đều bằng nhau, tượng trưng tôn chỉ của Đạo Cao Đài là Tam Giáo Qui Nguyên.  Thiên Nhăn là biểu tượng của Đức Chí Tôn, thờ Thiên Nhăn là thờ Đức Chí Tôn.

Thêu Thiên Nhăn và Cổ Pháp Tam giáo trên Đạo Kỳ, dưới 6 chữ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là để chỉ rằng, Đạo Cao Đài do Đức Chí Tôn lập ra trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ với tôn chỉ Tam giáo qui nguyên, nghĩa là đem 3 nền Tôn giáo lớn ở Á Đông qui về một gốc Đại Đạo do Đức Chí Tôn làm chủ.

3. Cổ Pháp Tam giáo

Trên lá cờ Đạo, hay trên lan can lầu Phi Tưởng Đài, đều có h́nh Cổ Pháp Tam giáo.

Cổ Pháp Tam giáo gồm : B́nh Bát Vu, Cây Phất Chủ và Quyển Xuân Thu. B́nh Bát Vu đặt ở giữa, Phất Chủ và Xuân Thu đặt ở 2 bên.

- B́nh Bát Vu tượng trưng Phật giáo.

- Cây Phất Chủ tượng trưng Tiên giáo.

- Sách Xuân Thu tượng trưng Nho giáo.

Ghép 3 món ấy lại với nhau để tượng trưng tôn chỉ của Đạo Cao Đài là : Tam giáo qui nguyên, tức là đem 3 nền tôn giáo lớn ở Á Đông (Phật giáo, Tiên giáo và Nho giáo) hiệp trở về một gốc, gốc đó là Đại Đạo, do Thượng Đế làm chủ.

Phật Mẫu Chơn Kinh : Xuân Thu, Phất Chủ, Bát Vu, Hiệp qui Tam giáo hữu cầu chí chơn.

Bát Vu : Bát Vu là cái b́nh bát đựng đồ ăn của các tăng ni Phật giáo, phái Khất Sĩ, dùng để đi khất thực. Mỗi vị sư, sau khi thọ giới cụ túc, được vị Ḥa Thượng nhơn danh Giáo Hội, truyền cho một cái bát, hoặc khi cái bát bị bể, th́ Giáo Hội cũng phát cho cái khác.

Lúc thọ lănh bát, vị sư nguyện 3 lần bài chú sau đây :

" Thiện tai Bát-đa-la, Như Lai ứng lượng khí : Phụng tŕ dĩ tư thân, trưởng dưỡng trí mạng. Án chỉ rị chỉ rị phạt nhựt ra hồng phấn tra."

Nghĩa là : Lành thay cái Bát-đa-la, món đồ ứng lượng của Phật. Tôi nay phụng tŕ để nuôi thân và nuôi lớn cái mạng trí huệ. Sau cùng là Câu Thần chú bằng tiếng Phạn.

Bát-đa-la là phiên âm từ tiếng Phạn :PATRA, có nghĩa là cái bát, cái b́nh bát hay B́nh bát vu. B́nh Bát Vu c̣n là một trong 2 tín vật của Phật giáo mà các Tổ Sư ǵn giữ làm bảo vật để truyền kế ngôi Tổ Sư.

Hai tín vật đó là : Y và Bát. Y là cái áo cà sa và Bát là cái B́nh Bát vu. Nguyên 2 tín vật nầy là của đức Phật Thích Ca xử dụng trong lúc Đức Phật c̣n sanh tiền. Khi Đức Phật tịch, Phật truyền 2 món nầy lại cho Ma-Ha Ca-Diếp làm tín vật để giữ ngôi Nhứt Tổ Phật giáo Ấn Độ. Sau đó, Ma-Ha Ca-Diếp truyền Y Bát lại cho A-Nan làm Nhị Tổ Phật giáo Ấn Độ. Y Bát nầy truyền dần xuống đến đời Tổ Sư thứ 28 là Bồ-Đề-Đạt-Ma, th́ Đạt-Ma

 Tổ Sư đem Y Bát sang Trung Hoa để mở mang Phật giáo tại nước nầy. Đat-Ma Tổ Sư trở thành Sơ Tổ của Phật giáo Trung Hoa.

Đạt-Ma Tổ Sư truyền Y Bát lại cho 4 đời Tổ Sư nữa th́ đến đời Lục Tổ Huệ Năng. Sau đời Lục Tổ Huệ Năng, không c̣n lệ truyền Y Bát nữa, v́ theo lời di chúc của Đạt-Ma Tổ Sư, 200 năm sau kể từ ngày Ngài lên Ngôi Tổ th́ Y Bát không được truyền nữa.

V́ sự hệ trọng của Y và Bát như thế, nên Đạo Cao Đài chọn B́nh Bát Vu làm Cổ Pháp tượng trưng Phật giáo.

Phất Chủ : Phất là quét, chủ là con chủ. Con chủ là loài thú thuộc loài nai, h́nh dáng như con hươu nhưng lớn hơn, lông đuôi dài chấm đất, khi đi th́ cái đuôi phẩy qua phẩy lại để quét cho sạch bụi.  Do đó, Phất chủ là cái chổi quét bụi làm bằng lông đuôi con chủ, nên cũng gọi là Phất trần (quét bụi).

Các vị Tiên thường dùng lông đuôi chủ để làm chổi quét bụi. Nhưng đây là cây chổi Tiên, nên nó có rất nhiều phép tắc mầu nhiệm, nó dùng để quét sạch bụi trần bám vào che lấp cái Tâm, để cho cái Tâm được trong sạch sáng tỏ.  Nguồn gốc cây Phất chủ là của Đức Thái Thượng Lăo Quân. Do đó, Phất chủ là bửu bối của Tiên gia. Đạo Cao Đài chọn Phất chủ làm Cổ Pháp tượng trưng Tiên giáo.

Xuân Thu: Xuân Thu là tên của một quyển sách do Đức Khổng Tử sáng tác vào lúc cuối cuộc đời của Ngài, sau khi Ngài đă san định xong Ngũ Kinh. " Xuân Thu là tên của một bộ sử nước Lỗ do Đức Khổng Tử ghi chép những việc quan trọng xảy ra hằng năm, từ đời Lỗ Ân Công nguyên niên, tức là từ năm thứ 49 đời vua Chu B́nh Vương, đến đời Lỗ Ai Công năm thứ 14, tức là năm thứ 39 đời vua Chu Kinh Vương, trong thời gian 242 năm. Đây là một giai đoạn lịch sử Trung Hoa, thời kỳ mạt điệp nhà Chu (Châu), ngôi Thiên tử suy nhược, bị bọn Ngũ Bá : Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công, Tần Mục Công, Tống Tương Công, Sở Trang Công, nổi lên lấn át quyền Thiên tử, các nước chư Hầu tranh chiếm lẫn nhau, các sử gia gọi là thời đại hỗn loạn , nên người đời sau mượn tên Kinh Xuân Thu để gọi thời đại ấy là thời Xuân Thu (722-480 trước Tây lịch).

Mặc dầu Kinh Xuân Thu là một cuốn sách lịch sử, nhưng khi ghi chép, Đức Khổng Tử vận dụng văn tự và bút pháp để khen chê, để phân biệt kẻ thiện người ác hết sức minh bạch và đanh thép, nên người đời sau đă phải công nhận đó là búa ŕu trong Kinh Xuân Thu (Xuân Thu phủ việt), cũng như nói: Đức Khổng Tử làm Kinh Xuân Thu mà bọn loạn thần tặc tử sợ (Khổng Tử tác Xuân Thu nhi loạn thần tặc tử cụ). V́ thế Kinh Xuân Thu đă có tác dụng về Đạo lư, đă giữ địa vị quan trọng trong nền văn hóa Đông phương nói chung và Nho giáo nói riêng, trong sự biểu dương học thuyết "Chính danh, Nhất quán, Trung Dung, Đại Đồng" của vị Vạn Thế Sư Biểu mà dân tộc Việt nam đă chịu ảnh hưởng hơn 2000 năm nay. Kinh Xuân Thu c̣n có tính cách điển h́nh gương mẫu cho người đời sau phải tôn trọng danh dự và nhiệm vụ trong khi viết sử, và được liệt vào 5 Bộ Kinh căn bản của Nho giáo : Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu." (Theo Ông Lê phục Thiện, chuyên viên Hán học, TTHL)

Xem như thế, Kinh Xuân Thu là một bộ sách rất quan trọng, tiêu biểu cho Đức Khổnng Tử, mà cũng tiêu biểu cho Nho giáo. Đức Quan Thánh thuở sanh tiền lấy Kinh Xuân Thu làm sách gối đầu. Do đó, Đạo Cao Đài lấy Kinh Xuân Thu làm Cổ Pháp tượng trưng Nho giáo.

4. Long Hoa

Phía dưới bao lơn trước Ṭa Thánh có 4 cây cột, mỗi bên 2 cây đứng kế nhau, một cây quấn rồng đỏ, một cây quấn bông sen. Hai cây cột đứng kế nhau ấy tượng trưng 2 chữ LONG HOA. Long là rồng, Hoa là cái bông).

Tượng trưng như vậy là có ư nói rằng, Đại Hội Long Hoa kỳ nầy sẽ mở ra tại Ṭa Thánh Tây Ninh , và Đức Di-Lạc Vương Phật ngự trên nóc Phi Tưởng Đài sẽ làm Giáo chủ, với 8 khuôn h́nh chung quanh bao lơn tượng trưng 8 hạng người của nhơn loại (Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh, Mục), tức là tượng trưng nhơn loại tụ họp về Ṭa Thánh để tham dự Đại Hội Long Hoa. Những người tham dự Đại Hội Long Hoa là những người đă được Đức Di-Lạc Vương Phật chấm đậu trong kỳ thi công đức và sẽ được thăng thưởng vào các phẩm vị Thần Thánh Tiên Phật. Từ khi có nhơn loại đến nay, Đức Chí Tôn đă mở 2 kỳ Đại Hội Long Hoa : Kỳ nhứt và Kỳ nh́. Sắp tới, Đức Chí Tôn sẽ mở Đại Hội Long Hoa Kỳ ba :

* Cuối Chuyển thứ nhứt, tức là cuối Hạ nguơn Nhứt Chuyển, có Đại Hội Long Hoa kỳ nhứt, gọi là Thanh Vương Đại Hội, do Đức Nhiên Đăng Cổ Phật làm Giáo Chủ.

(Kể từ khi có nhơn loại đến nay đă trải qua 3 Chuyển : Nhứt Chuyển, Nhị Chuyển, Tam Chuyển. Mỗi Chuyển có 3 Nguơn : Thượng nguơn, Trung nguơn, Hạ nguơn. Hiện nay, nhơn loại đang ở vào cuối Hạ nguơn của Tam Chuyển, sắp bước qua Thượng nguơn của Tứ Chuyển).

* Cuối Chuyển thứ nh́, tức là cuối Hạ nguơn Nhị Chuyển, có Đại Hội Long Hoa kỳ thứ nh́, gọi là Hồng Vương Đại Hội, do Đức Phật A-Di-Đà làm Giáo Chủ.

* Cuối Chuyển thứ ba, tức là cuối Hạ nguơn Tam Chuyển, sẽ có Đại Hội Long Hoa kỳ thứ ba, gọi là Bạch Vương Đại Hội, do Đức Di-Lạc Vương Phật làm Giáo Chủ.

Đạo ví Đời là một trường học vĩ đại, có đủ các bài học từ thấp đến cao, từ ác tới thiện, từ vật chất đến tinh thần, để các chơn linh đầu kiếp xuống đây học hỏi, chiêm nghiệm và tiến hóa. Người làm thiện th́ tiến hóa hơn người làm ác; người ăn chay th́ tiến hóa hơn người ăn mặn; người tu hành đạo đức th́ tiến hoá hơn người không tu. Đại Hội Long Hoa là một cuộc thi tuyển sau một Chuyển học hỏi và tiến hoá của nhơn loại. Ai đạt được tŕnh độ tiến hóa cao th́ được chấm đậu, sẽ lănh được những cấp bằng làm Thần Thánh Tiên Phật tương ứng với tŕnh độ tiến hóa của ḿnh. Ai rớt th́ phải ở lại cơi trần để tiếp tục học hỏi và tiến hóa, chờ kỳ thi tuyển được mở ra vào cuối Chuyển tiếp theo.

Đức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (tức là Đạo Cao Đài) là để chuẩn bị cho con cái của Ngài trước kỳ thi tuyển vào Đại Hội Long Hoa kỳ thứ ba.

" Người dưới thế nầy, muốn giàu có, phải kiếm phương thế mà làm ra của. Ấy là về phần xác thịt. C̣n Thần Thánh Tiên Phật, muốn cho đắc đạo, phải có công quả. Thầy đến độ rỗi các con là thành lập một trường công đức cho các con nên đạo. Nếu chẳng đi đến trường Thầy lập mà đoạt thủ địa vị ḿnh, th́ chẳng đi nơi nào khác mà đắc đạo bao giờ." (TNHT. I. 27)

Trong Đại Hội Long Hoa kỳ thứ ba nầy, người được chấm đậu sẽ được tưởng thưởng xứng đáng bằng những phẩm vị Thần Thánh Tiên Phật, và sẽ được đưa vào những thế giới tiến hóa cao siêu hơn. Những người có công đức ít sẽ được sống sót tại quả địa cầu nầy và trở thành giống dân Thần Thông Nhơn để lập đời Thượng Nguơn Thánh đức. C̣n những người thi rớt ở Đại Hội Long Hoa nầy , họ phải ở đó chờ đợi cho đến khi nào lớp thú cầm tiến hóa lên phẩm nhơn loại th́ họ mới nhập vào, để cùng bắt đầu một chu tŕnh tiến hóa mới. Sự chờ đợi đó đôi khi phải mất hằng triệu năm th́ lớp thú cầm mới tiến hóa lên được phẩm người.   Hội Long Hoa sa thải những kẻ gian ác (kém tiến hóa) tức là những kẻ thi

rớt bằng cách nào?

- Bằng những tai Trời ách nước như : Băo tố, lụt lũ, núi lửa, động đất, bịnh chướng sát hại. Mười phần nhơn loại rớt hết 9 phần, chỉ đậu 1 phần. Do đó, trước ngày khai Đại Hội Long Hoa, sẽ có một cuộc tang thương vĩ đại, để loại trừ 9 phần 10 nhơn loại kém tiến hóa đó, mà nhiều tôn giáo gọi đó là Tận Thế, là cuộc Phán Xét cuối cùng.

TNHT.I. 87 : "Kỳ Hạ nguơn hầu măn, nhơn vật v́ tai nạn mà phải tiêu tan, 10 phần chỉ c̣n lại 1 mà thôi. Than ôi ! Buồn thôi ! Nghĩ v́ Thiên cơ định vậy, thế nào mà cải cho đặng, duy có mở tấm ḷng từ thiện ăn năn sám hối, lo việc tu hành, đồng với nhau cả quốc dân mà qú lụy khẩn cầu coi Trời có đoái tưởng đến chăng ? Bởi thế nên Đức Ngọc Đế và chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, mới lập Hội Tam Kỳ Phổ Độ đặng cứu vớt chúng sanh đương linh đinh nơi bể khổ. Nếu gặp thuyền Bát Nhă mà không xuống, không theo th́ chắc thế nào cũng chơi vơi mé biển."

Sau cuộc biến động dữ dội gọi là Tận Thế đó, th́ quả Địa cầu trở lại yên tĩnh, thời tiết trở lại điều ḥa tốt đẹp, trược khí được thổi tan, nhơn loại c̣n lại là những người hiền lương đạo đức với h́nh dáng tốt đẹp, mạnh khỏe sống lâu. Đó là khởi đầu của giống dân Thần Thông Nhơn lập đời Thượng nguơn Thánh đức. Chư Tiên Phật sẽ giáng trần hướng dẫn nhơn loại tiếp tục tiến hóa lên cao

hơn nữa.

Do đó, Đức Chí Tôn có nói :

Chừng nào đất dậy Trời thay xác, Chư Phật, Thánh, Tiên, xuống ở trần.

Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo nói về Đại Hội Long Hoa, xin trích ra sau đây:

" Long Hoa Hội là ǵ ? Long Hoa Hội là một ngày, một buổi khảo lựa của toàn thể các chơn hồn, dầu Quỉ vị hay trong Thần vị cũng vậy, định khoa mục đặng lập vị thiêng liêng.

Chúng ta hiểu rằng, mỗi Chuyển, tức nhiên là mỗi khoa mục. Hễ cuối một Chuyển, tức nhiên Hạ nguơn, là ngày định vị của các đẳng linh hồn. Thánh giáo Gia-Tô đă nói rằng : " Ngày xét đoán cuối cùng ", mà kỳ thật là ngày định vị cho chư Phật đó vậy.

Có một điều trọng hệ đương buổi nầy là buổi náo nhiệt, tại sao ? Tại măn Hạ nguơn Tam Chuyển, Thiên thơ đă định Long Hoa Hội.

Thánh giáo Chí Tôn nói : " Các con phải chung cùng nhau, tức nhiên lập Long Hoa Hội, định vị cho các chơn linh trong kỳ Hạ nguơn Tam Chuyển nầy, định vị cho họ đặng mở Thượng nguơn Tứ Chuyển cho các chơn linh." Ngài mở Long Hoa Hội ấy, tức nhiên Ngài định chấm đậu rớt cho các chơn linh vậy. V́ cớ cho nên, chúng ta ngó thấy có huyền vi bí mật nơi mặt thế nầy : Đức Chí Tôn đến mở Đạo ngày nay, chúng ta thấy oan gia nghiệp chướng trả liền buổi nầy, không cho thiếu, trả măn mới thôi. "

TÓM LẠI : - Đại Hội Long Hoa là một cuộc thi cần thiết để tuyển chọn người đạo đức trong thời kỳ cuối Hạ nguơn Tam Chuyển bước qua Thượng nguơn Tứ Chuyển, để tạo lập đời Thượng nguơn Thánh đức.

- Những người bị loại ra khỏi Đại Hội Long Hoa là những người kém tiến hóa, tức là họ c̣n gian ác xấu xa, thiếu đạo đức. Họ phải ở đó chờ đợi hằng triệu năm sau để lớp thú cầm tiến hoá lên phẩm người th́ họ cùng nhập vào mà bắt đầu một giai đoạn tiến hóa mới.

- Tỷ lệ tuyển chọn của Đại Hội Long Hoa kỳ ba nầy là 1/10. Trong 10 người chỉ có một người đậu mà thôi, c̣n 9 người kia bị loại và bị tiêu diệt. Linh hồn của họ phải chờ đợi như vừa tŕnh bày bên trên.

- Đức Di-Lạc Vương Phật đứng làm Giáo Chủ Đại Hội Long Hoa, chính Ngài là Chánh Chủ Khảo chấm thi đậu rớt.

5. Tám khuôn h́nh nơi bao lơn Ṭa Thánh

I. Hạ Vơ trị thủy : tượng trưng NÔNG.

II. Ngu Thuấn cày voi : - - CANH.

III. Toại Nhân - Hữu Sào : - - CÔNG.

IV. Phạm Lăi - Tây Thi : - - THƯƠNG

V. Khương Thượng ngồi câu : - - NGƯ.

VI. Khương Thượng ngồi câu: - - TIỀU.

VII. Sào Phủ - Hứa Do : - - MỤC .

VIII. Châu Măi Thần : - - SĨ.

Khuôn h́nh số I : Nông.

Hạ Vơ trị thủy

Ông Hạ Vơ được vua Thuấn sai đi xẻ núi đào sông, làm cho nước chảy thông ra biển, tránh lụt ngập cho dân, giúp cho nghề nông phát triển mau lẹ. Hạ Vơ là con Ông Cổn. Ông Cổn làm quan dưới triều vua Nghiêu. Vua Nghiêu sai ông Cổn trị thủy , ông Cổn làm việc trong 9 năm nhưng không thành công được điều ǵ. Sau, Ông Thuấn lên nối ngôi vua Nghiêu, lại sai con Ông Cổn là Hạ Vơ tiếp tục công việc trị thủy. Hạ Vơ vất vả làm việc trong 10 năm, làm rất khẩn trương, đi qua cửa nhà mà không có thời giờ vào thăm nhà. Ông đă khai thông được các sông ng̣i, đào thêm các kinh rạch, nhờ vậy, nước lụt thuận ḍng chảy ra biển. Đất đai không c̣n bị ngập lụt nên dân chúng cày cấy trồng trọt được, làm cho Nông nghiệp phát triển mau lẹ. Nhờ công nghiệp to lớn nầy, Ông Hạ Vơ được vua Thuấn phong làm chức Tư Không, điều khiển các quan. Vua Thuấn ở ngôi được 33 năm, lúc đó đă được 93 tuổi, nhận thấy con là Thương Quân bất tài, không phải là người hiền, nên vua Thuấn bắt chước vua Nghiêu, truyền ngôi cho người hiền là Ông Hạ Vơ. Vua Thuấn phủ dụ Ông Hạ Vơ :

" Lại đây Ông Vơ ! Trời ra tai họa nước lụt, có ư răn ta. Nay tin giữ được lời nói, làm được thành công, ấy là tài của ngươi; chăm chỉ việc nước, tiết kiệm việc nhà, bụng không tự măn, ấy là đức tốt của ngươi. Ngươi không khoe tài, không khoe công, thiên hạ không ai cùng ngươi tranh công. Ta quí các đức tốt của ngươi, khen cái công to của ngươi. Lịch số của Trời nay đến lượt ngươi, ngươi đáng lên ngôi vua. Ḷng người dễ thiên về vật dục, rất nguy ! Ḷng mến đạo th́ rất nhỏ. Cần phải xét cho tinh, giữ một mực, tin theo đạo Trung Dung, không thái quá, không bất cập. Những lời nói vu vơ, không bằng cứ vào đâu, chớ nghe. Những mưu kế độc chuyên, không hỏi ư kiến công chúng, chớ dùng.  Đáng yêu chẳng phải là vua ư ? Đáng sợ chẳng phải là dân ư ? Dân không có vua, dân trông cậy vào đâu ? Vua không có dân, vua cùng ai giữ nước?  Ngươi nên thận trọng ngôi vua, tu tỉnh những nguyện dục của ḿnh. Nhớ rằng, để dân chúng phải khốn cùng th́ lộc Trời sẽ hết. Lời nói ở miệng ra, có khi thiện cảm, có khi gây việc binh nhung. Ngươi nên lưu ư."

Sáng ngày mùng 1 tháng Giêng, Ông Vơ chịu mệnh ở miếu thờ vua Nghiêu, tổng xuất trăm quan, lên ngôi vua, nối đời vua Thuấn . Năm ấy là năm 2205 trước Tây lịch.

Khuôn h́nh số II : Canh

Ngu Thuấn cày voi

Ông Thuấn họ Ngu, cha là Cổ Tẩu, mẹ là Ốc Đăng rất hiền đức mà mất sớm. Cổ Tẩu có tánh ương gàn, mê muội, cưới vợ kế, sanh một con trai, đặt tên là Tượng.

Cảnh mẹ ghẻ con chồng thật là khắc nghiệt. Em Tượng lớn lên rất điêu ngoa. Cổ Tẩu thường nghe lời vợ kế mà đày đọa Thuấm làm nhiều điều khổ sở.

Có lần mẹ ghẻ xúi Cổ Tẩu sai Thuấn đi cày ở đất Lịch Sơn, là nơi nổi tiếng có nhiều cọp dữ, mục đích là để cho cọp ra ăn thịt Thuấn mà trừ khử Thuấn đi.

Thuấn nghe lời cha mẹ, đem cày đến Lịch Sơn không chút than van. Ḷng hiếu thảo của Thuấn cảm động Trời cao, khiến cọp dữ không dám đến gần, voi trong rừng ra cày đất cho Thuấn, chim muôn bay đến nhặt cỏ.

Thấy không hại được Thuấn bằng cách đó, bà mẹ ghẻ lại xúi Cổ Tẩu sai Thuấn đi đánh cá ở đầm Lôi Trạch, là nơi thường có gió to sóng lớn nhận ch́m ghe thuyền, không ai dám bén mảng tới đó. Thuấn vẫn nghe lời cha mẹ, đến đó đánh cá b́nh yên, sóng gió lúc đó êm lặng như ngầm giúp cho người con hiếu thảo.

Dù bị hăm hại nhiều lần, nhưng Thuấn không hề oán ghét mẹ ghẻ, và đối với em Tượng vẫn thương yêu như em ruột, sống hiền ḥa hiếu thuận, luôn luôn lo phụng dưỡng cha và mẹ ghẻ, van vái Trời Phật cho cha mẹ và em được khỏe mạnh sống lâu.

Với tấm ḷng cao cả của Thuấn, bà mẹ ghẻ lần lần hối hận những việc làm độc ác vừa qua, trở lại sống hiền lương và thương yêu Thuấn.

Tiếng hiếu thảo của ông Thuấn được đồn vang trong dân chúng, đến tai vua Nghiêu đang trị v́ thiên hạ. Vua Nghiêu không muốn truyền ngôi cho con là Đan Chu, v́ thấy con không đủ tài đức đem lại hạnh phúc cho dân, lại nghe Thuấn là người hiền, nổi tiếng hiếu thảo, đáng được truyền ngôi, nên vua Nghiêu hỏi ư kiến của quần thần :

- Trẫm ở ngôi được 70 năm, ta muốn t́m một người hiền để truyền ngôi. Các khanh tiến cử ai ?

Các quan tâu rằng :

- Ở trong dân chúng có một người hiền nổi tiếng hiếu thảo, đó là Ngu Thuấn ở đất Ngu.

- Phải, Trẫm cũng có nghe, Nhưng người ấy thế nào ?

Quan Tứ Nhạc thưa rằng :

- Người ấy là con một người mù ḷa, cha ngoan cố, mẹ ghẻ lắm điều, người em dị bào tên Tượng lại có tánh ngạo ngược, thế mà Thuấn vẫn một ḷng hiếu thuận, khiến cho họ hối lỗi, trở lại làm thiện, không xảy ra sự gian ác thêm nữa.

Vua Nghiêu nói :

- Ta thử xem sao, ta gả 2 con gái ta cho người ấy để xem cách người ấy tề gia như thế nào ?

Thế là vua Nghiêu sửa soạn hành trang, đư a cả 2 con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh đến bờ sông Vỵ, gả hết cho Thuấn. Vua Nghiêu răn hai con gái

 rằng :

- Phải kính cẩn giữ cho trọn đạo.

Sau 3 năm ḍ xét, Vua Nghiêu kêu Ông Thuấn bảo :

- Lại đây, ngươi Thuấn ! Ta hỏi công việc và xét lời nói của ngươi đều có thành tích. Đến giờ đă 3 năm, ngươi đáng được lên ngôi làm vua thay ta.

Ông Thuấn tự khiêm ḿnh là đức kém, nhưng vua Nghiêu không chịu.

Ngày mùng 1 tháng Giêng, Ông Thuấn chịu mệnh, lên ngôi vua nơi miếu thờ Đức Văn T

Khuôn h́nh số III : Công. Toại Nhân - Hữu SàoToại Nhân là người có công phát minh ra lửa, bằng cách lấy cây nhọn dùi vào gỗ, tạo sức nóng làm lửa phát ra.

Hữu Sào là người phát minh ra cách cất nhà trên cây, làm giống như cái tổ chim, để ở.

Sách Hàn Phi Tử viết : Đời Thái cổ nước Tàu, người ít mà cầm thú th́ nhiều, dân không thắng nổi thú dữ như cọp, voi, sấu, rắn, vv … Có Đấng Thánh nhân dấy lên, bày cho dân cách kết cây lại, làm giống như một cái tổ chim trên cây để ở. Khi gặp nguy hiểm th́ trèo lên cây, vào đó cư trú an toàn. Dân chúng vui ḷng, tôn lên làm vua, gọi là Hữu Sào. (Sào là cái ổ) Dân chúng lại ăn trái sống, thịt sống, tanh hôi, làm thương tổn tỳ vị, thường mắc bịnh tật, bị chết rất nhiều. Có Đấng Thánh nhân dấy lên, bày cho dân dùi vào gỗ để lấy lửa, dùng củi đốt lên để nấu chín thức ăn, khử mùi tanh hôi, lại dễ tiêu hóa. Dân chúng vui ḷng, đồng tôn lên làm vua, gọi là Toại Nhân. (Toại là lấy lửa)

Việc phát minh ra lửa là một thành tựu vĩ đại của loài người nguyên thủy, tạo ra một cuộc biến đổi toàn diện về đời sống của con người. Nhờ có lửa, con người ăn các thức ăn được nấu chín, cơ thể của con người biến đổi theo chiều hướng tiến hoá tốt đẹp. Cũng nhờ có lửa, con người biết đốt nóng kim khí để rèn, đúc các dụng cụ bằng kim khí, nâng mức sống lên một đẳng cấp rất cao so với loài cầm thú. Toại Nhân và Hữu Sào, với 2 phát minh quan trọng, đă đưa con người nguyên thủy tiến hoá lên một bực cao, thoát khỏi t́nh trạng ăn lông ở lỗ chung đụng với loài cầm thú. Do đó, Toại Nhân và Hữu Sào được xem là 2 vị Tổ Sư của ngành chế tạo công nghiệp.  Khuôn h́nh số IV : Thương. Phạm Lăi - Tây Thi

Phạm Lăi là vị tướng tài ba đă giúp vua nước Việt là Việt Vương Câu Tiễn đánh thắng và giết chết Vua Ngô Phù Sai, trả được cái nhục mất nước, vào thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Tàu.  Sau khi thành công, Phạm Lăi bí mật rút lui khỏi quan trường (Công thành thân thối), cùng với người đẹp Tây Thi, lên thuyền đi vào Ngũ Hồ, sống cuộc đời phóng khoáng tự do.

Sau đó, Phạm Lăi thay đổi tên họ, trở thành Đào Châu Công, chỉ huy một đoàn thương thuyền và một đoàn thương xa, chuyên đi buôn bán, mua hàng hóa từ nơi dư thừa, chở đến bán ở các nơi thiếu thốn, rất được các nước chư Hầu hoan nghinh. Đào Châu Công có một hệ thống xe, thuyền vận tải hàng hóa đi khắp các thị trấn lớn của nước Tàu thời bấy giờ.

Việc thương măi của Đào Châu Công thật là phát đạt.

+ Tây Thi, là người con gái rất đẹp của nước Việt, giặt lụa ở Trữ La thôn.

Vua nước Việt là Câu Tiễn muốn đem quân sang đánh nước Ngô. Phạm Lăi can rằng :

- Không nên, tôi nghe nói việc binh là điều gở, đánh nhau là điều trái với đức, tranh nhau bằng quân sự là việc thấp nhứt. Lo âm mưu làm trái với đức là việc Thượng Đế cấm. Nếu làm tất bất lợi. Việt Vương không nghe, đem binh đánh Ngô, bị vua Ngô Phù Sai và Tướng Quốc Ngũ Tử Tư đánh cho đại bại, bị bắt làm tù binh. Ngũ Tử Tư yêu cầu vua Ngô giết ngay Câu Tiễn để khỏi lưu hại về sau. Nhưng Văn Chủng đă dùng nhiều tiền bạc lo lót cho Thái Tể Phỉ, một đại thần của vua Ngô, t́m cách cứu mạng Câu Tiễn, nên Thái Tể Phỉ tâu với vua Ngô, không nên giết Câu Tiễn, chỉ nên giam cầm mà thôi. Vua Ngô sắp ưng thuận th́ Ngũ Tử Tư lại can nữa :

- Nếu nay mà Đại Vương không tiêu diệt nước Việt, th́ sau nầy sẽ hối hận. Câu Tiễn là người có chí khí, lại có 2 bề tôi tài giỏi là

Phạm Lăi và Văn Chủng pḥ tá, nước Việt sẽ mau hùng cường, nhứt định sẽ đánh lại nước Ngô.Vua Ngô không nghe, chỉ bắt Câu Tiễn giam cầm đày đọa một thời gian rồi thả cho trở về nước. Việt Vương Câu Tiễn được tha về nước rồi th́ giấu ḿnh, nuôi chí phục thù, nhưng ngoài mặt giả bộ an phận phục tùng vua Ngô, hằng năm triều cống. Phạm Lăi bí mật luyện tập quân đội, tích thảo đồn lương; Văn Chủng lo sửa sang việc chánh trị và kinh tế, đồng thời tuyển lựa một đoàn mỹ nữ, huấn luyện đủ các ngón nghề mê hoặc Ngô Phù Sai, để Việt Vương dâng hiến cho vua Ngô. Trớ thêu thay, trong đoàn mỹ nữ có nàng Tây Thi đứng đầu lại là người yêu của Phạm Lăi. Nhưng cả 2 người đều hy sinh t́nh riêng để lo báo đền ơn nước.

Ngô Phù Sai hết sức bằng ḷng đoàn mỹ nữ nầy và đặc biệt sủng ái Tây Thi. Ngũ Tử Tư vội vào triều can vua Ngô nhiều lần, nhưng vua không nghe, lại c̣n có ư bực bội.

Bảy năm trôi qua, nước Việt đă khá hùng mạnh. Việt vương nóng ḷng phục thù, muốn đem binh đánh Ngô, nhưng Phạm Lăi can v́ chưa phải lúc. Trong lúc đó, bên nước Ngô, Ngô Phù Sai tin dùng Thái Tể Phỉ, lại được Văn Chủng đem vàng bạc đút lót người để cố ư gièm pha hăm hại Ngũ Tử Tư. Âm mưu nầy dần dần thành công. Ngũ Tử Tư bị vua Ngô bức tử.  Trước khi chết, Ngũ Tử Tư bảo :

- Các ngươi hăy móc cặp mắt của ta đặt ở cửa thành phía Đông để ta xem quân nước Việt tiến vào. Việt Vương Câu Tiễn hay tin Ngũ Tử Tư bị bức tử chết th́ rất mừng, liền vời Phạm Lăi đến thương nghị việc đánh Ngô, nhưng Phạm Lăi vẫn can, v́ tuy nước Ngô mất tướng tài là Ngũ Tử Tư, nhưng thế của nước Ngô c̣n mạnh lắm.

Mùa Xuân năm sau, vua Ngô Phù Sai làm Bá Chủ chư Hầu ở phía Nam, đem đại quân lên phía Bắc, họp với các chư Hầu ở Hoàng Tri. Tinh binh của nước Ngô đều đi theo, chỉ chừa lại những lính già giữ thành mà thôi. Việt Vương Câu Tiễn lại thương nghị với Phạm Lăi và Văn Chủng xem lúc nầy đánh Ngô được chưa. Phạm Lăi đáp :

- Đúng lúc nầy mà Đại vương tấn binh th́ nhứt định đại thành công, giết được Ngô Phù Sai, trả cái thù thuở trước.

Việt Vương Câu Tiễn xuất toàn lực bất ngờ tấn công nước Ngô. Quả nhiên quân Ngô đại bại. Ngô Phù Sai dẫn binh trở về tiếp cứu, nhưng Ngũ Tử Tư đă chết rồi, trong triều không c̣n trung thần, đâu có ai chống nổi Phạm Lăi và Văn Chủng. Ngô Phù Sai đành thảm bại, che mặt ân hận nói :

- Ta không c̣n mặt mũi nào nh́n thấy Ngũ Tử Tư nữa.

Nói rồi, Ngô Phù Sai rút gươm tự sát. Toàn quân Ngô đều tan ră đầu hàng.

Phạm Lăi đă có kế hoạch chuẩn bị sẵn từ trước, liền chạy thẳng lên Cô Tô Thành, vào ngay cung cấm để t́m nàng Tây Thi, người yêu cũ 17 năm về trước, đưa nàng xuống ngay một chiếc thuyền lớn đă đậu chờ sẵn, rồi dùng mũi kiếm khắc vào thẻ trúc một mật thơ gởi cho Văn Chủng :

"Việt Vương có nói : Chim đă hết th́ cung tốt phải cất, thỏ khôn đă chết th́ chó săn bị làm thịt. Vua Việt là người cổ dài, miệng diều hâu, có thể cùng chung lo lúc hoạn nạn, nhưng không thể cùng chung hưởng với ông ta khi thành công. Sao bạn không bỏ đi ? Nếu Tử Hội c̣n tham mến công danh, ắt ngày sau không khỏi bị tai họa."

Phạm Lăi gọi một cận thần đến dặn : " Đợi ta đi khỏi Cô Tô Thành chừng nửa giờ th́ ngươi đem bức mật thư nầy giao cho Đại Phu Văn Chủng. "

Xong, Phạm Lăi cho thuyền rời ngay Cô Tô Thành, đi về phía Ngũ Hồ. Gió thổi mạnh, thuyền lướt nhanh, Thái Hồ mênh mông nh́n thấy trước mặt. Phạm Lăi và Tây Thi cùng nh́n lại phía sau, Cô Tô Thành đang c̣n ngập trong biển lửa, kết thúc một triều đại trong những mối oan cừu.

Phạm Lăi thở dài : " Tất cả đă kết thúc, hận cũ được tiêu tan, th́ thù mới sẽ tới. Việt Vương ngày nay rồi sẽ theo vết xe đổ của Ngô vương. Văn Chủng không chịu bỏ đi hôm nay th́ ngày kia cũng giống như Ngũ Tử Tư mà thôi."

Phạm Lăi nh́n Tây Thi nói :

- Ân cừu, Ngô quốc, Việt quốc, Sở quốc, có liên quan ǵ đến ta nữa chứ ? Tây Thi, từ rày về sau, chúng ta không màng đến các chuyện ấy nữa. Sóng nước Ngũ Hồ sẽ rửa sạch tất cả, để chúng ta không c̣n dính đến thế sự nữa. Tây Thi, để ta giới thiệu người nhà của ta ra mắt nàng.

Phạm Lăi đưa Tây Thi vào khoan thuyền giữa. Con lớn tên là Phạm B́nh 15 tuổi, con kế là Phạm An 11 tuổi. Cả hai lớn lên trong gian khổ, người hơi gầy nhưng chắc nịch.

Tây Thi nói :

- Phạm An giống hệt chàng lúc chàng cách nay 17 năm. Phạm Lăi đưa Tây Thi đi xem khắp các nơi trên thuyền. Trên thuyền tất cả có 10 thanh niên và 10 thiếu nữ. Phạm Lăi cho họ kết làm vợ chồng với nhau. Phạm Lăi nói :

- Chúng ta sẽ đến một nơi không có khói lửa của nhân gian, 10 cặp vợ chồng nầy sẽ sanh con đẻ cháu không ngừng.

Rồi họ đi xem các đồ vật trong thuyền, nào nông cụ, nào hạt giống, lương thực, muối ăn, rương tráp.

Tây Thi ngạc nhiên hỏi :

- Chàng đă chuẩn bị sẵn hết à ?

- Phải, lúc rời Hội Kê đi đánh nước Ngô, ta đă chuẩn bị đầy đủ tất cả.

- Nghĩa là chàng chắc chắn chiến thắng ?

- Dĩ nhiên là phải chiến thắng, bởi v́ Ngô quốc tuy mạnh hơn Việt quốc, nhưng họ thiếu những tướng tài giỏi cầm quân, trong triều, phần lớn là bọn dua nịnh. Ta đă chuẩn bị 17 năm rồi, v́ nàng mà ta lo liệu chu toàn tất cả.

Phạm Lăi và Tây Thi rời bỏ tất cả, cắt đứt mọi mối quan hệ với thế giới bên ngoài. Họ vô tư ca hát vui vẻ trên thuyền, khi câu cá, lúc đọc sách, mặc cho thời gian trôi theo ḍng nước biếc.

Một hôm, chàng cho thuyền ghé lại một bến sông, đem cá lên bờ để đổi lấy muối và lương thực. Người nhà tên là A-Mang lên bờ một lúc lâu rồi trở về thuyền báo cáo với chủ nhân :

- Việt vương treo giải thưởng nhiều vàng cho ai t́m được Phạm Đại Phu. Việt vương và Văn Đại Phu kéo đại quân cùng với 800 xe lên phía Bắc hội minh với 2 nước Tề và Lỗ. Việt vương chia nước Ngô thành quận, huyện, lấy đất ở sông Hoài cho Sở, trả cho nước Tống đất Ngô, trả cho nước Lỗ dăy đất trăm dặm ở phía Đông sông Tứ. Việt vương Câu Tiễn bây giờ làm Bá chủ chư Hầu ở phương Nam.

Tây Thi bảo :

- Thiếu Bá, chàng hỏi nhiều như thế để làm ǵ ? Các việc ấy không liên quan ǵ đến chúng ta. Chúng ta rày đây mai đó, mọi việc trên đất liền , chúng ta không nên biết tới.

- Nhưng Thái Hồ không rộng lắm, lại rất gần nước Việt, e có hôm, chúng ta phải dời đi. Lúc Việt vương từ Trung nguyên trở về, chúng ta không dễ ǵ an cư trong Thái Hồ.

Phạm Lăi cho thuyền vượt biển sang Tề, tự đặt tên mới cho ḿnh là Chi-Di Tử-B́. Sau một thời gian, Phạm Lăi cảm thấy là cũng khó ở yên được nơi nước Tề, nên quyết định chuyển sang ở đất Đào, là nơi phát tích vua Nghiêu, ở phía Nam nước Tề, giờ đây trở thành một nước nhỏ, không có xung đột, lại có thể giao lưu với các nước khác rất thuận lợi.

Chàng đă sai Phạm An đến đất Đào, lựa chỗ tốt mua 1000 mẫu đất làm cơ sở. Phạm Lăi cho đóng nhiều chiếc thuyền buôn và nhiều chiếc xe chở hàng hóa. Chàng hoàn toàn chuyển sang ngành thương măi. Chàng nói với Tây Thi :

- Ta đă nghiên cứu kỹ đại thể trong thiên hạ, biết rằng chẳng bao lâu nữa sẽ có những cuộc biến động mới lớn lao, nhưng chúng ta không sợ biến động, bởi v́ biến động là cách nâng cấp tiến bộ xă hội. Sau nầy, người làm chánh trị sẽ nhiều hơn, v́ họ chọn con đường chánh trị để vinh thân. Nhưng ngoài chánh trị, ta c̣n phát hiện được một con đường khác rất quan trọng mà trước đây chưa biết. Đó là con đường thương măi.

Thế giới của chúng ta mỗi ngày thêm đông đúc, cuộc sống càng lúc càng phức tạp hơn. Dân chúng rồi đây sẽ cần nhà thương măi hơn nhà chánh trị. Ta sẽ dốc hết tinh lực c̣n lại để lo cho công việc nầy : Đem cá, muối dư thừa nơi nước Tề, chở qua bán nơi nước Tần v́ nước Tần không có 2 thứ ấy; rồi lại chở bông vải từ nước Tần về Trung nguyên. Thực phẩm của 2 nước Ngô, Sở dư thừa, trong lúc ở Tống , Trần, Trịnh lại thiếu hụt; tơ lụa của Hàn, Sở có thể chở qua Tề, Lỗ đổi lấy đồng thau . Ôi ! Bao nhiêu việc cần thiết cho ta làm !

Từ đây, ta lấy tên là Đào Châu Công. Mọi người nhớ gọi ta như vậy.

Bấy giờ nước Tàu bước vào thời kỳ Chiến Quốc, các nước chỉ lo đánh nhau, loạn lạc khắp nơi, nhưng lại thấy xuất hiện những đoàn xe hay đoàn thuyền mang nhăn hiệu Đào Châu đi lại qua các nước một cách dễ dàng để chở hàng hóa cần thiết đến đổi các hàng hóa dư thừa của địa phương. Các đoàn xe, thuyền nầy đều xuất phát từ đất Đào. Nhờ các đoàn xe, thuyền thương măi nầy mà dân chúng có được nhiều hàng hóa tiêu dùng, đời sống dân chúng được khá hơn, mặt khác nó cũng đem lại lợi tức cho Đào Châu Công rất lớn.

Đào Châu Công cùng với bà vợ tuyệt đẹp đi viếng kinh đô Hàm Dương của nước Tần, được vua Tần tiếp đăi vào bực thượng khách. Trên đường về tới Hàn Đang có tin cấp báo từ đất Đào, nên cả 2 người phải tức tốc trở về đất Đào.

Nguyên do, con thứ Phạm An gây chuyện ở nước Sở, tranh chấp và lỡ tay giết chết một vị công hầu. Phạm An bị bắt và bị xử tử h́nh.

Vợ con của Phạm An qú xuống trước mặt Phạm Lăi cầu xin cứu mạng cho chồng. Phạm Lăi rất bi thương, song thần sắc vẫn tiêu dao, bảo con dâu :

- Chuyện nầy rất khó, ta không nắm chắc được 10 phần, nhưng chỉ biết tận lực, c̣n tùy số mạng của nó.

Bây giờ ta sai Tử Ḥa (đứa con út) vào nước Sở để cứu An th́ may ra khỏi được.

Phạm B́nh lên tiếng thưa rằng :

- Con là trưởng nam của cha, trong nhà có việc ǵ quan trọng là cha sai con đi, lẽ nào chuyện sống chết nầy lại sai em út của con đi th́ thật là sỉ nhục cho con, làm mất truyền thống trưởng tử của gia đ́nh. Xin cha để cho con đi, nếu không con sẽ tự sát.

Tây Thi cũng cho lời nói của Phạm An là đúng.

Phạm Lăi có dụng ư riêng, khó nói ra mà trong nhà không ai để ư t́m biết, nên đành phải sai Phạm B́nh đi. Âu cũng là số mạng của Phạm An không thể cải lại được. Phạm Lăi căn dặn Phạm B́nh rất kỹ lưỡng : Vào nước Sở, t́m đến Trang Tiên Sinh, dâng 1000 lượng vàng và bức thơ nầy của ta, đoạn ở chờ tại kinh đô nước Sở. Khi thấy An ra khỏi ngục th́ lập tức ra thành trở về đây. Nhớ đừng làm ǵ khác hơn mà thất bại.

Phạm Lăi dặn đi dặn lại mấy lượt rồi mới cho Phạm B́nh đi. B́nh đi rồi, Phạm Lăi rất buồn, ḷng trĩu xuống :

- Hy vọng cứu An rất ít. Các ngươi chuẩn bị lo chung sự cho An đi.

Tây Thi ngạc nhiên hỏi :

- Tại sao chàng lại nói như thế ?

- Ta muốn sai Tử Ḥa đi là v́ nguyên nhân ấy.

- Thiếp chưa hiểu được ư chàng.

- Thằng B́nh được sanh ra trong hoàn cảnh khó khăn,

 nên coi trọng tiền bạc.Tử Ḥa lại lớn lên trong cảnh giàu sang, nên xem tiền bạc như cỏ rác. Đối với B́nh, việc không đáng tốn 1000 lượng vàng, không phải không đáng tốn trước khi việc thành, mà là không đáng tốn sau khi việc thành.

Bởi v́ theo dự liệu của ta, Trang Tiên sinh sẽ nghĩ cách nói cho vua Sở đại xá, nhân thể tha cho An luôn mà không lộ điều ǵ. Nhưng rồi thằng B́nh sẽ nghĩ rằng, đại xá tù nhân là chủ ư của Sở vương, Trang Tiên sinh không có công lao ǵ, nên B́nh sẽ đến đ̣i vàng lại. Thế là người khác nhờ đại xá mà sống, c̣n Phạm An v́ đại xá mà chết.

Ta mong dự đoán của ta sai. Nhưng Tây Thi ! Mạng sống của con người đâu phải v́ một hai câu dặn mà thay đổi được, có số mạng tất cả. Hăy chờ xem.

- Ôi ! Chàng luôn luôn liệu việc như Thần, nhưng mong sao lần nầy chàng đoán sai, An được cứu sống trở về.

Chẳng bao lâu sau, B́nh chở xác em trở về tới đất Đào cùng với 1000 lượng vàng lấy lại từ Trang Tiên sinh. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Khuôn h́nh số V : Ngư

Khương Thượng ngồi câu

Sau khi Khương Thượng giết chết Tỳ Bà Tinh, Đắc Kỷ đem ḷng thù oán. Đắc Kỷ vẽ họa đồ xây cất Lộc Đài rất xa xỉ, rồi xúi vua Trụ cử Khương Thượng làm Đốc Công cất Lộc Đài.

Khương Thượng t́m cách từ chối và khuyên vua Trụ không nên xa xí. Vua Trụ nổi giận, bắt Khương Thượng hành h́nh bào lạc. Khương Thượng nhanh chân trốn thoát, độn thủy trở về nhà cho vợ là Mă Thị biết, rồi đi qua Tây Kỳ ẩn mặt nơi Bàn Khê, đói ăn trái cây, khát uống nước suối, lấy việc gieo câu sông Vỵ làm vui, chờ thời ra giúp nhà Châu.

(Xem thêm chi tiết nơi Tiểu sử : Đức Khương Thượng Tử Nha, trong Phần thứ tư).

Khuôn h́nh thứ VI : Tiều

Bá Nha - Tử Kỳ

* Bá Nha họ Du tên Thụy, người ở Sính Đô nước Sở (nay là phủ Kinh Châu, tỉnh Hồ Quảng). Tuy là người nước Sở, nhưng làm quan cho nước Tấn, chức Thượng Đại Phu.

* Tử Kỳ, họ Chung tên Huy, nhà tại Tập Hiền Thôn, gần núi Mă Yên, ở cửa sông Hán Dương, là một danh sĩ ẩn dật, báo hiếu cha mẹ tuổi già nua, làm nghề đốn củi (Tiều).

Một hôm, Bá Nha phụng chỉ vua Tấn đi sứ qua Sính Đô nước Sở, vào triều kiến vua Sở, tŕnh quốc thư và giải bày t́nh giao hiếu giữa 2 nước, được vua Sở và quần thần thiết tiệc khoản đăi. Bá Nha nhơn dịp nầy đi thăm mộ phần tổ tiên, thăm họ hàng, xong vào từ biệt vua Sở trở về nước Tấn.

Khi thuyền trở về đến cửa sông Hán Dương, nhằm tiết Trung Thu, trăng sáng vằng vặc, phong cảnh hữu t́nh, Bá Nha cho lịnh cắm thuyền dưới chân núi Mă Yên để thưởng ngoạn. Cảm thấy hứng thú, muốn dạo chơi một vài khúc đàn, Bá Nha liền sai quân hầu lấy chiếc lư ra, đốt hương trầm xông cây dao cầm đặt trên án. Bá Nha trịnh trọng nâng đàn, so dây vặn trục, đặt hết tâm hồn đàn lên một khúc réo rắt âm thanh, quyện vào khói trầm, chưa dứt, bỗng đàn đứt dây.

Bá Nha giựt ḿnh tự nghĩ, dây đàn bỗng đứt thế nầy ắt có người nghe lén tiếng đàn, bèn sai quân hầu lên bờ t́m xem có ai là người nghe đàn mà không lộ mặt.

Quân hầu lănh lịnh lên bờ th́ bỗng có người từ trên bờ lên tiếng :

- Xin đại nhân chớ lấy làm lạ, tiểu dân là tiều phu kiếm củi về muộn, trộm nghe được một khúc đàn tuyệt diệu của Ngài.

 

Bá Nha cười lớn bảo :

- Người tiều phu nào đó dám nói 2 tiếng "nghe đàn" với ta, sao ngông cuồng thế?

- Đại nhân nói sai quá vậy. Há chẳng nghe : Thập thất chi ấp, tất hữu trung tín (Một ấp 10 nhà ắt có nhà trung tín). Nếu đại nhân khinh chỗ quê mùa không người biết nghe đàn, th́ cũng không nên có người khảy lên khúc đàn tuyệt diệu.

Nghe đáp xong, Bá Nha hơi choáng váng, hối hận những lời vừa thốt ra, vội bước ra mũi thuyền, dịu giọng nói :

- Người quân tử ở trên bờ, nếu thực biết nghe đàn, biết vừa rồi ta khảy khúc ǵ không ?

- Khúc đàn đại nhân vừa tấu đó là : Đức Khổng Tử khóc Nhan Hồi, phổ vào tiếng đàn, lời rằng :

Khá tiếc Nhan Hồi yểu mạng vong,

Dạy người tư tưởng tóc như sương.

Đàn, bầu, ngơ hẹp vui cùng đạo,

Đến cuối câu thứ ba th́ dây đàn đứt, c̣n lại câu thứ tư là : Lưu măi danh hiền với kỹ cương.

Bá Nha nghe xong, đúng quá, mừng rỡ sai quân hầu bắc cầu lên bờ mời người quân tử xuống thuyền đàm đạo.

Người tiều phu ung dung xuống thuyền, chấp tay vái Bá Nha. Bá Nha vội đưa tay đáp lễ, nói :

- Xin quí hữu miễn lễ cho.

Rồi bắc ghế mời ngồi, phân ngôi chủ khách.

- Quí hữu biết nghe đàn, ắt biết ai chế ra đàn?

- Mong ơn Ngài hỏi tới, kẻ tiểu dân đâu chẳng dám nói hết cái biết của ḿnh.

Khi xưa, vua Phục Hy thấy tinh hoa của 5 v́ sao rơi xuống cây ngô đồng, chim phượng hoàng liền đến đậu. Vua Phục Hy biết ngô đồng là thứ gỗ quí, hấp thụ tinh hoa Trời Đất, có thể làm đồ nhă nhạc, liền sai người đốn cây ngô đồng xuống, cắt làm 3 đoạn để phân Thiên, Địa, Nhơn. Đoạn ngọn th́ tiếng quá trong mà nhẹ, đoạn gốc th́ tiếng quá đục mà nặng, duy có đoạn giữa th́ tiếng vừa trong vừa đục, có thể dùng được, liền đem ra giữa ḍng sông nước chảy ngâm đủ 72 ngày đêm, rồi lấy lên phơi khô, chọn ngày tốt , thợ khéo là Lưu Tử Kỳ chế làm nhạc khí, bắt chước Nhạc Cung Dao Tŕ, v́ thế đặt tên là Dao cầm.

Dao cầm nầy dài 3 thước 6 tấc, án theo 360 độ chu Thiên , phía trước rộng 8 tấc án theo Bát tiết, sau rộng 4 tấc án theo Tứ Tượng, dầy 2 tấc án theo Lưỡng Nghi, đầu như Kim đồng, lưng như Ngọc Nữ, trên chạm Long Phụng, gắn phím vàng trục ngọc. Đàn ấy có 12 phím tượng trưng 12 tháng, lại thêm một phím giữa tượng trưng tháng nhuận, trên mắc 5 dây, ngoài tượng Ngũ Hành, trong tượng Ngũ Âm : Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ.

Vua Thuấn khảy đàn Ngũ Huyền (Dao cầm), ca bài Nam Phong, thiên hạ đại trị. Vua Châu Văn vương bị Trụ vương giam cầm nơi Dũ Lư, con trưởng là Bá Ấp Khảo thương nhớ không nguôi, nên thêm một dây đàn nữa gọi là dây Văn, đàn nghe thêm ai oán.

Vơ vương đem quân phạt Trụ, thêm một dây phấn khích gọi là dây Vơ (Vơ huyền).

Như thế, Dao cầm lúc đầu có 5 dây, sau thêm 2 dây Văn và Vơ nữathành 7 dây, gọi là Thất huyền cầm.

Đàn ấy có 6 kỵ, 7 không, 8 tuyệt, kể ra :

* Sáu Kỵ là : Rét lớn, nắng lớn, gió lớn, mưa lớn, sét lớn, tuyết rơi nhiều.

* Bảy Không là : Nghe tiếng bi ai và đám tang th́ không đàn, ḷng nhiễu loạn th́ không đàn, việc bận rộn th́ không đàn, thân thể không sạch th́ không đàn, y quan không tề chỉnh th́ không đàn, không đốt ḷ hương th́ không đàn, không gặp tri âm th́ không đàn.

* Tám Tuyệt là : Thanh cao, kỳ diệu, u uất, nhàn nhă, bi đát, hùng tráng, xa vời, dằng dặc.

Đàn ấy đạt đến tận thiện tận mỹ, hổ nghe không kêu, vượn nghe không hú, một thứ nhă nhạc tuyệt vời vậy.

Bá Nha nghe xong , kính phục bội phần, hỏi thêm :

- Quí hữu quả thấu triệt nhạc lư. Khi xưa, Đức Khổng Tử đang khảy đàn, Nhan Hồi từ ngoài bước vào, thoảng nghe tiếng đàn u trầm, nghi là có ư tham sát, lấy làm lạ, liền vào hỏi Đức Khổng Tử. Ngài đáp : Ta đang khảy đàn, bỗng thấy mèo bắt được chuột, liền khởi lên ư niệm tham sát mà hiện ra tơ đồng. Nhan Hồi đă nghe tiếng đàn mà biết ḷng người khảy đàn. Nay Hạ quan khảy đàn, ḷng tư lự điều ǵ, quí hữu có thể đoán biết chăng?

- Đại nhân thử dạo một khúc xem.

Bá Nha nối lại dây đàn, tập trung tinh thần đến chốn non cao, khảy lên một khúc. Tiều phu khen rằng :

- Đẹp thay ṿi vọi ḱa, chí tại non cao.

Bá Nha ngưng thần, ư tại lưu thủy, khảy lên một khúc nữa. Tiều phu lại khen rằng :

- Đẹp thay, mông mênh ḱa, chí tại lưu thủy.

Bá Nha thấy tiều phu đă thấy rơ ḷng ḿnh qua tiếng đàn, lấy làm kính phục, liền gác đàn, sai bày tiệc rượu, đối ẩm luận đàm.

Hai người hỏi nhau tên họ, nguyên quán, nghề nghiệp. Bá Nha lại sanh ḷng cảm mến Tử Kỳ về sự hiếu với phụ mẫu, nên xin kết nghĩa làm anh em với Tử Kỳ, để không phụ cái nghĩa TRI ÂM mà suốt đời Bá Nha chưa từng gặp. Hai người đến trước bàn hương án lạy cầu Trời Đất, rồi lạy nhau 8 lạy kết làm anh em. Tử Kỳ nhỏ hơn Bá Nha 10 tuổi nên làm em. Hai anh em đối ẩm cùng nhau tâm sự măi cho đến sáng mà không hay. Tử Kỳ vội đứng lên từ biệt.

Bá Nha bùi ngùi xúc động, hẹn ước với Tử Kỳ, đúng ngày Trung Thu năm sau, hai anh em sẽ hội ngộ nhau tại ghềnh đá nầy. Bá Nha lấy ra 2 đỉnh vàng, 2 tay nâng lên nói :

- Đây là chút lễ, kính dâng bá phụ và bá mẫu. Tấm t́nh chí thành,

em đừng từ chối.

Hai người từ biệt, ḷng đầy lưu luyến.

Chẳng bao lâu, thuyền về tới bến. Bá Nha vào kinh đô tâu tŕnh Tấn Vương các việc, được Tấn vương khen tặng.

Thời gian lặng lẽ trôi qua. . . Nhớ ngày ước hẹn với Tử Kỳ, Tử Nha tâu xin vua Tấn cho nghỉ phép về thăm quê nhà.

Bá Nha thu xếp hành trang để đến núi Mă Yên kịp ngày Trung Thu ước hẹn.

Ḱa là núi Mă Yên mờ mờ sương lạnh, tịch mịch, không một bóng người. Bá Nha nghĩ thầm, năm trước nhờ tiếng đàn mà gặp được tri âm, đêm nay ta phải đàn một khúc để gọi Tử Kỳ. Rồi sai đốt hương trầm, đem Dao cầm ra so dây. Bá Nha đặt hết ḷng nhớ nhung của ḿnh vào tiếng đàn réo rắt, bỗng trong tiếng đàn lại có hơi ai oán nổi lên. Bá Nha dừng tay suy nghĩ : Cung Thương có hơi ai oán thảm thê, ắt Tử Kỳ gặp nạn lớn. Sáng mai ta phải lên bờ dọ hỏi tin tức của Tử Kỳ.

Đêm ấy, Bá Nha hồi hộp lo âu, trằn trọc suốt đêm, chờ cho mau sáng, truyền quân hầu mang theo Dao cầm, 10 đỉnh vàng, vội vă lên bờ, tiến vào núi Mă Yên. Khi qua cửa núi, gặp ngă ba đường, chưa biết nên đi theo đường nào, đành ngồi đợi để chờ người trong xóm đi ra hỏi thăm. Không bao lâu, gặp một lăo trượng tay chống gậy, tay xách giỏ, từ từ đi lại. Bá Nha thi lễ, hỏi :

- Xin lăo trượng chỉ giùm đường nào đi Tập Hiền Thôn ?

- Thượng quan muốn t́m nhà ai ?

- Nhà của Chung Tử Kỳ.

Vừa nghe 3 tiếng Chung Tử Kỳ, lăo trượng bỗng nḥa lệ, nức nở nói :

- Chung Tử Kỳ là con của lăo. Ngày rằm Trung thu năm ngoái, nó đi đốn củi về muộn, gặp quan Đại Phu nước Tấn là Du Bá Nha kết bạn tri âm. Khi chia tay, Bá Nha có tặng cho nó 2 đỉnh vàng, rồi dùng tiền nầy mua sách về học thêm, ngày đi đốn củi, tối về học sách, măi như vậy, sức khỏe hao ṃn, sanh bệnh rồi mất.

Bá Nha nghe vậy th́ khóc nức nở, thương cảm vô cùng. Lăo trượng ngạc nhiên hỏi quân hầu th́ biết thượng quan đây chính là Du Bá Nha, bạn tri âm của Chung Tử Kỳ. Chung lăo biết vậy lại càng bi thảm hơn nữa nói :

- Mong ơn thượng quan không chê con lăo hàn tiện. Lúc mất, nó dặn rằng : Con lúc sống không vẹn niềm hiếu dưỡng, lúc chết không vẹn nghĩa tri giao, xin cha chôn con nơi cửa núi Mă Yên để thực hiện lời ước hẹn với quan Đại Phu Du Bá Nha.

Lăo phu y lời con trối lại. Con đường mà thượng quan vừa đi qua, bên phải có một nấm mộ mới, đó là mộ của Tử Kỳ. Hôm nay là đúng 100 ngày, lăo mang vàng hương lên cúng mộ, không ngờ gặp được thượng quan.

Bá Nha ngậm ngùi nói :

- Việc đời biến đổi, may rủi không lường. Xin Lăo bá đưa đến mộ Tử Kỳ, bốn lạy cho vẹn t́nh tri kỷ.

Khi đến phần mộ, Bá Nha sửa lại áo mũ, sụp lạy khóc rằng : " Hiền đệ ơi, lúc sống thông minh anh tuấn tuyệt vời, nay chết , khí thiêng c̣n phảng phất, xin chứng giám cho ngu huynh một lạy ngàn thu vĩnh biệt. "

Lạy xong, Bá Nha phục bên mồ, khóc nức nở. Sau đó, Bá Nha gọi mang Dao cầm tới, đặt lên phiến đá trước mộ, ngồi xếp bằng trên mặt đất một cách nghiêm trang, so dây tấu lên một khúc nhạc thiên thu, tiễn người tri âm tài hoa yểu mạng. Bỗng thấy gió rừng thổi mạnh, mây đen kéo lại, u ám bầu trời, hồi lâu mới tan. Có lẽ đó là anh hồn của Tử Kỳ hiển linh chứng giám.

Tấu khúc nhạc xong, Bá Nha phổ lời ai oán, thay lời ai điếu, vĩnh biệt bạn tri âm, rồi đến vái cây Dao cầm một vái, tay nâng đàn lên cao, đập mạnh vào phiến đá trước mộ Tử Kỳ, đàn vỡ tan nát, trục ngọc phím vàng rơi lả tả. Chung lăo không kịp ngăn, sợ hăi nói rằng :

- Sao đại quan hủy cây đàn quí giá nầy ?

Bá Nha liền ngâm 4 câu thơ thay câu trả lời :

Dao cầm đập nát đau ḷng phượng,

Đàn vắng Tử Kỳ, đàn với ai ?

Gió Xuân khắp mặt bao bè bạn,

Muốn kiếm tri âm, ôi khó thay !

- Nguyên do là vậy. Âm nhạc là một bộ môn nghệ thuật cao siêu. Nhân đây, xin mời thượng quan đến nhà lăo để lăo cảm tạ tấm ḷng tốt đẹp của thuợng quan đối với con lăo.

- Cháu quá bi thương trong ḷng, không dám theo bá phụ về quí phủ e gợi thêm nỗi đau ḷng. Nay nghĩa đệ vắng số mất rồi, cháu kính dâng lên bá phụ vá bá mẫu 10 đỉnh vàng, một nửa dùng mua mấy mẫu ruộng làm Xuân Thu tế tự cho Tử Kỳ, một nửa xin để phụng dưỡng bá phụ và bá mẫu trong tuổi già. Chừng cháu về triều, dâng biểu lên vua xin cáo quan về quê cũ th́ cháu xin đến rước bá phụ, bá mẫu đến an hưởng tuổi già.

Nói xong, Bá Nha lấy vàng dâng lên, rồi khóc lạy mộ Tử Kỳ một lần nữa, mới trở về thuyền.

Chung lăo cảm động không cùng, nghẹn ngào đứng lặng nh́n theo bóng Bá Nha cho đến khi khuất bóng.

Khuôn h́nh số VII : Mục

Sào Phủ - Hứa Do

Sào Phủ và Hứa Do là 2 ẩn sĩ nổi tiếng thanh bạch vào thời vua Nghiêu nước Tàu.

Vua Nghiêu là vị vua hiền đức, sanh được 9 người con trai và 2 con gái, nhưng 9 người con trai nầy không có ai hiền như Ngài, nên Ngài không dám truyền ngôi cho con, mà muốn đi t́m người hiền để truyền ngôi vua.

Vua Nghiêu giả trang thường dân, đi đến chơn núi Trung Nhạc, phía Nam sông Dịch Thủy, thấy một người đang cầm cái bầu nhỏ múc nước dưới khe. Người đó là Hứa Do. Vua Nghiêu hỏi :

- Ngươi làm ǵ đó vậy ?

Hứa Do cười rằng :

- Tôi ngán cuộc đời, không ham danh lợi, lánh ḿnh một cơi, vui thú thanh nhàn, đói ăn trái cây, khát uống nước suối, giữ ḿnh trong sạch cho măn kiếp th́ thôi.

Vua Nghiêu nghe nói th́ mừng thầm trong bụng, nghĩ rằng : Người nầy hiền đức, không tham phú quí, chẳng chác thị phi, đáng được truyền ngôi, chắc là trị nước thái b́nh.

Nghĩ vậy rồi, vua Nghiêu nói rằng :

- Ta đây thiệt là vua Nghiêu giả dân mà đi t́m người hiền đức, đến đây mới gặp, xin mời hiền sĩ về trào để ta truyền ngôi cho mà trị v́ thiên hạ cho an ổn thái b́nh.

Hứa Do nghe vua Nghiêu nói thế, ḷng thiệt khó ưa, v́ ḿnh chỉ muốn thanh nhàn mà vua Nghiêu đem buộc vào danh lợi, ḷng đă cương quyết, liền đập bể cái bầu nước và đáp rằng :

- Con chim tiêu liêu làm ổ không quá một nhánh cây, con yến thử uống nước ḍng sông chẳng quá đầy bụng. Kẻ quê mùa nầy đă quen cảnh thanh nhàn, cách sống riêng biệt, Bệ hạ muốn nhường ngôi cho cũng vô ích.

Hứa Do nói xong, liền bịt chặt 2 lỗ tai, chạy riết xuống bờ sông Dịch Thủy , khoát nước sông rửa lỗ tai lia lịa.

Vừa đâu có Sào Phủ dắt trâu đến đó, thấy Hứa Do liền nói rằng :

- Anh rửa lỗ tai mau mau rồi bước lên cho trống chỗ để tôi dắt trâu xuống cho uống nước.

Hứa Do không đáp lại, cứ rửa tai hoài. Sào Phủ hỏi :

- Lỗ tai anh dơ lắm sao mà rửa hoài không sạch ?

- Hồi nảy tôi gặp vua Nghiêu, kêu tôi về triều để truyền ngôi cho tôi. Tôi nghe điều danh lợi dơ bẩn cả 2 lỗ tai, nay xuống đây rửa nảy giờ đă lâu, nhưng tiếng ấy vẫn c̣n văng vẳng trong tai, tôi rán rửa thêm cho hết, trễ việc trâu của anh uống nước.

- Anh đă làm ǵ để cho vua Nghiêu biết anh là người hiền đức mà muốn truyền ngôi cho anh ? Nếu người ta biết anh hiền đức, tức là anh đă muốn cho người ta biết anh như thế, chắc chắn hơn nữa là tại anh tỏ cho thiên hạ biết anh là hiền đức. Nếu anh đừng tỏ cho thiên hạ biết anh là hiền đức th́ ai biết anh mà truyền ngôi cho, cần chi phải rửa tai.

Sào Phủ nói xong, liền dắt trâu lên phía trên ḍng nước chảy rồi mới cho trâu xuống uống nước.

Hứa Do lấy làm kỳ, hỏi :

- Sao anh không cho trâu uống nước tại bến nầy mà lại dắt trâu đi đâu vậy cho mất công ?

- Đồ dơ trong tai anh rửa ra, uống dơ miệng trâu của tôi, nên tôi phải dắt trâu lên phía trên ḍng nước.

Theo lời người ta kể lại th́ hiện nay trên núi Cơ Sơn, ở huyện Đăng Phong tỉnh Hà Nam, c̣n ngôi mộ của Hứa Do. Ở chân núi ấy có g̣ Khiên Ngưu Khư (G̣ đất trâu). Ở bên bờ sông Dĩnh thủy có một ḍng suối tên là Độc Tuyền (Suối trâu uống), trên một ḥn đá có vết chơn trâu. Đó là nơi mà khi xưa Sào Phủ dắt trâu đến đó uống nước.

Khuôn h́nh số VIII : Sĩ

Châu Măi Thần

Châu Măi Thần, người đất Cối Kê, đời nhà Hán, nhà rất nghèo, nhưng rất ham đọc sách. Thuở hàn vi, chàng phải đi đốn củi rừng đem bán để sanh sống, thường treo sách nơi đầu gánh, vừa đi vừa đọc.

Vợ của Châu Măi Thần không thể chịu nổi cảnh nghèo túng măi như vậy được nên đ̣i thôi chồng, để đi lấy chồng khác khá giả hơn mà nương nhờ tấm thân.

Châu Măi Thần khuyên vợ :

- Năm nay tôi 49 tuổi rồi, qua năm 50 tuổi, tôi biết tôi thế nào cũng lập được công danh. Bấy lâu nay, chúng ta sống trong cảnh cơ cực cũng đă quen rồi, nay nàng rán chờ tôi một năm nữa th́ nàng sẽ hưởng được phú quí.

Người vợ liền trả lời :

- Đến chừng Ông làm quan th́ tôi đă chết đói rồi.

Thế là vợ của Châu Măi Thần nhứt quyết bỏ chồng, nàng đi lấy một anh nông dân khá giả trong làng.

Châu Măi Thần rất đau buồn. Chàng lại càng quyết tâm học tập hơn nữa, bất luận ngày đêm, cuốn sách đều kế bên ḿnh.

Năm sau, Châu Măi Thần được Nghiêm Trợ tiến cử lên vua Hán Vơ Đế, được vua thâu dụng, phong chức Trung Đại Phu. Lúc bấy giờ xảy ra giặc giă ở vùng Đông Việt. Hán Vơ Đế sai Châu Măi Thần lo chuẩn bị khí giới, thuyền bè, để cho binh sĩ đi dẹp giặc. Sau đó, Châu Măi Thần được thăng chức làm Thái Thú Cối Kê.

Cối Kê là quê hương của họ Châu. Khi Châu Măi Thần đến nhậm chức Thái Thú Cối Kê, quân dân địa phương phải ra nghênh đón. Tới nơi, bỗng thấy người vợ cũ chạy đến đón trước đầu ngựa, xin Châu Măi Thần bỏ qua chuyện lầm lỗi xưa của nàng, cho nàng trở lại làm vợ chàng.

Châu Măi Thần bèn lấy một bát nước đầy, đổ xuống đất trước đầu ngựa, rồi bảo người vợ cũ :

- Nếu nàng hốt nước lại cho đầy bát như trước th́ tôi sẽ đem nàng về với tôi như trước.

Bát nước đă đổ, làm sao hốt lại cho đầy. Bởi vậy, người vợ biết ư Châu Măi Thần đă quyết nên hổ thẹn bỏ đi.

Tuy vậy, để đáp đền t́nh nghĩa vợ chồng ngày trước, Măi Thần cấp cho người vợ cũ và chàng nông dân một ngôi nhà và một số tiền đủ để sống suốt đời. Nhưng người vợ cũ cảm thấy quá xấu hổ, nên treo cổ tự tử.

Người nông dân đem xác nàng táng bên bờ ao gần đường lộ. Người đời có khắc một bài thơ 4 câu trên cái bia đặt trước mộ nàng để làm gương cho phụ nữ đời sau :

Thanh thảo tŕ biên mộ nhứt khu,

Thiên niên mai cốt bất mai tu.

Đinh ninh kư ngữ nhơn gian phụ,

Tự cổ tào khang đáo bạch đầu.

Tạm dịch :

Một nấm mộ xanh cạnh vũng bờ,

Ngàn năm chôn xác chẳng chôn nhơ.

Đinh ninh nhắn gởi đoàn nhi nữ,

Từ cổ vợ chồng trọn tóc tơ.

6. Cây Cân Công b́nh

Khi chúng ta đứng tại thềm nơi dưới bao lơn Ṭa Thánh, chúng ta ngước mắt nh́n lên thấy một bức họa, trong đó có vẽ một bàn tay từ trong mây đưa ra, cầm một Cây Cân Công b́nh đặt trên quả Địa cầu của nhơn loại.

Đó là bàn tay của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế cầm Cây Cân Công b́nh thiêng liêng để cân tội phước của mỗi chơn hồn nơi quả Địa cầu nầy, sau khi qui liễu, trở về cơi thiêng liêng, để Đức Chí Tôn có quyết định thưởng phạt một cách thật công b́nh.

Trong Con Đường Thiêng liêng Hằng sống, Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo có thuật lại, Đức Ngài thấy Đức Chí Tôn cầm Cây Cân Công b́nh thiêng liêng nơi Bạch Ngọc Kinh :

" Khi Bần đạo vô trong, Đại Từ Phụ, muốn biết Ổng là ai ? Ông nầy có phải là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế không ? Làm sao cho tôi được biết Ổng với.

Bần đạo vừa tưởng th́ xa lắm, thấy cái ǵ bao phủ như tấm màn che vậy, vô gặp rồi, biết Ổng ở trỏng, có tấm màn che, ư muốn cái màn nầy vạch ra đặng thấy Ổng. Vừa muốn th́ thấy cái màn vẹt ra, dường như có từng nấc xa lắm, không thể ǵ tả đặng, kế đó ngó thấy Ổng bước ra, mặc áo trắng, bịt khăn trắng (giống như bộ đồ Tiểu phục của Thượng Chưởng Pháp mặc vậy), cũng có 2 miếng vải ḷng tḥng sau lưng, râu bạc trắng coi đẹp lắm, thấy thương làm sao đâu !

Trong bụng nói Ổng ngồi tại Linh Tiêu Điện, ḿnh ngó thấy Ổng mặc bộ đồ khác, không lẽ 2 người, chắc không phải là Ổng. Vừa nói rồi th́ thấy Ổng bước ra đứng ngay chính giữa , ngó ngay Bần đạo, dường như thể biểu con coi đây, ngó ngay lên Ổng, thấy đạo hào quang chiếu diệu ra, tay cầm cây gậy coi đẹp lắm, cây gậy của Ổng quảy cái bầu, bên ḿnh Ổng mang một cái bị, mặc bộ đồ Ngọc Hoàng Thượng Đế, nắm ngang cây gậy trên tay thành cây đ̣n cân, Ổng kéo cái bầu ra thành giá cân, Ổng kéo cái bị ra thành trái cân. Ba món báu ấy hiệp lại thành Cây Cân Công b́nh thiêng liêng mà chính ḿnh đă thấy Ổng nơi Linh Tiêu Điện, không c̣n ai xa lạ nữa. Cũng Đại Từ Phụ, nhưng thiên biến vạn hóa của Ổng mà tạo Càn khôn Vũ trụ vậy."

INCLUREIMAGE  \d  \z "rainbow.gif"

7. Hai pho tượng : Ông Thiện- Ông Ác

Hai bên cửa chánh Ṭa Thánh, có đặt 2 pho tượng lớn:

+ Pho tượng đứng sát Bạch Ngọc Chung Đài (phía bên Nam phái), đầu đôi kim khôi, ḿnh mặc áo giáp, tay cầm đại đao, gương mặt hiền từ, đứng trên ṭa sen, đó là Ông Thiện, gọi đúng là Thiện Thần, tượng trưng điều thiện, điều chánh.

* Pho tượng bên kia, đứng sát Lôi Âm Cổ Đài, (phía bên Nữ phái), đầu đội kim khôi, ḿnh mặc giáp, một tay cầm cái búa, một tay cầm cục Ngọc Tỷ, gương mặt hung dữ, đứng trên ṭa lửa (Hỏa đài), đó là Ông Ác, gọi đúng là Ác Thần, tượng trưng điều Ác, điều tà.

Sự tích Ông Thiện và Ông Ác như sau :

Thời Thượng cổ, vua Tỳ Kheo có 2 người con trai là Tỳ Văn và Tỳ Vơ. Tỳ Văn rất hiền lành, trái lại, Tỳ Vơ rất hung dữ.

Vua Tỳ Kheo rất hâm mộ đạo đức. Lúc ấy, Đức Nhiên Đăng Cổ Phật khai Phật giáo ở Ấn Độ (Nhứt Kỳ Phổ Độ), độ được vua Tỳ Kheo . Vua Tỳ Kheo lo lập chùa để tu niệm và muốn nhường ngôi lại cho con trưởng là Tỳ Văn hiền lành, nhưng lại sợ đứa con thứ là Tỳ Vơ hung dữ không chịu.

Vua Tỳ Kheo lập kế, sai Tỳ Vơ đi các trấn vỗ an bá tánh và đến Hàng Châu chiêu mộ anh tài. Nơi triều đ́nh, vua Tỳ Kheo tuyên bố nhường ngôi cho con trưởng là Tỳ Văn cai trị đất nước, c̣n ông th́ vào chùa tu niệm.

Khi Tỳ Vơ hoàn thành nhiệm vụ, trở về triều th́ thấy anh ḿnh là Tỳ Văn đă lên ngôi vua rồi.

Tỳ Vơ liền nói :

- Anh hiền lắm, làm vua sao được, dân không sợ đâu. Anh hăy để ngai vàng lại cho tôi. Tôi dữ là dữ với kẻ hung ác bạo tàn vô đạo, chớ không dữ với người đạo đức bao giờ.

Tỳ Văn nghe em nói vậy, biết là Tỳ Vơ muốn lên làm vua, sợ là phải thất lời với vua cha, nên Tỳ Văn vội vàng cầm Ngọc tỷ (ấn của vua bằng ngọc), chạy lên chùa để báo cáo với vua cha sự việc. Nhưng khi Tỳ Văn chạy tới cửa chùa th́ bị té chết, linh hồn thoát xác đăng Tiên.

Tỳ Vơ đuổi theo anh lên chùa, đến nơi thấy xác của anh nằm chết, cúi xuống lấy Ngọc tỷ cầm lên, ḷng đầy hối hận ăn năn, thấy con người khi chết đi, không ai đem theo được tiền tài danh vọng, nên cũng quyết bỏ hết sự đời, theo vua cha tu niệm, cuối cùng cũng đắc quả đăng Tiên.

Một người dầu ḷng dạ hung ác, nhưng biết ăn năn sám hối, giác ngộ tu hành, th́ trong một kiếp cũng có thể đắc thành Chánh quả.

Hai pho tượng Ông Thiện và Ông Ác, tức Thiện Thần và Ác Thần, tiêu biểu cho sự Thiện và sự Ác, sự Chánh và sự Tà, đối chiếu 2 mặt trái ngược nhau trong cuộc đời.

Đời chỉ ra 2 con đường : con đường Thiện và con đường Ác. Dù con người đi theo đường Ác mà đến giờ phút cuối, biết ăn năn sám hối, quày đầu hướng Thiện, th́ cũng được Đức Chí Tôn cứu rỗi linh hồn.

Khi Đức Phạm Hộ Pháp trấn Thần 2 pho tượng nầy, Đức Phạm Hộ Pháp có giải thích :

" Đời thường lầm lạc, làm điều ác cho là thiện, và thường lấy điều lành cho là ác. Nên từ đây, năng lực của Thiện Thần sẽ phô bày ra mặt Đời, thế nào là Chánh, việc nào là Thiện, làm thế nào là phước, cho thiên hạ rơ.

C̣n Ác Thần th́ phô bày ra mặt Đời, thế nào là Tà, việc nào là Ác, sao gọi là tội, cho nhơn loại rơ.

Hai Ông Thần nầy rất linh hiển, dùng quyền năng thiêng liêng đưa ra thiệt tướng 2 con đường : Phước và tội, siêu và đọa, để cho con cái Đức Chí Tôn khỏi lầm lạc, hầu tránh khỏi con đường tự diệt. Đi vào con đường sanh th́ nhơn loại mới

 mong ḥa b́nh được."

INCLUREIMAGE  \d  \z "rainbow.gif"

8. Lôi Âm Cổ Đài & Bạch Ngọc ChungĐài

* Lôi Âm Cổ Đài : Lôi Âm là tiếng sấm, cổ là cái trống, đài là cái lầu cao. Lôi Âm Cổ Đài là cái lầu cao trong đó có đặt cái Trống Lôi Âm. Trống Lôi Âm là cái trống mà khi đánh lên, tiếng trống phát ra lớn như tiếng sấm nổ.

Tiếng trống Lôi Âm có tác dụng rất mầu nhiệm, theo ư nghĩa của bài Xướng Kệ Trống Lôi Âm, mỗi khi cúng đàn. Bài Kệ nầy gồm 4 câu, có viết ra giấy dán vào nơi giá trống :

Lôi Âm Thánh cổ triệt hư không,

Truyền tấu Càn khôn Thế giái thông.

Đạo pháp đương kim dương Chánh giáo,

Linh quang chiếu diện Ngọc Kinh Cung.

Nghĩa là :

Tiếng trống Lôi Âm thiêng liêng huyền diệu vang rền đến các cơi Hư không,

Tiếng trống truyền đi như tỏ bày cho tất cả các cơi trong Càn khôn Thế giới biết rơ.

Giáo lư và Luật pháp của Đạo Cao Đài hiện nay nêu cao cho mọi người biết đây là một nền Chánh giáo của Đức Chí Tôn.

Ánh sáng thiêng liêng chiếu sáng rực rỡ Ṭa Bạch Ngọc Kinh.

Khi tiếng trống Lôi Âm khởi lên là để báo hiệu cho chư Thần Thánh Tiên Phật biết đến giờ chầu lễ Đức Chí Tôn nơi Bạch Ngọc Kinh.

* Bạch Ngọc Chung Đài : Chung là cái chuông, bạch ngọc là ngọc trắng, đài là cái lầu cất cao lên. Bạch Ngọc Chung Đài là cái lầu cao trên đó có đặt một cái chuông lớn bằng ngọc trắng.

Tiếng chuông Bạch ngọc phát ra có tác dụng rất mầu nhiệm theo ư nghĩa của bài Xướng Kệ Chuông Bạch ngọc mỗi khi cúng đàn. Bài xướng nầy gồm 4 câu, có chép ra giấy dán vào giá chuông :

Thần chung thinh hướng phóng Phong đô,

Địa Tạng khai môn phóng xá cô.

Tam Kỳ vận chuyển kim quang hiện,

Sám hối âm hồn xuất u đồ.

Nghĩa là : Tiếng chuông thiêng liêng huyền diệu phát ra truyền đến cơi Phong đô,

Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, Giáo chủ cơi Phong đô mở cửa tha tội và phóng thích các tội hồn. Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức là Đạo Cao Đài, vận chuyển và làm hiện ra một lằn ánh sáng vàng, Các chơn hồn nơi cơi Âm biết ăn năn sám hối tội t́nh sẽ đi ra khỏi những con đường tăm tối (tức là được siêu thăng)

9. Bó hoa

Nơi mặt tiền của Lầu chuông (Bạch Ngọc Chung Đài) và Lầu trống (Lôi Âm Cổ Đài), chỗ khoảng rộng nhứt, có đắp h́nh một bó hoa nhiều màu sặc sỡ, như đang rơi xuống biển lúc mặt trời mọc.

H́nh ảnh nầy lấy theo sự tích của vua U Vương nhà Châu (781 trước Tây lịch, trước thời Xuân Thu Chiến quốc bên Tàu). Vua U Vương nằm chiêm bao thấy một bó hoa nhiều màu từ trên trời rơi xuống mặt biển trong lúc mặt trời mọc. Sáng ra nhà vua thuật lại điềm chiêm bao cho vị quan đoán mộng xem đó là điềm ǵ ?

Vị quan giải mộng tâu rằng : Bệ hạ thấy biển, ấy là nước của Bệ hạ, thấy mặt trời mọc, ấy là một mối đạo sắp được mở ra, thấy bó hoa ấy là sự tinh túy cao khiết. Như vậy, theo điềm chiêm bao nầy, trong nước của Bệ hạ sắp có một mối đạo mở ra cao quí tốt đẹp.

Quả nhiên, sau đó Đức Lăo Tử, một hóa thân của Đức Thái Thượng Đạo Quân, hiện xuống cơi trần, mở Đạo Tiên để cứu độ nhơn sanh.

Ư nghĩa nầy gợi cho chúng ta nhớ lại 4 câu kinh đầu trong Bài Khai Kinh :

Biển trần khổ vơi vơi trời nước,

Ánh Thái dương giọi trước phương Đông.

Tổ Sư Thái Thượng Đức Ông,

Ra tay dẫn độ, dày công giúp đời.

Đó là chuyện thời xưa. Ngày nay, h́nh ảnh bó hoa rơi lúc mặt trời mọc, cũng là để tượng trưng cho một điềm lành, báo cho nhơn loại biết là Đạo Cao Đài mở ra tại một nước ở phương Đông để cứu độ nhơn sanh, đem vào tham dự Đại hội Long Hoa.

INCLUREIMAGE  \d  \z "rainbow.gif"

10. Hiệp Thiên Đài

Giữa Lầu chuông và Lầu trống có một kiến trúc 3 từng, gọi chung là Hiệp Thiên Đài.

Từng trệt, được gọi là Tịnh Tâm Điện. Người tín đồ bước vào nơi đây, phải giữ cái tâm cho trong sạch, tư tưởng thanh khiết, trước khi vào Chánh điện chầu lễ Đức Chí Tôn.

Từ Tịnh Tâm Điện, 2 bên có 2 cầu thang hẹp đi lên từng trên : Lầu 1.

Lầu 1 nầy khi xưa được gọi là Tham Thiền Điện, nhưng ngày nay v́ có bàn thờ chư vị Chức sắc Đại Thiên Phong Hiệp Thiên Đài, nên thường được gọi là Lầu Hiệp Thiên Đài.

Lầu 2, tức là từng cao hơn hết, khi xưa gọi là Tiêu Diêu Điện, nay gọi là Phi Tưởng Đài, ở mặt trước có đắp h́nh Thiên Nhăn rất lớn, và bên trong cũng có h́nh Thiên Nhăn, có bàn thờ và đốt nhang.

Phi Tưởng Đài là nơi để Đức Giáo Tông và Đức Hộ Pháp lên thông công cùng Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng, quyết định những điều quan trọng trong nền Đạo.

Trên nóc Phi Tưởng Đài là tượng Đức Di-Lạc Vương Phật ngự ṭa sen đặt trên lưng một con cọp vàng.

INCLUREIMAGE  \d  \z "rainbow.gif"

11. Thất Đầu Xà

Thất Đầu Xà là con rắn có 7 đầu. Phật giáo ví Thất T́nh (Hỷ, Nộ, Ái, Ố, Ai, Lạc, Dục) của con người như 7 đầu rắn độc, v́ Thất T́nh làm hại con người giống như nọc độc của 7 đầu rắn.

Dưới 3 cái ngai của Đức Hộ Pháp, Đức Thượng Phẩm, Đức Thượng Sanh, có đắp h́nh Thất Đầu Xà, đuôi rắn quấn ngôi Thượng Sanh, ḿnh rắn quấn ngôi Thượng Phẩm, c̣n 7 đầu rắn ở ngôi Hộ Pháp chia ra : 3 đầu Hỷ, Ái, Lạc, ngóc lên ở phía sau ngai Hộ Pháp, 2 đầu Ai và Nộ gục xuống thấp nhất để 2 chân của Đức Hộ Pháp đặt lên chế ngự nó, 2 đầu O Á và Dục gục xuống vừa thấp để 2 tay của Đức Hộ Pháp đặt lên như đè nén nó xuống.

Đức Phạm Hộ Pháp có một bài thuyết đạo Giải nghĩa Thất Đầu Xà, 7 nọc độc của rắn, xin chép ra sau đây :

" Hỷ, Nộ, Ái, Ố, Ai, Lạc, Dục ở trong châu thân con người. Phàm con người ở thế, từ ngôi thiên tử cho đến hàng thứ dân, ai cũng có đủ 7 cái T́nh ấy tất cả, nhưng do người biết độ lượng cho vừa theo bực trung th́ mới khỏi hại đến châu thân và sự nghiệp.

1. Chữ Hỷ là mừng : Con người khi gặp việc đáng vui mừng th́ cũng phải trầm tĩnh như thường, chẳng nên mừng thái quá mà biến thành sự hại.

Ví như Ông Tŕnh Giảo Kim, nghe tin ḍng họ Tiết, Tiết Giao, Tiết Quỳ, pḥ Lư Đáng, đem binh về phục nghiệp Đường trào, trừ Vơ Hậu, th́ Ông ta mừng quá độ, phát thinh đại tiếu, cười ngất cho đến tắt hơi. Ấy là mừng quá mà chết. Đời nay có kẻ trúng số độc đắc mà chết.

2. Chữ Nộ là Giận : Con người v́ giận quá mà sanh hại đến gia đ́nh, hoặc bị tù tội là khác. Nên có câu : "Nhứt Nộ sầu tâm khởi, bát vạn chướng môn khai." Nghĩa là : Một phen giận nổi lên th́ trăm ngàn nghiệt chướng sanh ra, có thể làm tiêu nhà hại mạng, đến khi biết sự chẳng lành, tỉnh lại ăn năn th́ đă muộn, nghĩ thôi đáng tiếc.

Ví như Ông Châu Công Cẩn (Chu Du), lầm mưu Khổng Minh Gia Cát Lượng, mà nộ khí xung thiên, đến đổi thổ huyết lâm lụy mà chết. Ấy là một gương nêu cho đời lưu ư, c̣n nhiều sự giận mà chiụ khổ h́nh.

3. Chữ Ai là Buồn : Ấy cũng là một điều hư hại đến thân thể và trí năo tinh thần. Có nhiều người gặp việc sanh ly tử biệt, hay là đấu lực tranh tài mà chẳng may thất bại, th́ cũng buồn thảm đến lụy thân.

Ví như Thạch Sùng đấu của nhà giàu, mà thiếu mẻ kho, phải chịu mất hết gia tài, rồi ông buồn rầu mà thất chí đến lụy thân. Ấy là sự buồn rầu đến hại lớn, đáng làm gương cho người sau. Nếu khi gặp cảnh chẳng may, phải có năng lực đạo đức tinh thần mạnh mẽ mà làm kế bảo tồn tức là phương an ủi tâm hồn mát mẻ.

4. Chữ Lạc là Vui : Sự vui vẻ hân hoan khoái chí, sự vui vẻ phải có chừng mực, th́ mới tránh khỏi các điều tai hại biến sanh. Có câu : "Cực lạc sanh bi." Hễ sự vui thích đến quá mức th́ trở nên buồn thảm, điều ấy vẫn hiển nhiên.

Ví như Trụ Vương Ân Thọ, đắm mê nàng Đắc Kỷ, vui say tửu sắc, đến nỗi mất nước tiêu nhà hại mạng. Sự vui chơi của ông có lắm điều tàn ác, nào là chế bào lạc hại quan trung thần, nào là lập Sái bồn, Tửu tŕ, Nhục lâm, sát hại cung nga thể nữ, vui cho đến mất cả sự nghiệp Thành Thang, làm cho bá tánh điêu tàn, sanh linh đồ thán. Ấy là sự vui chơi mà mắc tội với Thiên đ́nh.

5. Chữ Ái là Thương yêu : Có câu : "Ái nhơn như ái kỷ", nghĩa là : Thương hết mọi người như thương ḿnh vậy, mới gọi là Bác ái. Bác ái là rộng thương, mà thương v́ công b́nh chánh trực, nhơn nghĩa đạo đức tinh thần, thương nước thương dân, chớ chẳng phải thương riêng v́ cá nhân vật chất, hay v́ bợ đỡ nịnh hót mà thương, hoặc thương v́ ái t́nh tài sắc. Trong sự thương giới hạn phân minh mới tránh khỏi điều tai hại.

Có tích xưa đời Tam Quốc, có Đổng Trác và Lữ Phụng Tiên (Lữ Bố), đă kết nghĩa minh linh dưỡng tử, mà v́ ái t́nh với một gái Điêu Thuyền, đến đổi cha con giết hại lẫn nhau. Ấy là do nơi dây ái t́nh mà điêu tàn chết thảm. C̣n nhiều người tài hay, phá núi lấp sông, văn chương trí tuệ, mà chẳng v́ đạo đức, mảng sa mê sắc dục mà phải hư hại thân thể.

6. Chữ Ố là Ghét : Người tu hành không nên chất chứa sự ghét trong tâm, v́ sự ghét giận mà sanh ra thù nghịch lẫn nhau cho đến tàn hại nhau, mà gây thành oan trái, trả vay đời đời kiếp kiếp.

Nên Đức Chí Tôn có dạy rằng : Sự thương yêu là ch́a khóa mở cửa Tam thập lục Thiên, đặng vào nơi Bạch Ngọc Kinh, c̣n sự ghét là phương tà mị, nó làm cho ḷng người chia rẽ, mất t́nh đoàn thể, cốt nhục phân ly cũng do sự ghét.

Vấn đề chữ Ố, nó làm cho ḷng người nhiều điều tai hại nói không cùng.

Tóm lại, chỉ nhớ một câu của Thầy dạy ra : Từ đây các con chẳng đủ sức thương yêu nhau th́ cũng chẳng đặng ghét nhau." Sau lại có câu phương ngôn của Thầy rằng : " Thương người khác thể thương thân, Ghét người khác thể vun phân cho người."

7. Chữ Dục là Tham muốn : Người có 100 muốn, 1000 muốn, muốn hoài không dư, nào là muốn nhà cao lầu rộng, áo đẹp vợ xinh, đồ ăn mỹ vị, muốn thế nào cho được giàu sang trên thiên hạ. Các điều muốn ấy là về sự ích kỷ. Nếu được tấm ḷng tham muốn về đạo đức nhơn nghĩa, ích nước lợi dân, ấy là sự muốn trở nên cao thượng.

Tóm tắt lại, sự dục vọng của con người rất bao la quảng đại, đến khi c̣n một hơi thở cuối cùng mà mọi điều ham muốn cũng chưa đầy đủ, nên có câu : "Nhơn tâm bất túc xà thân tượng, Thế sự đáo đầu đường bộ phàn." nghĩa là : Ḷng người chẳng đủ như rắn nuốt voi, Việc đời đến lúc cùng tận chẳng khác châu chấu bắt ve.

Cũng v́ ḷng tham muốn mà rốt cuộc mạnh yếu sang hèn, cũng v́ ḷng tham muốn mà mà tương sát lẫn nhau."

12. Cửu Trùng Đài & Nghinh Phong Đài

Cửu Trùng Đài là một kiến trúc lớn, gồm 9 cấp từ thấp dần lên cao, nối liền Hiệp Thiên Đài và Bát Quái Đài.

Cấp thứ 1 thấp nhứt (từ HTĐ đếm vào), cấp thứ 2 cao hơn cấp thứ 1 là 18 phân, lên đến cấp 5 là cấp chính giữa CTĐ, vị trí ngang với 2 cửa hông Ṭa Thánh.

Nơi cấp thứ 5 nầy dành cho Chức sắc phẩm Giáo Hữu và tương đương chầu lễ Đức Chí Tôn. Phía trên nóc của cấp nầy có một kiến trúc đặc biệt gọi là Nghinh Phong Đài, để nghinh tiếp các Chức sắc được phong thưởng vào hàng Thánh. (Ngài Khai Đạo Phạm tấn Đăi dịch Nghinh Phong Đài ra tiếng Pháp là : Le Dôme de Canonisation) [Nghinh là nghinh tiếp, Phong là phong thưởng, Đài là cái lầu cao]. Cho nên cấp bên dưới Nghinh Phong Đài dành cho phẩm Giáo Hữu là phẩm khởi đầu của hàng Thánh, đối phẩm Địa Thánh.

Nghinh Phong Đài gồm có 3 phần :

- Phần dưới h́nh vuông, tượng trưng Đất.

- Phần giửa h́nh ống tṛn, tượng trưng Trời, v́ người xưa cho rằng Trời tṛn Đất vuông (Thiên viên Địa phương).

Trời là Dương, Đất là Âm, Âm Dương tương hiệp mới phát khởi Càn khôn Vũ trụ và hóa sanh vạn vật.

- Phần trên của Nghinh Phong Đài là một bán cầu úp xuống, có vẽ bản đồ các lục địa và đại dương của Địa cầu, tượng trưng cơi trần của nhơn loại. Phía bên trên bán cầu nầy là h́nh Long Mă phụ Hà Đồ (Xem giải thích nơi mục số 18).

Trở xuống các cấp CTĐ, 2 cây cột rồng xanh giữa 2 cấp thứ 5 và thứ 6 có đúc 2 cái Giảng đài. Sau mỗi đàn cúng có Chức sắc lên đứng trên Giảng đài nầy thuyết đạo. Chức sắc Nam phái đứng thuyết đạo bên Giảng đài phía Nam phái, Chức sắc Nữ phái lên đứng trên Giảng đài phía Nữ phái. Đặc biệt trong các thời cúng Tiểu đàn hay Đại đàn, một vị Giáo Sư phái Ngọc lên Giảng Đài Nam phái để xướng lễ, và một Chức sắc Bộ Nhạc lên Giảng đài Nữ phái để ra hiệu lịnh điều khiển 3 Ban Nhạc, Lễ và Đồng nhi.

Lên đến cấp thứ 9 là cấp cao nhứt CTĐ, tiếp giáp với Cung Đạo, ở chính giữa có 7 cái Ngai sơn son thếp vàng rất long trọng và lộng lẫy, đặt trên bục gỗ, chia làm 3 lớp : 1 Ngai Giáo Tông đặt trên cao hơn hết, kế dưới là 3 Ngai Chưởng Pháp nhỏ hơn, dành cho 3 vị Chưởng Pháp 3 phái, đặt theo hàng ngang, và chót hết là 3 Ngai Đầu Sư dành cho 3 vị Đầu Sư 3 phái Thái, Thượng, Ngọc.

Thượng Chưởng Pháp và Thượng Đầu Sư ngồi trên 2 cái Ngai đặt ở hàng chính giữa, trước Ngai của Đ. Giáo Tông.

Thái Chưởng Pháp và Thái Đầu Sư ngồi trên 2 cái Ngai đặt hàng bên tay trái của Đức Giáo Tông.

Ngọc Chưởng Pháp và Ngọc Đầu Sư ngồi trên 2 cái Ngai đặt hàng bên tay mặt của Đức Giáo Tông.

Việc làm 7 cái Ngai nầy do Đức Chí Tôn giáng cơ chỉ dạy Ông Giáo Hữu Kiệt coi sóc mướn thợ làm vào ngày 12-8-Bính Dần (dl 17-9-1926).

TNHT. I. 44 : " Kiệt ! Con phải giúp Thơ trong việc lập Thánh Thất. Thầy giao cho con phải săn sóc mướn thợ làm 7 cái ngai : Một cái trọng hơn hết cho Giáo Tông, 3 cái cho 3 vị Chưởng Pháp, 3 cái cho 3 vị Đầu Sư; nhứt là cái ngai của Giáo Tông phải làm cho kỹ lưỡng, chạm trổ Tứ linh, nhưng chỗ hai tay dựa phải chạm 2 con Rồng, c̣n của Chưởng Pháp chạm 2 con Phụng, của Đầu Sư chạm 2 con Lân, nghe à!"

Hai bên 7 cái Ngai nầy là 2 hàng tàn, mỗi hàng 3 cây tàn với 3 màu : Vàng, Xanh, Đỏ.

Cấp thứ 8 (dưới cấp thứ 9 có 7 cái Ngai), 2 bên có 2 Dàn Bát Bửu, mỗi bên có 3 cây lọng đặt xen kẽ vào.(Xem giải thích Dàn bát Bửu nơi mục số 20).

INCLUREIMAGE  \d  \z "rainbow.gif"

13. Bát Quái Đài

Bát Quái Đài là cái đài cao có h́nh 8 cạnh đều nhau, mỗi cạnh là một cung của Bát Quái. Tám cạnh là 8 cung Bát Quái, gồm : Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.

Bát Quái Đài dùng làm nơi thờ Đức Chí Tôn, các Đấng Giáo chủ và chư Thần Thánh Tiên Phật. Mỗi khi cúng đàn tại Ṭa Thánh, đều có Đức Chí Tôn và chư Thần Thánh Tiên Phật giáng ngự chứng lễ.

Khoảng giữa Bát Quái Đài và Cửu Trùng Đài là Cung Đạo.

Các cây cột Rồng (Long trụ) nơi Bát Quái Đài đều quấn rồng vàng.

Ở từng trệt, Bát Quái Đài có 12 cấp h́nh 8 cạnh đều nhau, bên ngoài lớn và thấp, vô trong nhỏ lại và cao hơn, xếp như bực thang, mỗi cấp cao 10 phân. Tất cả các cấp Bát Quái đều làm bằng đá mài màu vàng, cả các mái cong trên nóc cũng được sơn màu vàng.

Trung tâm của Bát Quái Đài ở từng trệt nầy là một cây trụ lớn, rất chắc chắn để giữ vững Quả Càn Khôn bên trên.

Trên mặt của phần Trung tâm Bát Quái có cẩn đủ 8 Cung Bát Quái, 8 Cung nầy có vị trí đặc biệt khác hơn Tiên Thiên Bát Quái Đồ của Phục Hy và Hậu Thiên Bát Quái Đồ của Văn Vương, v́ đây là Bát Quái Cao Đài. (Xem h́nh vẽ)

Đức Chí Tôn giáng cơ dạy về vị trí các cung Bát Quái của Đạo Cao Đài như sau :

" Thầy dạy : Ṭa Thánh day mặt về hướng Tây, tức là chánh Cung Đoài, ấy là Cung Đạo, c̣n bên tay trái Thầy là Cung Càn, bên tay mặt Thầy là Cung Khôn. Đáng lẽ Thầy phải để 7 cái ngai của phái Nam bên tay trái Thầy, tức bên Cung Càn mới phải, song chúng nó v́ thể Nhơn Đạo cho đủ Ngũ Chi, cho nên Thầy buộc phải để vào Cung Đạo là Cung Đoài, cho đủ số." (Trich Pháp Chánh Truyền Chú Gỉải, trang 41).

Các quẻ trong Bát Quái Cao Đài, nếu đem so sánh với Hậu Thiên Bát Quái Đồ th́ thấy rằng : thứ tự các quẻ giống nhau, nhưng chiều quay khác nhau. Bát Quái Hậu Thiên quay theo chiều kim đồng hồ, c̣n Bát Quái Cao Đài quay ngược chiều kim đồng hồ, tức là cùng chiều quay tự nhiên của Địa cầu, cũng là chiều quay tự nhiên của vũ trụ.

Trục Đông Tây của Bát Quái Cao Đài giống với trục Đông Tây của Bát Quái Hậu Thiên, tức là trục của 2 cung Chấn, Đoài; nhưng trục Bắc Nam của Bát Quái Cao Đài và của Bát Quái Hậu Thiên đối ngược nhau, 2 Cung Khảm và Ly đổi chỗ cho nhau.

Nếu so sánh Bát Quái Cao Đài với Bát Quái Tiên Thiên, vị trí các Cung hoàn toàn khác nhau. (Xem h́nh vẽ)

14. Hầm Bát Quái

Phần dưới của 12 cấp Bát Quái Đài, tức là thuộc phần nền của Bát Quái Đài, có đào một cái hầm lớn, được xây cất kiên cố theo h́nh Bát Quái, có thông hơi và có nắp đậy chắc chắn, có cầu thang đi xuống, gọi là Hầm Bát Quái.

Hầm Bát Quái được dùng làm nơi cất giữ tro thiêu hài cốt của các Chức sắc Đại Thiên Phong từ hàng Tiên vị trở lên, tức là từ phẩm Đầu Sư hay tương đương trở lên. Hài cốt nầy đặt trong liên đài, được lấy ra từ các bửu tháp, đem làm lễ hỏa thiêu tại Cửu Trùng Thiên nơi Đại Đồng Xă trước Ṭa Thánh, lấy tro đựng vào thố, bên ngoài có ghi rơ phẩm tước, Thánh danh, năm sanh năm tử, và ngày hỏa thiêu, để lưu truyền kỷ niệm về sau.

Trong đám tang Ngài Bảo Đạo Ca minh Chương (đăng Tiên ngày 19-10-Đinh Măo, dl 13-11-1927), Đức Chí Tôn dạy Đức Phạm Hộ Pháp như sau :

" Thầy cũng nhắc lại với con rằng : Đủ 3 năm phải thiêu hài cốt, lên tượng, đặng đem nó vào Bát Quái Đài nghe ! Nơi mộ nó phải để quan tài khỏi mặt đất một tấc mà xây tháp y như lời Thầy đă dặn. Trên mặt tháp để chữ vàng "Bảo Đạo Chơn Quân", nhớ à ! " (Trích trong Đạo Sử II trang 314 của Bà Nữ Đầu Sư Nguyễn Hương Hiếu).

Trong Hầm Bát Quái hiện nay có đặt 6 cái thố đựng tro thiêu hài cốt của 6 vị Chức sắc Đại Thiên phong đă đăng Tiên, kể ra sau đây :

- Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung.

- Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh.

- Thái Đầu Sư Thái Thơ Thanh.

- Ngọc Đầu Sư Ngọc Trang Thanh.

- Thượng Phẩm Cao quỳnh Cư.

- Bảo Đạo Ca minh Chương.

15. Tứ Linh

Tứ Linh là 4 con thú thiêng liêng : Long, Lân, Qui, Phụng. Long là rồng, Lân là con Lân, Qui là con rùa, Phụng là con chim phụng. Bốn con thú nầy đều có tánh linh, mỗi khi xuất hiện là báo điềm lành có Thánh nhân ra đời.

I. LONG : Rồng.

Rồng là con vật ở cơi vô h́nh, theo truyền thuyết kể lại, chớ khoa khảo cổ học chưa chứng minh được rồng là con vật có thật như các con vật khác như Rùa, chim Phụng.

Theo Thần thoại, Rồng có h́nh dạng rất lạ kỳ : Đầu rồng giống như đầu đà, sừng giống như sừng nai, cổ giống như cổ rắn, bụng giống như bụng con giao, mắt giống như mắt thỏ, tai giống như tai ḅ, chân giống như chân cọp, móng giống như móng chim ưng, vảy rồng giống như vảy cá ly.

 

Có rất nhiều loại rồng, được phân chia theo màu sắc, hoặc theo h́nh dạng, hay phận sự của nó.

1. Phân chia theo màu sắc :

Rồng có 5 loại theo 5 màu :

- Rồng trắng : Bạch Long, chúng ta thấy nơi Bát Quái Đài Ṭa Thánh có 8 con rồng trắng nằm canh giữ nơi thờ phượng trong Bát Quái Đài.

- Rồng vàng : Huỳnh Long, chúng ta thấy có 8 con rồng vàng quấn 8 cây cột nơi Bát Quái Đài, và 2 con rồng vàng quấn quanh 2 cây cột nơi Cung Đạo.

- Rồng xanh : Thanh Long, chúng ta thấy rồng xanh quấn trên 18 cây cột của Cửu Trùng Đài.

- Rồng đỏ : Xích Long, chúng ta thấy rồng đỏ quấn trên 2 cây cột dưới bao lơn trước Ṭa Thánh.

- Rồng đen : Hắc Long.

2. Phân chia theo h́nh dáng : Có 3 loại :

- Rồng trẻ, đầu chưa có sừng, gọi là Ly Long.

- Rồng sống được 500 năm th́ mọc sừng, gọi là Cù Long.

- Rồng sống được 1000 năm th́ mọc thêm cánh, gọi là Ứng Long.

3. Phân chia theo nhiệm vụ : Có 4 loại :

- Thủ Thiên Cung Long : Rồng giữ Thiên Cung.

- Hành Vơ Long : Rồng làm mưa.

. Rồng làm mưa gió thuận ḥa gọi là Thiện long.

. Rồng làm mưa to, băo lụt gọi là Ác long.

- Địa Long : Rồng ở dưới đất sâu, làm hầm, khoét hang, làm cho đất khuyết thành sông thành hồ.

- Phục Tạng Long : Rồng ǵn giữ kho tàng của vua Chuyển Luân Thánh Vương và của các nhà phước đức lớn.

Rồng là loài biến hoá, làm sáng được, làm tối được, làm lớn được, làm nhỏ được để có thể chun vào một cái lọ nhỏ, làm dài được để có thể quấn quanh một ḥn núi.

Nhằm tiết Xuân phân, Rồng bay lên Trời, nhằm tiết Thu phân, Rồng trầm xuống vực sâu.

Tương truyền, Rồng ở đáy biển, gọi là Long Vương, có cung điện, lâu đài, có tổ chức vua, quan, và dân. Rồng làm vua, cá lớn làm quan, cá nhỏ làm dân.

Theo Truyện Phong Thần và Truyện Tây Du, bốn biển có Tứ Hải Long Vương:

. Đông Hải Long Vương tên là Ngao Quảng,

. Nam Hải Long Vương tên là Ngao Thuận,

. Tây Hải Long Vương tên là Ngao Khâm,

. Bắc Hải Long Vương tên là Ngao Nhuận.

Con ngựa trắng (Bạch mă) mà Thầy Tam Tạng cỡi đi Tây phương thỉnh kinh là do một con rồng nhỏ biến thành. Con Tiểu long nầy vốn là con của Bắc Hải Long Vương Ngao Nhuận, phạm tội nặng , bị bắt treo lên chờ xử trảm. May mắn gặp Đức Quan Âm Bồ Tát đi ngang qua, thấy vậy thương t́nh, tâu xin Thượng Đế tha chết cho Tiểu long, để sau nầy Tiểu long biến hóa thành con Bạch mă đỡ chân Tam Tạng, đi Tây phương thỉnh kinh, lấy công chuộc tội. Nhờ vậy, sau nầy bạch mă biến trở lại thành Rồng, trở về Long Cung.

Có loại rồng lai với ngựa, tạo thành một con thú linh ḿnh ngựa đầu rồng, gọi là Long mă.

II. LÂN : Con Lân, cũng gọi là Kỳ Lân, v́ con đực được gọi là Kỳ, con cái gọi là Lân. Lân có h́nh giống như con hươu nhưng lớn hơn, ḿnh có vảy, đuôi giống đuôi trâu, chân giống chân ngựa, miệng rộng, mũi to, đầu có một sừng, lông trên lưng có 5 màu, lông dưới bụng chỉ có màu vàng, tánh rất hiền lành, không đạp lên cỏ tươi, không làm hại các sanh vật, nên được gọi là Nhân thú (con thú có ḷng nhân từ).

Vua chúa nào là người nhân th́ được gặp Kỳ Lân.

III. QUI : Rùa : Rùa là con vật sống rất lâu năm, chuyên ăn rau cỏ, nhiều khi không ăn, chỉ hớp sương mà sống và lớn lên.

Qui sống trên 5000 năm th́ gọi là Thần Quy.

Thần Kim Quy là con Thần Quy ḿnh vàng.

Qui sống trên 10 000 năm được gọi là Linh Quy.

Tương truyền, rừng nào có Thần Quy ở th́ rừng ấy không có cây cỏ độc hại, không có các loài thú độc như : Rắn, rít, beo, vv…

IV. PHỤNG : Chim Phụng hay chim Phượng, con mái được gọi là Loan, con trống được gọi là Phụng. Đó là loài chim có bộ lông ngũ sắc rất đẹp, được xem là vua loài chim, nên mới gọi là Phượng Hoàng.

Chim Phụng thích đậu trên cây ngô đồng, v́ cây ngô đồng rất cao, để nh́n các con chim khác bay lượn bên dưới.

Mỗi khi chim phụng hót lên, các loài chim khác nghe được liền bay đến, nhảy múa và hót theo.

Bốn con vật : Long, Lân, Quy, Phụng, đều có tánh linh, nên được gọi là Tứ Linh. Mỗi khi có 1 trong 4 con linh vật nầy xuất hiện th́ nơi ấy ắt có điều lành xảy đến, hoặc có Thánh nhân ra đời.

Xin kể ra sau đây những trường hợp có ghi trong sử sách về sự linh hiển của Tứ Linh :

- Theo Sử Kư nước Việt Nam ta, Lư Công Uẩn lên ngôi vua hiệu là Lư Thái Tổ, thấy đất Hoa Lư chật hẹp, nên muốn đóng đô ở La Thành. Khi nhà vua đến La Thành xem xét, thấy có một con rồng vàng xuất hiện bay thẳng lên Trời. Nhà vua biết đó là điềm lành, nên chọn La Thành làm kinh đô và đổi tên lại là Thăng Long (Rồng bay).

Nhà Lư truyền được 9 đời vua, kéo dài được 215 năm.

- Ở nước Tàu thời Thượng cổ, vua Hiên Viên Huỳnh Đế cùng Hoàng Hậu tu hành đắc đạo thành Tiên. Khi đúc xong cái đỉnh có h́nh cái hồ lô th́ có rồng vàng (Huỳnh long) hạ giáng, chấm râu vào đỉnh, sau đó, vua và hoàng hậu cỡi rồng bay lên cơi Tiên.

- Thời Đông Châu Liệt Quốc, Tiêu Sử cưới nàng Lộng Ngọc, con gái út của vua Tần Mục Công. Sau đó 2 vợ chồng đều thành Tiên, Tiêu Sử cỡi rồng, Lộng Ngọc cỡi phụng, cùng bay lên Trời.

- Trước khi bà Nhan Thị sanh ra Đức Khổng Tử, Bà nằm mộng thấy một con Kỳ Lân đến trước mặt bà, nhả ra một tờ ngọc thư có đề chữ : "Thủy Tinh chi tử, kế suy Châu vi Tố Vương." (Nghĩa là : Con của Thủy Tinh, nối nhà Châu suy làm vua không ngôi.)

Năm Đức Khổng Tử 71 tuổi, người nước Lỗ đi săn, bắt được một con Kỳ Lân nhỏ và què chân trái. Đức Khổng Tử hay được, đến xem th́ Ngài biết rằng Ngài sắp trở về cơi thiêng liêng.

Hai năm sau, Đức Khổng Tử mất, thọ 73 tuổi.

- Theo phong tục cổ truyền của người Tàu và Việt Nam, trong những ngày Tết, thường rước Lân và Rồng đến múa, bởi v́ người ta tin tưởng rằng, con Lân, con Rồng sẽ đem lại điềm lành và điều may mắn cho gia đ́nh.

- Theo Sử Kư nước ta, Thần Kim Qui xuất hiện tặng cho An Dương Vương một cái móng rùa để làm chiếc nỏ thần. Lúc nào có quân địch tới đánh thành, lấy chiếc nỏ thần ra bắn một phát, quân địch chết hằng lọat và tan vỡ. Thần Kim Qui lại ban cho nhà vua Phép trừ yêu quái để nhà vua xây được thành Cổ Loa, giữ yên bờ cơi.

- B́nh Định Vương Lê Lợi, khi mới khởi binh, được một con Thần Quy nổi lên dâng cho một cây bửu kiếm. Nhờ có bửu kiếm giúp uy, Lê Lợi đánh đuổi được quân Minh về Tàu, dựng nền độc lập cho nước ta, mở ra nhà Lê. Về sau, vua Lê Thái Tổ ra chơi nơi hồ th́ gặp Thần Quy đón trước đầu thuyền, nhà vua rút gươm chém, Thần Qui lẹ làng hả miệng ngậm chặt lưỡi kiếm rồi lặn mất, nên cái hồ đó được vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) đặt tên là hồ Hoàn Kiếm.

- Vua Hạ Vơ, khi trị thủy nơi sông Lạc, bắt gặp một con Linh Quy, trên lưng của nó, có những dấu chấm đen trắng đặc biệt, ở vào những vị trí đặc biệt. Vua Hạ Vơ ghi lại các dấu chấm ấy làm thành một bức đồ, tạo thành sách gọi là Lạc Thư, cũng gọi là Quy Thư. (Lạc thư là sách ghi lại bức đồ trên lưng Linh Quy ở sông Lạc; Quy thư là sách ghi lại bức đồ trên lưng Linh Quy.) Vua Hạ Vơ nghiên cứu Lạc Thư, phát minh ra Hồng Phạm Cửu Trù, để tổ chức việc cai trị đất nước.

Về sau, người ta cũng căn cứ vào Lạc Thư để chế ra Ngũ Hành : Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ.

- Phụng gáy Kỳ Sơn, hay Phụng gáy non Kỳ, là điềm Thánh Vương là Văn Vương vàVơ Vương ra đời, dẹp nhà Trụ, mở ra nhà Châu, dân chúng được thái b́nh, an cư lạc nghiệp.

Trong các Đền, Chùa ở Việt Nam, các đồ vật thường được trang trí chạm khắc hay vẽ h́nh Tứ Linh.

Đặc biệt nơi Ṭa Thánh Tây Ninh, sự trang trí nổi bật nhứt là h́nh các con rồng đủ màu, quấn trên các cây cột tṛn to lớn : Tại bao lơn Ṭa Thánh có 2 cây cột quấn rồng đỏ, nơi Cửu Trùng Đài có các cây cột quấn trồng xanh, nơi Bát Quái Đài có các cây cột quấn rồng vàng, và lại có 8 con rồng trắng nằm theo tư thế giữ ǵn nơi thờ phượng trong Bát Quái Đài.

Trên Plafond dù ở lồng căn giữa nơi CTĐ, có trang trí h́nh 6 con rồng (2 rồng vàng, 2 rồng xanh, 2 rồng đỏ) quấn nhau từng đôi một, với ư nghĩa theo 2 câu kinh trong bài Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế :

"Thời thừa lục long,

Du hành bất tức."

Nghĩa là :

Đấng Thượng Đế thường cỡi 6 rồng,

đi du hành khắp nơi không ngừng nghỉ.

Nơi plafond bằng ở 2 bên, có trang trí khung h́nh bầu dục, trong đó có đắp một con Phụng, một con Lân, và một con Rùa, tức là 3 con trong Tứ Linh, hợp với các con rồng nơi plafond dù, th́ đủ tứ Linh.

Đặc biệt, 7 cái ngai đặt ở cấp thứ 9 Cửu Trùng Đài, sơn son thếp vàng, có chạm trổ đủ Tứ Linh. (Xem lại mục số 12 : Cửu Trùng Đài và Nghinh Phong Đài).

Như thế, Tứ Linh được sắp theo thứ tự cao thấp là :

- Rồng đứng đầu,

- Phụng ở hàng thứ nh́,

- Lân đứng hàng thứ ba,

- Quy đứng hàng chót hết.

INCLUREIMAGE  \d  \z "rainbow.gif"

16. Kim Mao Hẩu

16. Kim Mao Hẩu Kim mao là lông vàng, Hẩu là tiếng Tàu phiên âm, có nghĩa là con sư tử. Kim Mao Hẩu là con sư tử lông vàng.

Theo truyện tích xưa th́ :

- Đức Văn Thù Bồ Tát cỡi Kim Mao Hẩu mỗi khi đi.

- Đức Từ Hàng Bồ Tát cũng cỡi Kim Mao Hẩu.

Con Kim Mao Hẩu của Đức Từ Hàng Bồ Tát, nguyên là một con thú sống rất lâu năm, biến hóa 

được thành người, học tu luyện với Đức Thông Thiên Giáo Chủ, nên đạt được nhiều phép tắc thần thông, đắc thành một vị Địa Tiên, hiệu là Kim Hoa Tiên. Trong trận Vạn Tiên thời Phong Thần, Kim Hoa Tiên bị Đức Từ Hàng Bồ Tát bắt được, không giết chết, thâu phục làm đệ tử, đem về Tây phương, nhưng buộc phải hiện trở lại nguyên h́nh là một con Kim Mao Hẩu, để Đức Từ Hàng Bồ Tát cỡi mỗi khi ra trận.

Nơi Ṭa Thánh Tây Ninh, phần CTĐ và BQĐ, mỗi bên có 2 cầu thang đi lên, mỗi cầu thang đều có đắp h́nh 2 con Kim Mao Hẩu để trấn giữ. Như vậy, có tất cả 8 con Kim Mao Hẩu, và 8 con Kim Mao Hẩu nầy đều là 8 con đực, v́ 8 con đều có lông bờm chung quanh cổ. (Sư tử đực mới có lông bờm, sư tử cái không có).

Sự tích 8 con Kim Mao Hẩu nầy như sau :

Trong quyển Tiểu sử Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc, do trường Trung học Lê văn Trung ấn hành, có thuật lại đoạn Đức Phạm Hộ Pháp xuất Chơn thần về Bạch Ngọc Kinh, gặp các con Kim Mao Hẩu :

" Thuở nhỏ, Đức Phạm Hộ Pháp c̣n đi học, có một đôi lần nằm mê luôn 2 ngày. Lúc xuất Thần ra đi, Ngài có một người Em thiêng liêng vâng lịnh Đức Chí Tôn xuống rước Ngài về. Ngài cùng với người Em đến cửa Bạch Ngọc Kinh th́ thấy 8 con ǵ như con chó xù, to lớn mạnh mẽ, coi đáng ghê sợ, có con nằm đưa bàn chân trước ra chắn ngang để giữ cửa. Người Em bước lên chân nó, th́ nó nâng lên đưa vào cửa, c̣n Ngài th́ sợ, đứng lại. Người Em ngó ngoái lại thấy sao Ngài không vào, nên cười và nói : Anh cứ vào, anh đi không bao lâu mà lạ.

Rồi Ngài liền bước lên chơn con chó xù đó th́ nó cũng đưa Ngài vào trong cửa Bạch Ngọc Kinh.

Người Em nói : Anh chờ một chút, Em vào bạch Đức Chí Tôn.

Ngài ngồi xem cung điện rất nguy nga tráng lệ, thấy toàn bằng trân châu báu ngọc, dưới lót bằng hào quang sáng đẹp vô cùng. Chờ hồi lâu, Ngài kêu lớn lên th́ người Em chạy ra nói : Anh đừng sợ, chờ tôi một chút.

Bỗng thấy Đức Chí Tôn đi ra phán rằng : Con có đói không ?

Ngài đáp : Thưa Thầy con đói.

Đức Chí Tôn biểu người Em đem ra 3 cái bánh ít trần. Ngài ăn 2 cái th́ vừa no, c̣n một cái thứ 3, Ngài nghẹn, nuốt không vô, Ngài muốn liệng nhưng v́ sợ lấm cung điện, Ngài rán nuốt cho được nhưng ngán lắm !

Đức Chí Tôn hỏi : Con c̣n đói không ?

Đức Hộ Pháp bạch : Con no lắm rồi.

Đức Chí Tôn hỏi : Con có khát nước không ?

Đức Hộ Pháp bạch : Bạch Thầy con khát.

Đức Chí Tôn dạy đem tô nước trong thật đầy. Ngài uống ngon lắm, khi uống vào, Ngài thấy nhẹ nhàng như cũ.

Đức Chí Tôn bảo người Em đưa Ngài trở về.

Trước khi ra về, Ngài bạch : Thưa Thầy, cho con xin một con chó xù đem về giữ nhà.

Đức Chí Tôn bảo : Con về trước đi, Thầy sẽ cho nó xuống sau."

Đức Phạm Hộ Pháp giải thích :

. 3 cái bánh ít là Tam giáo qui nguyên, là việc rất khó, như 3 cái bánh ít đó vậy,

. C̣n việc nước th́ dễ như uống nước Cam Lồ.

. Con chó xù là con Kim Mao Hẩu.

Ngày nay Đền Thánh cất xong, Đức Chí Tôn cho 8 con Kim Mao Hẩu xuống trần để trấn CTĐ và BQĐ tại thế, là không ai dùng bạo quyền nào mà chạm đến nó vậy.

INCLUREIMAGE  \d  \z "rainbow.gif"

17. Hai con Hạc và Dây Nho

Phía bên hông Ṭa Thánh, dưới các mái hiên, trên những đường viền giữa các cây cột, có trang trí Dây Nho, lá Nho và trái Nho và bên trên là một khung tṛn vẽ h́nh 2 con hạc bay thong thả trên cánh đồng vào lúc b́nh minh.

1. H́nh 2 con Hạc bay : lấy ư nghĩa theo 2 câu thơ trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển :

Bụng trống thảnh thơi con hạc nội,

Lúa đầy túng thiếu phận gà lồng.

Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng giáng cơ giải thích 2 câu thơ nầy theo điển tích :

" Lư Bạch viết :

Lung kê hữu mễ than oa cận,

Dă hạc vô lương Thiên Địa khoan.

Thích nôm : Gà lồng có lúa đầy bụng hằng ngày mà nồi nước sôi hằng cận bên, không biết phải bị giết ngày nào.

C̣n con hạc nội, tuy bữa đói bữa no, nhưng Trời Đất rộng thinh, mặc t́nh cao bay xa liệng.

Tóm lại, thà cực mà thong thả, c̣n hơn sướng mà phải chịu nguy hiểm.

Có mối Đạo d́u ḿnh được tự do thiêng liêng, mà cái tự do thiêng liêng ấy, ta hăy làm con hạc nội mới mong chiếm được."

2. H́nh Dây Nho, lá Nho, trái Nho :

- Đây là cách nói đồng âm dị nghĩa, dùng h́nh ảnh cây Nho để chỉ Đạo Nho (Nho giáo); cũng như trồng cây Sung trước nhà để cho gia đ́nh được sung túc.

Đạo Cao Đài chủ trương Nho Tông Chuyển Thế, dùng tinh hoa của Giáo lư Nho giáo để dạy dỗ nhơn sanh, làm cho đời hung ác bạo tàn lần lần trở nên hiền lương đạo đức.

Để biểu thị chủ trương nầy, Hội Thánh dùng biểu tượng dây Nho, lá Nho và trái Nho để trang trí chung quanh Ṭa Thánh.

- Ngoài ra, việc dùng h́nh ảnh Dây Nho, Trái Nho, cũng để tượng trưng Tam Bửu (Tinh, Khí, Thần) của con người trong Phép Luyện đạo nơi Tịnh Thất :

.Trái Nho: tượng trưng TINH,

.Nước Nho: tượng trưng KHÍ,

. Rượu Nho: tượng trưng THẦN.

INCLUREIMAGE  \d  \z "rainbow.gif"

18. Long Mă phụ Hà ĐồLong Mă là một loài thú linh, đầu rồng, ḿnh ngựa, có vảy rồng, bề cao 8 thước 5 tấc (thước Tàu), xương cổ dài, ḿnh không thấm nước. Hà Đồ là bức vẽ có liên hệ đến sông Hoàng Hà bên Tàu, phụ là mang, đội. Long Mă phụ Hà Đồ là con Long Mă có mang trên lưng một bức đồ xuất hiện ở sông Hoàng Hà.

Truyện xưa chép lại sự xuất hiện của Long Mă vào thời vua Phục Hy (2852 trước Tây lịch) như sau :

" Vào thời vua Phục Hy, trên ḍng sông Hoàng Hà, th́nh ĺnh có một trận giông lớn nổi lên, nước sông dâng cao, giữa ḍng sông có nổi lên một con quái ḿnh ngựa đầu rồng, đứng khơi khơi trên mặt nước, trên lưng thấy có mang một cây bửu kiếm.

Dân chúng thấy sự lạ, cấp báo cho vua Phục Hy biết.

Nhà vua liền đi đến tận nơi, đứng trên bờ quan sát. Vua Phục Hy là một vị Thánh Đế, biết con quái ấy là một linh vật, tên gọi Long Mă, rất hiếm có và ít khi xuất hiện. Ngài phán rằng : " Nếu phải ngươi đem vật báu đến dâng cho ta th́ hăy lại gần đây."

Long Mă như biết nghe tiếng người, liền từ từ đi vào bờ, qú xuống trước mặt nhà vua. Phục Hy thấy trên lưng Long Mă có một bức đồ gồm 55 chấm đen trắng, vua ghi nhớ rồi gỡ lấy báu kiếm trên lưng Long Mă. Xong, Long Mă đứng dậy, trở ra giữa sông và đi mất. Mặt nước sông Hoàng Hà sụt xuống trở lại như cũ.

Vua Phục Hy vẽ lại các chấm đen trắng trên lưng Long Mă, tạo thành một bức đồ gọi là Hà Đồ.

Vua Phục Hy nhận xét : Các điểm trắng ứng với các con số lẽ : 1, 3, 5, 7, 9 và Ngài cho đó là những số Dương; những điểm đen ứng với các con số chẵn : 2, 4, 6, 8. 10 và Ngài cho đó là những con số Âm. Ngài có được Âm, Dương.

Ngài biểu diễn một vạch liền tượng trưng Dương và một vạch đứt tượng trưng Âm, Ngài được 2 Quẻ đơn. Ngài thử đem 2 vạch ấy chồng lên nhau, rồi thay đổi vị trí trên dưới, Ngài được 4 Quẻ đôi (Quẻ có 2 vạch).

Vua Phục Hy tiếp tục chồng thêm 1 vạch nữa vào 4 Quẻ đôi, rồi thay đổi vị trí các vạch, Ngài được 8 Quẻ ba.

Vua Phục Hy đặt tên cho 8 Quẻ ấy là : Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.

Vua Phục Hy sắp đặt vị trí các quẻ theo 8 hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Bắc, Đông Nam, Tây Bắc, Tây Nam, và căn cứ trên các hiện tượng tự nhiên như : Trời, Đất, Nóng, Lạnh, Núi, Đầm, Sương mù, Sấm sét, vv. . .

CÀN là Dương, tượng trưng Trời; KHÔN là Âm tượng trưng Đất. Càn th́ ấm áp, đặt ở phương Nam, Khôn th́ lạnh lẽo đặt ở phương Bắc.

Ấm lạnh tạo ra hơi nước, sương mù, nên đặt ĐOÀI tiếp theo Càn. C̣n LY là lửa, là mặt trời, đặt ở phương Đông, là phương mặt trời mọc, nên Ly tiếp theo Đoài. Hơi nước và khí nóng phát động tạo ra sấm sét, đồng thời giúp cây cỏ nẩy sanh , nên đặt CHẤN tiếp theo Ly.

Mặt đất th́ lồi lơm, nơi cao thành núi nên đặt CẤN kế quẻ Khôn; c̣n nơi thấp th́ nước đọng lại tạo thành sông, biển, đầm, nên đặt KHẢM tiếp theo.

Các sự chuyển động đều phát sanh ra gió, nên đặt TỐN sau cùng.

Đó là Bát Quái của vua Phục Hy có đủ Âm Dương, Trời Đất, mặt trời, mặt trăng, và Thủy, Hoả, Phong.

Bát Quái Đồ của Phục Hy được bố trí các quẻ theo h́nh tṛn, đứng từ tâm hướng ra ngoài, v́ Phục Hy quan niệm Vũ Trụ có rộng lớn bao la đến đâu đi nữa nhưng khởi điểm vẫn phải ở trung tâm là Thái Cực.

Trở lại h́nh Long Mă trên nóc Nghinh Phong Đài :

Long là rồng, bay lên Trời, tượng trưng Dương; Mă là ngựa, chạy trên mặt Đất, tượng trưng Âm. Long Mă tượng trưng Âm Dương, tức là tượng trưng cho Đạo.

Ḿnh Long Mă hướng theo chiều Ṭa Thánh, bộ điệu như đang chạy về hướng Tây, ư nghĩa là Đạo xuất nơi hướng Đông và truyền qua hướng Tây, nhưng đầu Long Mă ngó ngoéo lại hướng Đông, ư nghĩa là Đạo cuối cùng lại trở về hướng Đông, v́ hướng Đông là gốc của Đạo. Hướng Đông ở đây là chỉ nước Việt Nam, v́ người Tây phương gọi Việt Nam là nước Viễn Đông.

Long là rồng, cũng tượng trưng Không gian, v́ rồng bay trong không trung; Mă tượng trưng thời gian v́ ngựa chạy có mau có chậm, cho nên Long Mă tượng trưng Không gian và Thời gian, tức là tượng trưng Càn khôn Vũ trụ, luôn luôn vận chuyển không ngừng.

Trong Đạo Cao Đài, nghi thức tiếp rước quan khách cao cấp, hàng lănh đạo quốc gia, hay lănh đạo các tôn giáo, hoặc tiếp rước Hội Thánh, đều có nghi thức múa Long Mă. Đây là điểm đặc biệt nổi bật của Đạo Cao Đài mà không một nơi nào khác trên thế giới có được. Điệu múa Long Mă rất đẹp, tập luyện rất công phu, h́nh Long Mă lại đẹp, lạ mắt, nghệ thuật múa đạt được đỉnh cao.

INCLUREIMAGE  \d  \z "rainbow.gif"19. Tam Thế Phật

Tam Thế Phật là 3 vị Phật lănh lịnh Đức Chí Tôn xuống trần điều khiển 3 Nguơn : Thượng Nguơn, Trung Nguơn và Hạ Nguơn. Trên nóc Bát Quái Đài của Ṭa Thánh có đắp một ṭa sen lớn, trên đó có tượng Tam Thế Phật, gồm

 3 vị Phật :

Đức Phật Brahma đứng trên lưng con Thiên nga (Ngỗng trời), mặt nh́n về hướng Tây.

 Đức Phật Civa đứng trên ḿnh Thấ Đầu Xà (Con Rắn 7 đầu), mặt nh́n về hướng Bắc.

Đức Phật Christna đứng trên ḿnh con Giao long, mặt nh́n về hướng Nam. Trong Di-Lạc Chơn Kinh, chúng ta thấy 3 vị Phật nầy (Brahma Phật, Civa Phật, Christna Phật), đều ngự nơi từng Trời Hỗn Nguơn Thiên, cùng với các vị Phật : Thanh Tịnh Trí Phật, Diệu Minh Lư Phật, Phục Tưởng Thị Phật, Diệt Thể Thắng Phật, Phục Linh Tánh Phật, cùng với vô số các vị Phật khác, có biết có cảm, có sanh có tử, biết rơ cái khổ do nghiệp chướng gây ra, luân hồi chuyển kiếp hóa sanh ra, có khả năng đi khắp các cơi trần cứu giúp tất cả chơn linh được trở về ngôi vị Phật.  Ba vị Phật nầy rất được đạo Bà-La-Môn (nay gọi là Ấn Độ giáo) tôn sùng. Theo Đạo Bà-La-Môn, nhiệm vụ 3 vị Phật nầy là :

Brahma Phật là vị Phật Sáng tạo ra CKVT

và vạn vật .

- Civa Phật là vị Phật Tiến hóa, hủy diệt cái cũ và tạo ra cái mới để tiến hóa. Ngài có nhiệm vụ dạy bảo loài người trở về con đường lành, tiến hóa theo Thiên lư.

Christna Phật là vị Phật Bảo tồn, luôn luôn che chở cứu giúp người đời. Theo Giáo lư của Đạo Cao Đài, Tam Thế Phật có nhiệm vụ điều khiển 3 Nguơn : Thượng Nguơn, Trung Nguơn, và Hạ Nguơn.

1. Thượng Nguơn : là Nguơn Tạo hóa, ấy là Nguơn Thánh đức, tức là Nguơn Vô tội, do Đức Phật Brahma điều khiển. Ngài là ngôi thứ nhứt, tượng trưng ngôi Thánh đức, thuộc Cơ Sanh hóa, ấy là Đấng Sáng tạo ra Vũ trụ và vạn vật.

2. Trung Nguơn : là Nguơn Tấn hóa, ấy là Nguơn Tranh đấu, tức là Nguơn Tự diệt, do Đức Phật Civa điều khiển. Ngài đứng trên ḿnh con rắn 7 đầu (tượng trưng Thất T́nh của con người) để chế ngự Thất T́nh, khiến cho nhơn loại khỏi bị Thất T́nh cám dỗ, Lục dục khiến sai, thoát khỏi họa tranh đấu tự diệt. Đức Civa Phật cầm Ống sáo thổi, như muốn dùng âm thanh trầm bổng cảm hóa tâm hồn nhơn loại để thức tỉnh hồi tâm, lo việc tu hành. Đức Civa Phật là ngôi thứ nh́, tượng trưng phần Âm Dương, Cơ sanh và Cơ diệt.

Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo : " Bần đạo cũng nên chỉ rơ Đức Phật Mẫu đến tại thế gian nầy, đă tượng trưng bên Ấn Độ, Phật giáo Ấn Độ gọi Ngài là Civa Phật, là cái h́nh ở trên Bát Quái Đài, chúng ta để trên nóc đó, thấy có "Tinh nhũ" nơi ngực Ngài đó.

Hồi buổi Chí Tôn phân định, phân tánh của Ngài, lấy Khí, tức nhiên là Ngài, dùng cái linh pháp của Ngài biến tướng ra, Phật Mẫu thuộc về Âm, Chí Tôn thuộc về Dương. Âm Dương hiệp lại biến hóa ra CKVT và sanh ra

vạn vật.

Đức Civa Phật, Ấn Độ làm một cái h́nh, phân nửa giống đàn bà, c̣n cái tướng th́ đàn ông, bởi hồi đó, con người chưa phân rơ chắc chắn Nam Nữ, Âm Dương. Đức Civa trong huyết khí tức nhiên là huyết, c̣n Chơn linh đào tạo Chơn thần là Đức Chí Tôn.

Đức Chí Tôn là Phật, Đức Phật Mẫu là Pháp, Pháp mới sanh ra vạn vật. Vạn vật ấy do Tinh mà ra, tức nhiên là Tăng. Thần tức nhiên là Đức Chí Tôn, Thần phân định Khí, Khí mới phát sanh ra Tinh. Phật là Đức Chí Tôn, Pháp là Civa Phật tức Phật Mẫu, Tăng là vật loại trên CKVT nầy. Ấy vậy, Đạo Phật thờ Phật Mẫu mà không biết. Dầu không thờ mà Đức Phật Mẫu vẫn ngồi từ tạo Thiên lập Địa đến giờ, tức nhiên là Đấng tạo ra Vạn linh đó vậy."

3. Hạ Nguơn : là Nguơn Bảo tồn, ấy là Nguơn Tái tạo, tức là Nguơn Qui cổ, do Đức Phật Christna điều khiển. Ngài là ngôi thứ ba, tượng trưng cuộc tuần hoàn, tiên tri cho nhơn loại biết việc trí xảo thuộc cơ Tranh đấu, cũng là cuối Hạ Nguơn Tam Chuyển, khởi xướng Thượng Nguơn Tứ Chuyển.

Thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp : " Dầu cho những người nào chết nơi chơn trời góc bể đi nữa mà đầy đủ công nghiệp, tâm đức th́ Phật Christna cũng lănh lịnh Đức Chí Tôn tuần du trên mặt thế mà rước Chơn linh ấy về ngay Bạch Ngọc Kinh."

Tóm lại, Đạo Cao Đài tạo tượng Tam Thế Phật nơi nóc Bát Quái Đài Ṭa Thánh là để tiêu biểu sự tuần hoàn trong định luật Tiến hóa của CKVT, khởi đi từ Thượng Nguơn, rồi dần qua Trung Nguơn, Hạ Nguơn, để trở lại Thượng Nguơn của Chuyển kế tiếp. Ba vị Phật ấy thay phiên nhau điều khiển 3 Nguơn, làm cho CKVT luôn luôn tiến hóa.

INCLUREIMAGE  \d  \z "rainbow.gif"

20. Bát Bửu - Dàn Bát Bửu

Bát Bửu là 8 món quí báu, đó là 8 bửu pháp (hay Bửu bối) của Bát Tiên. Mỗi vị Tiên có thể luyện thành nhiều bửu pháp. Các Bửu pháp của Bát Tiên có thể kể ra sau đây :

Đại Tiên Lư Thiết Quả có 2 Bửu pháp : Gậy sắt và Hồ lô.  Hớn Chung Ly có 2 Bửu pháp là : Quạt Long tu và Phất chủ. Lữ Đồng Tân có 3 Bửu pháp là : Gươm, Phất chủ, Ống Tiêu. Lam Thể Ḥa có Đôi Ngọc bản (Cặp Sanh ngọc). Trương Quả Lăo có : Con lừa giấy và Cây gậy.  Hà Tiên Cô có Bửu pháp là Bông sen.  Hàn Tương Tử có : Giỏ Hoa Lam và Ống sáo. Tào Quốc Cựu có : Ngọc Thủ quyển. Mỗi Bửu pháp của Bát Tiên được làm tượng trưng h́nh bằng đồng thau, được một con thú chở trên lưng, được đánh bóng sáng loáng, gắn vào một cái cán bằng gỗ dài và sơn màu đỏ. Tám cây có gắn Bát bửu của Bát Tiên được cắm vào trong một cái giá, thành một hàng dài, gọi là Dàn Bát bửu.

Có 2 Dàn Bát bửu giống nhau đặt ở cấp thứ 8 CTĐ, dọc theo 2 hàng cột rồng xanh. Trên Dàn Bát bửu có đặt xen kẽ 3 cây lọng. Kể từ trong ra ngoài, Dàn Bát bửu hiện nay đặt tại Ṭa Thánh gồm có theo h́nh vẽ sau đây :

l. Cái bầu Hồ lô có con Nai chở : Bửu pháp của Lư Thiết Quả. 2. Quạt và Phất chủ có con Chim chở : Bửu pháp Hớn Chung Ly.

3. Gươm và Phất chủ có con Chim chở : Bửu pháp Lữ Đồng Tân. 4. Thủ quyển bằng ngọc có con Nai chở : Bửu pháp Tào Quốc Cựu.

5. Cây Gươm có con Phụng chở : Bửu pháp của Hàn Tương Tử.

6. Hoa sen có Rùa chở : Bửu pháp của Hà Tiên Cô.

7. Cây Gậy có Cá chở : Bửu pháp của Trương Quả Lăo.

8. Cặp Ngọc bản (Cặp Sanh ngọc) có con Công chở : Bửu pháp của Lam Thể Ḥa.

Công dụng của Dàn Bát Bửu :

- Về phương diện h́nh thức, Dàn Bát bửu với 8 Bửu pháp của Bát Tiên đặt thành 2 hàng dài trước chỗ thờ phượng, thay thế 2 Dàn Lỗ bộ thường thấy, để làm tăng thêm vẻ uy nghi trang trọng của nơi thờ phượng.

- Về phương diện thiêng liêng, 8 Bửu pháp của Bát Tiên trấn giữ ngôi thờ Đức Chí Tôn, không cho Tà Quái xâm nhập, v́ hễ xâm nhập vào th́ bị 8 Bửu pháp nầy đánh đuổi. 21. Bát Tiên Bát Tiên là 8 vị Tiên ở 8 động đá của núi Bồng Lai trên đảo Bồng Lai nơi cơi Thiêng liêng.  Bát Tiên gồm 8 vị Tiên kể tên ra sau đây :

Lư Thiết Quày, (Thiết Quày là cây gậy sắt) nhưng thường gọi là Lư Thiết Quả.

 Hớn Chung Ly.

Lữ Động Tân, (Động là cái hang núi, Tân là khách), nhưng thường gọi là Lữ Đồng Tân.

 Lam Thể Ḥa.

Trương Quả Lăo.

Hà Tiên Cô.

Hàn Tương Tử.

 Tào Quốc Cựu.

Trên tấm diềm phía bên Nữ phái của Bát Quái Đài, có đắp tượng Bát Tiên trên những cụm mây lành 5 sắc. Trong Bát Tiên, có 4 vị cỡi thú bay và 4 vị cỡi thú chạy. Sau đây là sự tích của Bát Tiên, viết theo Truyện Đông Du Bát Tiên :

Lư Thiết Quả :

Ngài họ Lư, tên là Huyền, hiệu là Ngưng Dương, nên thường gọi là Lư Ngưng Dương, diện mạo nghiêm trang, tánh hạnh trong sạch, học rộng biết nhiều, không mộ công danh, muốn đi tu Tiên. Biết được Lư Lăo Tử đang dạy Đạo trên núi Họa Sơn, Lư Ngưng Dương liền t́m đến đó để xin học Đạo. Đi dọc đường, Ông ngâm thơ rằng:

Tâm tánh con người có thấp cao,

Khen ḷ Tạo Hóa đúc anh hào.

Làm trai biết thấu ṿng vinh nhục,

Đặng chữ thanh nhàn khỏi chữ lao.

Khi đến núi Họa sơn th́ Trời đă tối. Lư Ngưng Dương tự nhủ : Ḿnh là đệ tử đi t́m thầy cầu học Đạo, lẽ nào ban đêm dám gơ cửa. Chi bằng ngủ đỡ trên bàn thạch trước cửa động, chờ Trời sáng sẽ xin vào ra mắt.

Ở trong động, Đức Lăo Tử đang đàm đạo với Huyễn Khưu Chơn Nhơn, xảy có cơn gió thanh, Đức Lăo Tử hỏi :

- Ông có biết gió ấy là điềm chi chăng ?

- Chắc có người gần thành Tiên đi tới.

- Ta đă rơ Lư Ngưng Dương gần thành Tiên và là Tiên đứng đầu sổ hết thảy. Nói rồi, Đức Lăo Tử truyền Tiên đồng ra mở cửa động mà đón. Xảy thấy một Đạo sĩ đang đứng trước động, liền hỏi :

- Có phải Lư Ngưng Dương đó không ?

- Sao Tiên đồng lại biết tên tôi ?

- Tôi vâng lịnh Lăo Quân ra cửa đón anh.

Lư Ngưng Dương vô cùng mừng rỡ, chắc là ḿnh có phước lớn nên mới được Lăo Quân biết đến, liền đi theo Tiên đồng vào ra mắt, thấy Lăo Quân có hào quang sáng ḷa, dung nhan tươi nhuận, râu tóc bạc phơ, và Huyễn Khưu Chơn Nhơn cũng vậy. Lư liền qú lạy ra mắt Lăo Quân và Huyễn Khưu. Hai vị đáp lễ rồi mời ngồi. Lư Ngưng Dương qú thưa rằng : " Đệ tử tầm sư học Đạo, lẽ nào dám ngồi. Xin Thầy dạy bảo." Lăo Tử bảo : "Ngươi ngồi xuống rồi ta nói cho nghe :

Học Đạo cho minh,

Lẳng lặng làm thinh,

Đừng lo đừng rán,

Cho tịnh cho thanh,

Chẳng nên nhọc sức,

Chớ khá tổn tinh,

Giữ đặng tánh t́nh,

Là thuốc trường sanh."

Lư Ngưng Dương mừng rỡ lạy tạ Lăo Quân.

Huyễn Khưu nói : "Ngươi có tên trong Sổ Tiên, đứng đầu hết thảy. Về tu như vậy th́ thành."

Nói rồi truyền Tiên đồng đưa Lư Ngưng Dương ra khỏi động, xuống núi. Lư Ngưng Dương lạy tạ rồi theo Tiên đồng rời khỏi động, trở về quê, lên núi cất nhà bên động đá, tu theo lời Đức Lăo Tử dạy, cứ tu luyện hoài như vậy. Chẳng bao lâu cảm thấy nhẹ ḿnh, bước đi như gió.

Một người dân quê tên là Dương Tử lên núi thấy vậy cũng phát tâm mộ đạo, xin Lư Ngưng Dương thâu làm đệ tử , ở lại tu hành.

Ngày kia, Lư Ngưng Dương thấy hào quang chiếu vào cửa sổ, th́ biết có Thần Tiên giáng hạ, rồi mau sửa soạn lên núi đón tiếp. Xảy nghe tiếng hạc, ngó lên thấy Đức Lăo Tử và Huyễn Khưu Chơn Nhơn cỡi hạc đáp xuống.

Lư Ngưng Dương lạy chào mừng rỡ.

Đức Lăo Tử nói :

- Bữa nay tinh thần hơn trước. Ta nhắm ngươi xuất hồn đă đặng. Vậy 10 ngày nữa, ngươi sẽ xuất hồn đi dạo các nước với ta.

Nói rồi liền từ giă, và 2 vị cỡi hạc bay trở về núi. Cách 9 ngày sau, Lư Ngưng Dương kêu học tṛ là Dương Tử đến dặn rằng : " Thầy sẽ xuất hồn đi thiếp 7 ngày, ngươi phải ǵn giữ xác ta cẩn thận. Nếu sau 7 ngày ta không trở về th́ hăy thiêu xác." Dặn ḍ xong, Lư Ngưng Dương nằm thiếp xuất hồn đi.

Khi Dương Tử giữ xác thầy được 6 ngày th́ có người nhà đến báo tin rằng : Mẹ anh bịnh nặng, đang hấp hối, trông anh mau về cho mẹ thấy mặt mà tắt hơi. Dương Tử khóc lớn than rằng : "Thầy đi thiếp chưa về, nếu ta đi, lấy ai giữ xác thầy, bằng không đi th́ làm sao thấy mặt mẹ, ôi khổ biết chừng nào ! "

Người nhà liền hỏi rơ Dương Tử về sự đi thiếp của thầy, rồi nói : " Xác người chết đă 6 ngày, ngũ tạng thảy đều hư hết, lẽ nào sống lại bao giờ. Vả lại, thầy có dặn 7 ngày th́ thiêu xác, chắc thầy đă thành Tiên. Nay 6 ngày mà thiêu xác thầy cũng không lỗi. Mau thiêu xác thầy rồi về gặp mặt mẹ."

Dương Tử bần dùng không nỡ, nhưng túng thế cũng phải nghe lời, liền đặt nhang đèn, hoa quả tế thầy, rồi thiêu xác. Vừa khóc vừa đọc bài kệ sau đây: Mẹ bịnh ngặt hầu kề, Thầy đi thiếp chưa về, Mẫu thân t́nh một thuở, Sư phụ nghĩa nhiều bề, Vẹn thảo nên quyền biến, Lỗi ngh́ luống ủ ê, Hồn linh xin chứng chiếu, Khoái lạc chốn non huê.

Thiêu xác thầy xong, Dương Tử liền gấp rút chạy về nhà, vừa đến cửa nhà th́ mẹ vừa tắt thở. Rủi ơi là rủi ! Lỗi hết 2 đàng, đă bất nghĩa với thầy, lại không tṛn hiếu sự.

Nhắc lại, Lư Ngưng Dương, hồn xuất về chầu Đức Lăo Tử, được thầy dẫn đi khắp các nước trên cơi thiêng liêng, đến núi Bồng Lai, gặp các Thánh Tiên, ra mắt đủ mặt, đến 7 ngày th́ xin về. Đức Lăo Tử cười nói rằng :

- Hăy nghe bài kệ nầy th́ rơ : Tịch cốc ăn lúa ḿ, Đường quen xe phơi phới, Muốn t́m cốt cách xưa, Lại gặp mặt mày mới. Lư Ngưng Dương nghe bài kệ của thầy th́ ghi nhớ chớ không hiểu ngụ ư ǵ, nhưng cũng lạy thầy từ tạ ra về. Khi hồn về tới nhà th́ không thấy xác , không thấy học tṛ, coi lại th́ xác đă ra tro bụi.  Lư Ngưng Dương rất giận đứa học tṛ bất nghĩa nầy. Hồn bay phưởng phất xuống chơn núi, gặp một thây ăn mày nằm dựa bên đường, kế bên cây gậy, có một chân cùi. Lư Ngưng Dương nghĩ lại bài kệ của thầy cho, chợt hiểu, biết phận ḿnh phải vậy chớ không nên oán trách học tṛ, liền nhập hồn vào xác ăn mày, rồi ngậm nước phun vào gậy tre hóa ra gậy sắt. Bởi cớ đó, người đời không biết họ tên ông ăn mày nầy, thấy cầm cây gậy sắt, nên gọi là Ông Thiết Quày, sau gọi trại ra là Thiết Quả.  Sở dĩ Đức Lăo Tử không cho hồn Lư Ngưng Dương về kịp trước khi học tṛ thiêu xác là v́ Đức Lăo Tử muốn Lư Ngưng Dương bỏ xác phàm cho tuyệt sự hồng trần mà về luôn nơi Tiên cảnh, c̣n xác ăn mày là mượn tạm để tu, chớ muốn biến hóa thế nào cũng được.

Thiết Quả đánh tay biết rơ các việc đă xảy ra với đứa học tṛ ḿnh là Dương Tử. Thiết Quả liền đem bầu linh dược đến cứu tử mẹ nó, kẻo đứa học tṛ ḿnh tức tối ân hận cả đời tội nghiệp. Đến nơi thấy Dương Tử đang ôm quan tài mẹ khóc ngất, rồi rút gươm ra định tự vận. Thiết Quả kịp đến ngăn cản và nói :

- Ngươi có ḷng thành nên Trời khiến ta đến đây đem bầu linh dược cứu tử mẹ ngươi. Vậy ngươi mau giở nắp quan tài ra, cạy miệng mẹ ngươi ra mà đổ thuốc. Nói rồi lấy ra một hoàn thuốc đưa cho Dương Tử. Dương Tử làm y lời, giây lát, bà mẹ hắt hơi lấy lại hơi thở, rồi ngồi dậy bước ra khỏi quan tài, xem có vẻ mạnh khỏe hơn trước. Cả nhà vô cùng mừng rỡ. Dương Tử qú lạy Thiết Quả, thưa rằng : - Cảm tạ Tiên ông, xin Tiên ông cho biết danh hiệu. - Ta đây là Lư Ngưng Dương, là thầy của ngươi. Bởi ngươi thiêu xác ta nên hồn ta phải nhập vào xác ăn mày nầy. Biết rơ việc làm của ngươi, nên ta không chấp, lại đến cứu tử mẹ ngươi để ngươi nuôi mẹ phỉ t́nh. Ta tặng thêm cho ngươi một hoàn thuốc nữa để ngươi uống vào sống lâu nuôi mẹ. Thầy tṛ sẽ gặp lại sau nầy. Dương Tử cúi đầu lạy tạ thầy, chưa kịp hỏi thăm th́ Thiết Quả đă biến mất. Thiết Quả biến hóa về núi Họa sơn, hầu thầy. Đức Lăo Tử cười nói :

- Vậy mới chắc thành Tiên, không lo trở lại trần thế. Nói rồi truyền dọn tiệc ăn mừng Thiết Quả.

Hớn Chung Ly :

Hớn Chung Ly, họ là Chung Ly đời nhà Hớn (Hán), tên là Quyền, hiệu là Vân Pḥng, làm Đại Tướng trong triều đ́nh nhà Hớn.

Khi mới sanh, Chung Ly Quyền có điềm khác lạ, trên nóc nhà hào quang sáng đỏ, ai nấy đều kinh. Lớn lên thành một vị tướng quân, vơ nghệ như thần, oai danh quá cọp.

Khi ấy triều đ́nh nhà Hớn nhận được sớ khẩn cấp của tướng trấn ải báo có binh Phiên do Bất Dực thống lănh đánh vào ải rất nguy kịch, xin triều đ́nh cử binh cứu viện.

Xem xong, Hớn Đế rất kinh hăi, liền hạ chiếu sai Đại Tướng Chung Ly Quyền làm Nguyên soái, Phùng Dị làm Phó Tướng, kéo đại binh 50 vạn gấp rút đi ra quan ải cứu viện.

Nguyên Soái Chung Ly tế cờ, hiểu dụ tướng sĩ xong th́ kéo quân đi ngay tới ải Kỳ Thủy đóng trại. Rạng ngày hôm sau, 2 bên ra trận. Bất Dực đánh không thắng nổi Chung Ly, quân Phiên bại trận chạy dài. Tin chiến thắng liên tiếp báo về triều đ́nh, danh tiếng Nguyên soái Hớn Chung Ly vang dậy.

Lúc đó, Lư Thiết Quả đang ở Cung Tiên, đánh tay biết Hớn Chung Ly đă thắng quân Phiên nhiều trận, uy danh lừng lẫy, và lại biết kiếp trước của Hớn Chung Ly là Tiên coi sổ bộ ở Thượng giới, phạm tội bị đọa trần, nay mê việc chiến tranh mà không lo tu hành, biết chừng nào trở về ngôi vị cũ. Lư Thiết Quả muốn độ Chung Ly, nhưng nếu để Chung Ly thắng trận hoài, triều đ́nh sẽ gia phong quan tước, th́ bị mê đắm trong ṿng phú quí vinh hoa, nên Thiết Quả định làm cho Chung Ly bại trận th́ mới độ được. Tính rồi liền hóa ra một Ông già bay xuống dinh Phiên Bất Dực. Lúc bấy giờ Bất Dực đang ngồi trong dinh, thở vắn than dài, không t́m được kế chi để đánh lại binh Hớn. Xảy thấy quân vào báo : Có một ông già cốt cách Thần Tiên xin vào ra mắt. Bất Dực lấy làm lạ, liền cho mời vào, hỏi :

- Lăo trượng đến tôi có việc ǵ ?

- Tôi đến đây bày cho Tướng quân kế thắng binh Hớn. Đêm nay tôi biết bên dinh Hớn có hỏa hoạn lớn, Tướng quân thừa dịp nầy kéo quân vào cướp dinh th́ chắc thắng 10 phần.

Ông già nói xong liền từ giă đi mất.

Bất Đực, ḷng bán tín bán nghi, sợ lầm kế của Nguyên soái Chung Ly, nhưng cũng truyền lịnh chuẩn bị canh hai đến cướp dinh Hớn. Nếu thấy dinh Hớn bị hỏa hoạn như lời của ông già th́ sẽ tràn quân đánh vào, bằng không th́ rút binh về. Bên dinh Hớn, tuy vừa mới thắng quân Phiên, nhưng cũng không dám kiêu, cắt đặt canh pḥng ban đêm rất cẩn mật v́ sợ cướp dinh. Khoảng giữa canh ba, Lư Thiết Quả hóa phép đốt dinh Hớn, ngọn lửa cháy lan rất mạnh, binh lính không dập tắt nổi. Bất Dực thấy đúng thời cơ, liền kéo đại binh đánh vào. Chung Ly Nguyên soái cầm giáo lên ngựa đánh với Bất Dực, thấy binh Hớn hoảng sợ chạy hết th́ cả kinh, quày ngựa bại tẩu. Bất Dực muốn bắt sống Chung Ly Nguyên soái nên buông tên nhắm vào con ngựa của Chung Ly đang cỡi, làm cho ngựa trúng tên té nhào, may có Phó tướng Phùng Dị chạy đến tiếp cứu, bắt một con ngựa khác đưa cho Nguyên soái. Hai người bại tẩu, ngó lại dinh Hớn bị lửa thiêu rụi, binh Hớn bỏ chạy tán loạn. Nguyên soái tức quá té nhào xuống ngựa chết giấc. Khi tỉnh lại than rằng :

- Ta làm Đại Tướng vâng chỉ đánh Phiên, ngỡ là cứu nước rạng danh, nào hay Trời khiến ta thảm bại thế nầy, chẳng những mắc tội với vua, lại c̣n hổ mặt với triều thần, thiệt là Trời muốn giết ta, ta c̣n sống làm chi nữa. Than rồi, Hớn Chung Ly toan rút gươm tự vận. Phùng Dị cứ măi khuyên can. Xảy thấy binh Phiên kéo đến truy nă. Phùng Dị cản hậu, Hớn Chung Ly chạy trước. Chạy tới sáng th́ lạc mất, Hớn Chung Ly đến một nơi không có nhà cửa dân chúng, phía trước là núi, vừa đói vừa khát, tiến thoái lưỡng nan. Xảy thấy một ông săi mắt xanh chống gậy đi tới. Chung Ly mừng rỡ bước đến thưa rằng :

- Tôi là Hớn Nguyên soái Chung Ly Quyền đem quân đi đánh Bắc Phiên, bị bại trận nên chạy lạc tới đây, xin thầy chỉ nhà cho tôi tá túc để trở về triều đ́nh xin binh cứu viện.

Ông săi gật đầu, dắt Chung Ly đi một đổi, chỉ một cái am, nói rằng :

- Đây là chỗ ở của Đông Huê Chơn nhơn, tướng quân vào đó mà tạm nghỉ.

Nói rồi đi thẳng như bay. Hớn Chung Ly đi đến am, nh́n thấy cảnh vật xinh tươi yên tĩnh, phải chỗ của Thần Tiên, đến trước cửa am, định gơ cửa th́ nghe có tiếng ngâm thơ từ trong am vọng ra :

Việc thế chẳng đua tranh,

Thanh nhàn lánh lợi danh,

Thân nương theo động đá,

T́nh gởi tại mây xanh.

Chơi dạo say mùi đạo,

Thong dong dưỡng tánh lành,

Hỏi ai là bạn tác ?

Gió mát với trăng thanh

. Lư Thiết Quả sắp đặt trước, giả làm săi mắt xanh dẫn đường đến cho Đông Huê Chơn Nhơn dạy đạo.

Hớn Chung Ly nghe tiếng ngâm thơ vừa dứt th́ có một ông Lăo cốt cách Thần Tiên, chống gậy bước ra hỏi :

- Có phải là Chung Ly Quyền, Nguyên soái của Hớn triều chăng ?

Hớn Chung Ly kinh hăi thưa :

- Phải, tôi vâng chỉ đi đánh Phiên, chẳng may thất trận chạy lạc đến đây, xin Thượng Tiên từ bi cho tôi tá túc.

Đông Huê Chơn Nhơn mời vào am đăi cơm chay, nói :

- Công danh như bọt nước, phú quí như ngọn đèn trước gió. Từ xưa đến nay, giang sơn nhiều chủ, phước thọ ít người. Bần đạo chán cảnh đời đau khổ, t́m nơi u nhă, sống thanh nhàn, thoát ṿng lợi danh trần tục. Tướng quân cũng nên thừa dịp nầy mà tu tâm dưỡng tánh, c̣n ham công danh phú quí làm chi.

Chung Ly Nguyên soái lắng nghe, liền tỉnh ngộ, muốn theo học đạo, hỏi :

- Tiên ông luyện phép chi mà đặng trường sanh ?

- Phép trường sanh có ǵ lạ đâu, ḷng phải trống mà bụng phải đặc. Ḷng trống là không lo lắng, để cho thơ thới như không; bụng đặc là không theo sắc dục, nguơn khí chẳng hao, được như vậy th́ thành Tiên, trường sanh bất tử.

Hớn Chung Ly nghe vậy th́ mừng rỡ thưa rằng :

- Nhờ Tiên ông chỉ dạy, tôi xin lạy để làm học tṛ. Xin thầy cho biết tôn hiệu.

- Ta là đạo sĩ thời thượng cổ, nay đă thành Tiên, hiệu là Đông Huê.

Nói rồi truyền cho Hớn Chung Ly phép tu luyện và dạy luôn cho Chung Ly phép chỉ đá hóa vàng, rồi tặng cho một cây gươm thanh long chém quỉ.

Hôm sau, Hớn Chung Ly lạy thầy xin trở về nhà lo thu xếp việc nhà. Đông Huê Chơn Nhơn chỉ đường về nhà. Khi Chung Ly ngó lại th́ thấy thầy và nhà cửa đều biến mất, suy nghĩ biết là Tiên ông biến hóa để độ ḿnh. Chung Ly Quyền tự đặt hiệu cho ḿnh là Vân Pḥng, rồi cải trang đi riết về nhà đặng thăm gia quyến.

Gia đ́nh Chung Ly Nguyên soái hay tin thất trận và mất tích, tin tưởng là đă chết nên cả nhà than khóc để tang. Nay lại thấy Chung Ly Nguyên soái cải trang trở về th́ thất kinh mừng rỡ, hỏi thăm cớ sự. Chung Ly thuật lại đủ hết. Gia quyến mừng rỡ nói rằng : Khi mới sanh ra có điềm lành, chẳng lẽ lại thác về nghiệp dữ.

Chung Ly Quyền không dám ở nhà lâu, sợ vua hay tin bắt tội, liền ăn mặc theo Đạo sĩ, từ giă gia quyến để đi tu, lại đến thăm anh ruột là Chung Ly Giảng, đang làm chức Lang Trung. Chung Ly Giảng ham mộ đạo đức đă lâu, nay nghe em nói, mừng rỡ bội phần, liền sắp xếp hành trang, cùng em trốn lên non tu luyện. Hai người nhắm núi Họa sơn đi tới. Dọc đường, thấy con c̣ trắng đang ngóng cổ, Vân Pḥng nói với anh rằng :

- Con c̣ cổ dài, le le cổ ngắn, không thể nào cắt bớt mà can bổ cho bằng. Việc đời cũng vậy, kẻ ưa danh lợi, người mến thanh nhàn.

Nhờ có gươm phép của thầy trao tặng, Vân Pḥng giết được cọp tinh đang phá hại dân làng, lại thấy dân quá nghèo khổ, nên dùng phép chỉ đá hóa vàng, lấy vàng phát cho dân.

Ngày kia, Đông Huê Chơn Nhơn t́m đến để dạy đạo thêm, truyền thêm phép tu luyện cho 2 người. Chung Ly Vân Pḥng đi dạo chơi đến núi Tứ Hạo, th́nh ĺnh một tiếng sấm nổ vang, núi nứt ra một cái khe. Vân Pḥng thấy lạ, liền tiến vào khe, gặp một cái hộp đá có một cuốn kinh, liền lấy kinh đem ra ngoài xem th́ khe núi biến mất, vách núi liền lại như cũ. Vân Pḥng thầm biết là Thần Tiên đă ban kinh cho ḿnh tu luyện, nên càng cố công. Chẳng bao lâu th́ đạt đến mức cao siêu.

Bỗng nghe tiếng nhạc vang Trời, nh́n lên thấy mây lành năm sắc, Tiên hạc bay xuống đáp trước mặt Vân Pḥng, nói tiếng người rằng : "Thượng Đế sai tôi xuống rước Vân Pḥng trở về phục chức cũ ở Thượng giới,"

Vân Pḥng liền đưa sách lại cho anh, dặn ḍ và giă từ, cỡi hạc lên Trời. Chung Ly Giảng ở lại tu theo sách đó, lâu ngày cũng thành Tiên, được Vân Pḥng cỡi hạc xuống rước.

3. Lam Thể Ḥa :

Lam Thể Ḥa là Xích Cước Đại Tiên đầu thai xuống trần, nên c̣n nhớ tánh cũ, thường mặc áo rộng xanh, buộc dây lưng đen, một chân đất, một chân mang giày, mùa hè mặc áo bông mà không biết nóng nực, mùa đông chỉ mặc áo chiếc mà không biết lạnh, thật lạ lùng.

Thường ngày, Ông Lam Thể Ḥa hay cầm cặp sanh dài 3 thước (thước Tàu), đi ra ngoài chợ, vừa ca vừa nhịp, để xin tiền bố thí. Những bài ca do Ông tự đặt ra đều có ư khuyên đời bỏ dữ theo lành. Tiền xin được, Ông cột vào dây lưng, vừa đi vừa ca, khi tiền rớt cũng không thèm ngó lại, khi lại dùng tiền nầy bố thí lại cho người nghèo khổ.

Những trẻ nhỏ có dịp thấy Ông Lam Thể Ḥa, đến chừng lớp trẻ nầy lớn lên rồi già (tức là 60 hay 70 năm sau) th́ vẫn gặp ông Lam giống y như thuở trước, vẫn ăn mặc như trước, vừa đi vừa ca vừa nhịp, không già như người thường.

Về sau, Ông Lam Thể Ḥa gặp Lư Thiết Quả, hai người đàm đạo trên lầu ở quận Hào Lương. Kế nghe tiếng nhạc vang Trời, đôi chim hạc từ trên không đáp xuống, rước 2 vị Tiên về Thượng giới.

Khi cỡi hạc, Ông Lam bỏ cặp sanh rơi xuống đất, hóa thành ngọc, giây phút biến mất.

Trong Bát Tiên, Ông Lam Thể Ḥa là thuần hậu nhứt.

4. Trương Quả Lăo :

Trương Quả Lăo gốc là một con dơi trắng hồi tạo Thiên lập Địa, tu luyện lâu năm, hóa h́nh người, sau đến núi Trung Điều ở Hàng Châu, học đạo với Huyễn Khưu Chơn Nhơn, làm bạn với Lư Thiết Quả.

Các ông già bà lăo thuật chuyện về Trương Quả Lăo :

Khi các ông bà ấy c̣n con nít, th́ đă biết và gặp Ông Trương, thường thấy Ông cỡi con lừa trắng đi dạo khắp nơi, đặc biệt Ông ngồi ngược chiều, quay mặt ra phía sau. Đến khi đi về tới nơi ở, Ông liền đè bẹp con lừa, biến ra lừa giấy, xếp cất vào khăn. Khi muốn đi chơi, Ông lấy lừa giấy ra, phun nước vào th́ hiện ra con lừa trắng để Ông cỡi đi chơi. Khi các ông bà ấy già, vẫn gặp lại Ông Trương giống y như trước, không già hơn chút nào, thật là Ông đă đạt được phép trường sanh bất lăo.

Đến đời vua Đường Thái Tông, vua cho triệu Ông vào triều, nhưng Ông không chịu đến.

Qua đời Vơ Hậu, Bà cũng biết tiếng Ông Trương, nên cũng cho sứ giả đến triệu vào triều. Ông Trương đi được nửa đường th́ chết, giây lát thây thúi hóa ṿi, sứ giả phải bỏ thây lại đó mà về triều tâu lại cho Vơ Hậu rơ.

Nhưng sau đó, người ta vẫn gặp Ông Trương cỡi lừa trắng đi dạo như thường.

Đến đời Đường Minh Hoàng, vua sai quan là Bùi Ngộ đem chiếu đến rước Ông Trương, nhưng Ông Trương giả chết. Bùi Ngộ thắp nhang cầu khẩn, Ông Trương từ từ sống lại, nhưng không chịu đi. Bùi Ngộ không dám ép, đành trở về triều tâu lại.

Đường Minh Hoàng lại sai 2 sứ giả nữa là Dự Thông và Lư Trang Huyền, đem sắc chỉ đến rước nữa. Ông Trương thấy vua có ḷng trọng vọng nên mới chịu tới, được nhà vua và bá quan kính trọng mười phần. Minh Hoàng hỏi Trương Quả Lăo về chuyện Thần Tiên, Ông Trương ngồi làm thinh, nín hơi mấy bữa, không chịu nói.

Ngày kia Minh Hoàng làm tiệc đăi Trương Quả Lăo, Ông từ chối, nói rằng : "Tôi không biết uống rượu, duy có học tṛ tôi nó uống tới một đấu."

Vua Minh Hoàng xin vời tới. Giây phút có một đạo sĩ trẻ chừng 16 tuổi từ ngoài bay vào, ra mắt nhà vua.

Trương Quả Lăo nói :

- Nó là đệ tử của tôi, xin đứng hầu Bệ hạ.

Minh Hoàng thưởng cho nó một đấu rượu, nó liền uống hết. Minh Hoàng lại ép uống nữa. Trương Quả Lăo nói :

- Chẳng nên cho nó uống nhiều, nếu quá chén, ắt sanh điều quái gở.

Minh Hoàng cứ ép uống rượu để xem sự thể ra sao.

Giây phút, trên đầu đệ tử hiện ra một cái quả bằng vàng, rồi người đệ tử biến mất, quả bằng vàng ở dưới đất trơ trơ, giở nắp ra thấy rượu đầy quả. Coi lại, đó là quả vàng của vua. Ai nấy đều phục phép Tiên của Trương Quả Lăo.

Vua hỏi Ông Trương bao nhiêu tuổi. Ông Trương đáp :

- Tôi sanh năm Bính Tư đời vua Nghiêu.

Vua Đường lấy làm lạ, v́ thấy Ông Trương tuổi lối 70 hay 80, liền truyền lịnh cho quan coi tướng là H́nh Ḥa Phát coi tuổi Trương Quả Lăo, nhưng coi cũng không ra.

Vua liền sai Sư Dạ Quang là người coi thấu việc quỉ thần, coi cũng không biết tướng tinh của Trương Quả Lăo. Khi ấy có Đạo sĩ Diệp Pháp Thiện, học được phép Tiên, biết việc quỉ thần, rất được Minh Hoàng yêu mến, được Minh Hoàng vời đến hỏi tướng tinh của Trương Quả Lăo.

Diệp Pháp Thiện tâu rằng :

- Nếu Bệ hạ chịu cất măo cổi giày mà xin tội cho tôi với Trương Quả Lăo th́ tôi mới dám nói.

Vua Minh Hoàng v́ tính hiếu kỳ nên ưng chịu.

Diệp Pháp Thiện tâu rằng :

- Trương Quả Lăo cỡi lừa kỳ lắm, ngồi day ngược ngó ra sau, thiệt là con dơi trắng thời thượng cổ.

Nói vừa dứt lời th́ Diệp Pháp Thiện bị sặc máu tươi chết liền tại chỗ. Vua Minh Hoàng kinh hăi, liền cất măo cổi hài như đă hứa, đến gặp Trương Quả Lăo xin tội cho Pháp Thiện. Trương Quả Lăo nói :

- Nó hay nhiều chuyện lắm, nếu không trị nó th́ lậu cơ Trời.

Minh Hoàng cứ đứng đó năn nỉ hoài, buộc ḷng Trương Quả Lăo phải tha cho Pháp Thiện, đến phun nước vào mặt th́ Pháp Thiện sống lại như thường.

Minh Hoàng sắc phong cho cho Trương Quả Lăo là Thông Huyền Tiên Sinh, lại sai vẽ chơn dung của Ông Trương treo ở lầu Tập Hiền.

Ngày kia, vua Đường Minh Hoàng đi săn, bắt được con nai tại đất Hàm Dương, truyền làm thịt đăi yến. Trương Quả Lăo can rằng :

- Nó là Tiên lộc ngàn năm, chẳng nên giết. Nguyên trước đây, vua Hớn Vơ Đế săn đặng con nai nầy, vua cho đóng đính bài trên gạt bên tả rồi thả cho đi.

Vua Minh Hoàng truyền coi lại th́ trên gạt con nai nầy có đính bài đúng như Trương Quả Lăo đă nói, nhưng chữ trên đính bài đă ṃn.

Minh Hoàng hỏi : - Từ đó đến nay bao nhiêu năm ?

Trương Quả Lăo đáp : - Năm Quí Hợi, Hớn Vơ Đế đào ao Côn Minh, đến nay là năm Giáp Tuất, cộng lại là 852 năm.

Vua truyền quan Thái Sử coi lại y số.

Sau Trương Quả Lăo xin về dưỡng già. Minh Hoàng cầm không được, liền ban tặng cho một chiếc xe, một cây lụa, 2 người lính hầu, đưa Trương Quả Lăo về Hàng Châu. Ông Trương cho một tên lính hầu về trào, chỉ giữ lại một tên, rồi hai thầy tṛ đi vào núi Thiên Bửu.

Ít lâu sau, Minh Hoàng lại cho triệu Trương Quả Lăo. Ông bèn giả chết, tên lính hầu lo chôn cất tử tế rồi báo về triều. Mấy hôm sau đó, người ta lại thấy Trương Quả Lăo cỡi lừa ngược đi dạo. Tên lính ấy lấy làm lạ, đào mộ của Ông Trương lên xem, chỉ thấy cái ḥm không.

Vua Minh Hoàng hay tin, cho lập một cái miểu tại núi Thiên Bửu để thờ Trương Quả Lăo.

5. Hà Tiên Cô :

Hà Tiên Cô, tên thật là Hà Tố Nữ, quê ở Quảng Châu, huyện Tăng Thành. Khi c̣n bé, Hà Tố Nữ có 6 cái xoáy trên đầu, ai cũng cho là kỳ. Hà Tố Nữ ở với mẹ tại khe Vân Mẫu.

Nhằm đời Đường Vơ Hậu, Hà Tố Nữ nằm chiêm bao được Thánh nhơn mách bảo nên ăn bột Vân Mẫu th́ nhẹ ḿnh chẳng thác. Hà Tố Nữ thức dậy, nhớ lại làm y lời. Bà mẹ thấy Hà Tố Nữ đă đến tuổi trưởng thành nên có ư kén rễ. Hà Tố Nữ khóc lóc nhứt định không chịu lấy chồng, chỉ muốn ở vậy nuôi cha mẹ.

Ngày kia, Tố Nữ đi kiếm bột Vân Mẫu th́ gặp 2 Tiên Lư Thiết Quả và Lam Thể Ḥa đang mang giỏ Hoa Lam đi hái bông. Hai vị thấy Hà Tố Nữ gần thành Tiên, liền gọi đến, truyền cho phép tu luyện, và kêu tặng là Hà Tiên Cô.

Vơ Hậu nghe đồn, cho người đến rước Hà Tiên Cô, nhưng dọc đường đi về trào, Hà Tiên Cô biến mất.

Sau quan Thứ Sử họ Cao gặp Hà Tiên Cô ở trên lầu Quảng Châu. Thứ Sử về trào tâu cho Vơ Hậu rơ.

Lư Thiết Quả đến độ cả 2 mẹ con Hà Tiên Cô về cảnh Bồng Lai.

6. Lữ Đồng Tân : Lữ Đồng Tân, con của quan Thứ Sử Hải Châu, sanh ngày 14 tháng 4. Khi bà mẹ mới sanh ra Ông th́ trong pḥng mùi hương thơm phức, có hạc trắng bay vào pḥng rồi biến mất. Ấy là Huê Dương Chơn Nhơn đầu thai xuống trần làm Lữ Đồng Tân.

Lữ Đồng Tân lớn lên, mắt phụng mày ngài, tay dài, cổ cao, mũi thẳng, xương g̣ má cao, chơn mày bên tả có nốt ruồi, dưới bàn chơn có chỉ như lưng qui, ḿnh cao 8 thước 2, tánh ưa bịt khăn huê dương (bao đảnh xanh), mặc áo đạo sĩ.

Khi ấy có thầy coi tướng Măn Tổ đến coi đoán rằng : Người trẻ nầy tướng khác phàm tục, sau gặp chữ Lư th́ đắc thời, gặp chữ Chung th́ thành đạo.

Mọi người trong nhà đều nghe nhưng không hiểu ǵ.

Năm 20 tuổi, Lữ Đồng Tân xưng hiệu là Thuần Dương, đi thi đỗ khoa Tú Tài, tiếp theo đỗ luôn khoa Cử Nhân, nhưng khi thi Tiến Sĩ th́ rớt.

Khi đến núi Lư sơn, gặp Huỳnh Long Chơn Nhơn dạy cho phép tu luyện và tặng cho một thanh gươm chém được yêu quái.

Ngày kia, Lữ Đồng Tân đến chợ

 Trường An, huyện Hàng Đang, vào quán rượu, gặp một đạo sĩ mặc áo trắng đang đề thơ trên vách 3 bài thi như sau:

Ngồi đứng hằng mang rượu một bầu,

Chẳng cho cặp mắt thấy Hoàng Châu.

Dạo chơi ít kẻ tường tên họ,

Trên thế thanh nhàn muốn được đâu ?

Thần Tiên t́m bạn khó không nài,

Có phước theo ta dễ mấy ai ?

Đông Hải rơ ràng nhiều động đá,

Ít người được thấy núi Bồng Lai.

Dạo chơi theo thuở, ở theo thời,

Danh lợi làm chi mắc nợ đời.

Nằm nghĩ co tay hằng đếm măi,

Mấy ai ao ước được như lời.

Lữ Đồng Tân thấy đạo sĩ cốt cách Thần Tiên, đề thơ thanh thoát th́ cảm phục lắm, liền đến làm quen, chắp tay chào hỏi và xin Đạo sĩ cho biết họ tên. Đạo sĩ mời ngồi, rồi nói rằng :

- Ông hăy làm một bài thơ cho ta biết ư trước đă.

Lữ Đồng Tân liền đọc :

Cân đai ràng buôc ư không màng,

Áo vải coi ra rất nhẹ ï nhàng.

Danh lợi cuộc đời chưa phỉ nguyện,

Làm tôi Thượng Đế mới nên trang.

Đạo sĩ nói :

- Ta là Chung Ly Vân Pḥng, tu ở núi Triều Hạc, Ông có muốn đi chơi với ta không ?

Lữ Đồng Tân có vẻ lưỡng lự. Vân Pḥng biết Lữ Đồng Tân c̣n muốn đi thi Tiến Sĩ để trổ danh với đời, nên ư c̣n dùng dằng.

Vân Pḥng muốn độ Lữ Đồng Tân nên ngồi nấu một nồi huỳnh lương, tức là nồi bắp vàng. Trong lúc chờ cho nồi bắp chín, Vân Pḥng đưa cho Lữ Đồng Tân một cái gối, bảo nằm xuống nghỉ, c̣n ḿnh th́ tiếp tục chụm củi đun nồi bắp.

Lữ Đồng Tân nằm xuống, kê đầu lên gối, giây lát chiêm bao thấy ḿnh vác lều chơng đi thi, ngang qua nhà giàu nọ, gặp một người con gái rất đẹp, th́ ướm lời. Nàng nọ nói rằng : Nếu chàng thi đậu Trạng Nguyên th́ thiếp nguyện nâng khăn sửa trấp.

Lữ Đồng Tân vào khoa thi đỗ Trạng, về cưới nàng ấy, sau lại cưới thêm hầu thiếp, được vua bổ làm quan. chức Gián Nghị, lần lần thăng lên. Sau 40 năm được vua phong tới chức Thừa Tướng, con cái đầy đàn, sui gia cũng bực quan lớn, lại có cháu nội cháu ngoại. Thật là vinh sang phú quí tột bực.

Chẳng may, sau đó bị gian thần hăm hại, vu oan giá họa, vua tin lời, bắt tội, truyền tịch thâu gia sản, đày qua núi Lănh Biển, cực khổ vô cùng. Kế giựt ḿnh thức dậy.

Vân Pḥng ngồi kế bên cười lớn, ngâm câu thơ :

Nồi bắp hăy c̣n ng̣i,

Chiêm bao đà thấy cháu.

Lữ Đồng Tân lấy làm lạ hỏi rằng :

- Thầy biết sự chiêm bao của tôi ?

- Chiêm bao 50 năm, công việc cả muôn, thiệt không đầy một lát, đặng chẳng khá mừng, mất không nên thảm, hết vinh tới nhục là lẽ thường. (Do sự tích nầy mà người ta nói : Giấc Huỳnh lương, Giấc kê vàng, Giấc Hàng Đang, là để chỉ giấc mộng của Lữ Đồng Tân, xem vinh hoa phú quí là phù du mộng ảo).

Lữ Đồng Tân nghe Chung Ly Vân Pḥng nói vậy, liền tỉnh ngộ, ngẫm nghĩ thấy chán ngán cuộc đời, cầu xin Vân Pḥng truyền đạo. Vân Pḥng nói :

- Việc nhà hăy chưa an, đời sau tu cũng không muộn.

Nói rồi liền bỏ đi. Lữ Đồng Tân trở về nhà, bỏ việc công danh, lo tu tâm dưỡng tánh. Trong thời gian đó, Chung Ly Vân Pḥng lần lượt bày ra 10 điều để thử tâm chí của Lữ Đồng Tân. Vân Pḥng rất hài ḷng về người đệ tử nầy, nói :

- Ta đă thử 10 điều, khen ngươi bền chí, đáng được truyền đạo trường sanh. Song ngươi chưa có công quả bao nhiêu, nên ta rước gấp chưa được. Nay ta dạy ngươi phép chỉ đá hóa vàng, ngươi cứu đời cho có công, rồi ta sẽ rước ngươi về Thượng giới.

Lữ Đồng Tân thưa rằng :

- Vàng ấy chừng bao lâu mới phai ?

- Cách 3000 năm mới trổ.

Lữ Đồng Tân châu mày thưa rằng :

- Như vậy th́ cứu người nghèo bây giờ mà lại làm hại những kẻ 3000 năm sau nhiều lắm, thiệt tôi chẳng nỡ ḷng.

Vân Pḥng khen :

- Ḷng ngươi nhơn đức 10 phần, truyền đạo bây giờ cũng đặng.

Nói rồi dắt Lữ Đồng Tân về núi Triều Hạc, và sau đó truyền hết các phép tu luyện cho Lữ.

Một ngày nọ, Vân Pḥng gọi Lữ Đồng Tân nói :

- Ta gần về chầu Thượng Đế. Ta sẽ tâu xin đem tên ngươi vào sổ Tiên. Cách 10 năm nữa, đến gặp ta tại Động Đ́nh Hồ.

Xảy có một vị Tiên cỡi hạc bay đến nói :

- Có chiếu chỉ của Đức Thượng Đế phong Vân Pḥng làm chức Kim Khuyết Thượng Tiên. Hăy mau lên lănh sắc.

Vân Pḥng liền từ giă Lữ Đồng Tân rồi bay lên mây. Lữ Đồng Tân vẫn ở núi Triều Hạc để lập thêm công quả.

Ngày nọ, Lữ Đồng Tân đến sông Giang Hoài, được biết có một con giao thành tinh, phá hại dân chúng. Đă có nhiều đạo sĩ đến trị nó không nổi, Lữ Đồng Tân biết ḿnh có gươm phép của Huỳnh Long Chơn Nhơn ban cho, chắc trừ nó đặng, nên nói với quan Phủ để ḿnh lănh cho.

Nói rồi, rút gươm phép ra, miệng niệm Thần chú, phóng gươm xuống sông Giang Hoài, giây phút thấy nước sông nổi sóng, máu tươi vọt lên thắm đỏ ḍng sông, con giao long bị chém đứt họng nổi lên. Gươm linh nầy chém xong lại trở vô vỏ. Quan Phủ rất mừng, tặng cho Lữ vàng bạc để đền ơn, nhưng họ Lữ đều không nhận.

Lữ Đồng Tân đi qua Châu Nhạc Dương, bố thí thuốc chữa bịnh, và t́m người lành độ dẫn tu hành. Kế tới ngày hẹn với Hớn Chung Ly, Lữ Đồng Tân sắp đặt để đi đến Động Đ́nh Hồ đón Vân Pḥng và sau đó cùng Vân Pḥng đi độ Hàn Tương Tử.

7. Hàn Tương Tử :

Hàn Tương Tử sanh nhằm đời Đường, cháu ruột của Hàn Dũ, kêu Hàn Dũ bằng chú. Thuở nhỏ, Hàn Dũ ép cháu học Nho để tiến thân trên đường làm quan nhưng Hàn Tương Tử không chịu nên nói : - Chú mộ công danh phú quí, cháu mộ đạo Thần Tiên.

V́ vậy, Hàn Tương Tử thường lo tu tâm dưỡng tánh.

Ngày nọ, Hàn Tương Tử gặp được Chung Ly Vân Pḥng và Lữ Đồng Tân. Ba người dắt lên non hái đào chín. Chung Ly biết Hàn Tương Tử sắp thành Tiên, liền kêu Hàn Tương Tử leo lên cây hái đào chín, nhánh đào găy, Hàn Tương Tử té xuống bỏ xác thành Tiên, theo Hớn Chung Ly và Lữ Đồng Tân về đảo Bồng Lai.

Hàn Tương Tử có ư muốn độ chú ḿnh là Hàn Dũ. Năm ấy, Trời hạn hán, Hàn Dũ vâng lịnh vua cầu mưa nhưng không linh. Bỗng nghe một đạo sĩ (do Hàn Tương Tử biến hóa ra) rao lên rằng :

- Ai muốn mua mưa tuyết, ta bán cho.

Hàn Dũ liền rước vào yêu cầu đạo sĩ đảo vơ (cầu mưa), giây phút mưa xuống tràn ngập ngoài đồng, tuyết sa chất ngất. Hàn Dũ nói :

- Không chắc ai đảo vơ mà đặng mưa tuyết nầy. Ta cầu đă nửa ngày rồi, có khi kết quả chậm một chút.

Đạo sĩ nói :

- Mưa tuyết do tôi cầu cao 3 thước 3 tấc.

Hàn Dũ đo lại, đúng y như lời đạo sĩ, mới tin đạo sĩ là Thần Tiên có phép mầu.

Đến ngày Hàn Dũ ăn lễ sinh nhựt, Hàn Tương Tử đến chúc thọ chú. Hàn Dũ thấy vậy, nửa mừng nửa giận hỏi :

- Bấy lâu nay ngươi theo học đạo Thần Tiên thế nào ? Làm một bài thơ nghe thử.

Hàn Tương Tử ngâm rằng :

Đă quyết chí tu tŕ, Thành Tiên chẳng khó chi,

Mây xanh hằng cỡi hạc, Động đá cứ ngâm thi.

Đặt rượu trong giây phút, Trồng hoa nở tức th́.

Lâu dài ngàn tuổi thọ, Điều độ kẻ tương tri.

Hàn Dũ nói :

- Ngươi cướp quyền Tạo Hóa đặng sao ? Hăy đặt rượu và trồng hoa xem thử.

Hàn Tương Tử bảo đem một cái ché không, đặt giữa bàn, lấy mâm đậy lại, trong giây phút, rượu ngon đầy ché. Rồi Hàn Tương Tử ra trước sân, đào đất vun đống, tức th́ mọc lên một cây hoa mẫu đơn nở bông rất lớn, giữa bông có hiện ra hàng chữ:

Vân hoành Tần lănh gia hà tại,

Tuyết ủng Lam quan mă bất tiền.

Hàn Dũ đọc rồi ngẫm nghĩ măi mà không hiểu ư ǵ, liền hỏi Hàn Tương Tử. Hàn Tương Tử đáp rằng :

- Ngày sau chú sẽ biết, bây giờ không dám lậu Cơ Trời.

Ai nấy trong bàn tiệc đều lấy làm lạ kỳ. Măn tiệc, Hàn Tương Tử từ giă về núi.

Lúc ấy nhằm đời vua Đường Hiến Tông, bên Tây Trúc đem dâng tượng Phật, vua muốn rước vào cung để thờ. Bá quan không ai dám can gián. Hàn Dũ thấy vậy liền dâng sớ can vua :

- Từ Tam Hoàng Ngũ Đế đến vua Vơ vua Thang, vua Văn Vương, chưa có Đạo Phật th́ thiên hạ thái b́nh. Đến đời Hớn, vua Minh Đế đem Đạo Phật vào Trung Nguyên th́ nhà Hớn chẳng lâu dài. Sau qua đời Lương Vơ Đế, vua rước Phật về thờ phượng hết ḷng, nhưng vua bị Hầu Kiển vây khổn, phải chết đói tại Đài Thành, sao Phật không cứu ? Như thế chẳng nên tin Phật. Xin Bệ hạ đăi bọn Tây Vức rồi truyền đem tượng Phật ném xuống sông hay quăng vào lửa mà hủy đi kẻo thiên hạ mê lầm.

Đường Hiến Tông xem sớ xong th́ nổi giận, truyền lột chức Hàn Dũ và đày ra Triều Châu tức th́. Hàn Dũ bị dẫn đi đày, đến một nơi hoang vắng, chẳng có nhà cửa người ở, mây giăng chót núi mịt mù, tuyết rơi bít lối. Chợt thấy phía trước có một đạo sĩ đang quét tuyết dọn đường, nh́n kỹ lại là Hàn Tương Tử. Hàn Dũ mừng rỡ hỏi :

- Xứ nầy là chốn nào ?

Hàn Tương Tử đáp :

- Đây là Ải Lam quan, núi nầy là Tần lănh.

Hàn Dũ nhớ lại 2 câu thơ trong hoa mẫu đơn th́ than :

- Như vậy, số Trời đă định, chạy sao cho khỏi.

Từ đó, Hàn Dũ mới tin có Trời, trọng Đạo. Đêm ấy, chú cháu bàn chuyện đạo đức đến khuya. Rạng ngày, Hàn Tương Tử tặng cho chú một bầu thuốc, rồi dặn chú :

- Chú uống một hoàn thuốc Tiên nầy th́ khỏi sanh các bịnh. Không bao lâu, ở Triều Châu có sấu nổi lên phá hại, chú đặt văn tế đưa nó phải đi, kế đặng phục chức trở về triều. Sau đó, cháu sẽ về độ chú, truyền cho các phép tu luyện.

Nói rồi, Hàn Tương Tử từ giă chú trở về cung Tiên.

8. Tào Quốc Cựu :

Tại núi Bồng Lai, trong lúc ăn tiệc, uống rượu quỳnh tương, Lư Thiết Quả nói :

- Tại Bồng Lai có 8 động đá, mà anh em ta có 7 người, phải rán độ thêm một vị nữa. Ta nhắm em ruột của Tào Thái Hậu là Tào Quốc Cựu có khí tượng Thần Tiên, cũng nên độ kẻo uổng.

Hớn Chung Ly thưa rằng :

- Để tôi xuống coi thử, nếu thực vậy th́ tôi lo điều độ.

Nói về Tào Quốc Cựu, tên thật là Tào Hữu, em ruột của Tào Thái Hậu, đời vua Tống. Tào Hữu có một người em ruột là Tào Nhị, ỷ thế của anh và chị, lập phe đảng hại dân, bắt hiếp gái lành, sang đoạt tài sản. Tào Hữu rất giận, thường la mắng Tào Nhị, nhưng Tào Nhị vẫn chứng nào tật nấy, lại đem ḷng oán trách.

Tào Hữu thường than rằng : Chứa lành có phước, chứa dữ mang họa. Em ḿnh làm dữ mười phần, lẽ nào không bị hại, tuy qua đặng dương pháp, chớ chạy sao khỏi luật Trời. Nếu tai họa tới th́ ḿnh phải tội liên can, chi bằng nên lánh trước kẻo nhơ danh và mắc nạn.

Suy nghĩ rồi, liền bán hết tài sản, đem tất cả tiền thâu được bố thí cho dân nghèo, rồi mặc đồ đạo sĩ đi lên núi, t́m chỗ thanh vắng để tu hành. Qua được vài năm th́ Hớn Chung Ly và Lữ Đồng Tân t́m đến gặp mặt, hỏi rằng :

- Ông tu luyện ra sao ?

- Ḷng mộ đạo Thần Tiên th́ lánh việc trần, chớ tôi không biết phép tu chi hết.

Hai Tiên liền hỏi tiếp :

- Đạo ở đâu mà mộ ?

Tào Quốc Cựu chỉ Trời.

- Trời ở đâu ?

Tào Quốc Cựu chỉ vào trái tim.

Hớn Chung Ly nói :

- Tâm là Trời, Trời là đạo. Ông đă biết rơ cội rễ, tu chắc thành Tiên.

Nói rồi, liền đưa Tào Quốc Cựu về núi Bồng Lai.

Từ đây về sau, núi Bồng Lai có đủ Bát Tiên ở trong 8 động, tiêu diêu nhàn lạc vô cùng.

Ngày kia, Hà Tiên Cô nói với 7 Tiên rằng :

- Lẽ thường, Tiên Ông mới thành th́ ra mắt Đông Vương Công, c̣n Tiên Nữ mới thành th́ ra mắt Tây Vương Mẫu. Kỳ trước, sanh nhựt của Đông Vương Công, Tiên Nữ cũng đi chúc thọ. Nay gần đến sanh nhựt của Đức Tây Vương Mẫu, 7 Ông tính đi chúc thọ không ?

Hớn Chung Ly và Lam Thể Ḥa đồng nói :

- Tây Vương Mẫu không cai trị chúng ta, song bà là vị làm đầu Tiên Nữ, các Thần Tiên đều phó hội, lẽ nào chúng ta không đi, ngặt chẳng có vật chi báu để dâng lễ Chúc thọ. Trương Quả Lăo nói :

- Tây Vương Mẫu ở Cung Diêu Tŕ thiếu chi vật báu, chúng ta đặt văn chúc thọ mà khánh hạ th́ hay hơn.

Lư Thiết Quả khen phải. Lữ Đồng Tân nói :

- Văn của chúng ta cũng tầm thường, ước đặng văn của Lăo Quân th́ mới xứng đáng.

Hà Tiên Cô nói :

- Thái Thượng Lăo Quân hậu đăi Lư Tiên Trưởng lắm, nếu Lư Tiên Trưởng cầu Ngài chắc đặng.

Lư Thiết Quả nói :

- Phải, song việc đông người mà đi một ḿnh ta th́ thất lễ. Vậy th́ 8 anh em ta cùng đi đến mà cầu Lăo Quân.

Nói rồi, Bát Tiên đồng đằng vân qua Cung Đâu Suất. Đức Lăo Quân tiếp Bát Tiên, mời vào Cung, nói :

- Thuở nay, nhà Nho hay học sách của ta như sách Đạo Đức Kinh, Kinh Cảm Ứng, song dùng cho thông ư tứ mà làm văn, chớ chẳng hề bắt chước theo lời dạy bảo. Lại có kẻ kiêu ngạo, chê Phật, chê Lăo, nên ta chẳng hề đặt sách chi thêm nữa mà dạy đời.

Lư Thiết Quả thấy Lăo Quân có sắc buồn, nhưng cũng rán cầu xin việc đặt bài chúc thọ Tây Vương Mẫu. Lăo Quân cười nói :

- Ta ít ưa việc ấy, v́ có nhiều người làm không đặng mà lại hay chê. Song 8 vị có ḷng cầu ta, ta đặt giúp cho một bài từ cũng đủ.

Lăo Quân nói xong, liền viết ra một bài, đưa cho Bát Tiên xem thử. Ai nấy đều khen ngợi vô cùng. Bát Tiên từ tạ lui ra, đến cậy Chức Nữ làm trục bằng gấm, dán chữ sáng như sao, rồi đem đi chúc thọ.

Bát Tiên đi đến Hội Bàn Đào, để chúc thọ Tây Vương Mẫu, thấy các Thần Tiên đến đông lắm. Bát Tiên dâng bức trướng chúc thọ. Tây Vương Mẫu khen văn đặt rất hay.

Sau khi măn tiệc, các Thần Tiên đều về hết, Bát Tiên c̣n lưu lại. Tây Vương Mẫu gọi 4 nàng thị nữ đến bảo rằng :

- Đổng Song Thành, Vương Tử Phá, Hứa Phi Yến, An Phát Trinh 4 người từ khi ca múa tại Hoa Điện của vua Hớn Vơ Đế đến nay cũng đă khá lâu, bây giờ hăy thổi sáo và đờn ca cho Bát Tiên uống rượu.

Bốn nàng vâng lời. Lam Thể Ḥa khen hay, rót rượu dâng lên Tây Vương Mẫu. Tây Vương Mẫu nói :

- Ta nghe tiếng Lam Tiên ca hay, vậy nên tŕnh nghề vui chung trong hội.

Lam Thể Ḥa vâng lời, lấy cặp sanh ra, vừa nhịp vừa ca. Ai nấy đều khen và cười ngất. Tây Vương Mẫu thưởng cho rượu và đào. Lam Thể Ḥa nói :

- Hàn Tương Tử thổi sáo hay lắm.

Tây Vương Mẫu bảo thử. Hàn Tương Tử vâng lời. Tây Vương Mẫu nghe xong, khen hay, bảo :

- Bản ấy rất hay, An Phát Trinh phải nhớ mà tập.

Tiệc xong, Bát Tiên từ tạ. Tây Vương Mẫu truyền đưa Bát Tiên đến chơn mây.

Bát Tiên ngó thấy sóng biển Đông cao lắm. Lữ Đồng Tân nói :

- Thuở nay nghe đồn Đông hải mà chưa đến xem phong cảnh thế nào. Sẵn dịp nầy, chúng ta cũng nên xem qua một chuyến.

Lư Thiết Quả nói phải. Trương Quả Lăo can rằng :

- Bữa nay chúng ta uống nhiều rượu say rồi, để khi khác sẽ đi dạo.

Hớn Chung Ly nói :

- Sẵn dịp nầy chẳng đi dạo, c̣n đợi dịp nào ?

Bát Tiên đồng đi đến mé biển. Lữ Đồng Tân nói :

- Nay đằng vân quá hải, không lấy làm tài, chi bằng mỗi người thả một phép xuống biển, cỡi qua tới mé bên kia mới thiệt thần thông.

Lư Thiết Quả quăng gậy xuống nổi lên mặt nước, rồi nhảy xuống đứng một chân trên gậy. Hớn Chung Ly ném cây Phất chủ xuống và cũng làm như vậy. Trương Quả Lăo thả lừa giấy, Lữ Đồng Tân thả Ống tiêu, Lam Thể Ḥa thả Ngọc bản, Hàn Tương Tử thả giỏ Hoa lam, Tào Quốc Cựu thả Thủ quyển bằng ngọc, Hà Tiên Cô thả bông sen. Tất cả 8 Tiên đều đứng trên bửu pháp của ḿnh, đồng vượt qua Đông hải.

Theo Đạo Sử của Đạo Cao Đài, trong thời kỳ đầu tiên c̣n xây bàn mời các vong linh đến xướng họa thi văn, Bát Tiên có giáng bàn cho thi và khuyến tu.

Sau đây xin chép lại các bài của Bát Tiên giáng cho.

1. Lư Thiết Quả (Lư Ngưng Dương) :

Đại Hỷ chư Đạo hữu,

Trời Đất riêng tay giữ một bầu,

Ngàn mây dặm gió gót chơn thâu.

Rừng ṭng thong thả nhàn ra dạo,

Đền ngọc thung dung rảnh đến chầu.

Thoát tục sớm d́u nên bảy bạn,

Dẫn phàm nay rảo khắp năm châu.

Thế trần mừng gặp Tam Kỳ độ,

Biển khổ thuyền đưa khách lánh sầu.

Chư Đạo hữu may mắn thay gặp đường Chánh giáo, chớ dần dà trễ thiếu công quả, mà chẳng đến thang thiêng liêng kịp hồi cựu vị.

Lăo mong ngày Đạo khải hoàn. Chư Đạo hữu nên gắng sức. Đường cũng chẳng c̣n bao xa, miễn hiệp đồng nhứt tâm v́ sanh chúng, sau c̣n ngày gặp gỡ. THĂNG.

2. Hớn Chung Ly :

Rảo khắp non sông dặm trải qua,

B́ gương nhựt nguyệt, tác không già.

Biển trần nay gặp kỳ d́u chúng,

Muôn dặm đèn soi đă có ta.

Chư Đạo hữu, Đức Chí Tôn d́u bước, cả Tiên Phật dẫn đàng, há chẳng sớm lánh phồn hoa, đặng giồi trau gương đôï chúng. Huống chi chư Đạo hữu đă có quả nơi ḿnh, lại chẳng v́ mạng lịnh Đức Từ Bi mà chịu ít lâu khổ hạnh, hầu mong buổi đạt phẩm vị thiêng liêng sao ?

Ước mong ngày hội ngộ, trông mong buổi tạc thù, rượu Thánh ra non ḍm thế, cờ Thần dựa đảnh luận đời.

May thay ! Vui thay ! Chư Đạo hữu nên gắng sức. THĂNG.

3. Lữ Đồng Tân :

Riêng vui nguyệt chiếu sắc trong ao,

Đền ngọc từng khi để bước vào.

Rảnh hứng trăm hoa khoe đảnh ngự,

Nhàn vầy mấy bạn dự Bàn Đào.

Độ đời rảo gót non sông lướt,

Cứu thế d́u nhân đạo đức trau.

Chờ buổi tuần huờn Thiên lư trở,

Nương gươm Thần huệ một vừng cao.

 

Lữ Đồng Tân,

Hỷ chư Đạo hữu,

Đạo gặp kỳ Phổ độ, khá biết cải thế th́. Đạo khả trọng, đức năng trau, đời dời đổi, Đạo chờ người. Khách tục nương thuyền độ, non Tiên tiếng khánh đưa. Gắng nhọc thế lọc lừa, t́m đường ngay thẳng rẳng. Nguồn rửa bợn, nhiều đường cay đắng, bước nâu sồng dặm lắm gay go, liệu sao khỏi trễ con đ̣, mới thoát ṿng khổ hải.

Gắng sức v́ sanh mạng, lao tâm chớ sợ bởi căn xưa, đường quanh co, bước khá ngừa, nẻo hiểm trở, chơn nên lánh.

Hậu tái ngộ. THĂNG.

4. Lam Thể Ḥa :

Từng vào non Thánh lại Đền vàng,

Măn quả sớm nhờ sắc ngọc ban.

Lần hạt tu tâm th́n nét Đạo,

Biển trần độ chúng vững con thoàn. Cuộc cờ chung hứng nơi rừng thẩm,

Bầu rượu riêng vui dưới cội tàng.

Gặp lúc d́u đời qua bến tục,

Để công phải nhọc đến phàm gian

Lam Thể Ḥa

Hỷ chư Đạo hữu,

Đạo gặp lối quanh co, khá biết ngừa vực thẩm. Gắng sức cho tṛn trách nhậm lớn lao do Đấng Chí Tôn phú thác. Chư Đạo hữu khá biết. THĂNG.

5. Trương Quả Lăo :

TRƯƠNG kỳ Bạch động mộ Tiên gia,

QUẢ diệu thâu tŕ tác trí kha.

LĂO dược độ sanh tiên tự khởi,

Hiến trần tu thức trực ninh tà.

Ách nước nạn dân, số Trời đọa thế, ṿng vay trả, mối buộc ràng, nếu có tai mắt rộng xa, tự hỏi, v́ đâu nên nỗi ?

Đạo Trời gỡ nạn, chuông Thánh truy hồn, bến khổ vớt khách ch́m, non Thần chờ kẻ lạt, mà cũng c̣n khư khư nắm chắc miếng đỉnh chung, cấp củm giữ đầy lằn nhơ bợn. Đạo đời đều chẳng trọn, phương chi t́m chốn thoát lao lung. Ngảnh lại cuộc giả của tṛ đời mà thương đau cho trẻ dại. Lần lần lựa lựa, ngẩn ngẩn ngơ ngơ, đứa trí gạt phường ngu, lũ khôn ăn đám dại. Cười . . . THĂNG.

(Năm bài Thánh giáo từ 1 đến 5 đều chép trong quyển sách Đại Đạo Truy Nguyên của Cao Huệ Chương).

6. Tào Quốc Cựu :

Đàn tại Miếu Nổi, Bến Cát, G̣ Vấp, Gia Định, đêm 17-6-Quí Hợi (dl 30-7-1923), Đại Tiên Tào Quốc Cựu giáng dạy như vầy :

" Khá ráng luyện cho nên Đạo, kẻo uổng, người sanh trong đời khó gặp đặng, v́ Đạo là rất báu trong đời, không chi b́ kịp, nên mới gặp Đạo mở kỳ nầy là kỳ thứ ba. Thiệt chư nhu có đại căn mới gặp trước thiên hạ đó. " Hữu duyên đắc ngộ Tam Kỳ độ."

Tiên Thánh đều lâm phàm mà độ kẻ nguyên nhân, chư nhu là kẻ nguyên nhân, hễ thành tâm hành Đạo th́ tự nhiên đặng."

7. Hàn Tương Tử :

Đêm 17 tháng 12 năm Tân Mùi (1931).

HÀN mặc sẵn dành Đạo để thông,

TƯƠNG giang rơ ngọn phải nhiều công.

TỬ tôn noi dấu nền tu niệm,

Đắc thất nên hư cũng tại ḷng.

Chỉ dạy người phàm trau tánh sáng,

Giáng khuyên kẻ tục sửa ḿnh trong.

Đàn qua Khứu lănh bao nhiêu dặm,

Khuyên thế tu hành học chữ không.

Phàm làm người tại thế gian là chốn đua tranh danh lợi, hễ có danh có lợi th́ có buồn, có vui, làm quan tổn đức, làøm giàu bất nhơn, ít ai đặng thanh liêm chưởng đức. Hễ đắm vào 2 đường ấy th́ buộc sự oan gia trái chủ. Khi giàu thiếu chi thê thiếp, thân bằng cố hữu; khi sang chẳng dứt kẻ hầu người hạ; khi nghèo thê thiếp vắng hoe, bà con biếng ngó; buổi công danh lỡ vận, hầu hạ lánh xa, xe tàn biếng chực.

Xét lại cuộc giàu sang ở thế như huỳnh lương chi mộng, khuyên thế xét cho kỹ càng, lo tu cho sớm mà hưởng phước thanh nhàn, khỏi lo luân hồi vay trả.

THI rằng :

Giàu sang danh lợi có ra chi,

Khuyên thế lo tu mới kịp th́.

Gặp lúc mưa thu vui ngă ngớn,

Nhằm hồi nắng hạ năo sầu bi.

Tiền muôn lúa lẫm nhiều thê thiếp,

Ruộng mất vườn hư hết thị tỳ.

Mê chốn phồn ba chưa tỉnh giấc,

Ăn năn nào kịp buổi chung qui.

(Trích trong Kinh Tam Nguơn Giác Thế, trang 73)

8. Hà Tiên Cô :

(Trích trong Kinh Tam Nguơn Giác Thế, trang 28) Đêm 17 tháng 10 năm Tân Mùi (1931).

Ỷ thế tri cơ diệt lục trần,

Xuất kỳ chi bán nhập nhơn thân.

Nô nhơn hựu khứ tùng lai cổ,

Đắc lịnh hạ phàm độ thiện nhân.

Giải rơ thi chiết tự : - Trên đời muốn biết Thiên cơ phải diệt Lục trần là chữ Ỷ, bỏ chữ Lục là chữ Hà,

- Chữ Xuất bỏ bớt một nửa c̣n chữ Sơn , đem chữ Nhơn đứng vào ḿnh chữ Sơn gọi là chữ Tiên.

- Bỏ phận nô tỳ, lại theo người xưa là chữ Nô bỏ chữ Hựu, c̣n chữ Nữ, đem chữ Cổ hiệp lại là chữ Cô,

- Vâng lịnh Bề trên xuống phàm trần mà độ người lương thiện.

Sự tích : Ta khi đến tuần cặp kê, 16 tuổi, chí mộ tu hành, không ham vui cuộc thế. Hồi đời Trung cổ thái b́nh, nhiều bực hiền lương thiện sĩ và muôn dân lạc nghiệp, chiến tranh ít có, nhà an nước trị, ở thế rất vui, làm quan khỏi lo dân kiện, làm giàu khỏi lo đạo tặc, nhưng ta xét lại người đời trăm tuổi chẳng bao xa, đặng làm Tiên Thánh th́ muôn đời thong thả, nên ta lập chí tu hành, rủi bị cha mẹ ép việc hôn nhân, bởi chưa rơ ḷng ta, suy xét cưỡng ép không đặng, cho đến phạt h́nh. May có Hớn Chung Ly Đại Tiên cùng Lữ Tổ cứu khổ huờn sanh và độ ta đặng thành Chánh quả.

Đến khi ta đắc đạo, 3 năm sau hạ phàm độ cha mẹ cùng đồng đắc đạo, sự đền ơn trả thảo cù lao dưỡng dục chi nghĩa là là phải tu như vậy, tu cho đắc đạo, phản bổn huờn nguyên, thời độ Cửu huyền Thất Tổ theo lên, chớ chẳng phải phụng cúng đồ cao lương mỹ vị.

Thế gian khi thác th́ nhựt sát tam sanh, tế tông tự tổ, ấy là gia tăng đại tội cho tiên thân, chẳng phải là hiếu.

Ta khuyên các tṛ, gặp cuộc Tam Kỳ Phổ Độ, Trời ân xá cho chúng sanh, thừa dịp may, khuyên các tṛ khá giữ trường trai giới sát mà tu hành, chớ nên ham vui theo cuộc phù ba, vợ vợ chồng chồng, mà gây thêm mối nợ oan gia thời tử sanh không dứt. .

. . . . . THĂNG.

22. Thất Thánh

Thất Thánh là 7 vị Thánh vào thời Phong Thần ở Trung Hoa.

Theo Truyện Phong Thần, 7 vị Thánh nầy vâng lịnh thầy xuống núi giúp Khương Thượng Tử Nha pḥ nhà Châu, đánh dẹp các Tiên Triệt giáo đang giúp vua Trụ, để diệt Trụ hưng Châu.

Bảy vị nầy có đủ công đức vượt Bảng Phong Thần, vào trường Phong Thánh. Thất Thánh gồm :

1. Lôi Chấn Tử.

2. Lư Tịnh.

2. Kim Tra.

4. Mộc Tra.

5. Na Tra.

6. Dương Tiễn.

7. Vi Hộ.

Trên tấm diềm ở Bát Quái Đài phía Nam phái, có đắp tượng Thất Thánh trên những cụm mây lành 5 sắc.

Sau đây là sự tích của Thất Thánh viết theo Truyện Phong Thần.

I. Lôi Chấn Tử : Tây Bá Hầu (sau là vua Châu Văn Vương) được lịnh của vua Trụ gọi về triều. Trên đường đến triều ca, khi qua núi

Yên sơn th́ gặp Trời đổ mưa tầm tă, lại nổ ra một tiếng sấm thật lớn dường như lở non rúng đất, ai nấy đều thất kinh. Khi hết mưa, Tây Bá Hầu nói với các tướng hầu cận rằng :

- Sấm lớn quá, chắc có tướng tinh ra đời. Các ngươi hăy đi t́m kiếm quanh đây xem sao.

Các tướng không dám cải, cứ đi quanh quẩn mà t́m. Xảy nghe tiếng con nít khóc, quân lính t́m tới thấy một đứa bé mới sanh, chắc đây là tướng tinh, nên bồng đứa bé đem tŕnh Tây Bá.

Tây Bá mừng rỡ, hỏi kỹ trước au, thấy thằng nhỏ mặt như nhụy đào, mắt như sao nháy, th́ mừng lắm, nói :

- Số ta có một trăm đứa con, mà đă sanh được 99 đứa rồi. Nay nuôi thêm thằng nhỏ nầy nữa th́ đủ số 100. Tướng mạng của thằng nhỏ nầy ngày sau quí lắm, bây hăy bồng nó đi vô xóm đặng mướn vú nuôi dưỡng, đợi 7 năm nữa ta về ngang đây, ta sẽ rước nó.

Tây Bá Hầu chưa đi tới xóm, th́nh ĺnh gặp một Đạo sĩ đến bái Tây Bá Hầu nói rằng :

- Chào Chúa Công.

Tây Bá lật đật xuống ngựa đáp lễ, rồi hỏi :

- Thầy ở động nào, núi nào, đến đây có việc chi ?

Đạo sĩ đáp :

- Tôi ở động Ngọc Trụ, núi Chung Nam, hiệu là Vân Trung Tử, bởi nghe sấm nổ lớn, biết có vị tướng ra đời, nên đến đây t́m kiếm.

Tây Bá truyền đem đứa bé lại cho Đạo sĩ xem. Vân Trung Tử bồng nó rồi nói rằng :

- Tướng tinh đợi chừng nầy mới ra đời ! Để cho tôi đem về núi nuôi dưỡng, chừng Chúa Công trở về đây, tôi sẽ trả lại cho.

- Tôi cám ơn thầy, song lâu mới gặp, nên phải đặt tên cho nó để nhớ mà nh́n.

- Trong sấm sanh ra, th́ cứ theo đó mà đặt tên là Lôi Chấn Tử.

Tây Bá khen phải, rồi để cho Vân Trung Tử bồng Lôi Chấn Tử đem về động. Bảy năm sau, Vân Trung Tử biết Tây Bá Hầu đă măn hạn ngồi tù ở Dũ Lư, nhưng c̣n bị tai ương một chút, nay đă đúng kỳ giao ước, nên phải cho Lôi Chấn Tử xuống núi cứu cha, liền sai Kim Hà Đồng Tử gọi Lôi Chấn Tử vào và bảo :

- Nay cha ngươi đương mắc nạn, phải đi cứu cho mau.

Lôi Chấn Tử hỏi :

- Thưa thầy, chẳng hay cha của con là ai ?

Vân Trung Tử thuật hết các việc đă xảy ra và nói :

- Cha nuôi của ngươi là Tây Bá Hầu đang mắc nạn ở ải Lâm Đồng. Ngươi đi ra núi Hổ Nhi kiếm đồ binh khí đặng thầy dạy vơ nghệ cho mà xuống núi cứu cha.

Lôi Chấn Tử vâng lời thầy, đi đến núi Hổ Nhi t́m binh khí, chẳng thấy chi hết, mà lại thấy một cây hạnh có 2 trái chín đỏ rất ngon, liền leo lên hái, ăn thử một trái cảm thấy rất ngon, liền ăn hết 2 trái.

Ăn vừa xong th́ 2 bên sườn bắt ngứa ngáy, thấy mọc ra 2 cánh lớn như cánh chim đại bàng. Lôi Chấn Tử thấy vậy rụng rời, ngă lăn bất tỉnh. Một hồi, tỉnh dậy, rờ sóng mũi quá cao, nanh ló ra khỏi môi, mắt lồi khỏi khoé, mặt xanh tóc đỏ, ḿnh cao 2 trượng, lưng lớn 10 vừng. Lôi Chấn Tử không biết v́ sao mà ḿnh lại biến h́nh quái lạ như vậy.

Vân Trung Tử xem thấy, vỗ tay cười lớn, chỉ Lôi Chấn Tử rồi ngâm bài thi:

Ăn hai hạnh đỏ sanh đôi cánh,

Cầm một gậy vàng giúp đế vương.

Bay khắp Đất Trời làm sấm gió,

Biết bao phép tắc định Âm Dương.

Mắt lồi sáng giới đôi tṛng bạc,

Tóc dửng phất phơ một sắc hường.

Tướng tợ Lôi Công, oai tợ sét,

Pḥ cha dựng nước, dẹp nhà Thương.

Vân Trung Tử dắt Lôi Chấn Tử vào vườn đào, ban cho một cây gậy vàng, dạy cho vơ nghệ tinh thông, phép tắc mầu nhiệm, rồi lấy son viết chữ PHONG bên cánh trái, và chữ LÔI bên cánh phải. Vân Trung Tử bảo :

- Ngươi mau qua ải Lâm Đồng cứu cha là Tây Bá Hầu, song chẳng đặng giết tướng của nhà Trụ, cũng không đặng phép theo cha, phải trở lại núi Chung Nam đặng học thêm cho xong phép tắc.

Lôi Chấn Tử tạ ơn thầy, đi ra khỏi động, vỗ 2 cánh PHONG LÔI, tức th́ bay tới ải Lâm Đồng trong giây lát, thấy một người cỡi ngựa đang chạy trốn, nghĩ chắc là cha ḿnh đang mắc nạn, nên gọi lớn : " Ông có phải là Tây Bá Hầu đó chăng ?"

Tây Bá nghe tiếng, ngó lên núi, thấy một người như quỉ sứ, th́ quá sợ hăi, nghĩ sao người nầy lại biết ḿnh là Tây Bá, lại nghĩ ḿnh đang lúc cùng đường th́ c̣n sợ ǵ nữa, liền cho ngựa chạy lên núi, đến chỗ Lôi Chấn Tử đứng, hỏi :

- Tướng quân là ai mà lại biết tôi là Tây Bá Hầu ?

Lôi Chấn Tử nghe ro ơliền qú xuống lạy vua cha và thuật rơ mọi việc. Tây Bá Hầu mới biết đó là Lôi Chấn Tử biến thân, bây giờ là học tṛ Tiên, th́ rất vui mừng.

Liền đó, Lôi Chấn Tử bảo cha leo lên lưng ḿnh, nhắm mắt lại, để Lôi Chấn Tử bay đưa cha qua khỏi 5 ải, trở về Tây Kỳ, rồi từ biệt cha mà trở về núi Chung Nam theo đúng lời Thầy đă dặn.

Thời gian sau, một hôm, Vân Trung Tử đang ngồi trên giường Bích Vân trong động Ngọc Trụ núi Chung Nam, bỗng nhớ đến việc Thái Sư Văn Trọng đem binh đánh Tây Kỳ, nên gọi Lôi Chấn Tử đến bảo :

- Ngươi hăy xuống Tây Kỳ, ra mắt Vơ Vương, và Sư thúc Tử Nha, đặng pḥ Châu đánh Trụ mà lập công danh.

Lôi Chấn Tử lạy thầy rồi bay xuống Tây Kỳ, xảy thấy binh Trụ đang thua chạy, liền bay xuống đánh tiếp, bị tướng Trụ là Tần Huờn, cũng có đôi cánh biết bay, nên bay lên nghinh chiến. Tần Huờn đánh không lại Lôi Chấn Tử, nên phải bay đi trốn.

Lôi Chấn Tử trở qua dinh Châu, ra mắt Vơ Vương Cơ Phát và Sư thúc Tử Nha.

Trước khi khởi sự đánh vào 5 ải chinh phạt vua Trụ, Lôi Chấn Tử hỏi thầy về việc chinh chiến sắp tới thế nào, Vân Trung Tử ngâm rằng :

Rơ ràng trái hạnh sanh đôi cánh,

Bảo hộ nhà Châu đặng tám trăm.

II. Lư Tịnh, Kim Tra, Mộc Tra, Na Tra :

1. Giới thiệu tổng quát : Lư Tịnh vốn là học tṛ của Độ Ách Thiên Tôn, ở núi Côn Lôn. Khi c̣n nhỏ, Lư Tịnh đi tu, sau bị đuổi về, ra pḥ vua Trụ, làm chức Tổng Binh, trấn ải Trần Đường. Vợ Lư Tịnh là Ân Phu nhân, sanh đặng 2 trai vạm vỡ là Kim Tra và Mộc Ta. Nay có nghén lần thứ 3, lạ lắm, 3 năm rưỡi mà chưa khai hoa. Đêm kia nhằm giờ Tư, Ân Phu nhân chiêm bao, thấy một Đạo sĩ râu dài đi thẳng vào pḥng, cầm một trái châu sáng, liệng vào bụng bà và nói : Phu nhân mau lănh con báu.

Phu nhân giựt ḿnh thức dậy, th́ chuyển bụng, sanh ra một cái bọc điều lớn lắm. Lư Tịnh cả kinh, dùng gươm rạch bọc ra, liền có một đứa con nít trong bọc nhảy ra, ḿnh chiếu hào quang, mặt như giồi phấn, tay cầm Càn Khôn quyện, lưng buộc dây Hỗn Thiên lăng. Ấy là Linh Châu Tử đầu thai xuống đó.

Hôm sau, Thái Ất Thiên Tôn là vị Tiên ở động Kim Quang, núi Càn Nguơn, đến nói với Lư Tịnh :

- Nghe tướng quân mới sanh con quí, tôi đến mừng, xin cho tôi xem thử.

Lư Tịnh truyền thể nữ ẵm công tử ra ngoài. Thái Ất bồng thằng bé và hỏi Lư Tịnh :

- Sanh vào giờ nào vậy ?

- Vào giờ Sửu.

- Không tốt, v́ sanh vào giờ ấy th́ phạm sát giới 1700 mạng. Tướng quân có đặt tên cho nó chưa ?

- Chưa.

- Để tôi đặt tên cho nó, sau nó sẽ là đệ tử của tôi. Tướng quân có đặng mấy công tử ?

- Tôi có 3 trai : Thằng lớn tên là Kim Tra, theo học với Văn Thù ở núi Ngũ Long động Vân Tiêu; thằng thứ nh́ tên là Mộc Tra, theo học với Phổ Hiền ở núi Cửu Cung động Bạch hạc; c̣n thằng thứ ba là nó đó. Thầy muốn thâu nhận nó làm đệ tử th́ thầy tự ư đặt tên.

- Tôi đặt tên cho nó là Na Tra.

Sau đó, Thái Ất kiếu ra về.

 

2. Na Tra giết Lư Lương, Ngao Bính, Thể Vân

Một hôm, Na Tra ra bờ sông tắm chơi, ngồi trên bực thạch, giặt dây lụa đỏ (Hỗn Thiên lăng) làm nước hóa màu hồng, cả sông nổi sóng, làm lâu đài của Long Vương rung rinh. Long Vương Ngao Quảng sai tướng Dạ Xoa Lư Lương lên mé sông xem có việc chi.

Lư Lương vâng lịnh đi lên, thấy Na Tra đang giặt dây lụa đỏ, hào quang sáng ngời, hỏi :

- Thằng nhỏ kia, mày giặt thứ ǵ mà làm cho nước sông đỏ tươi, lâu đài rung chuyển ?

Na Tra thấy dưới nước trồi lên một tướng mặt xanh tóc đỏ, nanh bạc mắt vàng, tay xách búa đồng, tướng như quỉ sứ, ăn nói lỗ măng th́ đáp rằng :

- Mầy là thằng nào ? Lâu đài của bây như đồ thợ mă, mà nói với ai ?

Lư Lương tức giận, nhảy đến chém Na Tra. Na Tra lấy Càn Khôn quyện liệng đùa, đánh bể đầu Lư Lương chết tốt.

Na Tra nói : - Báo hại dơ Càn Khôn quyện của ta.

Nói rồi lấy Càn Khôn quyện chao qua chao lại trong nước để rửa cho sạch, hào quang của nó làm cho lâu đài của Long Vương đổ sập nghiêng ngửa. Ngao Quảng thất kinh, xảy có quân vào báo :

- Lư Lương bị một thằng nhỏ đánh bể đầu chết rồi.

Thái Tử Ngao Bính vội bước ra xin đi lên bắt thằng nhỏ đó đem về Long Cung trị tội. Ngao Bính nai nịt, cầm khí giới nhảy vọt lên khỏi mặt nước, thấy Na Tra đang ngồi đó th́ nạt lớn :

- Ai đánh chết tướng Dạ Xoa của ta ?

- Tao đây chớ ai. Tao là Na Tra, con của Tổng Binh Lư Tịnh. Tao đang tắm chơi, can cớ chi thằng chết đó, nó tưởng tao là củi nên vác búa lại bửa. Tao đánh chết nó đáng đời.

Ngao Bính tức quá, tiến tới lấy kích đâm liền.

Na Tra đỡ vẹt kích ra rồi nói rằng :

- Mầy là ai ? Xưng tên họ ra cho tao biết.

- Tao là Thái Tử Ngao Bính, con của Đông Hải Long Vương Ngao Quảng đây.

- Hèn chi mà mầy làm phách. Tao nói thiệt, nếu chọc tao, th́ tao lột da đến cha mầy nữa.

Ngao Bính quá tức giận, cầm kích đâm tới. Na Tra lẹ tay ném Hỗn Thiên lăng trói Ngao Bính lại, rồi đưa Càn Khôn quyện đập một cái, Ngao Bính chết liền, hiện nguyên h́nh là một con rồng nhỏ. Na Tra nói :

- Để tao rút gân mầy đem về cha tao buộc giáp chơi.

Nói rồi làm liền, xong mặc lại quần áo quay trở về ải. Gia đinh thấy các việc vừa qua, vô cùng hoảng sợ, ḅ lết theo sau Na Tra, cùng nhau về ải.

Một ngày khác, Na Tra ra hoa viên chơi, thấy một cái lầu tại ải rất cao, bèn leo lên đó chơi và hóng mát, thấy trên đó có đặt một cây cung lớn với 3 mũi tên. Na Tra nghĩ bụng, thầy ḿnh bảo sau nầy ḿnh làm chức Tiên Phuông, pḥ nhà Châu diệt Trụ, nay thử tập bắn cung tên. Nói rồi liền lắp tên vào, giương cung bắn ra một mũi tên về phía Tây Nam. Ngờ đâu, nó là một cây cung Thần của vua Huỳnh Đế thuở xưa đánh Xi Vưu, c̣n dư 3 mũi tên Thần, gọi là Chấn Thiên Tiễn, khi bắn, phát ra tiếng sấm vang Trời, lâu nay không ai giương cung nầy nổi, nên để tại lầu cao làm báu vật trấn ải.

Na Tra bắn xong, nghe sấm nổ th́ hoảng kinh, buông cung ra, không dám bắn tiếp, và lật đật leo xuống lầu.

Ngờ đâu, mũi tên bay tới núi Khô Lâu, động Bạch Cốt, giết chết Thể Vân Đồng tử, học tṛ của Bà Thạch Cơ, một vị Tiên Triệt giáo.

Thạch Cơ ra xem, thấy đề là Chấn Thiên Tiễn, là biết của Lư Tịnh ở ải Trần Đường, liền cỡi chim loan xanh xuống ải bắt Lư Tịnh về động tra xét. Lư Tịnh xem thấy Chấn Thiên Tiễn bắn chết Thể Vân th́ thất kinh, van nài Thạch Cơ :

- Cung Càn Khôn và Chấn Thiên Tiễn là vật linh, lâu nay không ai bắn nổi, chẳng qua tôi mắc vận suy, tai rơi họa gởi, xin cho tôi về ải tra xét xem ai bắn th́ chịu chết cũng cam ḷng.

Thạch Cơ nói :

- Cho ngươi trở về tra xét, kẻo kêu nài oan ức. Nếu truy xét không ra đứa bắn th́ ta kiện đến thầy ngươi.

Lư Tịnh từ ta,ï độn thổ trở về ải, điều tra biết rơ Na Tra có bắn, kinh hăi vô cùng, đ̣i Na Tra ra nói :

- Mầy đă lấy cung Càn Khôn bắn chết Thể Vân là học tṛ của Bà Thạch Cơ, Bà bắt tội tao, mầy phải đến Thạch Cơ mà chịu tội.

Lư Tịnh dẫn Na Tra lên cung Bạch Cốt, gặp Thạch Cơ. Thạch Cơ tha cho Lư Tịnh trở về ải, c̣n Bà bắt Na Tra, nhưng Na Tra đâu dễ cho bắt, lấy Càn Khôn quyện và Hỗn Thiên lăng đánh với Thạch Cơ, bị Thạch Cơ thâu hết phép báu. Na Tra liền bỏ chạy về động Kim Quang cầu thầy cứu viện.

Thái Ất ra gặp Thạch Cơ, bảo rằng :

- Nếu Bà muốn bắt Na Tra th́ hăy lên Cung Ngọc Hư yết kiến Giáo Chủ Nguơn Thỉ là thầy ta, nếu thầy ta dạy ta phải giao nó cho Bà th́ ta mới dám giao, v́ Na Tra vâng lịnh Ngọc Hư ra đời pḥ chúa Thánh.

Thạch Cơ thấy không xong, liền ra tay đánh Thái Ất, bị Thái Ất dùng Cửu Long Thần Trảo đốt chết, hiện nguyên h́nh là một cục đá xanh.

3. Na Tra nhờ thầy cứu, nhập xác bông sen.

Na Tra độn thổ về ải Trần Đường, thấy cha và mẹ đang bị Long Vương 4 biển : Ngao Quảng, Ngao Khâm, Ngao Thuận, Ngao Nhuận, bắt trói làm tội. Na Tra hét lớn :

- Ta đă đánh chết Lư Lương và Ngao Bính, th́ một ḿnh ta thế mạng mà thôi, sao lại bắt cha mẹ ta ?

Nói xong, Na Tra liền ngó ngay Ngao Quảng nói tiếp :

- Mạng ta đây chẳng nhỏ, ta vốn là Linh Châu Tử vâng lịnh Ngọc Hư đầu thai xuống thế để giúp Thánh Quân, Nay ta mổ bụng, lóc thịt, chặt xương mà trả cho song thân ta, để khỏi di lụy đến cha mẹ ta, ngươi có bằng ḷng không ? Nếu không chịu th́ đồng lên Thiên Cung mà cáo với Ngọc Hoàng xem ai phải ai quấy cho biết.

Ngao Quảng nghe ra liền nói :

- Đạo làm con như vậy thiệt là có hiếu.

Nói rồi liền mở trói cho Lư Tịnh và Ân Phu nhân.

Na Tra lấy gươm ra, tay mặt chặt cánh tay trái, mổ bụng lôi ruột ra, lóc thịt, máu ra lai láng, chết liền.

Bốn vị Long Vương thấy Na Tra làm y theo lời, chịu chết nên lui hết. Ân Phu nhân khóc lóc, rồi liệm xác Na Tra.

Hồn Na Tra đêm ấy về báo mộng cho mẹ, yêu cầu mẹ lập cho một cái miểu ở núi Túy B́nh, cách ải Trần Đường 40 dặm, để nhờ hương khói cho linh hồn mau cứng cát.

Được như vậy nửa năm, một hôm Lư Tịnh dẫn quân đi qua núi ấy, thấy thiên hạ đến dâng hương ở một cái miểu rất đông, tiếng đồn nơi miểu có ông Thần linh hiển lắm, ai cầu ǵ được nấy. Lư Tịnh vào xem thấy đó là miếu thờ Na Tra, có h́nh cốt y như người thật. Lư Tịnh nổi giận nói : Khi sống báo hại cha mẹ đủ thứ, khi chết lại báo hại dân chúng nữa.

Nói rồi, Lư Tịnh đập phá cốt tượng, sai lính đốt miếu, lửa cháy tiêu tan.

Hồn Na Tra không nơi nương tựa, bay về động Kim Quang báo cáo tất cả các việc với thầy.

Thái Ất toán biết Khương Thượng sắp sửa ra mặt giúp nhà Châu, mà Na Tra chưa hiện h́nh đặng th́ làm sao nên việc. Nghĩ rồi, bèn sai Kim Hà đồng tử đi hái 2 cái bông sen lớn và 3 lá sen c̣n nguyên cọng.

Thái Ất liền bẻ các cọng sen làm thành 360 khúc để làm xương, lấy các cánh sen đắp lên làm thịt, đắp phủ bên ngoài 3 lá sen làm da, để một hột linh đơn vào giữa, rồi họa phù niệm chú, bắt vía thâu hồn Na Tra xô nhập vào h́nh sen, hét lớn : " Na Tra chưa sống lại c̣n đợi chừng nào ?"

Xảynghe một tiếng ư , có một người từ h́nh sen trổi dậy, mặt như dồi phấn, môi tợ thoa son, con mắt có ngời, bề cao 16 thước. Ấy là Na Tra nhập xác bông sen đó.

Na Tra liền lạy thầy tạ ơn tái tạo.

Sau đó, Thái Ất dạy thêm cho Na Tra các môn vơ nghệ, phép tắc, rồi truyền cho Na Tra 2 bánh xe Phong Hỏa, đặng thế cho ngựa đỡ chơn, và các phép báu là : Càn Khôn quyện, Hỗn Thiên lăng, và một cục Kim Chuyên.

 

4. Na Tra xuống núi giúp Tử Nha :

Lúc ấy, tướng của vua Trụ là Trương Quế Phương đem binh chinh phạt Tây Kỳ, đánh thắng liên tiếp mấy trận, v́ Quế Phương có tà thuật.

Thái Ất đang ngồi trên giường Bích Du, động ḷng chẳng an, bèn đánh tay biết rơ, liền gọi Na Tra tới bảo :

- Nay ngươi phải xuống Tây Kỳ mà giúp Sư thúc của ngươi là Tử Nha đặng lập công danh. Nay lần lượt có 36 đạo binh đến đánh phá Tây Kỳ không hở, ngươi hăy rán hết ḷng giúp Sư thúc và pḥ tá Minh Quân.

Na Tra vui mừng khoái chí v́ được đi đánh giặc, vội lạy thầy, rồi nổi xe Phong Hỏa đi xuống Tây Kỳ nhanh như chớp, vào Tướng phủ ra mắt Khương Thượng Tử Nha. Tử Nha rất mừng v́ có tướng tài đến giúp, liền ra binh đánh lui được Trương Quế Phương.

 

5. Kim Tra xuống núi :

Vương Ma và Dương Sum là 2 Tiên Triệt giáo đến giúp vua Trụ đánh Tử Nha. Vương Ma rượt Tử Nha và liệng Tử Nha một trái Khai Thiên Châu nhằm lưng mà thác. Con Tứ Bất Tướng cũng sa xuống đứng cạnh xác của Tử Nha để giữ thây. Vương Ma giục thú bay đến định cắt lấy thủ cấp của Tử Nha, xảy thấy có Văn Thù Quảng Pháp Thiên Tôn ở động Vân Tiêu dẫn theo Kim Tra chờ sẵn ở đó. Văn Thù nói :

- Vương Đạo hữu không nên giết chết Tử Nha. Bần đạo vâng lịnh Ngọc Hư Cung đợi ở đây lâu lắm, bởi có 5 việc như vầy :

. Một là khí số Thành Thang đă hết.

. Hai là Chơn Chúa Tây Kỳ đă ra đời.

. Ba là đạo Xiển giáo của ta phải phạm sát giới.

. Bốn là Tử Nha đặng hưởng phước giàu sang dưới thế.

. Năm là Tử Nha thế Ngọc Hư Cung mà Phong Thần.

Đạo hữu lâu năm tu theo Triệt giáo, há không nhớ đôi liễn trên Cung Bích Du của Thông Thiên Giáo Chủ hay sao ?

Đóng cửa tụng Huỳnh Đ́nh,thiệt có số thành ngôi Chánh quả,

Tách ḿnh qua Tây thổ, là có tên đứng Bảng Phong Thần.

Tuy Đạo hữu đánh chết Tử Nha, nhưng c̣n có thể cứu sống được. Nếu Đạo hữu nghe lời ta khuyên mà trở về Cửu Long Đảo th́ rất tốt, bằng cải lời ta, sau chớ ăn năn.

Vương Ma nổi giận hét lớn :

- Văn Thù chớ có khoe tài. Ngươi với ta cùng đồng một thể. Ngươi có Giáo chủ, ta không có Giáo chủ sao ?

Dứt lời, Vương Ma liền chém tới. Kim Tra đứng sau lướt lên đỡ vẹt đường kiếm của Vương Ma, đồng thời Văn Thù dùng Độn Long Thung, vật báu của Phật, kêu là Thất bảo Kim liên, bắt lấy Vương Ma. Kim Tra chém Vương Ma một nhát, hồn Vương Ma bay lên đài Phong Thần, có Bá Dám cầm Phướn Bá Linh ra rước vào.

Văn Thù thâu Độn Long Thung, lạy về núi Côn Lôn mà vái rằng : Đệ tử phạm sát sanh, xin cam thọ tội.

Lạy rồi truyền Kim Tra cơng Tử Nha lên núi đặng đổ thuốc kim đơn cứu sống. Tử Nha tỉnh dậy, cảm tạ Văn Thù.

Khi ấy Văn Thù trao Độn Long Thung cho Kim Tra và dặn rằng : "Ngươi hăy theo sư thúc Tử Nha mà xuống Tây Kỳ hết ḷng trợ chiến."

Kim Tra từ tạ thầy rồi đỡ Tử Nha lên lưng Tứ Bất Tướng, đồng trở lại Tây Kỳ. 6. Mộc Tra xuống núi :

Lư Hưng Bá là Tiên Triệt giáo ở Cửu Long Đảo, đến trợ giúp Trương Quế Phương đánh Tử Nha, bị thất trận, chạy đi báo với Thái Sư Văn Trọng.

Giữa đường, Lư Hưng Bá gặp một Đạo đồng đón lại nói rằng :

- Ta là Mộc Tra, học tṛ của Phổ Hiền Chơn Nhơn ở núi Cửu Cung, động Bạch Hạc. Nay ta vâng lịnh thầy ta đón bắt Lư Hưng Bá nạp cho Tử Nha lănh thưởng.

Lư Hưng Bá cười rằng :

- Con nít khi ta tới nước !

Nói rồi lấy giản đánh liền. Mộc Tra lấy cặp gươm Ngô Câu, một cây trống, một cây mái, đón đánh, giết được Lư Hưng Bá, chặt đầu rồi đem chôn xác, xong độn thổ qua Tây Kỳ, vào ra mắt Tử Nha, thuật rơ các việc.

Tử Nha vui mừng, kêu 3 anh em : Kim Tra, Mộc Tra, Na Tra đến khen rằng :

- Ba anh em học tṛ Tiên tài giỏi phi thường, đồng pḥ Chúa Thánh, nêu danh 4 biển, để tiếng muôn đời.

7. Lư Tịnh xuống Tây Kỳ pḥ Châu :

Công Chúa Long Kiết giúp Tử Nha thâu hết các phép của La Tuyên và đánh La Tuyên chạy dài. La Tuyên chạy đến một ngọn núi kia th́ nghe một người ca rằng :

Lánh chốn hồng trần khỏi thị phi,

Xưa từng áo măo ở thành tŕ.

Kích dài trượng tám, người kiêng sức,

Tháp nặng ngàn hai, cọp khiếp uy.

Ẩn mặt trước c̣n nương thạch động,

Trổ tài nay mới xuống Tây Kỳ.

Biết thời Trụ mạt, Châu đương phát,

Cái mạng La Tuyên cũng hiểm nguy.

La Tuyên nghe ca, ngó lại thấy một người đội măo kim khôi, mặc đạo phục, tay cầm kích dài, liền hỏi rằng:

- Ngươi là ai mà dám nói phách như vậy ?

Người ấy đáp :

- Ta là Lư Tịnh, nay xuống Tây Kỳ giúp Tử Nha lấy 5 ải. Ta không có lễ chi ra mắt, nên mượn cái đầu của ngươi. La Tuyên nổi giận, cầm gươm chém liền. Lư Tịnh quăng Huỳnh Kim Bửu Tháp lên kêu lớn.

- Bớ La Tuyên, ngày nay ngươi khó trốn.

La Tuyên đỡ không kịp, bị tháp sa xuống bể đầu.

Lư Tịnh giết La Tuyên xong, liền độn thổ đi qua Tây Kỳ ra mắt Tử Nha. Bốn Cha con đồng pḥ Châu diệt Trụ.

8. Khởi đánh 5 ải :

Trong Lễ đăng đàn bái tướng, Đức Nguơn Thủy Thiên Tôn an ủi Tử Nha, các vị Đại Tiên rót rượu tiễn hành, c̣n các học tṛ hỏi thầy ḿnh tiến tŕnh chinh chiến lành dữ thế nào ?

- Kim Tra lạy Văn Thù hỏi. Văn Thù ngâm rằng :

Đă sẵn có công về tám cơi,

Lo chi không kế đánh năm thành.

- Na Tra cũng lạy Thái Ất cầu hỏi. Thái Ất cũng ngâm rằng :

Khi vào Tỵ Thủy càng thêm phép, Mới biết liên hoa lại hóa h́nh.

- Mộc Tra lạy Phổ Hiền cầu hỏi. Phổ Hiền ngâm:

Gươm báu Ngô Câu là phép mạnh,

Đường trường quan ải dễ ai ngăn.

- Lư Tịnh lạy thầy là Nhiên Đăng cầu hỏi. Nhiên Đăng nói : Ngươi lại khác hơn người ta nữa, rồi ngâm :

Thành luôn vừa xác về Tiên cảnh,

Chẳng những phần hồn đến Ngọc Kinh.

III. Dương Tiễn :

Lúc nầy Tử Nha và Vơ Vương c̣n đang bị Ma Gia Tứ Tướng vây khổn nơi Tây Kỳ gần giáp một năm, chưa phân thắng bại. Xảy thấy quân vào báo với Tử Nha : - Có một ông Đạo đến xin vào ra mắt.

Tử Nha liền cho mời vào, th́ thấy một Đạo sĩ đội măo Phiến Vân, mặc áo Bát Quái, đi giày cỏ, buộc giải tơ, đến làm lễ ra mắt Tử Nha và thưa rằng :

- Đệ tử họ Dương tên Tiễn, học tṛ của Ngọc Đảnh Chơn Nhơn, vâng lịnh thầy xuống núi đến hầu Sư thúc.

Tử Nha vui mừng không xiết, v́ biết Dương Tiễn rất tài giỏi, có nhiều mưu lạ, và có nhiều phép biến hóa không lường, kêu các tướng đến giới thiệu cho biết mặt, rồi dẫn Dương Tiễn đến ra mắt Vơ Vương.

Trước khi khởi sự Chinh Đông, đánh Ngũ quan, diệt vua Trụ, Dương Tiễn lạy thầy là Ngọc Đảnh Chơn Nhơn, hỏi việc chinh chiến sắp tới thế nào. Ngọc Đảnh Chơn Nhơn đáp :

- Ngươi khác với người ta xa lắm.

Nói rồi ngâm rằng :

Tập luyện huyền công, ai sánh kịp,

Tung hoành thế giới, bực nào hơn.

Dương Tiễn nhờ có Thất thập nhị Huyền công (72 phép biến hóa), nên đă giúp Tử Nha rất đắc lực, tạo được nhiều kỳ công.

IV. Vi Hộ :

Lữ Nhạc là Tiên Triệt giáo, bị Kim Tra, Mộc Tra, Na Tra, Dương Tiễn, đánh cho bại tẩu, cùng với học tṛ là Dương văn Huy chạy đến một ngọn núi, định ngồi xuống nghỉ mệt, th́ gặp một người nửa Tiên nửa tục, ḿnh mặc áo Đạo, đầu đội Kim khôi, tay cầm Giáng Ma Xử, vừa đi vừa ca.

Lữ Nhạc đón lại hỏi :

- Đạo sĩ là ai, đi đâu đó ?

Người ấy đáp rằng :

- Ta họ Vi tên Hộ, học tṛ của Đạo Hạnh Thiên Tôn ở núi Kim Đỉnh, tại động Ngọc Ốc, vâng lịnh thầy ta xuống Tây Kỳ giúp Sư thúc Tử Nha đánh Ngũ quan phạt Trụ, nay thuận đường qua đây đặng bắt thầy tṛ Lữ Nhạc mà lập công.

Dương văn Huy nghe nói th́ nổi giận thét :

- Khen mi cả gan dám lớn lối.

Thét vừa dứt th́ rút kiếm chém. Vi Hộ cười rằng :

- Nói vậy th́ may lắm, không dè lại gặp thầy tṛ Lữ Nhạc tại đây, thật tiện cho ta, khỏi mất công t́m kiếm.

Đánh nhau được 5 hiệp, Vi Hộ quăng Giáng Ma Xử lên để đánh Dương văn Huy. Có bài thơ khen Vi Hộ :

Trong ḷ Bát Quái luyện hèn lâu,

Chày Giáng Ma nầy rất nhiệm mầu.

Vi Hộ ngày sau thành Hộ Pháp,

Văn Huy nay gặp nát tan đầu.

Cây Giáng Ma Xử như cái chày nện vải mà luyện pháp rất hay, cầm trên tay th́ nhẹ như bông, đánh nhằm người th́ nặng như núi. Giáng Ma Xử của Vi Hộ đánh Dương văn Huy bể đầu chết liền, linh hồn bay lên Đài Phong Thần.

Lữ Nhạc thấy học tṛ đă chết, nổi giận hét lớn :

- Ngươi dám khi ta.

Nói rồi liền đưa gươm chém Vi Hộ. Đánh đặng 7 hiệp, Vi Hộ cũng quăng Giáng Ma Xử lên cao, Lữ Nhạc biết nguy, độn thổ trốn mất.

Vi Hộ thâu Giáng Ma Xử, đi qua Tây Kỳ vào ra mắt Tử Nha, thuật lại các việc. Tử Nha rất mừng v́ có thêm tướng tài giúp sức đánh Ngũ quan.

Trước khi khởi hành đi đánh Ngũ quan, Vi Hộ lạy thầy là Đạo hạnh Thiên Tôn hỏi về bước đường chinh chiến sắp tới, Đạo Hạnh Thiên Tôn đáp :

-Ngươi pḥ Sư thúc Tử Nha đi đánh Mạnh Tân không can chi mà ngại.

Nói rồi ngâm rằng :

Dẫu bao nhiêu bạn tu hành kỹ,

Có một ḿnh ngươi quả vị cao.

Quả thật về sau, Vi Hộ đắc quả Phật Hộ Pháp, gọi là Vi Hộ Pháp, hộ giá Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Vi Hộ Pháp đầu kiếp xuống trần vào nhà họ Phạm, tên là Phạm công Tắc, để làm tướng soái cho Đức Chí Tôn khai đạo. (Xem bài Thánh giáo ở phía sau của Đức Thanh Sơn Đạo sĩ tiết lộ cho biết điều đó.)

V. Thất Thánh trở về núi tu luyện :

Bảy vị Thánh, sau khi giúp Tử Nha thành công, pḥ Vơ Vương, diệt vua Trụ, b́nh định thiên hạ, và Tử Nha vâng sắc chỉ của Đức Chưởng giáo Nguơn Thủy phong Thần các tướng tử trận xong, Thất Thánh đồng vào tâu với Vơ Vương :

- Chúng tôi là người ở núi non, vâng lịnh thầy xuống giúp Bệ hạ. Nay nước nhà được thái b́nh, chúng tôi xin trở về núi tu hành, c̣n việc phú quí, chúng tôi không muốn.

Vơ Vương phán rằng :

- Trẫm nhờ các khanh tài cao phép lạ, công khó trí dày, mới cứu được nước được dân. Nay thái b́nh, các khanh không chịu hưởng giàu sang,Trẫm nỡ nào để các khanh về núi

Bảy người đồng tâu :

- Chúng tôi đội ơn Bệ hạ, nhưng không dám cải lời thầy, vả lại ḷng tu c̣n nặng, không có ư hưởng tước quyền, xin Bệ hạ cho chúng tôi toại nguyện.

Vơ Vương biết không thể nào lưu Thất Thánh lại được, nên buồn bă nói :

- Trước khi khởi binh, những trung thần nghĩa sĩ như mây rợp đất, thế mà sau cuộc chiến chinh, nửa đường bỏ mạng rất nhiều, Trẫm lấy làm thảm thiết. Nay các khanh đ̣i rời Trẫm, Trẫm không thể ngăn được, vậy xin đợi Trẫm tổ chức một tiệc tiễn hành, các khanh lợi dụng lúc Trẫm thật say mà ra đi để Trẫm bớt đau ḷng.

Hôm sau, tiệc dọn tại Trường đ́nh, 7 người đều đủ mặt. Vơ Vương cùng các quan ra đón. Bảy người tiếp giá. Vơ Vương nắm tay từng người, nói rằng :

- Các vị nay về núi, tức là bực Thần Tiên, không c̣n ràng buộc đạo vua tôi nữa. Vậy chớ nên khiêm nhường, hăy cùng Trẫm đồng bàn uống thật say một bữa.

Bảy người tạ ơn, đồng ngồi dự tiệc. Thiên hạ nghe đồn Thiên tử đưa Thần Tiên về núi, nên kéo đến xem rất đông.

Măn tiệc, 7 người từ giă. Vơ Vương rưng rưng nước mắt. Tử Nha theo đưa một đổi nữa rồi mới chia tay. Bảy vị sau này đều tu thành Chánh quả. Có bài thơ rằng :

Từ giă về non lánh tục trần,

Thanh nhàn cảnh tịnh rất an thân.

Quyết thành Chánh quả nên Tiên, Thánh,

Khỏi đọa luân hồi trả oán ân.

Hai chữ thị phi đà chẳng bợn,

Một câu vinh nhục cũng không cần.

Vui chơi nào biết mùi dương thế,

Dâu bể màng chi đổi mấy lần.

Sau đây là bài giáng cơ của Đức Thanh Sơn Đạo sĩ tức là Trạng Tŕnh Nguyễn bỉnh Khiêm, nói về Thất Thánh và Vi Hộ :

Pḥ loan : Hộ Pháp, Bảo Đạo  Báo Ân Đường Kim Biên, ngày 15-8-Bính Thân (dl 19-9-1956).

THANH SƠN ĐẠO SĨ

Bần tăng xin chào Thiên Tôn, Chơn Quân, Hiền đệ. Thưa Thiên Tôn, có Nguyệt Tâm Chơn Nhơn đến, nhưng nhường cơ cho Bần tăng trước. Cười . . .  Nhiều điều Thiên Tôn hỏi, Bần tăng khó trả lời đặng. Duy Nguyệt Tâm đảm đương Thiên vụ, người hiểu biết rơ hơn Bần tăng. Vậy Thiên Tôn nên vấn nơi người. Chỉ có bài thi của Bần tăng có hơi huyền bí tiên tri, nên Bần tăng có thể giải đáp. Thiên Tôn nhớ lại, khi lập thành Phong Thần bảng, những người đứng vào hàng Thất Thánh là ai ?  Hộ Pháp bạch : Lư Thiên Vương, Kim Tra, Mộc Tra, Na Tra, Vi Hộ, Dương Tiễn, Lôi Chấn Tử.  - Phải ! Th́ trước đầu kiếp vào nhà họ VI, c̣n nay vào nhà họ PHẠM. Điều đó có chi khó hiểu mà phỏng đoán. Tiên tri của Bần tăng đă nhiều và chỉ rơ Việt Nam xuất Thánh th́ đă hẳn rồi, c̣n chi không rơ rệt. Hơn nữa lại c̣n một điều trọng hệ hơn là Di-Lạc giáng linh, th́ Thiên Tôn đă thấy rằng, tiên tri vốn không sai sót. C̣n lời thứ hai, Thiên Tôn hỏi Bần tăng, th́ xin Ngài vấn đáp với Nguyệt Tâm, v́ chính ḿnh người đă truyền tin ấy. Vui mừng hơn nữa là từ đây thiên hạ sẽ hiểu rơ Thánh chất của Thiên Tôn và ngọn cờ cứu khổ sẽ cứu quốc cho giống ṇi Việt nam, rồi loan ra cho toàn thế giới chung hưởng. Bảo Đạo ! Có phải ta tri âm với nhau về điều ấy chăng ?

 

THĂNG.