Đức
Giáo-Chủ Đại-Đạo là Đấng Vô-H́nh, để đại-diện cho Đại-Đạo tại Thế-gian, Đức
Ngài lập một Hội-Thánh, gồm có ba đài kể như sau :
I. BÁT-QUÁI-Đài
Một ṭa Bửu-Điện kiến-trúc theo h́nh Bát-Quái để thờ Đức Thượng-Đế và chư
Phật, Tiên, Thánh, Thần, danh gọi Bát-Quái-Đài. Chúng tôi xin kể nghi-tiết
thờ phượng nơi Đài Bát-Quái.
1/ Thánh-tượng thờ Đức CHÍ-TÔN.
Trên ngôi cao ngất kia, thờ Thiên-Nhăn, vẽ lên trên quả Càn-Khôn ; chính
giữa quả Càn-Khôn, thường đốt một ngọn đèn sáng. Đó là tượng-trưng thờ Đức
Thượng-Đế, ngự trên ngôi Thái-Cực. Đức Ngài là Chúa-Tể Càn-Khôn, thống trị
vạn-vật, nay chưởng-giáo Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, Đức Ngài tá danh Cao-Đài
Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát, mà chúng tôi đă giải bày nơi trang trước.
a) Quả Càn-Khôn. Thánh-Ngôn - Quả Càn-Khôn h́nh tṛn như trái đất, bề kính
tâm ba thước, ba tấc ; lớn quá ; song, phải vậy mới hạp với cơ mầu-nhiệm
Tạo-Hóa.
Màu xanh da Trời, cung Bắc-Đẩu và các v́ Tinh-tú phải có đủ trên quả
Càn-Khôn. Các con thể theo sách Thiên-văn, vẽ ngôi Bắc-Đẩu tỏ rơ, bên cạnh
có hai bánh lái, trên ngôi Bắc-Đẩu vẽ Thiên-Nhăn mà thờ.
Đáng lẽ quả Càn-Khôn phải làm bằng thủy tinh, chính giữa thường đốt một
ngọn Thái-Cực đăng. Ấy là phép cầu nguyện chung cho cả Nhơn-loại nhưng, chưa
kịp th́ các con tùy tiện mà làm. C̣n chư Thần, Thánh, Tiên, Phật lên cốt
rồi cứ để dài theo phía dưới .
b) Thiên-Nhăn
Nay như hỏi tại sao thờ Thiên-Nhăn lài gọi là thờ Trời, th́ Thánh-Ngôn nói
rằng :
Nhăn thị chủ Tâm ;
Lư ng quang chủ-tể ;
Quang thị thần ;
Thần thị Thiên ;
Thiên giă ngă dă.
Nghĩa là : Mắt là chủ Tâm ; hai yếng-sáng trong mắt là Chủ-tể ; yến-sáng
là Thần ; Thần là Trời ; Trời là Ta vậy.
C̣n một lẽ nữa : cơ mầu nhiệm của sự đắc Đạo là Thần hiệp với Khí-Tinh,
tức Tam-bửu huờn nguyên th́ mới siêu phàm, nhập Thánh. Trái lại, nếu có
Tinh-Khí mà chẳng có Thần th́ không thể nhập cảnh Hằng-sống. Thờ
Thiên-Nhăn cũng là tiết lậu cơ đắc Đạo : bởi Thần là món báu thứ nhứt phải
có và phải hiệp với Tinh-Khí th́ người mới tạo được Nhị-xác-thân mà vào
cơi An-nhàn tự tại ;
Lại có Thánh-Ngôn của Đức CHÍ-TÔN dạy rằng :
Từ ngày Đạo bế, tu th́ nhiều mà người đắc Đạo vốn ít, v́ Thần là cơ mầu-nhiệm
mà lại bị khiếm. Nay Thầy đến huờn nguyên Tam-bửu cho các con đắc Đạo. Các
con hiểu Thần cư tại Nhăn th́ nên bố-trí cho Đạo-hữu các con hiểu với.
Nguồn Tiên Phật yếu nhiệm tại đó .
Vả lại, Đại-Đạo Nhứt-Kỳ và Nhị-Kỳ Phổ-Độ Đức Giáo-Chủ có phàm thể, cho nên
người ta dùng cốt tượng để thờ. C̣n nay khai Đại-Đạo Tam-Kỳ, Đức CHÍ-TÔN
không giáng trần, lại dùng phép huyền-diệu Cơ-bút mà lập giáo. Ấy vậy sự
thờ Thiên-Nhăn cũng chỉ về thờ Thần, mà Thần là Trời vậy.
2/ Tam-Giáo và Ngũ-Chi
Nghi tiết thờ Tam-giáo, Ngũ-chi kể như vầy :
a) Tam-giáo :
- Kế cận quả Càn-Khôn, thờ Đức Thích-Ca.
- Tả có Đức Lăo-Tử.
- Hữu có Đức Khổng-Phu-Tử.
- Đó là thờ ba vị Giáo-chủ Thích, Đạo, Nho.
- Đức Lư-Thái-Bạch là Nhứt-Trấn Oai-Nghiêm.
- Đức Quan-Âm là Nhị-Trấn Oai-Nghiêm.
- Đức Quan-Thánh Đế-Quân là Tam-Trấn Oai-Nghiêm.
Ba vị nầy đại diện cho Tam-giáo trong cơ Phổ-Độ kỳ ba.
b) Ngũ-Chi :
- Ngôi Giáo-Tông, Chưởng-Pháp, Đầu-Sư tượng-trưng Nhơn-Đạo
- Đức Khương-Thương tượng-trưng Thần-Đạo
- Đức Chúa Jésus-Christ tượng-trưng Thánh-Đạo.
- Đức Lư-Thái-Bạch tượng trưng Tiên-Đạo.
- Đức Thích-Ca tương trưng Phật-Đạo.
Tóm lại, Bát-Quái-Đài là nơi hội Công-Đồng Tam-Giáo, Ngũ-Chi, Đức Chí-Tôn
vi chủ, cũng như Hồn-Đạo ; cả Giáo-pháp do Đài nầy truyền ra.
II. HIệP-THIÊN-ĐàI
Theo danh từ mà cắt nghĩa : Hiệp-Thiên-Đài là cái đài hiệp vớI Trời, có
phận sự làm trung gian, kết liên Bát-Quái-Đài và Cửu-Trùng-Đài thành một
Hội-Thánh. Có phận sự làm môi giới cho Bát-Quái-Đài vô-vi và Cửu-Trùng-Đài
hữu h́nh, thành thử Hiệp-Thiên-Đài có hai nhiệm vụ là :
1) Thiêng-liêng
2) Phàm-trần
1- Nhiệm vụ Thiêng-liêng.
Hiệp-Thiên-Đài là nơi Đức CHÍ-TÔN ngự, tiếp xúc với Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài,
tức là nơi Đức CHÍ-TÔN và các Đấng Tiêng-Liêng giáng cơ truyền-giáo. Điều
quan trọng là nếu chẳng có Hiệp-Thiên-Đài th́ Cửu-Trùng-Đài không thông
công với Bát-Quái-Đài hoặc nói rơ ra là :
nếu chẳng có Hiệp-Thiên-Đài th́ người chẳng có phương tiện thông công với
Trời. Thế nên Đức CHÍ-TÔN dạy :
Hiệp-Thiên-Đài là nơi Thầy ngự, cầm quyền Thiêng-Liêng mối Đạo. Hễ Đạo c̣n
th́ Hiệp-Thiên-Đài c̣n. Lại nữa, Hiệp-Thiên-Đài là nơi Giáo-Tông đến tiếp
xúc với Tam-thập-lục-thiên, Tam-Thiên-Thế-Giái, Lục-Thập-Bát-Địa-cầu, Thập-Điện-Diêm-Cung,
đặng cầu siêu cho Nhơn-loại.
2- Nhiệm vụ Phàm-trần.
Hiệp-Thiên-Đài có ba chi : Pháp-, Đạo, Thế . Đức CHÍ-TÔN dạy :
Hiệp-Thiên-Đài dưới quyền Hộ-Pháp chưởng quản. Tả có Thượng-Sanh,
hữu có Thượng-Phẩm. Thầy lại chọn Thập-Nhị-Thời-Quân chia ra làm ba chi :
Hộ-Pháp chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài, kiêm chi Pháp dưới có :
Bảo-Pháp
Hiến-Pháp
Khai-Pháp
Tiếp-Pháp
Chi-Pháp lo bảo hộ luật Đời và luật Đạo, chẳng ai hành-động sai luật mà
Hiệp-THiên-Đài không biết.
Thượng-Phẩm chỉ-huy phần Đạo, dưới có :
Bảo-Đạo
Hiến-Đạo
Khai-Đạo
Tiếp-Đạo
Chi Đạo lo phần Đạo, nơi các Tịnh-thất, và các Thánh-thất, xem
xét chư Môn-đệ Thầy, binh vực chẳng ai phạm luật, đến khổ khắc đặng.
Thượng-Sanh chỉ huy phần Thế, dưới có:
Bảo-Thế
Hiến-Thế
Tiếp-Thế
Khai-Thế
Tiếp-Thế
Thầy khuyên các con lấy tánh vô-tư mà hành-đạo. Thầy cho biết trước rằng :
Có trọng quyền ắt có trọng phạt .
Tóm lại, cả Giáo-Pháp của Đại-Đạo do Bát-Quái-Đài truyền ra.
Hiệp-Thiên-Đài có phận sự truyền-bá Giáo-Pháp cho Cửu-Trùng-Đài và giữ-ǵn
Giáo-Pháp ấy cho khỏi bị canh cải.
III. CỬU-TRÙNG-ĐàI
Bát-Quái-Đài tỷ như Hồn-Đạo, cả Giáo-Pháp do Đài nầy truyền dạy.
Cửu-Trùng-Đài tỷ như Thể-Đạo, cả Giáo-Pháp nương Đài nầy mà h́nh dung
Đạo-Đức ra Thế-gian để Đời soi sáng.
Theo chữ mà cắt nghĩa : Cửu-Trùng-Đài là cái Đài thể theo Cửu-Trùng-Thiên
mà kiến trúc, có chín nấc : cao thấp khác nhau,
Cửu-Phẩm Thần-Tiên vâng lịnh Ngọc-Hư-Cung trị Thế-Giới vô h́nh, cũng như
Cửu-Trùng-Đài vâng lịnh Bát-Quái-Đài mà chưởng quản mối Đại-Đạo tại Thế-gian,
về mặt hữu vi. Vậy tất cả Chơn-linh trong Càn-Khôn, Vơ-Trụ đều phải vào
Cửu-Trùng-Đài và tuần tự theo đẳng cấp thấp cao để đoạt vị Thiêng-Liêng
của ḿnh;
Cửu-Trùng-Đài do một Hội-Thánh quản trị, mạng danh là Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài
gồm có một phÁi Nam và một phái N .
Đức CHÍ-TÔN lập Pháp-Chánh-Truyền cho cả hai phái như vầy :
1. Chức-sắc Nam-Phái.
GIÁO-TÔNG : Là anh cả của các con, có quyền thay mặt cho Thầy d́u dắt các
con, trong đường Đạo và đường đời. Có quyền về phần xác mà chẳng có quyền
về phần Hồn. Giáo-Tông đặng phép thông-công cùng Tam-Thập-Lục-Thiên và Thất-Thập-Nhị-Địa-Cầu
rổi cho các con.
CHƯỞNG-PHÁP : Ba vị Chưởng-Pháp của Tam-Giáo, tuy phân biệt, song trước
mặt Thầy, coi như một, có quyền xem xét luật lệ, trước khi ban hành, hoặc
nơi Giáo-Tông truyền xuống, hoặc dưới Đầu-Sư dâng lên.
Nếu cả hai chẳng thuận, Chưởng-Pháp phải dâng lên Hộ-Pháp, đến Hiệp-Thiên-Đài,
cầu Thầy sửa chữa, hay tùy ư lập luật khác.
Chưởng-Pháp có quyền xem xét kinh điển trước khi phổ thông. Nếu có kinh điển
nào làm tồi bại phong-hóa, Chưởng-Pháp có quyền trừ bỏ.
Buộc cả Tín-Đồ phải giúp Chưởng-Pháp hành-sự. Trước luật Đời, Thầy khuyên
các con rán giúp đở lẫn nhau. Chưởng-Pháp, mỗi vị có ấn riêng.
Ba ấn phải đủ trên mặt luật, mới đặng thi hành.
ĐẦU-SƯ : Ba vị Đầu-Sư có quyền cai-trị phần Đạo và phần Đời của chư
Môn-Đệ. Đầu-Sư có quyền lập luật, song phải dâng lên cho Giáo-Tông phê-chuẩn.
Muốn phê-chuẩn luật-lệ, Giáo-Tông phải giao cho
Chưởng-Pháp xem xét trước, coi luật-lệ ấy quả thật có ích cho Nhơn-Sanh chăng
! Ba vị Đầu-Sư phải tuân lịnh Giáo-Tông truyền dạy.
Thoảng có luật lệ nào quá hà khắc Tín-đồ, Đầu-Sư có quyền xin hủy bỏ. Thầy
khuyên các con rán giúp Đầu-Sư trong khi hành-sự. Thầy lại dặn các con,
nếu có điều cần, nên nài xin nơi Đầu-Sư.
Ba chi tuy khác, song quyền hành như một. Luật lệ nào của Giáo-Tông truyền
dạy, mà cả ba đồng bất tuân, th́ luật-lệ ấy phải trả lại Giáo-Tông, truyền
lịnh cho Chưởng-pháp xem xét. Ba vị Đầu-Sư có ba ấn khác nhau. Mỗi giấy tờ
phải có đủ ba ấn mới đặng thi hành.
PHỐI-SƯ : Mỗi phái có mười hai người, ba phái cộng lại thành 36 vị. Trong
số 36, tuyển ra ba vị Chánh Phối-Sư để thế quyền Đầu-Sư mà hành sự, song
chẳng có quyền phá luật-lệ.
GIÁO-SƯ : Giáo-Sư có 72 người, mỗi phái có 24 vị. Giáo-Sư là người dạy dỗ
Tín-đồ trong đường Đạo và đường Đời. Buộc Giáo-Sư phải lo lắng cho Tín-đồ,
cũng như anh lo cho em. Giáo-Sư cầm sổ bộ Tín-đồ, chăm nom việc tang hôn.
Tại châu-thành lớn, Giáo-Sư có quyền cai quản Thánh-Thất, cúng tế Thầy, như
Đầu-Sư và Phối-Sư. Giáo-Sư có quyền dâng sớ, kêu nài sửa đổi, hoặc chế
giảm luật lệ nào quá hà khắc Nhơn-sanh. Giáo-Sư thân mật với mỗi đứa
môn-đệ, như anh em một nhà, cần phải giúp đở.
GIÁO-Hữu : Giáo-Hữu là người phổ thông nhơn Đạo, có quyền cầu xin chế giảm
luật lệ. Ba ngàn Giáo-Hữu chia đều mỗi phái một ngàn, chẳng đặng tăng thêm,
hay giảm bớt. Giáo-Hữu đặng phép hành lễ, khi làm chủ một ngôi Chùa trong
mấy tỉnh nhỏ.
LỄ-SANH : Lễ-Sanh là người có hạnh, lựa chọn trong hàng chư môn-đệ, để
hành lễ, có quyền khai đàn cho Tín-đồ. Thầy dặn các con :
Lễ-Sanh là người Thầy yên mến, chẳng nên hiếp đáp. Vào hàng Lễ-sanh mới
mong bước qua Chức-Sắc ; trừ ra, Thầy phong thưởng riêng mới qua khỏi luật
lệ ấy.
CHÁNH PHÓ TRị SỰ và THÔNG-SỰ: Pháp-Chánh-Truyền trên đây, thoạt tiên, dự định
đến phẩm Lễ-Sanh thôi ; nhưng, về sau, Đại-Đạo ngày một phổ-thông, người
nhập môn ngày một nhiều. Hội-Thánh thiếu người chăm nom phổ hóa, Đức Lư
Giáo-Tông bèn đặt thêm hai phẩm Chức-việc nữa, là Chánh Phó Trị-Sự và Đức
Hộ-Pháp đặt thêm phẩm Thông-Sự. Ba phẩm Chức-việc nầy có phận sự săn sóc
Đạo-hữu ở rải rác khắp nơi, từ thôn-quê đến thành-thị và ḥa giải những
tư-tưởng bất đồng giữa Tín-đồ.
LỄ-PHỤC
Lễ-phục hay y-quan mặc hành-lễ trong giờ cúng tế. Lễ phục của Chức-sắc
khác nhau, từ màu sắc đến kiểu mẫu.
Màu-sắc : Thích-giáo màu vàng ; Đạo-giáo màu xanh da trời ; Nho-giáo màu
đỏ điều. Người bàng-quan trông vào màu áo có thể biết vị Chức-sắc kia
thuộc phái nào.
Kiểu mẫu : Người bàng quan trông vào kiểu áo măo cũng có thể biết vị
Chức-sắc ấy lănh phận sự chi.
2. CHỨC-SẮC NỮ PHÁI
Đầu sư Nphái : Nữ phái có một vị Đầu-Sư d́u dắt. Đầu-Sư Nữ phái đồng quyền
với Nam-phái, tuân lịnh một Giáo-Tông và ba Chưởng-Pháp. Đầu-Sư Nữ-Phái
cũng tùng chung một luật phân xử, trong đường Đạo và đường Đời và luật
công-cử của Hội-Thánh ban hành. Đầu-Sư Nữ-phái dùng lễ-phục như Đầu-Sư
Nam-phái, song có độI măo Phương-Thiên và Ni-Kim-Cô, như các văi ở chùa ;
trên chót có Thiên-Nhăn, bao quanh một ṿng Minh-Khí, choàng một đoạn lụa
màu trắng, từ Kim-Cô thả xuống tới gót chân. Áo may bằng hàng trắng, chín
vải, có thêu bông-sen, chưn đi giày vô-ưu, trên mũi có thêu chữ Hương .
PHỐI-SƯ : Phối-Sư mặc lễ-phục y như Đầu-Sư, song chẳng đội măo Phương-Thiên.
Áo ba vải, trước ngực có Thiên-Nhăn bao quanh một ṿng Minh-Khí.
GIÁO-SƯ : Giáo-Sư mặc áo ba vải, đội Kim-Cô hằng hàng trắng, chơn chẳng đi
giày.
GIÁO-HữU : Giáo-Hữu mặc lễ-phục như Giáo-Sư, đầu không đội măo, nhưng có
giắt bông sen, có thêu Thiên-Nhăn.
LỄ-SANH : Lễ-Sanh mặc áo như Giáo-hữu, choàng ngang trên đàu một đoạn vải
mỏng, cột ra sau ót, thả một mí vắn, một mí dài, trên đầu giắt bông sen.
CHÁNH PHÓ TRI-SỰ và THÔNG-SỰ: Hội-thánh Nữ-phái cũng có ba phẩm và ba phẩm
nầy có phận sự cũng như Nam-phái.
Luật công cử chung cho các chức sắc Nam và Nữ Phái
Thánh-Ngôn : Đầu-Sư muốn lên Chưởng-Pháp, nhờ ba vị Đầu-Sư công-cử ;
Phối-Sư muốn lên Đầu-Sư, nhờ 36 vị Phối-Sư công cử ; Giáo-sư muốn lên
Phối-Sư, nhờ 72 vị công-cử ; Giáo-hữu muốn lên Giáo-sư, nhờ 3000 vị
Giáo-Hữu công-cử ; Lễ-Sanh muốn lên Giáo-Hữu, nhờ cả Lễ-Sanh công-cử, trừ
ra Thầy giáng cơ phong thưởng riêng người nào th́ người ấy mới ra ngoài
luật lệ ấy.
Giáo-tông có hai phẩm đặng phép dự cử là : Chưởng-pháp và Đầu-sư, song phải
chịu toàn Đạo công-cử. Trừ ra, Thầy giáng cơ phong thưởng riêng, mới ra
ngoài luật lệ ấy.
Hiện nay, Chức-sắc chưa đủ số đă định, thành ra luật công-cử nầy chưa thi
hành được. Hôm ngày 9 tháng 4 năm 1958 nhằm 21 tháng 2 Mậu-Tuất, Đức Lư-Đại-Tiên,
Nhứt-Trấn Oai-Nghiêm cho một điều luật, để thi hành tạm như sau :
Về việc ban thưởng Chức-Sắc, không phải có đủ 5 năm thâm-niên sắp lên là
đủ điều-kiện cầu thăng và được thăng mà cần phải có những điều kiện cần
yếu khác nữa là :
- Thứ nhứt : Phương-diện hạnh-đức.
- Thứ nh́ : Tŕnh-độ học-thức.
- Thứ ba : Tinh-thần phục-vụ
- Thứ tư : Khả-năng giáo-hóa Nhơn-sanh.
Là v́, hễ đến bực Giáo-Hữu là thay mặt CHÍ-TÔN phổ-thông chơn Đạo, thành
thử, chẳng phải người thường t́nh đặng, mà phải đáng mặt phi thường mới
xứng. Kỳ nầy Lăo châm chế, chớ những kỳ cầu thăng sau, Chức-sắc mỗi cấp
bực đủ 5 năm thâm-niên, hay hơn nữa chỉ được đem vào sổ cầu thăng với tỷ
lệ bốn phần năm mà thôi, Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài phải cân phân phận sự
xứng đáng của Chức-sắc do theo điều kiện của Lăo vừa chỉ và sau khi chọn
lọc kỹ-lư ng số tỷ lệ quy-định, giao qua cho Hiệp-Thiên-Đài kiểm soát lại,
rồi mới dâng lên cho Lăo, Hiền-hữu Thượng-Sanh và chư vị Thời-quân nên lưu-tâm
nghe !
Sự cầu-thăng của N -phái cũng do theo nguyên tắc đó và Thánh Giáo nầy có
hiệu lực cho đến ngày Cửu-Trùng-Đài thực hiện luật công-cử của Đạo.
Nói tóm lại, Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài gồm có Chức-sắc Nam và Nữ, như vừa kể
qua, có phận chung là bảo tồn Giáo-pháp, Đạo-luật, và phổ-thông quần-linh.
Đức CHÍ-TÔN nói rằng : Khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ Ngài chọn Nhứt Phật, Tam
Tiên, Tam-Thập-Lục Thánh, Thất-Thập Nhị-Hiền
và Tam-Thiên Đồ-đệ. Ấy là chỉ vào:
- Một Giáo-Tông
- Ba Đầu-Sư
- Ba mươi sáu Phối-Sư
- Bảy mươi hai Giáo-Sư
- Ba ngàn Giáo-Hữu
Theo Đạo-học, hễ muốn độ người, trước phải độ ḿnh như nhà Phật thường nói
Tiên tự giác nhi hậu giác tha . Đây là một điểm khác nhau ở giữa nhà Đạo-đức
và Văn-sĩ. Nhà Đạo-đức, chẳng những phải học Đạo-lư mà phải thi hành thế
nào cho Đạo-lư biến thành Tâm đức của ḿnh nữa, để rồi áp dụng vào đời
sống thực tế. Người bàng quan xem vào cử chỉ của người đạo-đức mà bắt chước.
Trái lại, người văn-sĩ chỉ học cho biết văn-chương và chơn-lư mà thôi.
Ấy vậy, Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài phải học hành, tu luyện thế nào, hầu đặng
ḿnh có đủ tài đức, để nêu gương lành cho Đời soi sáng. Đó là một lẽ, c̣n
như thể theo danh-từ mà luận : Chức-sắc Hội-Thánh, tức một vị Thánh-nhơn ở
trong nhiều vị Thánh-Nhơn khác. Theo hai lẽ đó mà suy rộng ra : một vị
Chức-sắc, nếu chưa phải hoàn toàn là vị Thánh-nhơn, th́ ít ra cũng phải có
đủ tài-đức d́u dắt Nhơn-sanh trên đường Đạo-lư, Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, sau
nầy, hoặc thành, hoặc bại, đều tùy cử chỉ và hành-vi của Chức-sắc
Cửu-Trùng-Đài mà ra cả ; v́ Đài nầy là h́nh thể của Đại-Đạo.
Chương thứ tư
Lễ nghi và Đạo Luật
1) LỄ-NGHI
a- Lễ nghi thờ cúng nơi Đền Thánh
Trong Bát-Quái-Đài có quả Càn-Khôn ; trên quả Càn-Khôn có Thiên-Nhăn ;
giữa quả Càn-Khôn thường đốt một ngọn đèn, tượng trưng ngôi Thái-Cực. Tóm
lại đó là tượng trưng thờ Đức Thượng-Đế ngự trên ngôi Thái-cực.
Khi cúng-tế, đốt hai ngọn đèn hai bên, danh gọi lư ng nghi quang, tượng
trưng Âm và Dương.
Giữa bàn thờ đốt năm cây hương, tượng trưng Ngũ-hành.
Nghi lễ thờ phượng cúng tế nơi Bát-Quái-Đài, miêu tả được lư Đại vô-vi ;
vốn có Thái-cực biến sanh Âm-Dương, Ngũ-hành và Âm-Dương, Ngũ-hành
thuận-hành, nghịch chuyển mà định vị Trời đất, hoá sanh muôn loài. Kẻ học,
nếu biết quan sát th́ có thể ư hội được một bài học Đạo-lư.
Lễ-Nhạc : Đức CHÍ-TÔN dạy chúng ta dùng lễ-nhạc để cúng tế như xưa. Vậy sự
hữu-ích của Lễ-Nhạc là làm sao, chúng ta cũng nên xét qua cho rơ.
Lễ : Khi cúng tế, anh Lễ-sĩ áo măo chỉnh tề, hai tay nâng tế-phẩm lên
ngang mày, rồi từ từ theo nhịp nhàng của Âm-nhạc điện lễ đi lên.
Cái vẻ tề-chỉnh trang nghiêm ấy khiến người trông thấy phải sanh ḷng kính.
Thế th́ tinh-thần của LỄ là Kính.
Nhạc : Tiếng trống, chuông, đờn, kèn, tiêu, thiều, nhiều thứ âm thinh khác
nhau, đồng thời phát khởi một lượt. Đáng lẽ, chúng ta nghe hổn loạn lắm ;
nhưng sự thiệt lại khác hẳn. Tiếng lớn nhỏ, giọng phù trầm, dường như nhịn
nhường lẫn nhau, để cho mỗi nhạc cụ được thung dung bày tỏ sở-năng của nó.
Thế nên, người ta nh́n nhận tinh-thần của Nhạc là ḥa. Sách Lễ-kư chép rằng
: Lễ là trật-tự của Trời-Đất, Nhạc
là cái điều-ḥa của Trời-Đất (Lễ giă Thiên Địa chi tự, Nhạc giă Thiên Địa
chi ḥa). Sở dĩ nói như thế là v́ Thánh-Nhơn ngày xưa, quan sát cảnh tượng
Vơ-trụ, nhận ra luật trật-tự và thái-ḥa của Trời-Đất, rồi theo đó mà chế
thành Lễ-Nhạc, để cúng tế, làm cho đàn-tế trở nên tôn-nghiêm và tạo ra một
bầu không khí kỉnh ḥa, để cho mọi người triêm-nhiểm cái tập-quán đạo-đức.
Đó là một phương-pháp hàm-dưỡng tâm tánh vậy.
Thật Thánh-nhơn chế ra Lễ-Nhạc tế tự, có sức mạnh cảm hóa ḷng người rất
sâu xa. Tỉ như : khi vào chùa miễu th́ ḷng ta kính tín ; c̣n khi thấy đám
tang th́ ḷng ta bùi ngùi thương xót. Nay Đại-ĐạoTam-Kỳ Phổ-Độ dùng Lễ-Nhạc
cũng không ngoài ư cảm hóa ḷng người khuynh hướng về đạo đức vậy.
Lễ Dâng Tam-Bửu
Mỗi khi cúng đàn, chúng ta dâng Hoa-Rượu-Trà gọi là Dâng
Tam-Bửu , có ư nghĩa thế nào ? Xin xem kế đây :
HOA : Tượng trưng TINH
RƯỢU : Tượng trưng KHÍ
TRÀ : Tượng trưng THẦN
Lễ dâng Tam-Bửu là một cách tiết lậu cho người hiểu rằng : trong châu thân
người vốn có TINH-KHÍ-THẦN. Ba món báu ấy phải huờn nguyên hiệp nhứt th́
mới đắc Đạo.
Lạy là ǵ ?
Thánh ngôn nói :
Lạy là tỏ ra bề ngoài lễ kỉnh trong ḷng.
Chắp tay lạy là tại sao ?
Tả là Nhựt, hữu là Nguyệt, vị chi Âm-Dương ; Âm-Dương hiệp nhứt phát khởi
Càn-Khôn, sanh sanh hóa hóa. Ấy là Đạo.
Lạy kẻ sống hai lạy là tại sao ?
Là nguồn gốc của Nhơn-sanh lư ng-hiệp mà ra.
Vong phàm lạy bốn lạy là tại sao ?
Hai lạy phần người, một lạy Trời và một lạy Đất.
Lạy Thần Thánh ba lạy là tại sao ?
Là lạy Đấng ở vào thứ ba của Trời, và cũng chỉ về Tinh-Khí-Thần hiệp-nhứt.
Ấy là Đạo.
Lạy Tiên Phật chín lạy là tại sao ?
Là lạy chín Đấng Cửu-Thiên Khai-hóa.
C̣n lạy Thầy 12 lạy là tại sao ?
Các con không hiểu đâu : Thập-Nhị Khai-Thiên là Thầy, Chúa-tể Càn-Khôn
Thế-Giái, nắm trọn Thập-Nhị Thời-Thần vào tay. Số 12 là số riêng của Thầy;
Cúng Tứ-Thời
Mỗi ngày, người Tín-đồ Đại-Đạo phải có bốn lần hầu lễ, gọi là cúng Tứ-Thời
(Tư, Ngọ, Mẹo, Dậu). Vừa xem qua th́ người bàng-quan lầm tưởng : sự cúng
tế là tại có tánh ỷ lại nơi Thần-quyền ; nhưng, sự thiệt, đó là một phương
pháp hàm-dưỡng Tâm-tánh rất nhiệm mầu.
Xem như trước khi vào Đền-Thánh đặng chầu lễ CHÍ-TÔN th́ chúng ta đă gạt
bỏ những sự ưu tư, trần-tục ra ngoài. Đến khi nhập đàn, lần lượt Nhạc Lễ
phát khởi. Đồng-Nhi tụng kinh. Hoàn cảnh trang nghiêm nầy khiến ḷng chúng
yên lặng và chỉ có một ư niệm thành kính Trời Phật mà thôi. Giá như chúng
ta cứ giữ măi cái Tâm-trạng Thành kính nầy th́ chúng ta sẽ giữ trọn vẹn
nguồn Thiên-lư ở trong Tâm-gian của ḿnh ; tức cũng như câu sách nói rằng
: Nhơn-dục tận tịnh Thiên-lư lưu hành . Nghĩa là ḷng Nhơn-dục yên tịnh
th́ Thiên-lư làm chủ Tâm-gian.
C̣n một lẽ nữa là theo Đạo tự nhiên, Ngươn-khí Trời Đất, mỗi ngày vượng
bốn thời : Tư, Ngọ, Mẹo, Dậu. Thời nầy kẻ học đạo nên tịnh tâm, tịnh thân
của ḿnh, để hàm dưỡng khí riêng của Trời Đất.
C̣n khi đến trước Thiên-bàn, chúng ta bắt ấn Tư và niệm Nam-mô Phật,
Nam-mô Pháp, Nam-mô Tăng ; ấy là ư nghĩa làm sao?
Nam-Mô Phật - Miệng nói, tâm niệm th́ chúng ta nhớ rằng :
Bổn-phận chúng ta chẳng khá quên Đấng Toàn-Tri . Ḷng ghi nhớ Đức Ngài để
rồi noi theo chơn đức Ngài mà tiến bước trên đường tu tỉnh.
Nam-Mô Pháp. - Ấy là nhắc chúng ta nhớ lại rằng : Đạo-pháp huyền-vi, nhưng
quí báu vô ngằn, mặc dầu khổ hạnh, chúng ta phải gắng sức làm theo ; chớ
chẳng khá thối chí.
Nam-Mô Tăng.- Hội-Thánh là một nhóm Lương-sanh đại-diện cho Đức CHÍ-TÔN,
để d́u dắt chúng ta. Vậy chúng ta phải tuân lời dạy dỗ của Hội-Thánh, để
tiến bước trên đường học Đạo.
Tóm lại, trong sự cúng tế Trời Phật, tuy là h́nh thức mặc dầu, song h́nh
thức ấy đem lại nhiều kết quả tinh-thần như :
a)- Trong lúc cúng tế th́ tinh-thần và vật thể của chúng ta đều tịnh định
; mà hễ tịnh định th́ chúng ta hàm-dưỡng được khí-thiêng của Trời-Đất.
b)- Trau rửa tâm hồn, về phương diện nầy đức CHÍ-TÔN dạy rằng : Trước khi
vào lạy Thầy buổi tối, phải tự hỏi ḿnh coi phận sự ngày ấy xong hay chưa
và Lương-tâm có cắn rứt điều chi chăng ? Nếu phận sự c̣n nét chưa rồi ;
Lương-tâm chưa an-tịnh th́ phải biết cải quá, rán chuộc lấy cái lỗi của
ḿnh đă lầm th́ các con chẳng lo chi không b́ bực Chí-Thánh. Thầy mong rằng
mỗi đức đều lưu ư về sự sửa ḿnh. Đặng vậy th́ may mắn cho Đạo và các con
sẽ đặng thung-dung mà nêu gương cho kẻ khác .
Vậy đủ rơ, cúng tế là một phương pháp tu tâm rất nhiệm mầu, cho nên Thất-nương
Diêu-Tŕ-Cung nói :
Lễ bái thường hành, Tâm Đạo khởi .
Thờ cúng Ông Bà nơi Tư-gia
Thờ cúng Tổ-Tiên là lễ tỏ ḷng tôn kính nguồn gốc sanh thành dưỡng-dục.
Ḷng tôn kính ấy nơi người Việt-Nam, theo Nho-giáo thường phát biểu với
một phương-thức rất tôn trọng.
Người Việt-Nam dù giàu, cũng như nghèo, khi cất nhà xong th́ chọn một chỗ
tôn-nghiêm hơn hết, để lập bàn thờ Ông Bà.
Ngày tế-tự, cả gia-tộc đều họp về nhà thờ, lo việc tế lễ. Hai ngàyTiên-thường
và Chánh-giỗ, những người họ hàng vui vầy có khi nhắc lại sự tích Tổ-tiên,
có lúc hỏi việc hàn huyên gia-tộc.
Giờ cúng tế, mỗi người đều có ḷng thành kính rất mực. Khi ra vào, lúc qua
lại, trước bàn thờ, họ cúi đầu tỏ vẻ sợ sệt, dường như Ông Bà đương ngự
trên chỗ sở tôn. Giờ cúng tế ấy, hoàn cảnh im phăng-phắc, người Trưởng-tộc
hành lễ rồi con cháu theo thứ tự vái lạy nghiêm trang.
Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-độ giữ nguyên vẹn sự thờ cúng Ông Bà, như đă nói trên.
Vả chăng, đạo hữu đă có sẵn ḷng đạo-đức rồi ; nay đem ḷng nhân đức ấy để
thờ cúng Ông Bà th́ có lẽ cái phong tục xưa sẽ được thêm phần thuần mỹ hơn
nữa.
Tóm lại, lễ-nghi, tế-tự đă kể qua : từ Đền-Thánh đến Tư-gia, thật là một
bài học thực hành giản-dị mà đem lại nhiều kết quả. Tỷ như việc cúng tế đă
đ̣i hỏi một ḷng thành kính rồi, lễ-nhạc và nghi-tiết bên ngoài lại giúp
cho ḷng thành kính được quảng-đại thêm lên. Đó là tạo một không khí đạo-đức
cho gia-đ́nh xă-hội, c̣n riêng về cá nhân th́ đó là một phép hàm dưỡng
Tâm-tánh rất đắc lực.
b- Đạo-Luật.
Nhà nước có Quốc-pháp, cả Công-dân phải tuân hành đặng bảo-an xă-hội.
Tôn-giáo có Đạo-Luật, cả Tín-đồ phải tùng đặng vững bước trên đường tu
tỉnh. Quốc-pháp và Đạo-Luật, h́nh thức tương-đồng mà kết-quả tương-dị. Nhà
cầm quyền phạt kẻ phạm Quốc-pháp. Đạo-luật chẳng có h́nh phạt, làm hậu thuẩn,
song cách thưởng phạt rất công b́nh và chặt-chẽ, bởi v́ Đạo-luật vốn là
biến tướng Thiên-điều, nghĩa là Đạo-luật do luật Trời mà làm ra, người làn
lành tự nhiên có phước đức trả lại, kẻ làm d tự nhiên có tai họa trả lại.
Cách thưởng phạt lành d một măy không sai chạy. Lưới Trời dường như thưa
mà chẳng lọt một mảy lành d . Ấy vậy nên kẻ học Đạo cần phải có đức-tin
luật công-b́nh Trời Đất th́ mới có dạ tuân-hành Đạo-luật.
Tất cả Linh-hồn đều phải chịu dưới quyền thưởng phạt của Đấng cầm cân
Thiêng-Liêng là Thượng-Đế. Luật thưởng phạt, về nguyên tắc rất đơn-giản,
không có Ṭa-án, không có tra-vấn, thế mà kết-quả rất kỳ-diệu ; mỗi việc
lành d đều có báo ứng phân minh,cho nên có câu nói : Dói người c̣n dễ, đối
Trời được đâu .
Có người sánh luật Trời như luật Hấp-dẫn (La Loi d'attraction) hay luật
Trọng-lực (La Loi de pesanteur). Linh hồn có tội lỗi, tự nhiên bị hấp-lực
của vật-chất mà phải giam hăm vào bánh xe luân-hồi sanh-tử.
C̣n Linh-hồn Thiện-mỹ, nhẹ nhàng tự-nhiên siêu thoát ra ngoài ṿng
Càn-khôn, một cách dễ dàng mau lẹ, cũng như lằn tư-tưởng xẹt đi kia vậy.
Mỗi tư-tưởng, mỗi lời nói và mỗi việc làm trong đời hiện tại đều lưu-tồn
phần tinh-anh ở trong Thể-phách, măi đến khi tử hậu. Thể-phách bày ra một
bản thống-kê, có đủ việc hay, việc d , điều-lành, điều-d .
Trước bản thống-kê nầy, Linh-Hồn lặng lẽ ngắm xem tội-t́nh, phước-đức của
ḿnh và phán-đoán lẽ siêu-đọa cho kiếp vị-lai. Sự phán đoán đó do Thần Lương-tâm
của người mà cũng là Trời nữa ! Giờ nầy người mới hiểu Trời ở bên cạnh Người.
Pháp-luật của Đại-Đạo là biến-thể luật Trời ; thành thử kẻ học, ngoài sự
châm theo luật-pháp, c̣n phải kiên sợ luật Nhơn-quả nữa.
Đạo-luật của Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-độ kể như sau :
Lập Họ-Đạo.
Nhập Môn.
Ngũ-giới-cấm.
Tứ-Đại Điều-qui.
Luật xử-thế
Luật xuất-thế.
Lập Họ-Đạo
Địa-phương nào có hơn năm trăm Tín-đồ, đặng phép lập riêng một Họ-Đạo, đặt
riêng một Thánh-Thất và Hội-Thánh sẽ phái Chức-sắc đến cai-quản.
Muốn lập Học-Đạo phải xin phép Giáo-Tông. Chức-sắc cai-quản Họ-Đạo và
Thánh-Thất phải tuân mạng lịnh Giáo-Tông. Tín-đồ trong Họ-Đạo phải tùng
quyền vị Chức-sắc cai-quản Thánh-Thất ; chẳng ai có quyền canh cải luật
Đạo.
Mỗi tháng có hai ngày Đại-lễ : Sóc và Vọng. Ngày Đại-lễ cả Tín-đồ phải tựu
về Thánh-Thất hầu lễ và nghe lời giảng giải Đạo-đức ; trừ ra, người vắng
mặt, với một việc đáng kể th́ mới đặng châm chế mà thôi.
Chức-sắc cai-quản Thánh-Thất, mỗi ngày phải cúng bốn lần, gọi là cúng
Tứ-thời (Tư, Ngọ, Mẹo, Dậu). Bổn-Đạo ở gần Thánh-Thất, nếu tiện th́ nên
đến hầu lễ mỗi thời cúng nơi Thánh-thất sở tại.
Nhập-Môn
Nhập-môn cầu Đạo chẳng có tốn kém lễ-lộc chi cả, nhưng phải có hai người
tiến dẫn. Người tiến dẫn có phận sự d́u dắt kẻ mới nhập môn trên đường
Đạo.
Chức-sắc cai-quản Thánh-Thất, phải tự ḿnh, hoặc phải người thay mặt, đến
tận nhà người mới nhập môn, hành lễ thượng tượng và chỉ vẻ cách thờ phượng
cúng lạy, cách áp-dụng Đạo-luật, đặng sửa ḿnh theo Đạo-Đức, nhứt nhứt cần
giảng-giải cho minh bạch. Người nhập-môn rồi gọi là Môn-đệ của Đức CHÍ-TÔN
và là anh em với tất cả mọi người. Mà đă là anh em th́ phải hết ḷng d́u-dắt,
giúp đở lẫn nhau.
NGŨ - GIỚi - CẤM
Kẻ tu-hành phải trai-giới. Vậy trai-giới là ǵ ?
Trai tức là ăn chay, Giới tức là giữ giới cấm, đại để có năm diều :
1 - Bất sát-sanh
2 - Bất du-đạo
3 - Bất tà-dâm
4 - Bất tửu-nhục
5 - Bất vọng-ng
Tứ Đại ĐIỀU-QUI
Ngũ-giới-cấm và Tứ-đại Điều-qui là khuôn thước của người học Đạo ; chúng
ta nương theo đó mà sửa ḿnh.
a)- Vâng lời dạy bảo của người trên, không hở nghe lời khuyên của kẻ dưới.
Nếu có lầm lỗi phải thiệt ḷng cải quá lấy lễ ḥa người, lấy lễ đăi người.
Không yễm tài người hay, không che lấp lỗi ḿnh. Giữ-ǵn lời nói, tư-tưởng
và hành-vi luôn luôn ở trong khuôn viên Đạo-đức, nhứt là nơi vắng vẻ lại
càng phải cẩn mật hơn nữa.
b)- Không khoe tài giỏi của ḿnh, không kiêu ngạo kẻ khác, phải giữ dạ
khiêm cung, dầu ở nơi nào cũng vậy. Thường quên ḿnh để làm nên cho người,
nhứt là giúp người thành Đạo.
c)- Xử-sự tiếp-vật, nên lấy hạnh khiêm-cung làm đầu. Tinh-thần của lễ là
kính. Phàm kính người th́ luôn luôn hết dạ kính tin, dầu có mặt hay không
cũng vậy. Đừng thấy giàu mà trọng, chẳng thấy khó mà khinh.
Thường lấy lời nhỏ-nhẹ khuyên bạn làm lành. Phép nước luật Đạo, hết ḷng
kính giữ. Đó là phương pháp giữ ḿnh theo Đạo vậy.
LUật XỬ-THẾ
Cùng theo học một Thầy, tức thị anh em bạn đồng-môn, mà hễ anh em th́ phải
thương yêu, giúp đở lẫn nhau trên đường Đạo và đường Đời. T́nh đồng Đạo,
nếu ngày trước có hờn giận nhau, ngày nay nên hỉ-xả. Quên lỗi cũ đặng cùng
nhau tạo một nền hạnh-phúc chung. Phải tránh việc cải-cọ hiện tiền, lấy đức
nhẫn-nhục đăi nhau. Trên dưới thương nhau trên đường Đạo và đường Đời. Ấy
là hiến lễ trân trọng cho Đại Từ Phụ vậy.
Nhơn-đạo vốn có Tam-cang, Ngũ-thường, Tam-tùng, Tứ-đức là trọng. Kẻ học
Đạo lấy đó làm nền tảng cho cuộc đời ḿnh. Gốc đă thành lập tự-nhiên ngọn
nương theo mà sanh.
Người Tín-đồ Đại-đạo không đặng có hầu thiếp, trừ khi đă bị chích lẻ giữa
đường, cần phải chấp nối. Hoặc giả, vợ chánh không con nối hậu, th́ đặng
phép cưới thiếp, song phải có vợ chánh ưng thuận mới
đặng. Vợ chồng chẳng đặng để bỏ, trừ ra, tội nặng như : ngoại t́nh, thất
hiếu, vân vân...
Con nít phải có cha đở đầu, pḥng khi rủi bị thân côi. Con nít lên bảy
tuổi phải cho học Đạo, học chữ. Việc quan, hôn, tang, tế, anh em chung lo
với nhau như anh em ruột một nhà. Tang lễ không nên xa-xí, không nên quàn
Linh-cửu lâu ngày, không nên dùng đồ màu sắc, không nên yến-ẫm. Việc cúng
tế nên dùng đồ chay. Nhạc lễ theo Tân-luật, tang-phục y như xưa.
Quân-tử chi Đạo tạo-đoan hồ phu phụ, Đạo làm người khởi đầu tại việc lập
vợ chồng ; gốc nếu rủi lầm lỗi th́ sau ắt khó sửa chữa. Vậynên người Tín-đồ
phải kết hôn với người đồng Đạo ; trừ ra, khi người ngoại Đạo ưng thuận
nhập môn trước, rồi sau mới kết thành vợ chồng.
Trước lễ thành hôn tám ngày, chủ hôn trai phải dán bố cáo tại Thánh-thất
sở tại. Ấy là ngừa trắc trở về sau. Lễ sánh duyên phải cầu chứng nơi
Thánh-thất sở tại.
Việc sanh nhai, phải chọn một nghề nghiệp nào không có ư sát sanh hại vật,
không bại tục tồi phong.
Răn phạt
Có luật tự nhiên có răn phạt ; nhưng cách răn phạt của Tôn-giáo chẳng
giống luật Đời, mà thật cốt-yếu là răn dạy. Đại-khái như :
Kẻ nào phạm giới-luật, nếu có bạn khuyên can th́ phải vui ḷng nghe theo
mà cải quá. Nếu kẻ phạm đă có một hai lầm bị khuyên can rồi, mà c̣n tái phạm
nữa, th́ chúng bạn được đem việc ấy tŕnh bày với vị Chức-sắc cai quản
Thánh-thất sở tại. Nếu vị Đầu-họ-Đạo đă dứt bẩn rồi mà kẻ ấy c̣n phạm tội
nữa th́ việc lầm lỗi ấy, có thể đem đến Hội-Thánh xem xét. Kẻ phạm luật
Đạo, có thể bị trục-xuất, nếu tội lỗikhông thể tha thứ được.
LUẬT XUẤT-THẾ
Tịnh-thất là một giáo-đường trang nghiêm. Tín-đồ vào đó đặng an-thần, dưỡng-trí,
tu luyện đến công-viên quả-măn. Nơi đây, mỗi người đặng thọ Bí-quyết của Đức
CHÍ-TÔN truyền dạy và được d́u-dắt cho đến siêu-thoát ra ngoài ṿng
Càn-khôn.
Hạng Tín-đồ nầy là bực Tối Thượng-Thừa, xong xuôi tất cả bổn-phận làm người
; nghĩa là chẳng c̣n dính dấp với gia-đ́nh, xă-hội nữa, mới đặng nhập
Tịnh-thất. Hội-thánh sẽ xem xét kỹ-càng, trước khi thâu nhận.
Tịnh-thất có kỷ-luật riêng, ngày giờ công-phu, hoặc ăn nghỉ, mỗi mỗi đều
nhứt định. Cấm người trong Tịnh-thất giao-tiếp với kẻ ngoài, hoặc thơ-tín,
hay bàn chuyện cũng vậy.
Trong Tịnh-thất có luật riêng, kẻ ở Tịnh-thất nhứt nhứt phải tuân theo
kỷ-luật ấy. Đó gọi là luật Xuất-thế.
Tóm lại : Lễ-nghi và Đạo-luật tuy h́nh thức khác nhau, nhưng đồng đem lại
một kết quả. Nghi lễ để trau giồi Tâm-lư, Đạo-luật để cầm vững hành-vi. Cả
hai đều giúp cho người vững bước trên đường tu-tĩnh.
Ấy vậy nên kẻ học phải biết quan sát, phải biết áp-dụng, hầu cho ḿnh có
một tinh-thần Kỷ-luật.
Chương thứ năm
Vỏ trụ quan
ĐẠO
Muốn bàn giải cái quan-niệm Vơ-Trụ, lẽ tất-nhiên, chúng ta phải nói đến
chữ Đạo ; bởi v́ Trời-Đất vạn-vật đều do Đạo mà sanh sống và cũng do Đạo
mà tấn-hóa đến chỗ Chí-thiện, Chí-mỹ, Chí-nhơn.
Thế mà Đạo ra sao ?
Đức CHÍ-TÔN có dạy rằng :
Khi chưa có Trời-Đất th́ khí Hư-vô sanh có một Thầy, và ngôi của Thầy là
Thái-cực ; Thầy phân Thái-cực ra Lư ng-nghi ; Lư ng-nghi sanh Tứ-Tượng ;
Tứ-Tượng biến ra Bát-quái ; Bát-quái biến hóa vô cùng mà lập thành
Càn-khôn Thế-giái, rồi Thầy phân tánh Thầy mà sanh ra vạn-vật là : Vật-chất,
Thảo-mộc, Côn-trùng, Thú-cầm và Người, gọi là Chúng-sanh (Xem h́nh
Bát-quái nơi trương 49)
Bài Thánh-ngôn trên đủ khái-niệm cái Đạo xây-dựng Vơ-Trụ và sanh hóa muôn
loài ; nhưng, rất vắn tắt thành ra khó hiểu cho người ít đọc Đạo-thơ. Thừa
dịp nầy, chúng tôi xin phân tách và thuyết-minh cho rơ thêm hơn như sau :
a)- Khí Hư-vô mà Đức CHÍ-TÔN nói trên đây vốn vô-danh, vô-sắc. Đức LĂO-TỬ
tạm gọi là Đạo, rồi ngài giảng rằng :
Hữu nhứt vật hổn thành, Tiên Thiên địa sanh, tịch hề liêu hề, độc lập nhi
bất cải, châu hành nhi bất đải, khả dĩ vi Thiên-địa mẫu, Ngô bất tri kỳ
danh, tự chi vi Đạo . Có một Đấng tự sanh, chớ chẳng phải giống chi sanh
được, có trước Trời Đất, lặng yên một ḿnh ở trong cơi Thái-hư mà không
nghiêng đổ, lưu-hành khắp nơi mà không mệt mỏi ; Đấng ấy khá gọi là nguồn
sanh hóa Trời Đất ; Ta chẳng biết tên chi, song mượn chữ gọi là Đạo.
Vậy Đức Lăo-Tử quan niệm Đạo là Đấng Tạo Hóa, rồi Ngài mô tả chữ Đạo đại
lược như vầy : Ta suy diễn th́ thấy Đạo lúc nào cũng có một, không biết đâu
là đầu đuôi, manh mối ; thế mà nơi nào cũng có Đạo. Ta
trông lên phía trên th́ không thấy phản-chiếu ánh-sáng, xem xuống phía dưới
th́ không thấy ẩn-khuất bóng tối, lâng lâng trong sạch, hồn nhiên giản-dị
mà chính Đạo là bản thể của Vơ-Trụ, Chúa-Tể của muôn loài.
Cái Bản-thể của Vơ-Trụ nói đây, kinh Phật gọi là Chơn như và nói rằng : Chơn-như
giă Vơ-Trụ chi bổn thể ; nải bất sanh, bất diệt, bất tăng, bất giảm, vô
thỉ, vô chung. Vơ-Trụ chi hiện tượng, hữu sanh-diệt, hữu tăng-giảm, hữu
thỉ chung, vị chi vạn pháp. Vạn-pháp tức Chơn-như, Chơn-như tức Vạn-pháp .
Nghĩa là Chơn-như là bổn-thể của Vơ-Trụ, không sanh, không diệt, không tăng
, không giảm, không thỉ, không chung. C̣n Vơ-Trụ là hiện tượng của Chơn-như
; Vơ-Trụ có sanh tử, có tăng giảm, có thỉ chung, nên kêu là Vạn-pháp. Vậy
Vạn-pháp là Chơn-như ; Chơn-như là Vạn-pháp.
Muốn rơ thêm, chúng ta hăy xem lời của ông Chu-Liêm-Khê là một Danh-nho đời
Tống bên Tàu nói rằng : Vô-Cự nhi Thái-Cực ; nghĩa là Vô-Cực là Thái-Cực.
Tại sao ? Bởi v́ Vô-Cực là Tịnh-thể ; Thái-Cực là Động-thể. Cái động-thể
vốn do nơi tịnh-thể mà ra, cho nên nói Vô-Cực với Thái-Cực là một. Ông lại
nói rằng Vô-Cực, nguồn gốc của Vơ-Trụ ; nó là không không và ở ngoài những
cái mà loài ư hội được. Nhưng, tuy nói là Không mà chẳng phải là Không
hẳn, v́ Vô-Cực vốn tự tại, bất sanh, bất diệt. Cái tự tại ấy chưa phát động
th́ gọi là Vô-Cực ; c̣n khi đă phát động rồi th́ gọi là Thái-Cực. Vậy
Vô-Cực với Thái-Cực là một gốc ; nhưng Vô-Cực th́ yên lặng mà Thái-Cực th́
phát động và Hóa-sanh ra Thế-giái vạn-hữu.
Tóm lại Tam-giáo đều quan niệm cái lẽ Đạo như nhau, nhưng cách lập ngôn và
dùng danh từ để giảng-giải th́ bất đồng. Đại để như nói Vô-Cực hay khí Hư-vô
vốn một thể với Thái-cực. Nhưng, Vô-Cực hay khí Hư-vô th́ siêu-việt quá người
ta không thể khái-niệm được mà chỉ khảo-sát được Thái-Cực là cơ biến dịch
hóa sanh Trời Đất vạn-vật mà thôi. Lẽ nầy chẳng khác nào Kinh Phật nói :
Chơn-như là Vạn-pháp ; Vạn-pháp là Chơn-như. Nhờ tham khảo cơ biến hóa ấy
mà người ta hiểu được Đạo là khí Hư-vô, Vô-cực hay Chơn-như.
b)- Câu thứ hai trong bài Thánh-nhôn trên kia nói rằng : Thầy phân
Thái-cực ra Lư ng-nghi, Lư ng-nghi sanh Tứ-Tượng, Tứ-tượng biến ra
Bát-quái, Bát-Quát biến hóa vô cùng mà lập thành Càn-Khôn Thế-giái ; rồi
Thầy phân tánh Thầy ra mà sanh ra vạn-vật là : Vật-chất, Thảo-mộc,
Côn-trùng, Thú-cầm và Người gọi là Chúng-sanh.
Chỗ nầy, Ông Chu-Liêm-Khê nói rằng : Thái-cực có hai thể : Động và Tịnh. Động
th́ sanh Dương ; Tịnh th́ sanh Âm. Thái-cực chỉ có một Động một Tịnh mà
phân ra Lư ng-nghi, tức Thái-cực sanh Âm-Dương nhị khí.
Âm-dương có tánh tương-khắc mà lại tương-ḥa. Bởi tương-khác cho nên Âm-Dương
gặp nhau th́ xô-xát ; chính sự xô-xác ấy thành cơ biến hóa. Mà xô-xác cùng
cực rồi lại điều-ḥa ; chính sự điều-ḥa ấy là cơ định vị Trời Đất. Thử
hỏi Âm-Dương nhị khí xô-xát, điều-ḥa, cách nào mà định vị Trời Đất ? Th́
sách chép rằng : Trong lúc Âm-Dương hỗn-độn, khí nhẹ bay lên thành Trời ;
khí nặng ch́m xuống thành Đất. Khi Trời Đất định vị cao thấp rồi trong khoảng
không gian ở giữa Trời Đất, khí Âm khí Dương lại xô-xát điều ḥa nữa mà
sanh hóa muôn loài. Vạn-vật đến lượt chúng nó, khi đă trưởng thành th́
giống đực, giống cái giao-cấu mà sản xuất thêm măi ; chỗ nầy, Kinh Dịch
nói : Thiên-Địa nhơn huân vạn-vật hóa thuần ; Nam Nữ cầu tinh vạn-vật hóa
sanh .
Ông Chu-Chu-Liêm giải một cách khác hơn nữa rằng : Dương độn th́ biến hóa
ra, Âm tịnh th́ tập hợp lại ; bởi sự biến-hóa ra và sự tập-hợp lại mà Âm-Dương
sanh ra Ngũ-hành là : Thủy, Hỏa, Kim, Mộc và Thổ. Cái chơn của Vô-cực là
Lư, cái Tánh của Âm-dương Ngũ-hành là khí.
Lư Khí diệu hợp mà quẻ Kiền sanh con trai, quẻ Khôn sanh con gái. Rồi Âm-Dương
giao cảm (Khí ḥa) mà hóa sanh vạn-vật ; Nam Nữ giao cảm (h́nh ḥa) mà
sanh sản vô cùng tậm. Cơ tạo hóa vạn vật giảng giải như thế cũng khá rơ
rồi. Bây giờ thử so sánh Đạo-học với Khoa-học.
Khoa-học ngày nay cũng nh́n nhận cái thuyết Âm-Dương do Đạo-học phát minh
là đúng sự thật ; song, Khoa-học dùng danh từ khác. Đại-để như nói rằng :
Trong Vơ-Trụ bao-la, có những điện-tử vận hành măi măi, không lúc nào
ngừng, mà sự vận-hành của điện-tử luôn luôn điều-khiển bởi một Sức mạnh
phi thường (tức ám chỉ về Thượng-Đế). Trong điện-tử, Khoa-học lại nhận
thấy có hai thứ khác nhau là : Điện-tử Âm và điện-tử Dương. Hai thứ điện-tử
nầy dung hiệp làm một Nguyên-tử (1) (Điện-tử-hệ). Nhiều Nguyên-tử dung
hiệp thành một Tế-bào là nguyên-liệu sanh thành vạn-vật. So sánh hai thuyết
nầy th́ chúng ta thấy Khoa-học nói : Điện-Tử Âm và Điện-tử Dương hiệp
thành nguyên-tử, c̣n Đạo-học lại nói : Khí Âm và khí Dương diệu hiệp thành
một Khí-cơ . Hai danh-từ tuy khác mà tựu-trung chỉ là một vật thôi.
Thật khoa-học tiến một bước rất dài. Ước ǵ một ngày kia Khoa-học và Đạo-học
hiệp nhau thành một Học-thuật vừa tinh-thần, vừa vật-chất, để đưa nhơn-loại
tiến lên đường tiến hóa.
(1) Nguyên-tử.- Chất hơi, chất đặc, chất lỏng, vân vân... đều là Vi-tế-bào
(cellule) cấu thành. Trong mỗi Vi-tế-bào co& nhiều Nguyên-tử (Atomes). Người
ta phân tách nguyên-tử ra th́ có Điện-tử Âm và Điện-tử
Dương.
Một hột Điện-tử Dương có nhiều hột Điện-tử Âm chạy chung quanh, cũng như
nhiều quả địa-cầu xoay chung quanh mặt Nhựt vậy.
c)- Đó là bàn chung Vơ-Trụ Vạn-vật. Bây giờ, chúng ta xét trở lại người ta
đối với Đạo là thế nào ?
Mặc dầu chúng ta nhờ Cha Mẹ (h́nh ḥa) mà sanh ra Nhục-thể ; song phần Hồn
(Lư) và Khí cũng vẫn c̣n liên đới với Đạo, rất chặt-chẽ. Đó là chỗ mà Đơn-kinh
nói rằng : Người là Tiểu-Thiên-Địa, tức người có đủ Âm-Dương và Ngũ-Hành,
y như Vơ-Trụ là Đại-Thiên-Địa vậy. Thế đủ hiểu người ta nhờ Cha Mẹ mà có
Nhục-thân, nhờ Vơ-Trụ mà có phần Khí và nhờ CHÍ-TÔN ban cho một điểm
Tánh-linh để làm Hồn ; gọi tóm tắt là Tinh-Khí-Thần (Tam-bửu).
Th́ đây, sự phản bổn hườn nguyên của người đời cũng chỉ có theo Đạo mà trở
về với Cội-Sanh ḿnh là Trời mà thôi ; chớ chẳng có con đường nào khác.
Hoặc nói trắng ra là một Chơn-linh đă đến cơi Trần rồi ; nay muốn trở về
với Thái-cực th́ phải nương theo sự vận-hành của cái máy Âm-Dương mà trở
về, chớ không có phép nào khác nữa. Đạo thơ nói đó là phép Luyện Tinh hóa
Khí, luyện Khí hiệp Thần, luyện Thần hườn Hư vậy.
Đại để như thế ; nhưng muốn công-phu có kết-quả mỹ-măn th́ phải dày công
khó nhọc lắm. Trước nhứt phải có đức tin chơn chánh, để làm đuốc dẫn đường
và Trời Phật d́u dắt, rồi c̣n phải tạo dựng Phước-đức và Trí-huệ viên-măn
th́ mới mong siêu-thoát được.
Quan niệm về Thiên-Triều
Chúng ta trông thấy Vơ-Trụ bao-la ; trên có Trời, dưới có Đất, ở giữa có
Sơn-hà, Thảo-mộc, Thú-cầm và Người ta. Nếu suy-diễn ra nữa th́ trong cái
Thế-giới Vạn-hữu nầy, c̣n có một Thế-giới Tinh-thần nữa.
Phần Thiêng-Liêng ấy do đức CHÍ-TÔN vi chủ và Thần, Thánh, Tiên, Phật, hộ
tŕ. Cái cơ-quan nầy chúng tôi tạm gọi là Thiên-Triều, tức Triều-Thượng-Đế.
Bà Bát-Nương Diêu-Tŕ-Cung giáng cơ dạy về Thiên-Triều như vầy :
Trong Vơ-Trụ bao-la, Không-gian ở trên là Thượng-từng Bí-pháp của mọi
quyền năng Thiêng-liêng, Đấng CHÍ-TÔN vi chủ. Thần, Thánh, Tiên, Phật hộ
tŕ. Thời gian ở dưới có đủ Khí-chất, để tạo dựng Vơ-trụ hữu-vi và vật-chất
hữu-h́nh. Phép nhiệm mầu vô biên ấy do quyền năng tuyệt-đối của Đức
CHÍ-TÔN vận chuyển, trụ lập Thiên-thơ, định thần Thiên-Điều, khiến cho
Không-gian phối hợp với Thời-gian mà xây dựng Thế-giới vạn-hữu. Đó gọi là
Thiên-Triều thống-trị cơ sanh hóa và đoạt vị của Bát-hồn. Chúng tôi thể
theo Thánh-ngôn trên đây mà kể sơ lược như sau :
a)- Cửu-Thiên.
1- Hư-Vô Cao-Thiên là từng Trời phán ngự Càn-Khôn, do Đức CHÍ-TÔN vi chủ.
2- Hạo-Nhiên Huyền-Thiên là nơi định pháp, do Đức Thái-Thượng Đạo-Tổ vi
chủ.
3- Phổ-Hóa Huyền-Thiên hay Phi-Tưởng Diệu-Thiên là nơi hóa độ quần linh,
do Đức Nhiên-Đăng Cổ-Phật vi chủ.
4- Tạo-Định Cao-Thiên hay Thượng-Thiên Hổn-Ngươn là nơi phân định Càn-Khôn,
do Đức Hồng-Quân Lăo-Tổ vi chủ.
5- Tạo-Hóa Huyền-Thiên là nơi sanh hóa Bát-Hồn, do Đức Phật-Mẫu vi chủ.
6- Kim-Thiên là nơi phát sanh bổn chất của Chơn-thần, dưới sự điều-khiển
của Tạo-Hóa Huyền-Thiên.
7- Huỳnh-Thiên.
8- Xích-Thiên.
9- Thanh-Thiên là ba từng Trời lập định thứ bậc Tấn-Hóa của các
Nguyên-Nhân, do Hiệp-Thiên-Cung vô-vi hành-hóa.
b)- Thiên-Cung.
Ngọc-Hư-Cung là ngôi của Đấng Chủ-tể Càn-Khôn Vơ-trụ, có sẵnThiên-Điều là
luật thưởng phạt Bát-Hồn. Ngôi hành pháp là Linh-Tiêu-Điện có đủ oai-linh
của Thái-cực Thánh-Hoàng ban bố, để giữ máy hành-tàng hư thiệt.
Cực-Lạc Thế-Giái là ngôi chấp-chưởng luật Nhơn-quả, Luân-hồi, định-vị cho
Bát-Hồn, tức định phẩm trật cho cả Vạn-linh trên đường lập vị Thiêng-Liêng.
Luật Tấn-Hóa của Bát-Hồn do quyền năng vô đối của Đức CHÍ-TÔN phán định.
Chơn-pháp ấy vận hành từ vô-vi ra hữu tướng ; từ hữu-tướng trở lại vô-vi,
mỗi mỗi đều căn cứ vào :
Hư-không là chuẩn-đích ;
Vận-chuyển là hành-tàng ;
Điều-ḥa là phương-pháp ;
Chơn-chánh là phương-định.
c)- Thiên-Thơ và Thiên-Điều.
Thiên-thơ là hiến-pháp bất di, bất dịch, của cơ Tạo-đoan. Nguyên khi định
thành Càn-khôn rồi, Đức CHÍ-TÔN vi chủ ; chư Thần, Thánh, Tiên, Phật
ngự-trị th́ cả quyền năng hiệp lập Thiên-thơ, là nền tảng cơ Tạo-thế.
Thiên-điều là luật Trời, do Thiên-thơ mà lập thành, để giữ vững giềng mối
vận chuyển : Không ra Sắc, Sắc trở lại Không . Luật Công-b́nh và Bác-ái
tại Thế-gian vốn là biến thể của Thiên-điều, nhứt là luật Luân-Hồi và Nhơn-Quả
mà Tam-giáo đă phổ biến từ ngàn xưa.
d)- Luật Luân-hồi.
Luân-hồi nghĩa là xoay vần măi, cũng như bánh xe lăn qua rồi lăn qua nữa,
không lúc nào ngừng. (Về Đạo-pháp, bị thiếu trang 46,47)
Muốn lập đức-tin chơn-chánh, chúng ta chớ vội tin nh ng lời của người nói,
mặc dầu người ấy là một vị truyền-giáo, mặc dầu lời ấy đă chép trong kinh
sách của ai. Phải dùng lư-trí mà suy-nghĩ, với một cách vô-tư, cho biết rằng
: Việc ấy có đem lại hạnh-phúc cho cá-nhơn, cho gia-đ́nh, cho xă-hội và
tất cả loài Người chăng ? Nếu quả như vậy, rồi chúng ta sẽ tin. Một khi đă
có đức tin th́ cứ giữ một ḷng tinh-tấn làm theo cho đến kết-quả. Tâm thần
chúng ta luôn luôn phải được lọc-lược thanh-khiết, cầu cho ḿnh có đủ sáng
suốt, phân-biệt, với một cách vô-tư, những lẽ chánh tà, phải quấy ; phải
tránh nhứt là sự làm nô-lệ cho kiến-văn, thành-kiến, do t́nh cảm gây ra. Đức-tin
phải có lư-trí xét đoán. Cái biết phải nhờ cái làm hoàn thành. Cả tri hành
hiệp nhứt mới có thể đưa người ta đến cảnh Quang-minh chánh-đại.
Đức tin chơn-chánh rất hữu-dụng cho người đời, như đối với gia-đ́nh, nếu
người ta tin có Trời soi xét việc làm của người, để
thưởng phạt th́ ắt có người con làm tṛn đạo-hiếu, người anh em làm tṛn
nghĩa đệ huynh, c̣n đối với làng nước nếu người ta có đức tin chơn-chánh
th́, ngoài sự kiêng phép nước, người ta c̣n sợ luật Trời nữa. Thiết tưởng
mỗi người ăn ở như thế th́ ắt Gia-đ́nh, Xă-hội sẽ được thái-b́nh. C̣n đối
với hạng người Xuất-thế th́ đức-tin chơn-chánh là ngọn đuốc rọi đường
tu-tỉnh và đưa ḿnh đến Chơn-Thiện-Mỹ.
TIÊN THIÊN BÁT-QUÁI
Càn
Đoài Tốn
Ly Khảm
Chấn Cấn
Khôn
HậU THIÊN BÁT-QUÁI
Ly
Tốn Khôn
Chấn Đoài
Cấn Càn
Khảm
Trong trương 39 có bài Thánh-giáo nói về Bát-Quái, chúng tôi theo kinh
Dịch kể sơ lược sự tích của Bát-Quái như sau, để cho độc-giả biết qua.
Vua Phục-Hi sanh về đời tối cổ bên Tàu, là thời kỳ Thần-linh-học phát
triển đến cực-độ ở Á-Đông. Ngài là một ông vua Minh-quân : tài cao, đức
trọng, tinh-thần minh-mẫn, hàm dưỡng được Trí-Huệ của Thượng-Đế ban cho ;
thành thử, Ngài xem suốt cơi Vô-h́nh. Khi dạo chơi nơi bờ sông Hà (ngày
nay gọi là sông Huỳnh-Hà , v́ sông ấy có cát vàng). Ngài trông thấy một
con vật ḿnh ngựa, đầu Rồng, danh gọi là Long-Mă, trên lưng có 55 nút chấm.
Vua Phục-Hi do đó mà lập ra Bát-Quái (Tám quẻ) gọi là Tiên-Thiên Bát-Quái,
hay Phục-Hi Bát-Quái.
Long-Mă
Theo sách Nho th́ Long-Mă có thân h́nh cao 8 thước, 5 tấc (thước Tàu), xương
cổ dài, chưn Ngựa, đầu Rồng và trên ḿnh có vảy như vảy Rồng.
Rồng là một vật trong số Tứ-Linh ; có đủ nơi ḿnh những cái tinh túy của
Vơ-trụ. Ngựa là vật chở người, chở đồ vật, đi mau lẹ. Tóm lại, Long-Mă tượng
trưng Thời gian trôi qua mau lẹvà mang theo tất cả sự
vật của Vơ-trụ , tức là chỉ vào Thời gian lúc nào cũng luân chuyển ; mang
theo tất cả sự vật với một cách Thiêng-Liêng . Long-Mă gồm cả Thể đức của
hai vật Rồng-Ngựa (Âm-Dương) là vật linh mang chở cả cái Thần-bí, tinh-túy
của Trời đất để chan rưới khắp cơi đời sanh tồn.
Kinh Dịch nói : Long-Mă là vật linh kết hợp bởi 8 cái tinh-túy ở trong
Thái-dương-hệ, hiển hiện dưới con mắt Thần của Vua Phục-Hi là một Thánh-Vương
coi được các Vật trong cơi Vô-h́nh, thấy rơ vật linh của Trời Đất, mang
chở những cái tinh-anh của Thái-dương-hệ.
Lạc-thơ - Là sách do sông Lạc mà lập thành. Nguyên vua Vơ, Thỉ-tổ của nhà
Hạ, khi nước lụt ra trấn nước ở sông Lạc. Khi nước cạn, Vua Vơ thấy một
con Linh-Qui đội cầu, trên lưng có số 9, Vua Vơ theo đó mà sắp thứ tự
thành ra Lạc-thơ hay Hậu-thiên Bát-Quái.
CHƯƠNG THỨ SÁU
Nhơn sanh quan
Tâm :
Người ta có một cái Tâm . Cái cớ sở dĩ Nhơn-sanh tối linh ư vạn-vật cũng
chỉ v́ cái Tâm đó. Nếu có người hỏi Tâm do đâu mà có và nó ra sao, th́
chúng ta trả lời rằng : Tâm ngườii ta là điểm tánh linh của Thượng-Đế ban
cho, và Tâm người cùng Tâm của Vơ-trụ đồng nhứt lư.
Muốn xác nhận điều nầy, xin xem kế đây :
a)- Bài Thánh-Ngôn của Đức CHÍ-TÔN mà chúng ta đă khép trong trang trước
có một đoạn như vầy : Khi tạo dựng Càn-Khôn Thế-giái rồi, Thầy phân tánh
Thầy mà sanh ra vạn-vật là : Vật chất, Thảo-mộc, Côn-Trùng, Thú-cầm gọi là
Chúng-sanh .
b)- Ông Vương-Dương-Minh nói :
Tự kỳ h́nh giả vị chi Thiên ; chủ tể giả vị chi Đế, lưu hành giả vị chi mạng
; phú quí nhơn giả vị chi tánh ; chủ ư Thân giả vị chi Tâm . Nghĩa là nhắm
vào h́nh tướng th́ gọi là Trời, nhắm vào Chúa-Tể Vơ-Trụ th́ gọi là Đế, tức
Thượng-Đế ; nhắm vào sự lưu-hành trong Vơ-trụ th́ gọi là mạng, phú cho người
th́ gọi là Tánh, làm chủ củaThân phàm th́ gọi là Tâm.
c)- Sách xưa có câu nói rằng : Nơi Trời th́ gọi là Mạng, nói người th́ gọi
là Tánh, nơi sự th́ gọi là Lư, làm chủ Thân-phàm th́ gọi là Tâm. Tuy Mạng,
Tánh, Lư, Tâm khác danh từ song cả thảy là một mà thôi(Tại Thiên vi Mạng,
tại Nhơn vi Tánh, tại Sự vi Lư, chủ ư Thân vi Tâm, kỳ thật nhứt giă). Thế
đủ rơ Trời với Người tương-liên mật-thiết là dường nào ! Và cũng v́ cái lẽ
tương-liên ấy, cho nên người phải theo Đạo mà sanh sống và tấn-hóa. Trái
lại, người nào càng xa Đạo bao nhiêu, th́ càng phải chịu thống khổ bấy
nhiêu, cho nên Đạo-đức-Kinh nói :
Thiên đắc nhứt dĩ thanh ; Địa đắc nhứt dĩ ninh ; Thần đắc dĩ linh ; vạn-vật
đắc nhứt dĩ sinh. Kỳ trí chi nhứt giă, Thiên vô dĩ
vi thanh ; tương khủng liệt ; Địa vô dĩ vi ninh, tương khủng phiệt ; Thần
vô dĩ vi linh, tương khủng kiệt, vạn vật vô dĩ vi sinh, tương khủng diệt .
Nghĩa là Trời đặng Một (Đạo) th́ trong sáng ; Đất đặng Một th́ bền-vững ;
Thần đặng Một th́ linh-thiêng ; muôn loài đặng Một th́ sanh sống và tấn-hóa.
Đến như số Một nói đây, tức Đạo, nếu Trời chẳng đặng nó, để làm cơ-sở
trong sáng th́ e Trời phải tối ; Đất chẳng đặng nó, để làm cơ-sở bền-vững
th́ e Đất phải sụp đổ ; Thần chẳng đặng nó, để làm cơ-sở linh-thiêng th́ e
Thần phải kiệt ; muôn loài chẳng đặng nó, để làm cơ-sở sinh-tồn th́ e muôn
loài phải tiêu diệt.
Theo lẽ nầy mà suy ra th́ thấy rằng Chúng-sanh nếu không lấy Đạo làm cơ-sở
cho đời sống th́ phải chịu thống-khổ và đi làm đến chỗ diệt vong.
Bây giờ th́ thử hỏi tại sao mà Chúng-sanh không theo được Đạo ?
Vả lại, Đạo vốn vô-vi ; Tâm người ta lúc ban đầu cũng vô-vi như Đạo ; cho
nên nói : Tâm tức Đạo, Đạo tức Tâm. Nhưng khi làm chủ Phàm-thân, Tâm bị
Phàm-thân kích-thích mà Tâm biến-sanh một trạng-thái thứ nh́ nữa, mạng
danh là Thức-tâm hay Thức-tánh. Chính cái Thức nầy là một động-lực làm cho
Tâm mất cái lư Vô-vi, thành ra con người phải xa Đạo.
Giảng-giải sự biến thiên của Tâm, Ông Vương-Dương-Minh nói rằng : Thân chi
Chủ-tể tiện thị Tâm ; Tâm chi sở phát tiện thị Ư ; Ư chi bổn-thể tiện thị
Trí ; Ư chi sở tại tiện thị Vật . Làm chủ của Thân thiệt gọi là Tâm ; phát
động của Tâm thiệt gọi là Ư ; bổn thể của Ư thiệt gọi là Trí ; Ư để chỗ
nào th́ chỗ ấy là Vật (việc). Ví-dụ : như hiếu với Cha Mẹ. Vậy Ư ngưng chỗ
chữ hiếu ; cho nên hiếu là một việc.
Theo đó, chúng ta có thể tóm tắt như vầy :
Tâm
Tánh
Ư
Trí
Vật hay việc
Tâm là cái Thông-danh, hổn-hàm cả Tánh bổn-nhiên và Thức-tánh, tức là Ư,
Trí, Vật như đă nói trên.
Phật-giáo cũng mô-tả Thức-tánh rất rơ ràng lắm. Chúng tôi xin chép bài
Bát-thức kế đây để mở rộng tầm suy nghĩ của ḿnh.
Bát-thức
Nói về Thức-tánh biến-thiên muôn vạn t́nh-thức khác ; nhưng Phật gọi tóm
tắt là Bát-thức kể như sau :
Giai đoạn thứ nhứt. - Nói về sáu thức bên ngoài.
Khi Phàm-thân khôn lớn th́ khuynh hướng về vật-chất cầu sự nuôi sống và
giúp vui ; v́ nó thuộc vật-chất phải nhờ-vă nơi vật-chất. Nhơn đó mà Lục-căn
của Phàm-thân tiếp xúc Lục-trần mà sanh ra Lục-thức.
Xem bản thống-kê Lục-thức kể đây :
Bản thống-kê Lục-thức
Lục-Căn Lục-Trần Lục-thức
Nhăn Sắc Nhăn-thức
Nhĩ Thinh Nhĩ-thức
Tỉ Hương Tỉ-thức
Thiệt Vị Thiệt-thức
Thân Xúc Thân-thức
Ư Pháp (tức sự Ư-thức
vật ở đời)
Năm thức trên do Ngũ-quan tiếp xúc với ngoại-vật mà sanh. Tuy mỗi thức có
cái biết riêng của nó. Mắt biết sắc ; tai biết tiếng ; Mủi biết mùi ; Lư i
biết vị ; Thân biết cảm xúc ; nhưng năm thức ấy biết mà không có tư-lương,
suy-nghĩ ; đến chừng chúng nó truyền cái biết vào Ư-thức th́ cái Thức thứ
sáu nầy mới phân-biệt tốt xấu, hơn kém.
Ḷng ham muốn vật-chất do đó mà sanh. Từ đó về sau t́nh-dục đua nhau mà
làm loạn Bổn-tâm.
Ví dụ : Anh X muốn có một chiếc xe du lịch.
Ḷng ham muốn giục thúc anh ta phải lo liệu, làm lụng, thế nào cho có tiền
để mua xe. Nếu mua được chiếc xe th́ vui mừng, thỏa thích, rồi lại đâm ra
sợ mất, sợ hư, mà phải lo ǵn giữ chăm nom. Trái lại, nếu thất vọng th́
anh X buồn rầu phiền năo, rồi âm mưu, tính kế, làm ra tiền, có khi anh ta
dám làm việc ích-kỹ hại nhơn nữa.
Những t́nh-dục ở trong Thức thứ sáu (Ư-thức) cứ theo Nhơn-duyên bên ngoài
mà hoạt động. Người ta, sở dĩ, khổ năo lắm, chỉ v́ T́nh-dục ấy.
Giai đoạn thứ hai.- Thức thứ bảy và thứ tám.
T́nh dục ở nơi Ư-thức, hoạt động măi hoạt động măi đến khi hết cơ duyên
rồi nó lại ngấm theo Thức thứ bảy, mạng danh là Truyền-Tống-Thức (Manas)
mà vào Thức thứ tám, mạng danh là Hàm-Tàng-Thức (Alaya). T́nh dục ẩn núp
trong Hàm-Tàng-Thức để chờ cơ duyên thuận tiện khác mà hoạt động lại nữa :
T́nh dục ấy, về sau, thành ra tánh tự nhiên của người.
Lúc vô sự, nó yên lặng như không, nhưng khi gặp cơ hội th́ nó dấy động mau
lẹ, cũng như Lương-tri, hay Lương-năng. Người ta, nếu không nghĩ lại th́
nhận lầm nó là Bản ngă của ḿnh, rồi lấy đó mà làm then chốt cho đời sống.
Chúng ta thấy có người đương vui mà bỗng nhiên buồn, đương giận mà bỗng
nhiên lại thương, vân vân... Ấy là tại người ta sống theo Bản ngă giả hiệp
đó vậy.
Nói tóm lại Bát-thức là :
Nhăn-thức
Nhĩ-thức
Tĩ-thức
Thiệt-thức
Thân-thức
Ư-thức
Manas thức (Truyền-Thống-Thức)
Alaya-thức (Hàm-Tàng-Thức).
Sáu thức trên đă giải được rồi, bây giờ xin giải rơ hai Thức sau.
Thức thứ bảy, theo danh từ Truyền-Thống-Thức mà định-nghĩa, th́ nó là cái
Thức truyền các cái Thức bên ngoài vào trong Hàm-Tàng-Thức.
Trái lại, nó cũng truyền tống những ư niệm của Hàm-Tàng-Thức ra ngoài Thức
thứ sáu kia nữa. Thức thứ tám (Hàm-Tàng-Thức) nghĩa là nó ngậm chứa cả các
Thức. Nó cũng có tên khác là Chủng-Tử-Tạng , nghĩa là cái Tạng chứa đủ cả
các hột giống. Chúng sanh, sở dĩ, làm Chúng sanh hay làm Phật, cũng do nó
mà ra, cho nên gọi nó là hột giống Luân-hồi.
Nghĩa là cái Bản-ngă giả-hiệp nầy, khi sanh tiền, th́ lưu ẩn trong
Hàm-Tàng-Thức mà hoạt động theo vật-chất, để cầu lợi cho Nhục-thân ; măi
đến khi tử-hậu th́ nó trở về Bạch-Tịnh-Tạng để di chuyển sanh kiếp khác
nữa. Thế nên trong lúc Nhục-thân nầy đương tiêu tan dưới mồ th́ nó lo sửa
soạn kết tạo Thể-thân khác cho kiếp vị-lai. Và cứ thế mà sanh-tử, tử-sanh
măi, không bao giờ ra được, nếu người ta không tự giác ngộ.
Người trí-giả đă rơ cái lư do thống-khổ, rồi người ta t́m phương giải khổ.
Phương pháp ấy th́ nhiều, mỗi người quan niệm một lối. Th́ đây, cái lối
của chúng ta, là Minh-tâm Kiến-tánh, có sáng suốt được Tâm của ḿnh để
phân biệt đâu là Vọng, đâu là Chơn ; rồi sau mới đi lần đến sự thông sáng
hoàn toàn là cái năng-lực đưa người siêu thoát ra ngoài ṿng sanh-tử.
CHƯƠNG THỨ BẢY
Sự giáo hóa của Đại Đạo
Đức Chí-Tôn giáng cơ dạy rằng :
Ta v́ ḷng Đại-từ, Đại-bi, lấy đức háo-sanh dựng nên mối Đại-Đạo Tam-Kỳ
Phổ-Độ, tôn chỉ là : vớt kẻ hữu phần vào nơi địa vị cao thượng để tránh
khỏi số mạng Luân-hồi, và nâng đở kẻ có tánh-đức, bước vào cơi nhàn, cao
hơn phẩm hèn khó ở cơi Trần-thế nầy.
Thể theo Thánh-ngôn trên đây, Tân-luật Đại-đạo ấn định Tín-đồ của Đại-Đạo
chia ra hai bậc :
Thượng-thừa
Hạ-thừa
Thượng-thừa là người xuất Thế-gian, nghĩa là người đă phế Đời, theo Đạo,
họ chẳng c̣n bận rộn về thế sự, mà chỉ lo tự-giác để rồi đem cái sở-đắc
của ḿnh mà giúp cho người khác cùng được khai sáng như ḿnh, tức Tự-giác
giác tha. Tân-luật lại định rằng Chức-sắc của Hội-thánh từ Giáo-hữu dẫn
lên, phải chọn trong hàng Thượng-thừa.
Hạ-thừa là người c̣n ở Thế, vừa làm Nhơn-sự, vừa học Thiên-đạo.
Tân-luật qui định cho lớp nầy phải làm tṛn bổn phận người, như bổn phận đối
với xă-hội, gia-đ́nh, bổn-thân, Hội-thánh, người đồng-đạo.. vân.. vân...
Phương pháp học hành của hai bậc nầy sẽ giảng rộng nơi chương Tám và chương
Chín sau đây ; bây giờ xin bàn trước cách học-đạo và hành-đạo.
Hai chữ Học-Hành chúng ta phải phân tách cho rành mạch châu đáo, hầu tránh
sự nông nỗi của ḿnh, bởi v́ học là một việc, hành là một việc khác nữa.
Hai phép Học-Hành hiệp lại th́ nó mới có thể đem lại cho người học cái kết
quả mỹ-măn. Ấy vậy nên chúng ta chia học-hành ra làm hai giai-đoạn để giải
thích cho rơ :
Lư-thuyết - Thực-hành
Lư-thuyết
Phần Lư-thuyết, ai cũng biết rằng : khi mới khai Đạo, Đức CHÍ-TÔN giáng cơ
lập Pháp-luật, Qui-điều, Lễ-nghi, Phượng-thờ, Tế-tự và dạy chúng ta học :
từ Nhơn-đạo đến Thiên-lư. Và trước khi ngưng cơ bút, Đức CHÍ-TÔN c̣n dặn
rằng : Kinh-điển của Tam-giáo vẫn c̣n ẩn-tàng một phần Chơn-truyền yếu-lư,
mà chúng ta cần phải tham-khảo tinh tường, để làm sáng thêm Giáo-lư của
ḿnh ; bởi v́ nền tảng của Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ qui nguyên Tam-giáo.
Xem đó th́ biết Giáo-lư của Đại-Đạo cao thâm, hoằng-viễn là ngần nào ; nhưng,
chúng ta nên biết rằng học lư thuyết chưa đem lại kết quả nào đáng kể cho
kẻ tu hành. Tỉ như, mỗi ngày, chúng ta đều tụng kinh Huỳnh-Đ́nh, tụng
không vấp một chữ, tụng đến thuộc ḷng mà không thực hành th́ sự thuộc
ḷng ấy chưa đem lại cho chúng ta đức hạnh chói rạng. Ấy vậy nên hễ muốn
thành Đạo th́ chúng ta phải thực hành giáo-lư nữa. Tức là chúng ta phải
học và phải làm thế nào cho giáo-lư nhập tâm và biến thành đức-tánh, để
rồi áp dụng vào đời sống thực tế của ḿnh. Đó là phương tu tâm luyện tánh
vậy. Về phương diện thực hành Giáo-lư, Đức CHÍ-TÔN có lập tại Thế-gian một
trường Công-quả ; cả Môn-đệ của Người phải theo đó mà tập luyện.
Vậy Công-quả là ǵ ?
Người Nông-phu cày cấy là làm công, tới mùa anh ta gặt lúa, là hái quả. Hễ
cày cấy nhiều th́ lúa thóc nhiều, cày cấy ít th́ lúa thóc ít.
Đó gọi là công-quả của người Nông-phu. Kẻ tu-hành cũng vậy. Nghĩa là kẻ
tu-hành cũng phải làm công rồi sau mới hưởng quả.
Nay muốn cho hiểu rơ thế nào là công-quả của kẻ tu-hành, chúng tôi tạm
chia công-quả ra hai mặt là : Công-quả nội và Công-quả ngoại.
Công-Quả nội : Cũng gọi là công đức ; phương-pháp thực hành Công-đức là
Học-giả phải gia công học hỏi cho thấu triệt Chơn-lư, cố gắng thực-hành
thế nào cho chơn-lư biến thành đức hạnh, để rồi áp dụng
vào đời sống thực tế của ḿnh, như đă nói trên.
Tại sao kẻ học phải thực hành công-đức ?
Vả chăng, tâm tánh chúng ta từ khi nhập Thể-cuộc đến bây giờ, đă trước
nhiễm nhiều vọng-chấp : nào là chánh-kiến, nào là tật xấu, nào là nết hư ;
nhứt là thói ích-kỷ là một trở ngại lớn trong công cuộc cảm-ứng ở giữa
Trời và Người. Như vậy, nếu chúng ta chẳng dụng công tinh-luyện, đả phá
thật sạch cái màn vô-minh ấy, th́ làm thế nào mà đi đến cảnh Toàn-giác. Đó
là nói về thực-hành công-đức. C̣n như hỏi phải làm thế nào cho ḿnh trở
nên người có đức ? Th́ chúng ta phải học cho hiểu đạo-lư ; hỏi cho rơ điều
ngờ vực, suy nghĩ cho thông tỏ cái lư đă học ; biện-bạch cho tinh-tường và
cố gắng làm cho tật xấu biến thành tánh tốt. Nói tóm lại là học, vấn, tư,
biện và hành. Làm năm phương pháp nầy, để lập đức của ḿnh.
Nói rút lại : về công-phu lập đức kẻ học phải làm cho thành, phải nói cho
Thánh. Công-thành, Ngôn-thánh th́ đức mới rạng. Trái lại, nếu công chẳng
thành th́ lời nói không được bảo đảm ; mà lời nói không được bảo đảm th́ Đức
chẳng có chỗ nương, để chói rạng. Làm được điều ấy tức là lập Công, lập
Ngôn và lập Đức vậy.
Công-Quả Ngoại : Là phụng-sự cho Chúng-sanh. Chúng ta nhờ tu công-đức mà
tâm-tánh trở nên thuần-nhiên Thiên-lư ; lúc bấy giờ, ḷng Bác-ái của chúng
ta được mở rộng. Chúng ta biết thương người, biết mến vật. Rồi chúng ta
nương theo cái ḷng vị-tha ấy, mà giúp người, giúp vật, được an vui theo
lẽ Đạo ; nhứt là độ dẫn người đồng chủng được mau tiến bước trên đường tấn-hóa
thiên-nhiên là một việc lành lớn, mà chúng ta nên chú ư cho lắm.
Tại sao chúng ta phải phụng sự cho Chúng-sanh ?
Vả lại, cả Chúng-sanh đều thọ sanh nơi một nguồn, học chung một Thầy và
cùng nhau đồng đi trên một đường về Cội-sanh ḿnh là Tạo-hóa, thành thử
trên đường sanh-tồn, học-vấn cả Chúng-sanh đều có thiếu nợ lẫn nhau. Người
ta cũng vậy, nghĩa là, người ta cũng phải chịu sự vay trả, trả vay, như
các Chơn-hồn khác. Đại để như : từ buổi đă được kết tạo trong Thai-bào,
mỗi Chơn-linh đă phải chịu nợ tiền-khiên rồi, tức là nợ kiếp trước, đến
lúc chào đời và trưởng thành, th́ lại nặng nợ Xă-hội, Nhơn-quần, như : ơn
cấp-dưỡng thức-ăn, chỗ ở, đồ mặc. Đó là sự nhờ vă lẫn nhau trên đường sanh
nghiệp. Ấy vậy, nên mảnh thân phàm của người đến Thế-gian nầy, chẳng phải
để làm việc riêng cho ḿnh, mà v́ sự liên-đới với vạn-vật ; thành thử, chẳng
có một cá nhân nào có quyền sống riêng, mà trái lại, phải đem kiếp sống mà
phụng sự cho Chúng-sanh toàn thể, hoặc với cách nầy, hoặc với phương khác.
Nghiệp quả ấy, nếu biết, th́ có thể trả xong trong ṿng một kiếp ; c̣n như
chẳng biết, th́ con người ấy phải chịu luân chuyển trong biển tử-sanh,
cùng đà sanh hóa, mà cũng chưa ắt kham.
Nói rút lại : hai phần công quả kể trên th́ nhiều, nhưng Kinh Phật tóm tắt
như vầy :
Chư ác mạc tác ;
Chúng thiện phụng hành ;
Tự tịnh kỳ ư ;
Thị chư Phật giáo ;
Nghĩa là mọi việc ác chẳng khá làm ; nhiều việc lành cũng phải vâng theo.
Tự ḿnh trừng ư cho được thanh-tịnh. Đó thiệt là giáo-luật của Phật vậy.
Công-quả đối với kẻ tu-hành rất quan-trọng. Bài Thánh-ngôn của Đức CHÍ-TÔN
kế đây đủ chứng minh sự quan-trọng ấy.
Thánh-ngôn.
Người ở Thế-gian muốn giàu phải t́m phương thế mà làm ra của. Ấy là về phần
vật-chất ; c̣n Thánh, Tiên, Phật muốn đắc Đạo th́ phải công-quả. Thầy đến
độ rỗi các con, Thầy lập thành một trường công-đức to cho các con nên Đạo.
Vậy đắc Đạo cùng chăng, là tại các con muốn, cùng chẳng muốn. Thầy nói cho
các con nghe : nếu chẳng đến trường Thầy mà đoạt thủ địa-vị th́ chẳng đắc
Đạo bao giờ.
C̣n một lẽ nữa là theo lư đương nhiên : hễ có học th́ phải có thi để rơ
tài đức của Học-sinh. Th́ sự tu-hành cũng không ngoài công-lệ ấy ; nghĩa
là : kẻ học phải chịu thử thách, coi phải ḿnh là kẻ đạo đức chơn thật chăng.
Vàng có lửa trui th́ mới rơ vàng mười.
Trong sự thực-hành đạo-đức, từ trước đến giờ : từ một vị Đại-Thiên-Phong
đến một em Đồng-nhi, ai cũng biết qua một phần nào rồi vậy. Hơn nữa, điều
ấy Cổ-nhơn đă trải qua và c̣n lưu lời nói trong kinh-điển như vầy :
Vô Ma-khảo bất thành Đại Đạo. Không Ma-khảo th́ Đại-Đạo không hành. Lại
nói : Đạo cao nhứt xích, Ma cao nhứt trượng, Đạo cao nhứt trượng, Ma thượng
đầu nhơn. Đạo cao một thước th́ Ma cao một trượng, Đạo cao một trượng th́
Ma lên khỏi đầu người.
Có người nói : sự tu-hành để giải thoát kiếp luân-hồi thật khó khăn lắm
vậy. Tuy thế mặc dầu, mà từ xưa đă có biết bao nhiêu người đă thành công
đắc quả. Mà hễ một việc nào đă có người làm được th́ việc ấy dễ ; chớ chẳng
khó.
Than ôi ! việc tu-hành kẻ nói khó, người nói dễ, không biết đâu mà lường ;
nhưng theo kinh nghiệm, chúng tôi hiểu rằng : khó hay dễ đưu do ḿnh cả.
Nếu chí tâm hành đạo th́ việc khó hóa ra dễ ; c̣n như chán nản th́ việc dễ
cũng thành khó.
Tóm lại :
1)- Giáo-lư về mặt lư-thuyết, tức là đọc sách tụng kinh, mà không áp dụng
vào đời sống thực tế th́ không có kết quả đáng kể.
2)- Nhắc lại sự thực hành Giáo-lư, tức làm công-quả-nội và công-quả-ngoại
đă nói trên. Mục-đích làm cho học-viên biết sự Tri hành hiệp nhứt mà phải
áp dụng ngay, khi học bài.
Thêm nữa, chúng ta đă hiểu rằng Chúng-sanh có can hệ mật-thiết với Đạo, như
đă nói trong trương trước ; nghĩa là Chúng-sanh phải nương theo Đạo mà
sanh sống và tấn-hóa ; cho nên, khi hóa sanh vạn-vật rồi ;
Đức CHÍ-TÔN : hoặc phân tánh giáng sanh, hoặc phái một vị Tiên, Phật giáng
Trần lập Đạo, giáo-hóa, làm cho Chúng-sanh biết phương pháp sửa ḿnh theo
Đạo ; v́ thế mà chúng ta thấy hiện giờ có nhiều Tôn-giáo và
mỗi Tôn-giáo có một h́nh-thức khác thật ; nhưng tựu trung Tôn-giáo nào
cũng dạy Chúng-sanh tu hành theo Chánh-Đạo hầu trở về với Cội-sanh ḿnh là
Trời. Nay Đức CHÍ-TÔN, dùng huyền-diệu cơ-bút lập Đại-Đạo ba kỳ, Tôn-chỉ
cũng không ngoài sự giáo-hóa Chúng-sanh : một là biết bổn-phận làm người,
hai là biết phương pháp tu-hành đặng giải-thoát kiếp luân-hồi sanh-tử.
Cách học-hành sẽ nói sau ; bây giờ chúng tôi xin nhắc sự ăn chay và kiêng
rượu ; đó là thời kỳ chuẩn bị nhập môn hành-đạo.
ĂN CHAY
Ăn chay nghĩa là chúng ta dùng lê-hoắc và ngũ-cốc mà thôi. Tại sao kẻ học-đạo
phải ăn chay ? Xin xem kể đây :
Khoa-học lấy trí-thức làm căn-bổn : suy nghĩ, khảo-cứu vật-chất bên ngoài.
Chung cuộc khoa-học thâu hoạch kết quả, để bồi bổ vào cuộc đời sống thực-tế.
C̣n Đạo-học có mục-đích thâm-viễn hơn, là cầu giải-thoát kiếp luân-hồi, đặng
vào cơi chẳng sanh chẳng già. Muốn đạt mục-đích ấy, học-giả phải thâu thập
cả tánh mạng luyện thành một khối tinh thần khương-kiện sáng-suốt, tên gọi
là Chơn-thần ; nó phải nhẹ nhàng hơn Không-khí mới vượt ra khỏi ṿng
Càn-khôn. Tại sao ? Bởi v́ trong Không-khí có điển-lực ; nếu kẻ ăn mặn mà
luyện Đạo, khi xuất Thần th́ Chơn-thần ấy vẫn c̣n trược khí lẫn-lộn, mà
trược-khí vốn là vật-chất, hay tiếp điển (bon conducteur d'électricité).
Khi ấy, nó chưa ra khỏi lằn Không-khí th́ đă bị sét đánh tiêu diệt rồi. Ấy
là một lẽ mà kẻ học đạo phải ăn chay.
Lẽ thứ hai : theo luật hấp dẫn, nếu Chơn-thần c̣n trược khí khi xuất ngoại
phải bị hấp-lực của cơi Trần vật-chất giam-hăm trong ṿng sanh-tử. Như thế
nếu kẻ tu-hành không ăn chay th́ làm thế nào mà giải-thoát kiếp luân-hồi.
Lẽ thứ ba : Phép vệ-sinh dạy chúng ta phải ăn ở sạch-sẽ. Sạch-sẽ nói đây,
chúng ta phải hiểu rộng hơn là : chẳng những giữ ǵn sạch-sẽ bên ngoài, mà
c̣n phải sạch sẽ bên trong nữa. Ăn chay dễ tiêu hóa, tức là ǵn giữ sạch
sẽ bên trong tạng phủ.
Thêm một lẽ thứ tư nữa là thực-hành ḷng Bác ái . Theo cái lư Thiên địa vạn-vật
nhứt thể , chúng ta cùng các loài sinh-vật là anh em với nhau ; nghĩa là
cả Chúng-sanh đều do một nguồn Tạo-hóa sanh thành. Quan niệm ấy không cho
phép chúng ta giết mạng để ăn thịt.
Vả lại, người ta có hai thức ăn để bồi-dưỡng thân thể là :
Vật-chất-thực và Huyền-vi-thực. Vật-chất-thực là : Ngũ-cốc và các món ăn
mường tượng như thế, do miệng vào t́ vị. Huyền-vi-thực là thanh-khí ở
trong Vơ-trụ ; người ta nhờ hô-hấp tiếp nạp thanh-khí vào thân-thể, để
bồi-dưỡng sức khỏe. Nói tỷ : mỗi ngày chúng ta phải cần sáu cân đồ ăn, để
bổ-dưỡng thân thể. Trong sáu cân đồ ăn đó ; chia ra ba cân Huyền-vi-thực
và ba cân Vật-chất-thực. Ấy vậy, nếu chúng ta thêm Huyền-vi-thực và bớt
Vật-chất-thực, càng bớt bên kia, càng thêm bên nọ ; chung cuộc, mỗi ngày
chúng ta cũng có đủ sáu cân đồ ăn, để bồi dưỡng thân thể. Công phu ấy tiến
lên nữa th́, về sau quen rồi, chúng ta có thể sanh sống với Huyền-vi-thực
được. Đó là cứu cánh phép tu-hành ; nhưng, chúng ta là kẻ ở Thế-gian, đă
quen dùng vật-chất để nuôi sống ; nay thoạt nhiên, đổi món ăn cấp kỳ, e tạng
phủ chưa quen mà phải sanh rối loạn. Bởi thế, nên người tu-hành phải tập
lần. Ban đầu, mỗi tháng ăn chay sáu lần, rồi mười ngày, rồi mười lăm ngày,
trường trai, rồi sau sẽ tập nữa cho quen dùng Huyền-vi-thực. Nhưng, phải
hiểu rằng tuyệt-thực là một ư nghĩa cứu cánh, người thường như chúng ta chưa
có thể làm được. Khuyên ai chớ nên dục tốc mà phải lâm hại.
KIÊNG RƯỢU
Vấn đề kiêng rượu sẽ theo vấn-đề ăn chay mà giải quyết ; mặc dầu vậy,
chúng tôi cũng chép bài Thánh-ngôn của Đức CHÍ-TÔN dạy về sự kiêng rượu,
để cho rơ đại-ư.
Thánh-ngôn.- V́ sao phải giới tửu ?
Thân-thể con người là một khối Chơn-linh hiệp thành ; Chơn-linh ấy hằng
sống. Ngũ-tạng, Lục-phủ cũng là khối sanh vật tạo nên. Phận sự của chúng
nó : Hoặc hiểu biết, hoặc không, đều tùy lịnh Thầy phán đoán. Vậy Thầy lấy
h́nh chất xác phàm để giảng dạy.
H́nh chất con người cũng như h́nh chất thú, phải ăn uống mới sống được. Rượu
vào t́ vị ; chạy khắp ngũ-tạng, lục-phủ. Trái tim là chủ động của bộ máy
sanh sống ; mà trái tim bị rượu thâm nhập, khiến cho nó rung động quá mực
thiên nhiên đă định ; thôi thúc huyết mạch vận hành một cách quá mau lẹ.
Sanh-khí nơi phổi không có đủ ngày giờ nhuận huyết ; rồi trược khí thối
nhập trong thân thể, truyền thống chất độc vào trong những sanh vật. Mỗi
khối sanh vật ăn rồi phải bịnh, càng ngày càng tăng thêm lên, rốt cuộc hết
sanh lực, cốt tủy lần lần phải chết, thân thể tự nhiên chết theo. Nhiều kẻ
bị liệt hết nửa thân h́nh, cũng v́ rượu.
Thầy nói sự hại cho phần Hồn : Thầy nói Chơn-thần là khí chất bao bọc thân
thể của các con. Trung tim nó là óc, cửa xuất nhập là mỏ ác, chữ gọi là
Vi-hộ, Hộ-pháp hằng đứng giữ ǵn các con, khi luyện đạo, đặng giúp cho
Tinh hiệp với Khí, rồi đưa Khí đến Chơn-thần.
Tinh-Khí-Thần hiệp nhứt mới siêu phàm nhập thánh. Óc là nguồn cội của
sanh-khí, mà óc cũng v́ huyết mạch vận chuyển vô chừng, đến đỗi tán loạn.
Thế rồi Chơn-thầnữan tịnh thế nào đặng. Thân thể phải chịu ngây dại, trở
lại thú tánh, thú chất. Như vậy th́ mất hết nhơn-phẩm rồi, c̣n mong chi
đến địa vị Thần-Tiên. Lại nữa, trong buổi loạn Thần, cửa để trống, tà-mị
thừa cơ xung-nhập, giục các con làm quấy gây nên tội t́nh mà phải chịu nhơn
quả luân hồi muôn kiếp.
Vậy Thầy cấm các con uống rượu .
Vấn đề kiêng rượu nầy, có lẽ trong hàng anh em chúng ta, người nào cũng có
bị một lần say rượu. Vậy sự kinh nghiệm ấy đă dạy chúng ta biết với một
cách rơ ràng, rằng say rượu chẳng phải loạn trí năo, mà ngũ-quan cũng
không c̣n giữ được chơn lực nữa. Thế th́ giới tửu là một điều cấm quan
trọng vậy.
CHƯƠNG THỨ TÁM
Hạ Thừa
Dẫn giải.- Tân-luật Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ định rằng : Hạ-thừa là hạng người
giữ đạo, c̣n ở Thế, có vợ chồng, làm ăn như thường ; song, phải giữ trai
kỳ, hoặc sáu hoặc mười ngày trong mỗi tháng, phải giữ Ngũ-giới-cấm, Tứ-đại
điều-qui và tuân theo Thế luật của Đại-Đạo.
Chúng tôi theo thứ tự trên đây mà giảng giải, để làm phương châm cho sự
học tập.
NGŨ-GIỚI-CẤM
- Cấm sát sanh là không được giết hại mạng sống.
- Cấm trộm cướp là không được trộm cắp của người.
- Cấm tà dâm là không được thông gian.
- Cấm uống rượu là không được uống rượu say sưa
- Cấm nói dối là không được nói láo xược, hoặc nói mà chẳng giữ lời
(xem năm bài giới cấm).
Tứ Đại Điều Qui
1)- Phải tuân lời dạy dỗ của người trên ; chẳng hổ chịu cho kẻ thấp hơn điều
độ. Lấy lễ ḥa người ; l lầm lỗi phải ăn năn chịu thiệt.
2)- Chớ khoe tài, đừng cao ngạo, quên ḿnh để làm nên cho người ; giúp người
nên Đạo ; đừng cừu riêng ; chớ che lấp người hiền.
3)- Bạc tiền xuất nhập phân minh, đừng mượn vay không trả. Đối với người
trên, kẻ dưới đừng lờn dễ ; đối vớ kẻ dưới, người trên chẳng khá khinh khi
; trên dạy dưới lấy lễ ; dưới gián trên chớ thất khiêm cung.
4)- Trước mặt sau lưng đều xử một mực, đừng kính trọng trước mặt mà khinh
lờn sau lưng.
SANH KẾ
Người trong đạo chẳng được làm nghề nghiệp có sát hại sanh mạng ; chẳng được
làm nghề nghiệp có phạm đến sự tồi phong bại tục ; chẳng được soạn hay ấn
hành những truyện sách ái-t́nh, hoa nguyệt, chẳng đặng buôn bán các thứ rượu
mạnh và á-phiện, là những vật độc, làm giảm sức con người.
Chương Thế-luật Đại-Đạo gồm có hai mươi bốn điều, kể đủ những cự quan, hôn,
tang, tế, mà người bổn đạo phải thù-tạc văng-lai, để giúp đở nhau khi hữu
sự ; nhứt là câu : Trai phải Tam-cang, Ngũ-thường ;
Gái phải ǵn Tam-tùng, Tứ-đức ; đó là căn-bản đạo người ; chúng tôi sẽ giảng
rộng sau đây :
Phận làm trai
Tam-cang - Ngũ-thường
Tam-cang.- Tam-cang là ba giềng mối chánh trong đạo làm người :
- Quân-thần cang tức bổn phận làm vua và làm tôi
- Phụ-tử cang tức bổn phận làm cha và làm con
- Phu thê cang tức bổn phận làm chồng và làm vợ
Quân-thần-cang
Giềng mối Vua-tôi.
Quốc-trưởng là bậc Đế-vương, đứng đầu trong nước, khôn ngoan hơn thần dân,
chúng ta không nghị luận đến, mà chỉ nên nhắc nhở nhau, những bổn phận làm
quan và làm dân thôi ; bởi v́ trong hàng anh em chúng ta, có người làm
quan mà cũng có kẻ làm dân.
Bổn phận làm quan
Quan là người thay mặt cho Vua, thay quyền cho chánh-phủ, cai-trị
dân. Trị-dân : nghĩa là : dạy dân, giữ dân được an-cư lạc-nghiệp. V́ vậy
nên người làm quan phải thương dân, như cha mẹ thương con, thế mới hợp với
câu Dân chi phụ mẫu .
Người làm quan, trên giữ dạ ngay thờ chúa, dưới lấy đức chăn dân lo tṛn
phận sự để nêu danh tốt về sau ; chớ chẳng khá bắt chước những con giặc,
tôi-loàn, trên dối Vua, dưới gạt dân ; mà mang điều nhục-tổ hổ-tông.
Làm quan nên lập đức : Thanh-liêm, Cần-mẫn, Chánh-trực .
Thanh-liêm : th́ không tham của hối-lộ mà hại dân lành. Nên nhớ rằng nhà
nước tin-cậy, giao mạng sống của dân trong tay ta ; nếu ta v́ của bất
chánh mà làm việc bất công : chuyện phải làm quấy, việc quấy làm
phải, điều ấy có thể dấu được lịnh Vua, chớ luật Trời đâu dễ che lấp.
Thế nên làm quan phải giữ đức thanh liêm.
Cần mẫn : là siêng năng. Thi hành bổn phận nhà quan, ta nên siêng năng :
một là ngừa kẻ gian-manh trộm cướp, hai là ngăn kẻ ỷ chúng, hiếp cô, để
cho lương dân được sống yên dưới bầu Trời an-tịnh.
Chánh-trực : là một đức lớn của nhà quan. Kẻ bất chánh,th́ không hay làm
được việc công-b́nh ; mà bất công th́ làm sao trị dân.
BỔN PHẬN LÀM DÂN
Làm dân th́ phải lo tṛn bổn phận Công-dân. Trên phải tuân lời quan, dưới
thuận cùng đồng loại. Quan là người thay mặt cho Vua ; tuân lịnh quan tức
trung với Vua. Thuế sưu lo tṛn, không nên lập đoàn, hiệp-lũ mà gây ra
trộm cướp, phá xóm, phá làng ; ấy là thương yêu ṇi giống.
PHỤ TỬ CANG
Giềng mối cha con.
Làm cha phải lành (Từ) ; làm con phải thảo (Hiếu).
Vi nhơn phụ chỉ ư từ. Chữ Từ (Lành) chỉ về nghĩa vụ làm cha mẹ, phải nuôi
con cho nên vai, nên vóc, dạy dỗ con cho nên người hữu dụng.
Người cha mẹ lành cũng có khuyên con, răn con, nghĩa là cũng có la rầy, đánh
mắng, làm thế nào cho con bỏ cái dở, theo cái hay ; chớ chẳng phải lành là
chiều theo ư con muốn làm ǵ th́ làm. Tại sao ngườI cha không để cho con
được tự do hành động. Bởi v́ con c̣n thơ ấu, trẻ ḷng, non dạ. Nói tóm là
con chưa đủ sáng láng, để phân biệt phải quấy và chưa đủ tinh thần cứng
rắn, để vượt qua những giờ vật dục cám dỗ.
Ấy vậy nên người cha mẹ phải d́u dắt con trên đường đạo đức quang minh.
Gia đ́nh giáo-dục là căn bản đạo người.
Đối với con, cha mẹ cũng có quyền, như : nhờ con nuôi dưỡng lúc về già,
nhờ con giúp đở việc nặng-nề. Cổ-nhơn nói : Dưỡng nhi đăi lăo . (Nuôi con
để nhờ lúc về già). Nhưng, cha mẹ muốn dùng quyền ấy, trước phải làm xong
nghĩa vụ ḿnh, tức là nuôi con, dạy con, cho nên người. Trái lại, nếu cha
mẹ không làm tṛn bổn phận ḿnh, mà cứ sai con, mắng con, như thế là thất
phận cha mẹ.
Vi nhơn từ ư chi hiếu. Thảo là đạo làm con, chẳng những không ai được từ
khước, mà ai cũng phải coi đó là bổn phận của ḿnh nữa.
Cổ-nhơn nói : Nhơn sanh bá hạnh, Hiếu vi tiên . Người đời có trăm nết,
song Hiếu đứng đầu.
Tại sao người ta phải hiếu với che mẹ ?
Ôi ! Công sanh thành dưỡng dục kể sao cho hết, nào là mười tháng cưu mang,
ba năm bú móm ẵm bồng, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. C̣n cha là
phải dày công dạy-dỗ, cực nhọc, tảo-tần, dầu trăm cay ngàn đắng, dầu vào
cảnh nguy nan, người cha cũng không từ ; miễn là làm ra cơm tiền, để nuôi
con th́ thôi. Công cha như núi Thái sơn.
Nghĩa mẹ công cha như thế, hỏi vậy ở đời, có người nào mà chẳng thương mến
chăng ? Ắt không. Nhưng, thương mến chưa đủ, nghĩa vụ làm con bắt buộc
người ta phải tṛn đạo Hiếu.
Thực hành đạo Hiếu, trướt nhứt là nuôi cha mẹ. Sự nuôi ấy cốt ở ḷng thành
kỉnh, giàu nuôi theo giàu, nghèo nuôi theo nghèo ; ngoài miếng ăn, miếng
uống, tấm áo, manh quần, c̣n phải hết ḷng vui vẻ trong phận sự, để cho
cha mẹ được vui ḷng. Một hôm Thầy Tử-Du hỏi chữ Hiếu ; Đức Khổng-Phu-Tử
đáp : Ngày nay người ta bảo hiếu là biết nuôi cha mẹ ; nhưng, đến như
giống chó ngựa kia cũng có người nuôi. Nếu nuôi cha mẹ mà không kính, th́
lấy ǵ để phân biệt với sự nuôi cầm thú . Vậy đủ biết nuôi cha mẹ quí tại
ḷng thành kính. Chẳng nên bắt chước câu : Giàu th́ đặng thảo ngay, nghèo
th́ mất trung Hiếu lời ấy chẳng qua là nói để che lỗi của ḿnh mà thôi.
Trái lại, nên nhớ câu : Nhà nghèo mới có con thảo, nước loạn mới có trung
thần. Từ xưa, những gương trung hiếu tiết liệt, phần nhiều xuất hiện trong
nhà nghèo khó.
Khi ở chung với cha mẹ, không nên làm buồn ḷng của cha mẹ, nếu ḿnh có
việc buồn riêng, cũng chẳng nên tỏ sắc giận hờn cho cha mẹ thấy. Khi cha
mẹ quở trách th́ phải tự xét ḿnh mà chừa lỗi ; chớ chẳng khá buồn.
Cha mẹ già phải coi chừng sức khỏe, nghĩa là nuôi cha mẹ phải xem đến chỗ
chưa nói kia. Tại sao ? Bởi v́ có nhiều khi cha mẹ sợ con lo buồn mà chẳng
tỏ ra những việc người cần.
Cha mẹ lúc sanh tiền chẳng nên đi xa ; nếu cần đi vắng th́ phải cho biết
chỗ, để người nhà t́m cho dễ, khi hữu sự. Cha mẹ đau ốm, kẻ làm con phải
tận tâm chạy thuốc, chạy thầy, chính ḿnh phải lo liệu mọi phương ; nếu
giao cho kẻ khác, biết đâu, người ấy, v́ sơ sót làm thêm bịnh cho cha mẹ
ḿnh. B́nh nhựt cũng phải xem chừng : nếu cha mẹ khỏe th́ vui mừng, mệt
th́ lo lắng.
Ḷng hiếu thảo ai cũng có, nhưng, có một ít người xao lảng, v́ ham mê sắc
dục, hoặc tiền của, rồi sanh ngỗ nghịch. Vậy ai là người làm con, nên thận
trọng bổn phận của ḿnh.
Nhưng đạo Hiếu không phải nhắm mắt phục tùng cha mẹ ; mà trái lại, phải
xem xét cái ǵ của cha mẹ đă làm ; nếu hay th́ theo, c̣n lầm mỗi th́ ôn
tồn khuyên can, sửa đổi. Nếu cha mẹ không nghe th́ lại kính mà không trái
lễ, nghĩa là lần lần lựa cách nói cho cha mẹ nghe lẽ phải, để sửa đổi ; có
khi cha mẹ giận mà đánh đập cũng không hờn oán.
Cha mẹ mất th́ phải tang chế. Cổ nhơn bảo : Tang tắc trí kỳ ai . Tân-luật
Đại-Đạo định rằng : viêc tang chế không nên xa xí, không nên quàn linh c u
lâu ngày, không nên dùng đồ Âm-công ḷe-loẹt, không nên đăi đằng rần rộ mà
mất sự nghiêm tịnh ai bi.
Đức Khổng-Phu-Tử cho sự thờ cha mẹ rất Hiếu là : Kính kỳ sở tôn, ái kỳ sở
thân, sự tử như sự sanh, sự vong như sự tồn. Hiếu chi chí dă . Kính những
người cha mẹ đă tôn trọng, yêu những người cha mẹ đă mến, thờ cha mẹ lúc
chết cũng như khi sống, mất cũng như c̣n. Ấy là Hiếu rất mực vậy. Theo đó
th́ suy ra th́ khi cha mẹ chết rồi kẻ làm con cũng tưởng như khi cha mẹ
c̣n sống, chuyên tâm tŕ chí làm tṛn bổn phận, thỉ chung như nhứt.
Bổn phận làm Anh Chị và làm Em
Huynh tắc đễ, Đệ tắc cung
Anh em, chị em, đồng thọ sanh nơi một cha mẹ. Tục ng nói : Một cục máu xắn
làm năm ba . Đồng cốt nhục, đồng bào thai, và từ lúc nhỏ dại : ở chung một
nhà, ăn chung một mâm, nằm chung một chiếu ; vui có nhau, buồn có nhau,
nhứt nhứt đều chung cùng với nhau. Vậy cái t́nh thương yêu khắn-khít ở
giữa anh chị và em không t́nh nào hơn được.
Muốn giữ cái t́nh máu mủ ấy măi măi, th́ người anh chị phải biết bổn phận
ḿnh là thuận yêu, kẻ làm em phải biết bổn phận ḿnh là cung kính.
Khi cha mẹ vắng mặt, người anh chị phải quyền huynh thế phụ, nghĩa là
người anh chị có trách nhiệm khuyên răn em, sai khiến em ; nhưng, muốn
dùng quyền ấy th́ người anh chị phải làm tṛn nghĩa vụ của ḿnh, là thay
mặt cho cha mẹ nuôi em, dạy em. Cổ-nhân thường khuyên nhau rằng trước phải
làm nghĩa vụ rồi sau mới dùng quyền lợi, là lẽ như vậy.
Theo lư thường nhiên, lúc thành nhơn th́ mỗi người đều có gia thất. Mặc
dầu xa cách nhau, nhưng anh em, chị em phải giữ cái t́nh cốt nhục duy nhất
ấy măi măi ; nghĩa là phải thương yêu, giúp đở nhau : việc nhỏ cũng như
việc lớn ; mà muốn giữ tṛn cái t́nh cốt nhục ấy, phải tránh những tiếng
to, tiếng nhỏ ; của vợ con hay chồng con. Theo
thường t́nh, những em chồng, chị dâu, em rễ, anh vợ, hay chinh nghiêng lẫn
nhau ; v́ những việc nhỏ mọn.
Bổn phậnữanh chị, hay em út phải sáng suốt mà phân định, để tránh cái vạ
chia ĺa. Anh em, chị em là di-hài của cha mẹ, bất ḥa là phá hoại cái
di-hài ấy. Anh em, chị em như tay chơn, bất ḥa là chia ĺa thủ túc.
Người nào xử được đạo Hiếu-đễ nghiêm trang trong gia-đ́nh, th́ người ấy có
tinh thần ḥa-kỉnh. Hiếu-thuận là gốc Đạo xử-thế, ấy vậy nên người trọn
thảo thuận th́ có ḷng trung-quân, ái-chủng.
Bổn phận con cháu đối với ông bà
Ông bà là đấng sanh thành, dưỡng-dục cha mẹ, lại là đấng mà cha mẹ thương
mến quí trọng. Đạo-hiếu buộc người làm con phải kính trọng những người mà
cha mẹ thâm giao. Ấy đó là những người bàng-quan mà c̣n phải xử trí như
thế, huống chi ông bà là ruột thịt của chúng ta, mà chúng ta lại dễ-duôi
sao ?
Ấy vậy khi ông bà sanh tiền, chúng ta phải thay mặt cha mẹ mà chăm nom
giúp đở, những việc nào mà chúng ta có thể làm được. C̣n khi ông bà qua
đời th́ lại thay mặt cha mẹ mà thờ phượng, cúng-tế.
Luân-lư cổ-truyền của người Việt Nam dạy rằng : ngày tế-tự, cả gia-tộc hợp
về nhà thờ, lo việc tế-lễ. Hai ngày : Tiên-thường và
Chánh-giỗ, những người họ hàng vui vầy : có khi nhắc lại sự tích Tổ-tiên,
có lúc hỏi việc hàn-huyên gia-tộc. Giờ cúng tế mỗi người đều có ḷng thành
kỉnh rất mực. Khi ra vào, lúc lại qua trước bàn thờ, họ cúi đầu tỏ vẻ sợ
sệt, dường như Ông Bà đương ngự trên chỗ sở-tôn. Giờ tế-lễ ấy, hoàn-cảnh
yên lặng, người Trưởng-tộc hành lễ, rồi đến con
cháu cứ theo thứ tự vái lạy trang nghiêm.
Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ giữ nguyên vẹn cái lễ thờ cúng Ông Bà đó. Vả chăng,
đạo-hữu đă sẵn có đạo-tâm, nay đem ḷng đạo-đức ấy mà thờ cúng Ông Bà th́
có lẽ cái phong tục cổ-truyền sẽ được tăng phần thuần-mỹ nữa.
Bổn phận đối với Cậu Cô Chú Bác
Cậu cô chú bác là anh em ruột thịt với cha mẹ, kẻ làm con chẳng những phải
yêu mến, mà c̣n quí trọng, như cha mẹ nữa. Nếu vô phước mồ côi, th́ chính
cậu cô, chú bác, là người thay mặt cha mẹ mà nuôi ḿnh. Đó đủ thấy rằng kẻ
làm con phải thương mến quí trọng cô cậu, chú bác như cha mẹ.
Khi thành gia thất rồi, tự-nhiênữai cũng có cậu cô, chú bác bên chồng,
cũng như bên vợ. Kẻ làm con cháu cũng không v́ lẽ ǵ mà chẳng thân ái
những người ấy.
PHU-THÊ-CANG
Giềng mối chồng vợ
Chồng ḥa, vợ thuận.
Trai lớn lên th́ có vợ ; Gái lớn lên th́ có chồng. Người ở đời, ai ai cũng
phải có đôi bạn, rồi sau mới lập gia đ́nh. Cái định luật ấy từ xưa đến
nay, vẫn không thay đổi. Trong đạo vợ chồng, có điều tốt nhứt là hai người
ấy được thuận ḥa, ăn ở với nhau, từ tóc xanh, đến đàu bạc. Mà muốn được
vậy th́ mỗi người phải biết bổn phận của ḿnh và phải hành-vi trong
phạm-vi ấy.
Chồng là rường cột của gia đ́nh, phải đảm đương mọi việc bên ngoài, để tạo
hạnh-phúc cho gia-đ́nh, nghĩa là phải làm lụng cho có cơm, có tiền để nuôi
dưỡng gia-đ́nh no-ấm ; kế đó, sẽ nói đến việc lễ-nghi đạo đức, tức là bày
ra việc dạy dỗ. Cổ-nhơn nói : Giáo-phụ sơ lai, giáo-tử anh hài . Nghĩa là
dạy vợ lúc ban sơ mới về, dạy con lúc c̣n thơ ấu.
Mà muốn dạy người, trước phải sửa ḿnh. Giả tỉ như người chồng biếng nhác,
không lo làm ăn, quanh năm cứ lêu-lơng chơi-bời, cờ bạc. Chồng như thế mà
bảo vợ nên người, th́ không thể được ; hoặc giả cha như thế mà bảo con
đừng cờ bạc, rượu trà cũng không sao được. Người chồng chẳng những phải lo
làm lụng để tạo hạnh-phúc cho gia đ́nh, mà c̣n phải có tinh-thần ḥa-ái
nữa.
Về tâm lư, nên biết rằng vợ là bạn trăm năm, cha mẹ sắm cho. Ủàn bà là
người yếu đuối, nương dựa nơi ḿnh, gởi thân cho ḿnh, để cùng nhau lo
việc trăm năm gia thất. Hơn nữa, vợ chồng lại là người đầu ấp,
tay gối với nhau, vui chung vui, buồn chung lo, nghèo chung chịu, giàu
chung hưởng. Ḷng có nghĩ như thế th́ mới có dạ yêu đương và đùm bọc.
Người chồng có quyền khuyên lơn, dức bẩn người vợ, nhưng, trước phải làm
xong nghĩa vụ của ḿnh, như nói trên, rồi sau mới dùng đến quyền. Tuy nói
rằng có quyền, nhưng, người chồng, lúc nào, cũng lấy tinh-thần ḥa-ái làm
cốt. Nghĩa là có khuyên lơn, dức bẩn người vợ th́ cũng chỉ trong ṿng lễ
nghi, kính-mến ; chớ chẳng khá đang tay đánh đập, như kẻ vơ phu.
Người vợ phải có tinh-thần thuận-tùng, nghĩa là phải biết dung-ḥa với
chồng, để tạo hạnh phúc gia-đ́nh. Bát, đia trong sóng c̣n động, huống chi
vợ chồng ăn ở với nhau cả đời, làm thế nào tránh khỏi một đôi khi bất đồng
ư kiến. Giả tỉ như có trường hợp ấy xảy ra, th́ vợ chồng nên nhịn nhục lẫn
nhau, chồng nói vợ nghe, vợ nói chồng nghe, để phân trần điều hơn lẽ
thiệt. Tương-y, tương-ỷ mà sanh sống trong ṿng lễ-nghi
đạo đức ; điều đó là tốt nhứt ; chẳng nên bắt chước phường hỗn-ẩu, chồng
một lời đi, vợ năm bảy tiếng lại. Thế rồi sanh việc bất-ḥa ; mà chồng vợ
bất-ḥa th́ gia-đ́nh tan nát.
Phận gái trọng nhứt là trinh-tiết ; bởi vậy người phụ-n có than phải giữ
lấy thân ; mỗi ngày phải làm tăng giá-trị của ḿnh thêm cao lên măi. Tục
ng nói : Đi ngang đám dưa không nên sửa dép ; đi ngang cây lư không nên
sửa mũ. Đại ư câu nầy khuyên người ta phải hành-vi, ăn nói, đi đứng
trang-hoàng, nhứt là phải tránh những cử chỉ nào làm người khác ngờ vực,
cũng như đi ngang đám dưa th́ không nên sửa dép, hoặc đi ngang cây lư
không nên sửa mũ, v́ làm như thế ngờ rằng ḿnh bẻ trộm dưa, hay hái trộm
lư.
Nội trợ là bổn phận đàn bà, cho nên người vợ phải chăm lo việc nhà : thiếu
đủ phải biết, c̣n hết phải hay, sắp đặt đâu đó an bày, ăn cần ở kiệm, phải
trọng tiền của chồng làm ra. Tục ngữ nói : Ăn nhịn qua ngày, ăn vay mắc nợ
. Của chồng công vợ, chồng vợ cộng tác, để tạo hạnh phúc gia-đ́nh.
Tóm lại, đạo vợ chồng cần nhứt là phải thuận-ḥa, chồng chẳng nên ỷ quyền
mà hiếp đáp vợ, vợ không nên cậy thế mà hỗn-ẩu với chồng. Đồng vợ đồng
chồng tát biển đông cũng cạn !
Tân-luật Đại-Đạo nói : Hôn nhơn là việc trọng trong đời người. Phải chọn
hôn trong người đồng đạo, trừ ra khi nào người ngoài ưng thuận nhập-môn
th́ mới được kết làm giai-ngẫu .
Đó là có ư ngừa sự bất đồng tâm lư về sau.
Tân-luật lại cấm người đàn ông không đặng cưới hầu thiếp. Rủi có chích lẻ
nửa đường, mới được chắp nối. Thoảng như vợ lớn không con nối hậu th́ được
phép cưới hầu thiếp ; song chính ḿnh Chánh-thê đứng cướI mới đặng. Người
đạo cũng chẳng được để bỏ nhau, trừ ra ngoại t́nh, hay bất hiếu với
công-cô.
Ngũ-thường
Đổ lên là Tam-cang, c̣n Ngũ-thường là ǵ?
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín gọi là ngũ thường, tức là năm đức thường, để xây
dựng một phẩm vị làm người ; mà chúng tôi giảng kế đây :
NHÂN : Người ta ai cũng có bẩm thọ của Trời một điểm Linh-quang để làm
tự-tánh của ḿnh ; người đời gọi đó là nguồn Thiên-lư ở trong người. Nhân
là cái phát động của nguồn Thiên-lư ấy ; cho nên Cổ-nhân nói : Nhân là
hột-giống hóa-sanh đức-tánh tốt.
Chữ NHÂN đem ra mà ứng dụng vào đời sống th́ nó gồm tất cả nghĩa vụ làm
người ; thành thử, có câu nói : Nhân là đạo người (Nhân giả nhơn dă). Thực
hành chữ NHÂN tức là áp dụng Thiên-lư vào đời sống thực-tế. Thế nên muốn
làm NHÂN phải giữ ḷng cho ngay thẳng ; nghĩa là chẳng cho tư-dục xen vào
Tâm, để cho nguồn Thiên-lư ở trong Tâm ung-dung phát-triển theo lẽ
tự-nhiên của nó, rồi người ta cứ theo đó mà làm cho hết bổn phận của ḿnh.
Đó là làm NHÂN vậy. C̣n như muốn biết rộng ra nữa th́ chúng ta nên xem
Cổ-nhơn dạy phương pháp làm NHÂN như sau :
Có người hỏi phương-thức làm Nhân là thế nào th́ Đức Khổng-Phu-Tử nói :
Kỹ dục lập nhi lập nhơn ; kỹ dục đạt nhi đạt nhơn. Năng cận thủ tỷ khả vị
Nhân chi phương . Nghĩa là ḿnh muốn lập thân thế nào th́ cũng giúp người
cùng lập thân như ḿnh ; ḿnh muốn thông đạt đến đâu th́ cũng giúp người
cùng thông đạt như ḿnh. Ai hay làm những điều đó là làm Nhân vậy.
Thầy Tử-Trương hỏi Nhân, Đức Khổng-Phu-Tử nói : Hăy làm năm điều nầy trong
Thiên-hạ là Nhân, rằng : Cung, Khoan, Tín, Mẫn, Huệ. Cung th́ không khinh
lờn, Khoan th́ được ḷng người, Tín th́ được người tin cậy. Mẫn th́ có
công, Huệ th́ đủ khiến được người .
Cũng có nhiều người khác hỏi cách làm Nhân, Đức Khổng-Phu-Tử tùy căn cơ kẻ
hỏi mà trả lời, để khai hóa sở học của họ. Đạo Nhân rất rộng răi, v́ nó
gồm tất cả đạo làm người.
Người có Nhân lúc nào cũng có thái độ ung dung tự-tại, b́nh-tĩnh yên lặng,
mà trong ḷng luôn luôn có một năng lực Trực-giác mẫn-thiệp ; việc đến th́
họ biết ngay, với một cách mau chóng. Họ làm việc ǵ cũng thích hợp
Đạo-lư. Họ thật-thà chất-phác mà giàu t́nh-cảm ! Đối với gia-đ́nh th́
hiếu-đễ, đối với xă-hội th́ thuận-ḥa, đối với từng người, từng vật th́
yêu thương giúp đở. Trên thuận ḷng Trời, dưới ḥa với Chúng-nhơn, cử chỉ
hành-động hằng khích lệ trên nền tảng Vạn-vật nhứt-thể việc lợi danh ở
đời, họ không phải lánh hẳn ; nhưng, họ chẳng bỏ đạo-Đức để cầu lợi-danh.
Đạo-đức với lợi-danh, nếu phải bỏ một th́ họ rất vui ḷng bỏ danh-lợi, để
cầu Đạo-đức.
Đạo Nhân có thứ bậc như : thương cha mẹ th́ khác với thương người láng
giềng, thương anh em bậu bạn th́ khác với thương cầm thú. Kịp đến sự giúp
đở cũng vậy ; nghĩa là nuôi cha mẹ th́ khác với nuôi trâu ḅ.
Đó là chỗ Đạo Nhân không giống với Bác-ái. Bác-ái dạy người ta phải thương
trùm vạn-loại. Người cũng như vật, thân cũng như sơ. Bác-ái dành cho người
xuất-thế, ly-gia ; c̣n Đạo Nhân th́ thích ứng với người
ở Thế, để thi hành Nhơn-đạo từ trong gia-đ́nh đến ngoài xă-hội.
Thử hỏi tại sao ở đời lại có ngươi nầy hiếp kẻ nọ ? Th́ đó chẳng qua là
tại ḷng oán-ghét lẫn nhau. Nếu cha con ghét nhau th́ mất từ-hiếu ; vợ
chồng ghét nhau th́ mất thuận-ḥa ; anh em ghét nhau th́ mất yêu đương ;
người trong thiên-hạ ghét nhau th́ người mạnh hiếp kẻ yếu, người giàu lấn
kẻ nghèo. Muốn tránh ḷng oán ghét, chúng ta cứ mở long thương yêu (Nhân)
cho rộng, rồi tự-nhiên ḷng oán-ghét không có chỗ nương mà phải đi ra khỏi
Tâm-gian của ḿnh, cũng như ḥa-b́nh làm hết chiến tranh vậy.
NGHĨA.- Nghĩa là cử chỉ tác-Động theo đạo-lư. Đối với bổn thân : Nghĩa làm
cho người thành đức ; c̣n đối với người khác và vật th́ Nghĩa giúp người
và vật được an vui theo lẽ Đạo. Chữ Nghĩa, nếu theo sau chữ Nhân th́ nó
giúp chữ Nhân phát biểu đạo-đức ra ngoài. tỉ như chúng ta thấy kẻ nghèo
th́ chạnh ḷng thương, đó thuộc về Nhân. Ra công giúp đở kẻ nghèo, đó
thuộc về Nghĩa. Trường hợp nầy th́ hai chữ Nhân Nghĩa phải đi kèm nhau mới
thành đạo-đức. Trái lại, nếu có Nhân mà không có Nghĩa th́ đạo-đức thiếu
h́nh thức ; c̣n như có Nghĩa mà không Nhân th́ đạo-đức thiếu tinh-thần.
Giả như chúng ta thương kẻ nghèo mà không ra công giúp đở, th́ ḷng Nhân
không thực hiện, c̣n như ra công giúp người nghèo mà không có ḷng thương
th́ sự giúp đở ấy lại v́ một ư ǵ khác ; chớ không phải là Nhân.
Nhưng phải hiểu rằng ḷng dục lợi của người ta mạnh lắm ; cho nên muốn làm
Nghĩa phải ngăn ḷng dục lợi, để cho ḷng Nhân phát triển tự nhiên mới
được. Cổ-nhơn thường khuyên nhau : Tiền Nghĩa vị hậu lợi , tức là phải làm
nghĩa rồi sau sẽ cầu lợi là lẽ như vậy.
LỄ.- Lễ trước dùng để tế tự, sau lan rộng đến nền nếp xử-sự, tiếp-vật mà
nhơn-quần Xă-Hội thừa nhận. Chữ Lễ lại đồng-thể với chữ Lư ; cho nên nó
phải tùy thời mà biến đổi, càng ngày càng tốt hơn, chớ chẳng khá cố-chấp
mà phải sa vào cái hủ lậu.
Về phương diện tế tự. Lễ có mục phiêu thứ nhứt là làm cho đàn-tế được tôn
nghiêm ; mục phiêu thứ nh́ là đào-tạo cho người tâm-lư kính và thành. Có
kính th́ mới giữ được bản tánh của ḿnh ; có thành th́ mới cảm ứng được
với Trời. Đó là LỄ giúp người hàm dưỡng tâm-tánh.
Ḷng người lúc nào cũng có t́nh-cảm ; mà t́nh cảm xấu sanh nhiều hơn
t́nh-cảm tốt. Lễ dùng để hạn chế t́nh cảm xấu và giúp cho t́nh-cảm tốt
chóng thành. Sách Lễ-kư chép rằng : Ḷng người ta lúc nào cũng có sự ham
ăn uống, trai-gái và sợ cái nạn tử-vong, bần-khổ ; nếu người ta không nghĩ
lại th́ Thiên-lư ở trong người (tức Bổn-tánh) sẽ tiêu-diệt hết . Lễ giúp
người giữ vẹn phần Thiên-lư ấy.
Trên đường giao-tế, Lễ phải có Nghi làm h́nh thức . Giả tỉ như chúng ta
gặp người Trưởng-thượng, th́ chúng ta đem ḷng kính, đó thuộc về Lễ. Rồi
chúng ta nghiêng mũ cúi chào, tỏ ḷng kính ra ngoài ; đó thuộc về NGhi.
Thế nên nói : Nghi tùy Lễ mà chế. Hai chữ Lễ-Nghi thiếu một th́ không
thành qui-tắc. Giả tỉ như : Chúng ta có kính trong ḷng, mà không nghiêng
mũ cúi chào, th́ ḷng cung kính không chỗ nương, để phát biểu. Trái lại,
trong ḷng không kính mà bên ngoài làm ra vẽ cúi chào. Nghi không Lễ th́
chỉ là một h́nh thức khô-khan mà thôi.
Lễ-Nghi dùng để phân định ngôi thứ : tôn ti, thượng hạ. Giả tỉ trong đám
hội đàm : người lớn cứ sổ-sàng ăn nói, sổ-sàng hành-động ; kẻ nhỏ th́
hỗn-ẩu, không kính nễ người lớn. Thế th́ làm sao mà hiệp nhau được ; cho
nên nói rằng : thất Lễ th́ loạn.
Học Lễ không phải khó khăn, như có người ta lầm tưởng. Bởi v́ Lễ thuận
ḷng người mà dấy ; chớ không phải cư ng-bách. Cổ-nhơn thường khuyên nhau
: trước học Lễ, rồi sau mới học Văn, tức là học Đạo-lư trước rồi sau sẽ
học các khoa khác. Luật dùng để răn người phạm tội.
Lễ để ngăn t́nh-cảm xấu, thế mà người ta sợ Luật hơn sợ Lễ ; đó là tại
Luật có hậu thuẩn là h́nh-phạt.
Nói về giữ Lễ th́ khi đi đứng, nằm, ngồi, lúc nào cũng chẳng khá dễ-duôi.
Ở thường th́ cung, làm việc th́ kỉnh, giao-thiệp th́ hết ḷng. Ba điều ấy,
dầu ở chung với kẻ mọi rợ, cũng chẳng khá quên. Ra khỏi cửa th́ kính, như
hầu khách quí ; sai khiến kẻ dười th́ kính như thừa hành lịnh trên ; nhứt
cử, nhứt động, đều có Lễ, đó là người lịch sự. Hành-vi, lời nói và tư
tưởng, mỗi mỗi đều có trước sau, là ngườI có tiết. Hành-vi, lời nói và
tư-tưởng, mỗi mỗi đều thích trung, là người có độ. Tiết-độ là mực thước
của người, cũng như nhịp trường-canh của âm-nhạc. Lễ là khuôn thước định
ra tiết-độ ấy.
TRÍ.- Biết phân biệt điều lành để theo, điều d để tránh là ngườI Trí. Hoặc
giả nói rằng : Người Trí biết đạo-đức, để hoán-cải điều-ác
thành điều-thiện, mỗi ngày càng làm cho ḿnh trở nên người có giá trị thêm
hơn.
Muốn thành người Trí, chúng ta phải học hành. Vậy học-hành để mở trí ; mở
Trí để biết làm người. Ấy vậy nên sự học, trước nhứt phải chánh-tâm và
thành-thật làm theo Chơn-lư, mà chúng ta đă học được.
Học và Hành phải đi đôi mới gọi là biết. Nói tỉ : chúng ta biết thờ Trời
là một việc rất hữu ích ; nhưng biết thờ Trời chưa đủ, thành thử chúng ta
phải tế-lễ Đức CHÍ-TÔN hằng ngày, để tập cho ḿnh có long thành kính. Ḷng
thành kính tức là Chơn-tâm, nó sẽ giúp cho chúng ta trừ khử Vọng-tâm và
cảm thông với Thiên-lư. Thờ Trời, Tế Trời là một phương pháp làm sáng đức
sáng của ḿnh.
Thầy Tuân-Tử nói : Chẳng nghe không bằng có nghe ; có nghe không bằng
trông thấy ; trông thấy không bằng biết rơ ; biết rơ không bằng làm được.
Học để biết, biết để làm. Thế th́ cái đức sáng của ḿnh càng
ngày càng sáng suốt thêm lên.
Sự học có nhiều lối : học với kinh nghiệm và học với trí nghĩ. Ví dụ :
Chúng ta chưa biết lửa có tánh nóng. Nay v́ có một duyên cớ ǵ, chúng ta
chạm nhằm lửa mà phải phỏng tay. Thế là chúng ta nhờ bài học kinh nghiệm,
để biết lửa có tánh nóng.
Đời người là một cuộc học. Nếu chúng ta rủi bị phiền năo v́ một việc ǵ,
th́ chúng ta chẳng khá trách Trời, chẳng khá trách người, chẳng khá trách
sự vật, mà trái lại, phải tự xét ḿnh t́m cho ra cái nguyên nhân nào làm
cho chúng ta phải phiền năo. Phải chăng : tại không biết, tại trễ-nải, tại
tức giận. Khi đă thấy nguyên nhân tạo ra phiền-năo rồi, chúng ta nên t́m
phương giải-quyết, để cho cách xử sự lần sau được khá hơn.
Trí người là một trường hành-động. Khoa-học, ngày nay, nhờ Trí mà phát
minh biết bao nhiêu cơ-khí kỳ xảo. Chúng ta nên dùng Trí của ḿnh, để t́m
biết đời sống của ḿnh : Đại để như nh́n ra Vơ-trụ bao la, biết bao nhiêu
Thế-giái vận chuyển không ngừng, lại nh́n đến vạn-vật yên lặng, trang
nghiêm, rồi nghĩ đến thân phận người ta ở đời : Sống như vậy rồi chết ra
sao ? Và c̣n biết bao nhiêu những việc huyền bí trong Vơ-trụ mà chúng ta
chưa biết được.
Vậy chúng ta nên chép những vấn đề ấy, để rồi suy nghĩ, khám phá sự liên
lạc của người với Trời, người với người, người với vật. Một khi chúng ta
khám phá những lẽ bí-mật của Tạo-vật rồi, ắt chúng ta sẽ giải quyết được
đời sống của chúng ta với một cách xứng đáng. Theo lư đương nhiên, đời
sống chẳng phải t́m nơi sự lư nhỏ mọn trong ṿng vật-dục, mà phải vượt ra
ngoài, để rồi sống với Đạo, sống với Thượng-Đế và sống với Chúng-sanh.
Mục-đích của người Trí là biết Đạo, thế nên kẻ học phải kiên-tâm, tŕ chí.
Cách học phải mở cho rộng, hỏi cho kỹ, nghĩ cho cùng, phân biệt cho rơ và
hết sức làm theo để thành toàn cái biết của ḿnh. Mỗi ngày xét ḿnh ba lần
và bền ḷng làm măi cho đến một ngày kia, chúng ta sẽ có Tâm trọn lành.
Trí đă phát khởi, thấu hiểu Chơn-lư của cái thiện-ác và biết giới hạn của
t́nh-dục rồi. Lúc bây giờ, chúng ta ung dung cảm thông với Thiên-lư mà
sống với một thái độ thuận-ḥa, b́nh-tĩnh, theo ĐạoTự-nhiên.
TÍN.- Tín là tin. Thủ tín là điều quí trọng của người ; nhứt là kẽ
tu-hành.
Lời nói của ḿnh thốt ra phải trọng nó ; nói ra rồi phải nh́n nhận, nếu
nói không chắc một lần th́, về sau, mặc dầu chúng ta nói thiệt, người ta
cũng không tin. Nhơn vô Tín bất lập . Người không đặng tín-nhiệm th́ chẳng
làm nên được.
Đối với ḿnh lại phải cần thủ tín nhiều hơn nữa. Chúng tôi xin nhắc lại
câu sách Đại học nói rằng : Sở vị thành kỳ ư giả vô tự khi dă . Nghĩa là :
cái chỗ gọi là sửa ư thành thật cốt-yếu ở chỗ ḿnh chẳng tự dối. Đại để
câu nầy nói rằng nếu người ta tự dối ḿnh th́ ḿnh không làm nên được.
Vị dụ : Chúng ta hứa với ḿnh học cho giỏi . Thế mà rồi ít lâu lại quên
mất, không làm được như lời hứa ; đó là tại sao ? Tại ḿnh tự dối ḿnh. Mà
kẻ tự dối ḿnh tức là dối Lương-tâm ; mà dối Lương-tâm là dối Trời. Thử
hỏi Trời có nên dối chăng ?
Những kẻ bội ước, bất trung, nói rồi chối, hoặc điên-đảo xảo-ngôn, là kẻ
xúc-phạm đến Thần-minh. Kẻ ấy thế nào cũng phải chịu tội. Mất ḷng tín
nhiệm của người, lại mất ḷng tự-tín của ḿnh, kẻ ấy thành ra một nhân-vật
khả-ố. Nó hăm ḿnh vào nơi khốn nạn. Kẻ học Đạo phải tự ḿnh bó buộc ḿnh
: nói thiệt và thủ tín, v́ khoản nầy rất khó dung chế.
Nói tóm lại, Ngũ-thường là năm đức thường để người ta noi theo mà sửa
ḿnh, hầu trở nên người đạo-đức ; trên thuận cùng Đức CHÍ-TÔN, dưới ḥa
ḿnh với Nhơn-loại. Ngũ-thường dùng sửa người thành đạo-đức, cũng như
thước quí, dùng để làm ra h́nh tṛn, thước cũ dùng để làm ra h́nh vuông.
Nếu muốn làm h́nh tṛn và h́nh vuông mà chẳng có thước qui, thước cũ, th́
làm sao nên được ; cũng như muốn sửa ḿnh ra đạo-đức mà chẳng theo
Ngũ-thường th́ biết đâu mà học tập.
Theo cái thuyết Thiên địa vạn vật nhứt thể th́ giữa chúng ta cùng vạn vật
có một giây liên lạc, kết chặt t́nh đồng thể. Đạo nhân dạy chúng ta phải
thương yêu và giúp đở các loài ; hầu cho muôn loài chung hưởng cái hạnh
phúc thái b́nh của Trời dành cho chúng vật.
Phương pháp xử thế th́ thiên h́nh vạn trạng, nghĩa lư vô cùng, kể không
xiết, nhưng rút lại chỉ do Tâm mà thôi. Mà muốn bảo tồn Tâm chánh, học giả
phải giữ năm đức thường : Nhân là thương xót ; Nghĩa là lẽ phải ; Lễ là
hợp lư ; Trí là thông đạt và Tín là tŕ thủ. Ấy vậy nên chúng ta làm việc
ǵ dầu lớn, dầu nhỏ, cũng phải hỏi lại Tâm ḿnh, tức vị Thần-minh, ở trong
người của chúng ta. Như thế, nếu chưa được chí-thiện như Thiên-lư ; nhưng
không đến nỗi sai xa.
Phận gái
Tam-tùng - Tứ-đức
Mặc dầu trai hay gái đều có bổn phận làm người ; đại để như đă nói trong
trương trước ; nhưng riêng về N -phái, Cổ-nhơn đă vạch sẵn một con đường :
Tam tùng, Tứ đức mà kẻ Hậu-tấn nên noi theo.
Có người nói Thế-kỷ 20, văn minh vật chất đă phổ truyền. Phụ n từ Tây sang
Đông, từ thành thị đến thôn quê, người người đều chen lấn trên đường Canh
tân, nếu đem cái thuyết cũ kỹ Tam tùng, Tứ đức mà hô hào, thế có phải là
đi ngước chiều Tấn-hóa chăng ? Không. Bởi v́ Luân-lư cổ truyền của người
Việt Nam vốn ở trong Nho-giáo, mà v́ Thánh-sư của Nho-giáo là Đức
Khổng-Phu-Tử có nói rằng : Luân-lư pháp luật phải tùy thời mà sửa đổi cho
thích nghi với tŕnh độ tấn hóa của Nhơn-sanh. Câu sách Trung-dung sau đây
đủ chứng minh điều ấy rằng : Trọng-Ni tổ thuận Nghiêu-Thuấn, hiến chương
Văn-vơ, thượng luật Thiên-thời, hạ tập Thủy-thổ . Nghĩa là đức Trọng-Ni
(Khổng-Phu-Tử) thuật lại Đạo Vua Nghiêu, Vua Thuấn, bắt chước Vua Văn, Vua
Vơ ; trên theo thời Trời mà quyền biến ; dưới tùng Thủy-thổ mà an vui. Văy
chúng ta nên lược lại những qui-luật cổ-truyền, như cái thuyết Tam tùng,
Tứ đức rồi chăm chước sửa đổi cho vừa lằn tấn hóa ; nghĩa là chúng ta giữ
những cái Hay bỏ những cái Dở để đưa đoàn Em đi đến con đường Mỹ-tục thuần
phong . Nghĩ như thế, nên chúng tôi yên trí soạn lại như sau.
TAM TÙNG.- Tam tùng là ǵ ?
Tam-tùng chỉ về người Phụ-n có ba chỗ theo là : Tại gia tùng phụ ; Xuất
giá tùng phu ; Phu tử tùng tử ; để làm cho ḿnh trở nên đứa con thảo,
người vợ hiền, bà mẹ tốt.
1.- Tại-gia tùng-phụ.- Nghĩa là khi c̣n thơ ấu, ở với cha mẹ th́ phải tùng
cha mẹ. Bổn-phận làm con đối với Cha mẹ th́ phải thảo. Đạo Hiếu không phân
biệt trai hay gái, đại khái nói trong những trương trước. Riêng về phận
gái chữ Tại gia tùng phụ có ư nghĩa đặc biệt là :
Khi c̣n thơ-ấu, ở với Cha mẹ, mặc dầu ḿnh có học thức đến đâu cũng chưa
có kinh nghiệm ở đời, chưa hiểu nhơn t́nh thế-sự, cho nên những việc quan
hệ đến đời ḿnh th́ nhứt thiết phải tuân lời cha mẹ. Nên biết rằng trong
đời, chẳng ai thương chúng ta bằng cha mẹ ; chẳng ai lo cho chúng ta bằng
cha mẹ. Từ xưa đến nay, chưa có người cha mẹ nào làm hại con. Vậy cha mẹ
chúng ta cũng như muôn vàn người khác, hằng chăm lo cho con nên người.
Chúng ta chẳng v́ lẽ chi mà không tuân lờI Người. Thoảng như cha mẹ có dạy
điều chi chẳng vừa ư,th́ ḿnh cũng nhỏ nhẹ xin sửa đổi, chớ không nên cải
cọ mà thành ra ương-ngạnh.
Gần đây mới xuất hiện phong trào Tự do kết hôn. Vấn đề nầy có thể chắp
thuận về nguyên tắc. Bởi v́ vợ chồng là bạn trăm năm. Đôi bên cần phải tâm
đầu ư hiệp, th́ mới tạo nên hạnh phúc gia đ́nh. Trái lại, nghĩa là kẻ trâu
trắng, người trâu đen, th́ cả hai đều phải chịu khổ trọn đời. Ấy vậy nên
trước khi cưới nhau, người Trai và người Gái cần biết qua tâm lư của đôi
bên.
Chúng tôi nói : Chấp thuận về nguyên tắc . Nghĩa là phận gái được quyền
chọn lựa người bạn trăm năm của ḿnh ; nhưng trước khi quyết định, phải
chờ lịnh cha mẹ. Biết đâu : chúng ta v́ trẻ ḷng non dạ mà không phân biệt
trắng đen ; biết đâu chúng ta măi t́m hạnh phúc mà lại sa vào cạm bẫy tai
hại. Việc tạo lập gia thất là việc lớn của người Đàn bà. Nói tỉ như chúng
ta rủi lạc-lầm lần đầu tiên th́ chúng ta phải chịu vô phước cả một đời.
Đó là chỗ mà phận gái phải dè dặt cho lắm. C̣n kẻ làm cha mẹ, không nên ỷ
quyền cha mẹ mà ép con. Ngạn ng nói : Ép dầu, ép mở, ai nở ép duyên. Có
người gả con mà không giạm hỏi ư con, về sau, thành ra vô t́nh mà hại một
đời của con. Đương môn, đói hộ, là một điều tốt, nhưng nó đứng vào hàng
thứ nh́. Duy có điều : chọn dâu, chọn rễ kia, mới thật là trọng yếu.
Quyền cha mẹ, nghĩa làm con, đôi bên phải dung ḥa với nhau, để đào tạo
hạnh phúc cho con hơn hết. Nếu rủi cha mẹ qua đời th́ phận gái cũng nên
nghe lời người nuôi dưỡng như Cô, Cậu, Chú, Bác, v.v...
2.- Xuất giá tùng phu.- Khi có chồng rồi, phận gái phải ở với nhà chồng,
cả một cuộc đời mới đó phải thi-hành ; nào là bổn phận đối với cha mẹ
chồng,anh em bên chồng, nào là xử sự với kẻ ăn ở trong gia đ́nh và người
láng giềng ; mỗi mỗi phải cư xử cho trọn đạo ; nhứt là đói với chồng phải
giữ ǵn trinh tiết ; bởi v́ người đàn bà mất trinh th́ mất giá trị (xin
xem bài Phu-Thê-Cang).
3.- Phu tử tùng tử.- Rủi chồng chết th́ phải theo con ; khi con thơ ấu th́
một ḷng lo nuôi dưỡng giáo-hóa, c̣n khi con nên người th́ một ḷng sống
với con cho tṛn bổn phận của bà mẹ hiền.
Sách Nho chép chuyện bà thân sanh của Mạnh-tử chọn xóm ở, để cho con ăn
học ; có lần Mạnh-Tử biếng nhác, Bà chặt khung cửi, làm cho con biết sợ mà
lo học. Nhờ mẹ hiền mà thầy Mạnh-Tử trở nên bậc Á-Thánh.
Đoàn Hậu-tấn nên noi theo gương làm cha mẹ đó mà lập thân ḿnh.
Tứ Đức
Công, Ngôn, Dung, Hạnh
CÔNG.- Những việc văn chương, cung kiếm, như bậc anh thư th́ chẳng nói
chi, người Phụ-n c̣n có N -công thường thức cần phải thuần-thục, để làm
tṛn bổn-phận nội-trợ, như : may vá, nấu nướng, sắp đặt việc nhà có thứ
tự. Vả chăng, nội trợ là bổn phận đàn bà, nếu người phụ-n không biết những
việc thường ngày đó th́ mất giá trị của ḿnh ; cho nên phải siêng năng rèn
tập.
NGÔN.- Ngôn là lời nói, người bàng quan do lời nói của ḿnh mà đoán ra tâm
lư. Tại sao ? Bởi có trong ḷng mới tỏ ra ngoài ; thành thử lời nói năng
phải cẩn thận. Không nói lả lơi, hoa nguyệt, không nói xằng, nói bậy ;
không ngồi lê đôi mách, không nói dối. Muốn được vậy th́ tập cho có thói
quen rằng : Suy nghĩ trước, rồi sau mới nói , tức ngôn đoái hạnh, hạnh
đoái ngôn.
DUNG.- Dung là dung nhan, diện mạo. Cần phải sạch sẽ, vẽ-vang, đi đứng
trang hoàng, h́nh-dung yểu-điệu tự-nhiên, nghĩa là không phải sửa, cách đi
đứng, v́ có ư sửa là mất tự-nhiên, mà mất tự nhiên th́ không đẹp.
HạNH.- Hạnh là nết, mà nết lại do Tâm mà ra, cho nên muốn có hạnh, trước
phải giồi mài bổn Tâm. Luân-lư dạy rằng phận gái phải hiền lành, ḥa-nhă.
Hiền lành th́ ngăn được phóng tâm, ḥa-nhă th́ lkhỏi phải hỗn-ẩu,
kiêu-căng. Trên đường giao-tế ; hoặc đối với người nhà hay người láng
giềng, nhứt nhứt phải giữ ư thành thật trước hết. Có thành thật mới được
người yêu mến tin dùng.
Nói rút lại, Tam-tùng, Tứ-đức, nếu người Phụ-n lấy đó làm kỷ-cương ở đời
th́ ḿnh sẽ được danh thơm là : con thảo, vợ hiền và mẹ tốt.
Tóm luận, thi hành khoản đạo người trên nền tảng Tam-cang, Ngũ-thường,
Tam-tùng, Tứ-đức, chúng tôi xin tạm một câu sách Đại-học để làm bài kết
luận như sau :
Xưa kia, người ta muốn làm sáng cái đức sáng của ḿnh trong Thế-gian,
trước hết phải làm tṛn bổn phận đối vối với nước ḿnh (Trị-quốc) ; muốn
trị-quốc, trước phải sửa xong việc nhà ḿnh (Tề-gia) ; muốn tề-gia trước
tu-thân ḿnh ; muốn tu thân ḿnh trước phải chánh-tâm : muốn chánh-tâm
trước phải sửa ư ra thành thật (thành ư) ; muốn thành-ư trước phải khai
hóa đến cùng tột cái biết của ḿnh (trí-tri) ; mà trí-tri tại sự cách vật.
Hoặc nói đảo lại là : Cách-vật rồi sau mới trí-chí ; tri-chí rồi sau mới
ư-thành ; ư-thành rồi sau mới tâm-chánh ; tâm chánh rồi sau mới thân tu,
thân-tu rồi sau mớI gia-tề ; gia-tề rồi sau mới quốc-trị ; quốc-trị rồi
sau thiên-hạ thái-b́nh.
Trên đây là bổn chương tŕnh Xă-hội-học mà người Á-Đông đă chăm theo tự
ngàn xưa. Chương-tŕnh ấy nhắm vào mục-đích ḥa-b́nh Thế-giái, thức là mỗi
người thảo luận với mọi người từ trong gia-đ́nh đến ngoài xă-hội. Mà muốn
đi đến mục-đích ấy, trước phải sửa ḿnh. Đạo tu-thân bắt đầu từ cách-vật,
trí-tri, đến thành-ư, chánh-tâm. Vả lại, Tâm vớI Tánh tuy có hai danh-từ,
song vốn một, tức là nguồn Thiên-lư Trời phú cho người. Hễ người có
Tâm-chánh, th́ tự nhiên phần Thiên-lư sáng tỏ.
Như trước kia đă nói Thiên-lư ở trong người phát động là Đạo-nhân, mà Đạo
Nhân là Đạo làm người vậy.
Ấy vậy nên người nào giữ trọn năm đức thường là : Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí,
Tín đă nói trước kia th́ theo được Đạo Trời và cùng vạn-vật đồng thể. Làm
người mặc dầu trai hay gái đều phải biết Đạo Nhân, tức cái phát-động của
nguồn Thiên-lư ở trong người, rồi sau sẽ theo đó mà làm bổn phận ḿnh.
Được như thế th́ trên không phạm luật trời, dưới lại ḥa cùng mọi người.
Vậy há chẳng phải an vui lắm sao !
CHƯƠNG THỨ CHÍN
Thượng Thừa
Dẫn-giải.
Thượng-thừa là lớp học dành riêng cho người đă rảnh rang Nhơn-đạo, chỉ c̣n
lo tu-học Thiên-đạo, để độ ḿnh và độ người đồng giải thoát ra ngoài ṿng
Sanh-Tử. Đó cũng gọi là phương học Xuất-thế. Tân-luật của Đại-Đạo Tam-kỳ
Phổ-Độ ấn định : Chức sắc Hội-thánh, từ Phẩm Giáo-Hữu dẫn lên, phải chọn
lựa trong hàng Thượng-thừa, Thượng-thừa phải trường trai, giới-sát, để
tóc, để râu, vân vân ... Vậy Chức-sắc Hội-Thánh phải là người xuất-thân
trong hàng Thượng-thừa.
Phương-pháp tu-học của bực Thượng-thừa xem xuyên qua Tam-giáo th́ thấy
nhiều lắm, như : Phật-giáo Đại-thừa có đến bảy Tông, mỗi Tông có một
giáo-thuyết ; Đạo-giáo và Nho-giáo cũng chẳng kém. Nếu tổng-hợp tất cả
giáo-thuyết hiện-hữu th́ kể sao xiết. Đây chúng tôi chỉ nói một phép
Minh-tâm Kiến-tánh mà thôi. Nghĩ v́ học Đạo nên lo tu-luyện Tâm-tánh
trước, gốc đă lập rồi th́ ngọn theo đó mà sanh.
Minh-tâm.- Đă hay rằng Tâm là một điểm Minh-linh của Trời phú cho người ;
ở trong Tâm có cả Tánh và T́nh. Hoặc nói cách khác là : Tâm tịnh th́ gọi
là Tánh ; c̣n Tâm động th́ gọi là T́nh. Hoặc nói cách khác nữa là Tâm tịnh
th́ Thiên-lư lưu hành ; Tâm động th́ Nhơn-dục sôi nổi. Ấy vậy nên nói rằng
: Tâm là cái Thống-dah của Tánh-t́nh, tức là Tâm chứa cả hai Tịnh và Động.
Tuy Tâm-thân có hai danh-từ, song sự linh-động của Tâm và Thân vốn một.
Như tai nghe, mắt thấy, miệng nói, tứ chi cử động,mà sự thật là Tâm làm
chủ việc ấy ; chớ chẳng phải Thân. Nếu như nói : Thân nghe thấy, nói năng,
cử động, tại sao người chết không làm được những điều ấy. Thế th́ đủ chứng
minh rằng : nếu chẳng có Tâm th́ Thân bất quá là một vật vô hồn mà thôi.
Trái lại, nếu có Tâm mà chẳng có Thân như : chẳng có tai mắt, mũi miệng,
tứ-chi th́ Tâm dầu có cũng như không ; nghĩa là Tâm chẳng nghe thấy, nói
năng, cử động được. Thế th́ Tâm và Thân không thể xa nhau và cũng v́ lẽ ấy
mà kẻ tu-hành phải tinh-luyện
cả Tâm và Thân th́ mới thành Chánh-quả.
Về phương-pháp tu-luyện, chúng tôi lấy Thập-giới để d́u-dẫn ba-căn Thân
vào cảnh Chơn trước, rồi sau mới thu-liễm Tâm vào chỗ Chơn-chánh được.
Có ba giới cấm kềm dẫn Thân căn vào cảnh Chơn là :
Cấm sát sanh
Cấm du-đạo
Cấm tà-dâm
Có bốn giới cấm kềm dẫn Khẩu căn vào cảnh Chơn là :
Cấm vọng-ng (nói dối)
Cấm lư ng-thiệt (nói đâm thọc hai đầu)
Cấm ác-khẩu (lời nói ác)
Cấm ỷ-ng (dùng lời khôn khéo khiến người làm quấy)
Có ba giới cấm kềm dẫn Ư-căn vào cảnh Chơn là :
Cấm tham-dục (ham muốn)
Cấm sân hận
Cấm si-mê
Xin thưa trước rằng : chúng tôi lấy thứ tự Thập-giới làm cốt cho sự
giảng-giải ; nhưng, chúng tôi lại tham bát cả Thánh-ngôn của Đức CHÍ-TÔN
và Học-lư của Tam-giáo ; để giúp sự giảng-giải được tỏ rơ them lên.
BA GIỚI-CẤM KỀM DẪN THÂN-CĂN
VàO CẢNH CHƠN KỂ NHƯ SAU :
a) CẤM SÁT SANH.- Nghĩa là chẳng đặng giết mạng sống.
Thánh-ngôn : Thầy đă nói : Khi chưa có Trời Đất, Khí Hư-vô sanh có một
Thầy và ngôi Thầy là Thái-cực ; Thầy phân Thái-cực ra Lư ng-nghi, Lư
ng-nghi sanh Tứ-tượng, Tứ-tượng biến ra Bát-quái, Bát-quái biến hóa vô
cùng mà lập Càn-khôn Thế-giái,rồi Thầy lại phân Tánh Thầy mà sanh ra
vạn-vật là : Vật-chất, Thảo-mộc, Côn-trùng, Thú-cầm, Nhơn-loại gọi là
Chúng-sanh. Vậy các con đủ hiểu mỗi vật hữu sanh nơi Thế-gian nầy đều do
Chơn-linh Thầy mà ra. Có sống ắt có Thầy ; Thầy là Cha sự sống, v́ thế,
nên ḷng Háo-sanh của Thầy vô cùng tận.
Mạng sống của cả Chúng-sanh cũng như nhành cây trong cội, phải có đủ ngày
giờ Thầy định, để nở bông sanh trái, đặng trồng nữa, biến hóa thêm ra ;
nếu kẻ nào làm hại nửa chừng là sát hại một kiếp sanh, không cho biến hóa.
Mỗi mạng sống đều hữu căn, hữu kiếp đến Thế nầy hoặc lâu, hoặc mau, đều có
định trước, nếu ai giết một mạng sống, phải chịu quả báo. Mạng sống là
Thầy, mà giết Thầy không phải dễ. Các con rang dạy Nhơn-sanh điều ấy !
Chú-thích.- Đoạn trên đă chú giải trong trương trước rồi, không cần phải
lập lại nữa. C̣n đoạn sau từ câu : Mạng-sống của cả Chúng-sanh, vân vân...
Xin chú thích như sau :
Đức CHÍ-TÔN thí dụ cả Chúng-sanh đối với CHÍ-TÔN cũng như nhành cây trong
cội ; khi chia ĺa khỏi cội th́ nhành cây ấy cần phải có đủ ngày giờ để nở
bông, sanh trái, đặng trồng nữa ; nếu kẻ nào làm hại nhành cây nửa chừng,
tức làm hại một kiếp sanh, không cho nó biến hóa, th́ kẻ ấy phải chịu quả
báo. Mạng sống là CHÍ-TÔN ; mà giết CHÍ-TÔN không phải dễ.
Muốn cho Thánh-ngôn của Đức CHÍ-TÔN nhập Tâm và biến thành đức hạnh của
ḿnh, chúng ta nên suy tưởng, nghiền ngẫm những điểm nầy :
1)- Vơ-trụ Vạn-vật do nơi Đức CHÍ-TÔN tạo-hóa. Thế th́ Vơ-trụ Vạn-vật đồng
một thể với nhau. Nếu chúng ta sát hại một vật, mặc dầu nhỏ mọn, như con
ong, con kiến, cũng đều có rúng động đến Trời Đất, vạn-vật và chúng ta
nữa. Việc hệ trọng như vậy, chúng ta há đang tâm làm hay sao ?
2)- Chúng sanh đối với Đức CHÍ-TÔN, như nhành cây trong cội ; nghĩa là
Chúng-sanh do Đức CHÍ-TÔN mà sanh ra, để rồi sản xuất thêm ra nữa.
Nếu ai giết một mạng sống, tức là ngăn trở sự sanh hóa của Trời Đất.
Thử hỏi có người nào dám làm trái luật Trời chăng ?
3)- Mỗi mạng sống đều có căn, có kiếp ; nếu ai giết mạng sống nửa chừng
th́ phải chịu quả báo. Mà mục đích của kẻ tu-hành là giải-thoát kiếp
Luân-hồi ; mà kiếp Luân-hồi, sở dĩ có là tại Quả-báo. Th́ thử hỏi kẻ hành
giả có ai dám tạo nghiệp Sanh-tử cho ḿnh không ?
4)- Đức CHÍ-TÔN có nói : Mạng sống là Thầy mà giết Thầy không phải dễ .
Câu nầy đủ rơ rồi, khỏi phải nghị luận thêm nữa.
Chúng ta cứ suy ngẫm mấy điều đă nói trên, lâu ngày, nó sẽ nhập tâm ḿnh,
rồi chúng ta biết sợ luật Trời mà chẳng dám sát hại Sanh-vật. Thế là chúng
ta tránh được cái vạ Sát-sanh. Mà không Sát-sanh là một việc, c̣n phải lo
mở rộng ḷng Bác ái, để biết thương yêu muôn vật, như thương thân ḿnh.
Nếu có phương tiện, chúng ta nên đem ḷng vị tha, để giúp người và dùng
lối phóng sanh, để cứu vật.
Chúng ta cùng muôn loài là anh em. Thế th́ chúng ta phải mở rộng ḷng
thương xót, để cho những vật hèn mọn nương theo t́nh thương của ḿnh mà
tiến bước trên đường về với Đức CHÍ-TÔN. Ḷng Bác-ái của chúng ta nên
phỏng theo đức Háo-sanh của Trời mà khai hóa nó, để giúp vào việc hóa-dục
của Trời đất.
b)-CẤM DU ĐạO.- Nghĩa là cấm trộm cắp.
Thánh-ngôn.- Ôi ! Thầy sanh các con ! Thầy yêu các con ! Thầy cho các con
đến Thế nầy với một Thánh-thể Thiêng-liêng, y như h́nh ảnh của Thầy :
không ăn mà sống, không mặc mà lành. Các con không chịu, lại nghe lời cám
dỗ, luyến-ái Hồng-trần.
Ăn cho phải bị đày, Dâm cho phải bị đọa, rồi các con phải chịu dưới cái
nạn áo cơm.
Lợi, Thầy để dành cho các con chung hưởng ; nhưng, v́ ḷng tham : đứa giựt
nhiều, đứa phải chịu kém.
Quyền, Thầy ban cho các con, y như Thầy đă ban cho Thần, Thánh, Tiên, Phật
để các con có đủ phương tiện kềm chế lẫn nhau, đặng giữ vẹn Thánh-thể của
Thầy. Thế mà cái quyền ấy lại thành một món lợi khí, buộc trói các con
trong ṿng tội lỗi. Ôi ! Cái thất-vọng của Thầy rất nên đau đớn.
Các con có hiểu, v́ sao Nhơn-sanh có ḷng tham-gian chăng ? Th́ cũng v́
muốn có nhiều kẻ phục tùng dưới quyền lợi của ḿnh. Vả lại, người đời cần
nhứt là cơm với áo. Nay muốn có nhiều kẻ phục tùng ; không chi bằng nắm
chặt quyền phân phát áo cơm, phải dùng đủ mưu chước quỷ-quyệt thâu đoạt :
lợi lộc, thế quyền. V́ vậy mà Đời trở nên trường hổn-độn tranh-đấu,
giựt-giành, mạnh được yếu thua, mất hẳn công-b́nh thiên-nhiên Tạo-hóa.
Ấy vậy phải biết rằng : tham lam vào Tâm, Tâm hết đạo-đức ; tham-lam vào
nhà, nhà hết chánh giáo ; tham-lam vào nước, nước hết chơn-trị ; tham-lam
rộng khắp Thế-giới, Thế-giới hết Thần Tiên. Ḷng tham có thể giục các con
lỗi Đạo cùng Thầy.
Chú thích.- Thánh-thể Thiêng-liêng y như h́nh ảnh của Thầy nói đây, tức là
điểm Linh-quang của CHÍ-tÔN ban cho mỗi người. Nó chẳng cần ăn mà sống,
chẳng cần mặc mà lành ; nhưng trên đường sanh song người đời lại cần có
lợi quyền : cho nên ḷng ích kỷ muốn tóm thâu lợi quyền về cho ḿnh, thành
ra trong trường Đời mới có tranh đua, giành-giựt. Đó là cái mầm sanh ra
ghét hại lẫn nhau ; cho nên Đức CHÍ-TÔN nói : Tham-lam vào Tâm th́ Tâm hết
đạo đức ; vào nhà th́ hết Chánh-giáo ; vào nước th́ hết Chơn-trị ; lộng
khắp Thế-giới th́ Thế-giới hết Thần Tiên . Chúng ta nên nghiền-ngẫm lẽ nầy
cho nhập Tâm, lâu ngày thành đức Tánh của ḿnh, rồi sau mới khỏi va vào vạ
tham-lam trộm cắp.
Phải biết rằng : tài vật của người : dầu ít nhiều, dầu lớn nhỏ, đều do
người làm nhọc nhằn mới tạn ra được. Nay chúng ta trộm cắp của người, để
làm của ḿnh, dầu cách nầy, hay cách khác, cũng đều là một việc thái ư bất
công. Bất công th́ chẳng những phạm luật Trời, mà mích ḷng người nữa.
Muốn trán sự trộm cắp, th́ đừng tham lam ; mà muốn tránh sự tham-lam,
chúng ta nên biết Tri-túc và Bố-thí.
Tri-túc là biết đủ, tức là cho rằng ḿnh đủ ăn, đủ mặc th́ thôi, chớ chẳng
nên vọng cầu những của phi nghĩa. Nếu chẳng Tri-túc th́ long tham sẽ nổi
lên mà xúi chúng ta vơ-vét của cải và đem về cho ḿnh, rồi lại c̣n để cho
con cháu ḿnh nữa. Ngạn-ng nói : Túi tham không đáy,
chứa bao nhiêu cũng không đầy .
Bố-thí : chúng ta nên tùy phương tiện của ḿnh mà th́ tài, thí
pháp. Bố th́ mà không nên cầu người ta trả lại. Muốn cho cÁi đức ấy
được tỏ rạng, phải mở ḷng vị tha, nghĩa là v́ người mà bố-thí.
Kẻ xả thân hành Đạo th́ học ḥa ḿnh với Đạo, ḥa sống với chúng
sanh. Thử nghĩ thân c̣n chẳng có thân riêng, huống chi là tài sản. Suy
tưởng, ngẫm nghĩ như thế, th́ ḷng Vị-tha sẽ khai quát, để thay thế
cho Tánh ích-kỷ.
c)- CẤM TÀ-DÂM.- nghĩa là chẳng đặng phạm đến việc loạn luân. Thánh-ngôn.-
V́ sao Tà-dâm là trọng tội ?
Nguyên xác-thân con người, tuy mắt phàm xem như một, tựu trung chất chứa
vàn vàn, muôn muôn sanh vật. Sanh-vật ấy cấu kết nhau thành Tế-bào
(Formation des cellules). Nó có Tánh-linh. Chất dưỡng sanh nó là rau cỏ,
bông trái, lúa gạo. Thử hỏi những Lương-vật nầy, nếu chẳng có chất sanh và
chẳng hàm chứa sanh lực th́ thế nào nó tươi đặng ? Hoặc giả, nếu nó có khô
rũ th́ nó phải chết ; mà các con có ăn vật khô héo bao giờ. C̣n như dùng
lửa nấu ; bất quá tẩy trược mà thôi kỳ thật sanh-vật bị nấu chưa hề chết.
Vật ăn vào t́-vị tiêu-hóa ra Khí. Khí biến ra Huyết. Nó có thể hườn thành
Nhơn-h́nh ; v́ vậy, nên mới có cơ sống chết của chúng-sanh. Một giọt máu
là một khối Chơn-linh, nếu các con dâm quá độ, tức là sát hại nhiều
Chơn-linh ; khi các con thoát-xác ; nó đến Nghiệt-cảnh-đài mà kiện ; các
con chẳng hề chối tội được.
Vậy các con phải ǵn giới cấm nầy cho lắm .
Theo Thánh-ngôn trên đây, chúng ta đă hiểu sự dâm dục có hại cho kẻ
Hành-giả là dường nào !
Vả lại, Phàm-thân do Nhơn-duyên cầu sanh, mà hễ có sanh th́ tự nhiên có
tử. Mà hễ tử rồi th́ nó phải tan rả và trở về với đất, nước, gió và lửa.
Thế th́ nhục thân có trường-tồn đâu, mà phải cầu khoái lạc nhứt thời cho
nó, để rồi gây ra tội t́nh Nhơn-quả cho phần Hồn phải chịu muôn năm ; nhứt
là : Quyến rủ vợ con người vào đường quấy là phá hại gia-cang người, lại
là một việc tồi phong bại tục, rồi chung qui phải trả quả. Tà dâm là một
việc ác đứng đầu trong muôn việc ác khác.
Gia dĩ, dâm-dục sát hại nhiều Chơn-linh. Khi thoát xác, chúng nó kiện nơi
Nghiệt-cảnh-đài th́ chúng ta không chối tội được. Vậy kẻ tu hành có nên
ham vui một thuở mà hại cả Hồn-Xác muôn đời hay sao?
Tóm lại thân của người chẳng khác nào thân của Động vật. Điều chính của nó
là hành-động ; mà hành-động của nó lại khuynh hướng về tư-kỷ bỏ nhiều hơn,
cho nên chúng ta phải cố gắng ǵn-giữ giới cấm
nầy, để trị thân và đem nó trở về đường Chánh-đạo. Nhứt là ngăn ngừa
Ngũ-quan.
Đức Khổng-Phu-Tử khuyên rằng :
Mắt chẳng nên xem sắc vô lễ ;
Tai chẳng nên nghe lời vô lễ ;
Miệng chẳng nên nói tiếng vô lễ ;
Tứ-chi chẳng nên cử động vô lễ.
Khắc kỷ phục Lễ, ép ḿnh theo Đạo, hầu đem ḿnh về Đạo Nhân. Thật vậy, nếu
Ngũ-quan không tŕ trục trong sự ham muốn vật chất vô lễ, th́ Tâm ắt được
Chánh.
D̀U-DẪN KHẨU-CĂN VÀO CẢNH CHƠN
Có bốn giới cấm kể như sau :
Cấm Vọng-ngữ ,
Cấm Lưỡng-thiệt,
Cấm Ác-khẩu
Cấm Ỷ-ngữ .
a)- Cấm Vọng-ngữ .
Thánh-ngôn.- Nơi thân phàm các con, Thầy cho một Chơn-linh theo ǵn giữ.
Chơn-linh ấy vốn vô tư, đặng phép giao thông cùng chư Thần, Thánh, Tiên,
Phật và các Đấng Trọn-lành nơi Ngọc-Hư-Cung, nhứt nhứt việc lành, việc dữ
đều có ghi ; vậy nên một mảy không sai, lành dữ đều có trả.
Lại nữa, Chơn-linh ấy có Tánh Thánh nơi ḿnh, chẳng phải ǵn giữ các con,
mà c̣n dạy dỗ nữa. Đời thường gọi lẫn là Lương-tâm.
Thánh xưa nói rằng : Khi Nhơn tức khi Tâm, khi Tâm tức khi Thiên, khi
Thiên đắc tội, hoạch tội ư Thiên vô sở đảo. Như các con nói dối, điều ấy
chưa dối đặng người, mà các con đă dối Lương-tâm ḿnh rồi. Một lời nói,
tuy chưa thi hành, song tội t́nh cũng đồng thể, như đă có làm.
Thầy dặn các con : phải cẩn ngôn, cẩn hạnh, thà các con làm tội, mà chịu
tội cho đành, chẳng hơn nói tội mà phải chịu trọng h́nh đồng thể.
Theo giới cấm nầy, người tu không được nói dối, dầu việc lớn hay nhỏ,
trọng hay khinh cũng vậy. Cổ-nhơn nói : Nhơn bất tín bất lập .
Đối với Thể-nhơn, ḿnh mất tín nhiệm c̣n không làm nên được, huống chi đối
với Trời Phật, cho nên phải nói chơn thật và khi nói ra rồi phải giữ lời.
Người tu chẳng những không nói dối, mà c̣n phải nói chơn chính nữa. Nếu
gặp sự th́ phải theo sự mà nói thành thật, để cho người nghe tin dùng ;
nếu gặp lư th́ phải tùy lư mà nói minh bạch, để cho người hết nghi.
b)- Cấm Lưỡng-thiệt
Người ta không được đem việc đầu nầy mà nói với đầu kia, làm cho người nầy
giận kẻ nọ, mà sanh ra đôi co, căi-cọ.
Phải lánh xa những việc nói xấu kẻ khác, tức là nói hành.
c)- Cấm Ác-khẩu.
Người tu không được nói lời hung dữ , như chưởi rủa. Trái lại, phải dùng
lời nói hiền lành để bàn việc hữu ích, phải dùng lời dịu ngọt, để an-ủi
người khốn khó. Nếu gặp người nói hung dữ như : mắng lộn, chưởi lộn, th́
phải dùng lời êm thấm mà khuyên dứt đôi đường. Nếu gặp người làm việc ǵ
mà thối chí, ngă ḷng, th́ nên dùng lời nghĩa lư mà khuyên nhủ cho họ khởi
ḷng Tinh-tấn.
d)- Cấm Ỷ-ngữ .
Người tu không được dùng lời khôn khéo, để khêu gợi nguyệt hoa, không được
dùng lời bóng bảy để xuyên tạc kẻ khác. Trái lại, phải nói ít và
thiệt-thà.
Bốn giới cấm để kềm dẫn Khẩu-căn vào cơi thanh-tịnh. Người tu chẳng ai mà
không biết ; nhưng, biết th́ dễ mà thực hành th́ khó, mà nếu không thực
hành được th́ cũng như không biết. Đó là chỗ nói rằng : Học mà không hành
th́ cũng như không học . Vậy chúng ta khuyên nhau gắng gượng tiến lên
đường đạo-đức thực hành.
Ban đầu chúng ta nên tập ít nói, để có ngày giờ suy nghĩ trước khi thốt ra
lời. Về sau quen rồi th́ việc khó hóa dễ.
D̀U DẪN Ư-CĂN VàO CẢNH CHƠN
Có ba giới cấm là :
- Cấm Tham-dục,
- Cấm Sân-hận,
- Cấm Si-mê.
a) Cấm Tham dục, tức là cấm ham muốn việc trái Đạo-lư.
Ư-căn sanh Ư-thức là thức thứ sáu trong số Bát-thức. Nhắc lại khi năm thức
ngoài truyền cái biết của chúng nó vào Ư-thức chấp giữ, suy lường và phân
biệt hơn kém, xấu tốt. Ḷng ham muốn theo đó mà sanh.
Chính ḷng ham muốn là cái mầm sanh ra t́nh-dục, làm loạn Tâm. Chúng ta
thử t́m cho rơ nguyên nhơn chánh sanh ra ḷng ham muốn, để rồi theo đó mà
ngăn ngừa nó. Th́ chỉ v́ người ta cố chấp thân Ngũ-uẩn của ḿnh rồi sanh
ra ham muốn sự vật ở cơi đời, để làm lợi cho thân ấy. Vậy Ngũ-uẩn ra sao,
chúng ta cần xét cho rơ.
Ngũ-uẩn là : Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
1- Sắc-uẩn.- Tức là h́nh tướng màu sắc, như Nhục-thân chúng ta vốn
do Tứ-đại (Địa, Thủy, Hỏa, Phong) cấu thành. Mà hễ có Nhục-thân th́ có
lục-căn, rồi lục-căn cảm nhiễm Lục-trần mà sanh ra Lục-thức. Theo đó mà
suy ra th́ thân thể của chúng ta là do Nhơn-duyên cấu sanh, nó chẳng có
cái thực-thể thường trụ, cho nên nó không phải là cái Ta chơn thật của
ḿnh ; kịp đến chư pháp (sự vật ở đời) cũng vô thường, v́ nó cũng do
Nhơn-duyên cấu sanh như thân thể của chúng ta vậy.
2- Thọ-uẩn.- Tức là cảm giác. Tất cả những sự đau khổ, khoái lạc phát sanh
là v́ Giác-quan tiếp xúc ngoại vật.
3- Tưởng-uẩn.- Tức là sự háo biết do Giác-quan tiếp xúc với ngoại cảnh mà
sinh ra tưởng tượng.
4- Hành-uẩn.- Tức là sự ưu-tư, tác động tâm lư, nơi phân biệt thiện ác,
nó tạo ra thiện nhơn, hay ác nghiệp.
5- Thức-uẩn.- Tức là phân biệt, hiểu biết rồi theo đó mà chấp pháp, chấp
ngă, duy tŕ sự sống của cái Thân giả hiệp.
Vậy cái Ta mà Chúng sanh dùng làm chủ-động của đời sống vật chất kia chẳng
phải là cái bổn ngă chơn thật mà là cái Ta giả hiệp , cũng gọi là Ngă
Ngũ-uẩn ; v́ nó do Ngũ-uẩn mà sanh. Mà Ngũ-uẩn vốn là Giác-tánh biến h́nh,
cho nên chung qui, nó cũng tan rả theo Phàm-thân, vật-thể. Chúng-sanh v́
vô-minh, nhận lầm cái giả làm cái chơn, thành thử quanh năm cứ tŕ-trục
trong ṿng ham muốn vật-chất, rồi gây ra tội t́nh mà phải ch́m đắm măi
trong biển Sanh-tử ; nay muốn giải-thoát kiếp luân-hồi th́ phải bỏ cái giả
và trở về cới cái chơn, tức là phải t́m cái Bổn-tánh Trời phú cho ḿnh, để
làm Bổn Ngă chơn thật , rồi cứ theo đó mà hành động ; đó là con đường
giải-thoát kiếp Sanh-tử. Chư Phật nhờ đó mà thành công. Mà muốn đạt
mục-đích ấy, Hành-giả nên thực hành phép Bất tùy phân biệt .
Bất tùy phân biệt.
Bất tùy phân biệt nghĩa là chẳng chạy theo sự vật,để t́m hiểu tốt xấu, hơn
kém của nó, như :
Mắt chẳng phân biệt Sắc-Trần (Vật có h́nh tướng màu sắc)
Tai chẳng phân biệt Thinh-Trần.
Mũi chẳng phân biệt Hương-Trần.
Lư i chẳng phân biệt Vị-Trần.
Thân chẳng phân biệt Xúc-Trần.
Ư chẳng phÂn biệ Pháp-Trần.
Lục-căn không tiếp nạp Lục-trần, th́ Lục-thức chẳng sanh. Thế là Ư-tịnh.
Đức Lăo-Tử khuyên người ta nên tri-túc và Ngài tự thuật như vầy :
Chúng-nhơn tranh sự Thực, riêng Ta cầu lấy cái Hư. Chúng-nhơn giành
quyền-lợi, giàu sang, riêng Ta lúc nào cũng cho là đủ (Tri-túc) nghĩa là
đủ ăn no, mặc ấm mà thôi. Chúng-nhơn cầu phước lộc, riêng Ta thu h́nh về
chỗ vô-vi, cầu sự vô tội. Ta đă hiểu rằng trên đường danh-lợi, kẻ nào
Tri-túc th́ khỏi nhục ; kẻ nào biết dừng chơn, đứng ngoài ṿng tranh giành
th́ khỏi nguy hại. Thế nên Ta vui ḷng chịu thiếu thốn, để theo Đạo .
Thật vậy, Thế-giái vạn-hữu, mặcdầu đối với Thân-phàm là vật-chất để nuôi
sống, giúp vui thật ; nhưng, đối với Chơn-lư nó là Vô-thường, phú quí như
phù vân, người đời như khách qua đường, sống ở thác về. Văy chúng ta cần
chi phải ham muốn vật-chất ; cần chi phải dấn thân vào sự cạnh tranh
mộng-ảo, để rồi phải chịu đắm đuối trong biển Sanh-tử vô cùng kia.
b)- Cấm Sân-hận tức là kiêng sự nóng giận.
Nhắc lại, trước kia chúng tôi đă có nói rằng : Khi ham muốn một vật th́
ḷng ham muốn giục-thúc người ta phải lo lường, làm lụng thế nào, để thâu
hoạch vật muốn về tay ḿnh. Nếu đem vật muốn về tay được, th́ vui mừng,
rồi lại sợ mất, mà phải lo bảo tồn vật ấy. Trái lại, nếu thất vọng th́ đâm
ra phiền năo, hờn giận, oán-ghét, có khi da&m làm điều bất chánh là khác.
Phải biết rằng t́nh dục sôi nổi th́ loạn Tâm, nhứt là hờn-giận oán-ghét,
chẳng những nó là mối loạn Tâm ḿnh mà là mũi giặc của gia-đ́nh và xă-hội
nữa. Ấy vậy nên kẻ học Đạo phải gắng sức hoán-căi những t́nh cảm xấu xa
biến thành t́nh cảm tốt lành. Ví dụ như : đổi sự oán ghét ra thương xót
chẳng hạn.
Công phu tu tập nên thực hành như vầy : Lúc rảnh rang, chúng ta ngồi nghĩ
rằng người đời ai cũng phải chịu trong ṿng Tứ-khổ (sanh, lăo, bệnh, tử).
Nay như cha mẹ, vợ con, hay người thân tộc của chúng ta bịnh tật th́ chúng
ta đau khổ. Vậy khi chúng ta thấy người đồng-loại bịnh tật th́ chúng ta
nên tùy phương tiện của ḿnh mà tế-độ.
Thương xót là liều thuốc trừ tật oán ghét, hờn giận.
Trời sanh mỗi bịnh đều có một thứ thuốc trị ; y học đă biết dùng thuốc nào
để trị bịnh nấy, th́ chúng ta cũng nên dùng t́nh-cảm tốt, để thay thế cho
t́nh cảm xấu. Mỗi ngày một ít măi rồi Tâm chúng ta sẽ không c̣n tật xấu mà
chỉ trơ trọi những tánh tốt lành.
c) Cấm Si-mê.
Cấm Si-mê tức là khuyên chúng ta cố gắng ǵn giữ Tâm-linh không mờ tối,
hoặc nói rằng phải đă phá cái màn Vô-minh cho sạch, để cho Tánh
Thiên-nhiên chủ trương hành-vi, lời nói và tư-tưởng của ḿnh. Phương pháp
ấy gọi là Chuyển Mê khải Ngộ . Theo lẽ đương nhiên, hễ muốn trừ cái Tối
th́ phải dùng cái Sáng . Mà thế nào là Tối , thế nào là Sáng ?
Vả chăng, Tánh Thiên-nhiên của người cũng đồng-thể với Tánh Phật, nghĩa là
nó sáng suốt, có thể quán-triệt Càn-Khôn vạn-vật, như Tánh Phật, nhưng khi
ở trong Nhục-thân, Tánh Thiên-Nhiên bị vật dục sở tê, khí bẩm sở cầu, mà
biến sanh Tánh-khí-chất, hằng khuynh hướng về Phàm-trần, buông lung, phóng
túng theo vật chất, làm cho Tánh thiên-nhiên rối loạn, chính Tánh-khí-chất
ám ảnh Tánh Thiên-nhiên, cũng như mây che mắt người Trần-tục ; mù mịt,
không phân biệt đâu là Nhơn-dục, đâu là Thiên-lư. Đó là cái Tối (Vô-minh).
Lẽ như vậy, cho nên nói : Mê là Chúng-sanh .
Nay muốn trừ cái Tối , th́ phải dùng cái Sáng . Mà phải làm sao để đem cái
Sáng đến với ḿnh ?
Phải học hành Đạo-lư, phân biệt Chánh-tà, rồi dốc ḷng bỏ Tà theo Chánh.
Chánh-lư đến với Tâm th́ tâm sáng, mà hễ tâm sáng th́ Vô-minh tiêu tan. Đó
là phép dùng cái Sáng để trị cái Tối. Hễ hết Tối tức là Sáng, mà Giác là
Phật vậy. Sau đây chúng tôi chép vài cách học hành để làm mẫu.
Học với kinh sách.- Chọn kinh cao, sách Thánh, mỗi ngày đọc chừng một
trang và lưu tâm suy nghĩ, t́m hiểu kỳ được Chơn-lư ẩn tàng trong bài kinh
sách. Đọc sách và suy nghĩ phải đi đôi, th́ sự học mới có kết quả. Đọc
kinh cầu lư . Nói tỷ như chúng ta đọc sách nhiều quá mà không suy nghĩ,
th́ chẳng những không ghi nhớ Đạo-lư, mà có khi hiểu lầm nữa. Đa thơ loạn
Tâm. Hoặc giả chúng ta nghĩ nhiều quá mà không đọc sách th́ chẳng những tư
tưởng của ḿnh không siêu việt mà có khi quanh quẩn trong ṿng Nhơn-dục
nữa.
Nên biết rằng kinh sách chỉ ghi được những tư tưởng thô sơ, thiển-cận mà
thôi. Chúng ta dùng kinh sách, để mở đường suy gẫm của ḿnh ; cũng như
ngươéi ta dùng ch́a khóa mở kho Chơn-lư ; c̣n biết được Chơn-lư hay
khônglà do công-phu suy nghĩ của người thôi. Chấp nhứt bất thông.
Học với sự vật.- Những việc thực tế xảy ra chung quanh chúng ta hằng ngày
th́ phiền phức lắm thật, nhưng sự vật nào cũng có gốc ngọn, trước sau của
nó. Nếu chúng ta chịu khó t́m kiếm, th́ sẽ rút được nhiều bài học
kinhữnghiệm trong khi xử sự tiếp vật.
Người đời, sở dĩ, không biết việc đời, hoặc biết việc đời với một cách
nông nổi, là tại người ta không chịu t́m kiếm, hoặc không nhận xét, hay
nhận xét cẩu thả. Nay muốn phá cái Mê ấy th́ không chi bằng tập quan sát,
tập suy-gẫm, và tập phán-đoán Chơn-chánh. Lâu ngày bên Ngộ càng thêm, th́
bên Mê càng bớt. Công-phu Chuyển Mê khải Ngộ là thế. Ấy vậy, nên khi đối
với việc đời, dầu khinh trọng, dầu nhỏ lớn, chúng ta cũng phải b́nh tĩnh
phân tách từng môn, từng loại, t́m hiểu kỳ được cái nguyên nhơn chánh của
nó.
Xem như người ta dùng kiến hiển-vi, thâu áng sáng mặt trời lên trên tờ
giấy, trong giây lát th́ tờ giấy phát lửa. Nếu chúng ta tập trung cả
Thần-khí, Ư-chí, để cứu xét một vấn đề, th́ ắt chúng ta sẽ có một tâm lực
mạnh mẽ, để giải đáp vấn đề được, cũng như ánh sáng mặt rời tập trung
nhiều lại thành lửa, đốt cháy tờ giấy kia vậy.
Ở đời chẳng có việc ǵ Thần-bí, nếu người ta chịu khó t́m hiểu.
Học với Chơn-tâm.- Chơn-tâm với Bổn-tánh tuy hai danh từ khác nhau, song
sự thiệt Tâm với Tánh là một, tức là điểm Linh-quang của Đức CHÍ-TÔN ba
cho mỗi người. Nhắc lại khi điểm Linh-quang ấy ĺa khỏi Đức CHÍ-TÔN, rồi
nó luân chuyển khắp Thế-giới, mà hễ đến đâu th́ hấp thụ khí chất của
cảnh-giới ấy, để tạo cho ḿnh một thân thể thích nghi với hoàn-cảnh. Thế
nên Thông-Thiên-Học nói : Người ta có bảy xác thân . Nay muốn t́m biết
Chơn-tâm, đáng lẽ chúng ta phải t́m biết tong bảy xác thân kia, nhưng nghĩ
v́ sự t́m học ấy rất phiền phức ; nên chúng tôi chỉ nói rằng Chơn-tâm là
cái Bổn ngă chơn thật của ḿnh, nhưng nó bị Nhục-thân kích-thích bèn sinh
ra Vọng-tâm.
Bây giờ chúng ta nên phân biệt thế nào là Vọng ; thế nào là Chơn ; rồi cứ
giữ ṛng một cái Chơn-tâm ấy là được. Theo danh-từ mà định-nghĩa th́
Vọng-tâm là cái năng-lực hay
vọng-động ; v́ nó do khí-chất mà biến sanh, cho nên thường hay khuynh
hướng về Phàm-trần, ham muốn vật-chất. Trái lại, Chơn-tâm th́ tịch chiếu,
tức là lặng-lẽ mà sáng suốt.
Người nào biết được Chơn-tâm của ḿnh th́ quán thông vạn-vật. Tại sao ?
Bởi v́ vạn-vật giai bi ư ngă hỷ, phản thân nhi thành, lạc mạc đại yên
(Mạnh-tử). Nghĩa là muôn vật đều có ở trong Tâm người ta. Ta
tự xét ḿnh Ta cho thành thực th́ có cái vui thú nào lớn hơn nữa.
Ấy vậy nên hễ chúng ta phân biệt được Chơn-tâm à Vọng-tâm rồi, chúng ta cứ
một mực loại trừ Vọng-tâm, một mực hàm dưỡng Chơn-tâm, để cho Chơn-tâm làm
Chủ-tể Phàm-thân th́ ắt chúng ta khỏi sa vào ṿng vật-dục nữa. Đó là học
với Chơn-tâm vậy.
Tóm lại, chúng ta đă dùng Thập-giới để d́u-dẫn Thân, Khẩu, Ư vào đường
Chánh-đạo, cũng như người kỵ-mă dùng dây cương bắt buộc con ngựaphải theo
đường của nó đă định trước ; nhứt là giới thứ mười Cấm Si-Mê tức là
thực-hành cái thuyết Chuyển Mẹ khải Ngộ th́ chúng ta phải dùng cái Giác để
trừ cái Mê . Mà muốn có Giác đến với ḿnh, th́ cần phải suy nghĩ thật châu
đáo mọi lẽ, phân biệt kỳ được Chơn và
Vọng.
Lại nữa, thói quen là Tánh tự-nhiên thứ nh́ của người ta ; nó lẫn lộn với
Tánh Thiên-nhiên. Nay muốn đả phá cái Tánh thứ nh́ bất chánh kia th́ cũng
phải dùng lắm công phu mới nên được. Ấy vậy nên mỗi tư-tưởng, mỗi lời nói,
mỗi hành vi, nhứt nhứt phải chờ Chơn-tâm suy xét trước, rồi sau sẽ
thi-thố. Làm được như thế lâu ngày thành thói quen tốt rồi ḿnh tự chủ
được.
Kiến-Tánh
Đến đây, chúng ta đă hiểu rằng người ta ai cũng có bẩm thọ của Trời một
điểm Linh-quang để làm tự Tánh (Thiên mạng chi vị Tánh). Cái Tánh nầy,
Nho-giáo gọi Bổn-tánh, Thích-giáo gọi Phật-tánh, Đạo-giáo gọi Linh-quang,
tiếng thông thường gọi Linh-hồn. Danh-từ tuy khác mà tựu-trung vốn một.
Tánh bổn-nhiên vốn lành và sáng, cũng gọi là nguồn Thiên-lư ở trong người.
Nó vốn không h́nh-tướng, không sanh-diệt, cho nên kinh Phật dạy rằng : Nếu
Hành-giả muốn biết Phật-tánh th́ phải xa ĺa cái tướng Tâm-duyên, cái
tướng Ngôn-thuyết, cái tướng Danh-từ (Ly Tâm-duyên-tướng, ly
Ngôn-thuyết-tướng, ly Danh-tự-tướng). Tuy thường nói Phật-tánh là Không ;
nhưng chẳng phải Không hẳn như cây, như đá, mà thật nó có một cái
Chiêu-minh linh-giác của Trời phú cho Người.
Lẽ ấy nên người ta lại nói Có . Sở dĩ người ta nói Tánh Không là nhắm vào
bản thể yên lặng của nó, c̣n sở dĩ nói Tánh Có là nhắm vào cái Chiêu-minh
linh-giác , thường hay biến thiên kia vậy. Cái lẽ nói Có Không, nói Không
Có nầy phải dùng phép Tâm lănh Thần hội để giác-ngộ th́ mới rơ được.
Tánh bổn nhiên huyền-diệu lắm ; nhưng khi người ta nhập Thế-cuộc,
Phàm-thân mỗi ngày một khôn lớn, sự giao-tiếp với hoàn cảnh bên ngoài, mỗi
ngày một lan rộng ; nhơn đó rồi Phàm-thân sanh ḷng ham muốn vật chất,
kích-thích Tánh bổn-nhiên biến sanh một trạng-thái thứ nh́, mạng danh là
Tánh Khí-chất .
Tánh Khí-chất.- Theo danh-từ mà cắt nghĩa th́ Tánh nầy do sự cảm nhiễm
Khí-chất mà sanh, cho nên nó khuynh hướng về Phàm-trần, cầu sự ích-lợi cho
Nhục-thân. Những cái Mê-chấp như : Ngă-tướng, Nhơn-tướng,
Chúng-sanh-tướng, Thọ-giả-tướng ban đầu th́ nó là tư-tưởng, nhưng về sau
lại thành tướng ở trong Tâm-gian và chính những Tâm-tướng Mê-chấp nầy che
khuất nguồn Thiên-lư ở trong người, cũng như mây che mặt Nhựt kia vậy.
Kiến Tánh nghĩa đen là thấy Tánh ; nhưng đây có nghĩa là đả phá tất cả
Vọng-tâm, làm cho Chơn-tâm trở lại tự nhiên nhi nhiên. Công-phuấy gọi là
Minh-tâm ; mà Minh-tâm được th́ kiến-tánh cũng như mây đen tan hết th́ mặt
Nhựt tỏ rạng. Trong bài trước, chúng ta đă dùng phép Tŕ-giới mà kềm dẫn
ba căn Thân vào cơi Chơn, tức là từ bỏ được một phần Thô-tướng do bên
ngoài truyền vào. Tuy vậy mặc dầu mà cái Mê-chấp đă thành Tâm-tướng rồi,
và chúng nó vẫn c̣n lưu-ẩn trong Tâm-gian.Nay muốn phá sạch những cái
Tâm-tướng Mê-chấp ấy, th́ chúng ta phải thực-hành những phương-pháp dưới
đây :
Huờn-hư,
Thủ-nhứt.
Tịnh-định,
Trí-huệ.
Huờn-hư.- Người sanh ra tự nhiên có cái năng-lực biết , mà hễ biết th́
nhớ, nhớ th́ chứa. Bởi cái chứa ấy nên Tâm bị cái Ngă-chấp, Pháp-chấp
tê-tắc. Huờn-hư nghĩa là đem Tâm trở về cảnh Không, để quên những cái
Mê-chấp đó, tức là đả phá những cái Mê-chấp-tướng.
Phương-pháp thực-hành : Trước hết chúng ta nên ở vào chỗ vắng vẻ. Bên
ngoài Ngũ-quan không tiếp xúc ngoại cảnh ; bên trong Tâm ở yên vào cảnh
Không ; mà hễ Không được rồi phải Không nữa, cho đến Không Không cốt yếu
làm cho Tâm với Cảnh nhứt tề yên lặng. Lúc bấy giờ chúng ta sẽ quên. Quên
vật, quên người, quên trong, quên ngoài, quên đến cái Ta-giả-hiệp nữa.
Quên được như thế là đă vào cảnh Không, rồi đặt vào cảnh Không ấy điểm
Chiêu-minh Linh-giác của Tánh bổn-nhiên, tứclà Thủ-nhứt.
Thủ-nhứt.
Tâm vốn là năng-lực hay biết ; mà cũng v́ hay biết, cho nên Tâm mới phân
biệt tốt xấu, lành dữ. Nói tóm lại, bởi cái ǵ Tâm cũng biết, cho nên Tâm
phải tán loạn.
Thủ-nhứt nghĩa chánh là đặt cái Chiêu-minh linh-giác vào giữa Tâm không,
cầu Thiên-lư chủ-trương cách hành-vi động-tác của ḿnh ; nhưng Tâm đă tán
loạn từ trước, như chúng ta đă biết ; hễ tư-tưởng nầy dứt th́ có tư-tưởng
khác nổi lên mà tiếp tục, cũng như những làn sóng trên mặt biển, hết làn
nầy th́ có làn khác liên-tiếp không lúc nào gián-đoạn. Người ta thường
thí-dụ Vọng-tâm như Vượn chuyền cây ; đương ở nhánh nầy lại chuyền đến
nhánh khác, chẳng hề ngừng nghĩ. Tâm đă quen như thế ; nay nghiễm nhiên
cầm nó lại một chỗ th́ chưa phải dễ dàng. Ấy vậy nên ban đầu phải tập
trung cả Thức-thần, Trí-ư về một chỗ, rồi lần hồi vỗ-về cho Tâm được
yên-lặng ; mà hễ Tâm yên lặng, rồi phải yên lặng nữa cho đến tịnh cực th́
cái Chiêu-minh Linh-giác xuất hiện tức là thực hành phép Tồn-tâm của
Nho-giáo. Mạnh-tử nói : Học vấn chi Đạo vô tha, cầu kỳ phóng Tâm nhi dĩ hỷ
. Nghĩa là cái phép học vấn chẳng có việc ǵ khác hơn là đem lại cái Tâm
đă sổ kia mà thôi. Thế là bước đầu trong công-phu Thủ-nhứt .
Phải hiểu rằng Tâm mới vừa an trụ ; bên trong vẫn c̣n lưu ẩn những cái
Tế-tướng (Ngă-tướng, Nhơn-tướng, Chúng-sanh-tướng,Thọ-giả-tướng), nhứt là
ḷng tham tài, háo sắc, háo danh càng ẩn núp trong chỗ sâu kín ; thành
thử, khi đă Tịnh được được Tâm rồi, phải Tịnh nữa và trong giờ đại tịnh
nầy, nếu có một Vọng-niệm nào mạnh khởi th́ chúng ta phải ngăn nó tức th́.
Đơn kinh dạy rằng : Ŕnh nó như mèo ŕnh chuột, hễ thấy lố dạng th́ đánh
đổ ngay, đừng cho nó thành h́nh. Ngăn rồi th́ lại phải theo chưn nó mà t́m
đến nguồn gốc, để đả phá cho thật sạch.
Đây lại phải cần đến phép Quán-tưởng.
Ví-dụ : Ta có tật háo-sắc.
Trong giờ tịnh-định, nếu có một tư-tưởng háo-sắc dấy lên, th́ chúng ta
đánh đổ ngay và phải nghĩ rằng : Nhục-thân vốn do Tinh cha, Huyết mẹ cấu
sanh, và nhờ công dưỡng dục mẹ cha mà thành ; măi đến khi tử hậu th́
Nhục-thân thúi hôi và tan rả : xương thịt th́ trả về đất ; máu huyết th́
trả về nước, vân vân ... Khí chất tụ gọi là sanh ; Khí chất tán gọi là tử.
Vậy thân thể là vô thường, chớ không phải vĩnh viễn ! Thế mà Chúng sanh
ngộ nhận Nhục-thân là chơn thật rồi lo củng cố nó, cầu cho nó sung sướng
và sống lâu, để rồi gây ra phiền năo cho muôn đời. Mỗi việc mỗi quán tưởng
như thế cho đến đầu đuôi manh mối của nó ; lâu ngày th́ Chơn-tâm sanh
nhàm-chán vật-chất mà Tánh bổn-nhiênữan-trụ vào chỗ Chơn-không, rồi giữ
lấy cái Chơn-không ấy gọi là Thủ-nhứt vậy.
Tịnh-định.
Tịnh-định là Tâm yên lặng ; không suy nghĩ, không tư-lự ; nhưng phải có
cái Linh-giác vi chủ. Tịnh cũng như phép Huờn hư ; Định cũng như phép
Thủ-nhứt. Tịnh-định tức là hai phép Huờn-hư và Thủ-nhứt hiệp thành một
công phu.
Trước kia chia công phu nầy ra hai phép, để cho dễ nhận định Tâm-trạng.
Bây giờ lại hiệp hai phép thành một công phu, để chỉ rằng Tâm lúc bây giờ
phải Hư-nhứt ; nghĩa là Tâm Không, mà ở trong cái Không ấy có một cái
Biết, tức là cái Chiêu-minh Linh-giác của Trời phú cho Người, để chủ-tể
Phàm-thân. Nên hiểu rằng : cớ sở dĩ nói Không là không Thức-tánh, không
H́nh-tướng ; c̣n cớ sở dĩ nói Có là có một điểm Chiêu-minh Linh-giác ở
trong Tánh thiên-nhiên xuất hiện, vừa sáng-suốt, vừa Thiêng-liêng. Hoặc
nói rơ ra là Tâm không, nhưng trong cảnh Không ấy lại có một cái Biết
hồn-nhiên, cũng như ḷng dạ của đùa trẻ sơ sinh kia vậy. Đơn-kinh gọi đó
là Xích tử chi Tâm . Mạnh-tử nói : Bậc Đại-nhơn chẳng hề bỏ mất cái Tâm
hồn nhiên của đứa trẻ thơ vậy .
(Đại-nhơn giả bất thất kỳ Xích tử chi tâm giă dă).
Tịnh-định là theo con đường Trung-đạo để rồi nương cái Hữu-vi mà t́m hiểu
cái vô-vi, nương cái vô-vi mà t́m hiểu cái Hữu-vi, rồi vượt lên trên cái
nhận thức của giác quan, th́ mới có thể giác ngộ được Bổn-tánh. Thế gọi là
Kiến-tánh hay Dưỡng-tánh.
Giữ được Tâm trạng nầy lâu lâu th́ Tâm thu về một mối Mặc nhiên , rồi cái
Mặc nhiên nầy sẽ chiếm một địa vị ưu-tiên ; nó chẳng bị tư-tưởng khác xóa
nḥa, hay lôi cuốn. Nhờ cái Linh-giác đó mà người ta nhận-định rơ cái
Ngă-chấp và Pháp-chấp, để rồi loại trừ ra ngoài.
Chỗ nầy Trang-Tử nói rằng : Dùng Thần mà cảm thông chớ chẳng phải
lấyTrí-thức mà cứu xét .
Công-phu đến đây là hoàn-thành Minh-tâm Kiến-tánh. Sở-dĩ nói như thế là v́
lúc bấy giờ trong ḷng chẳng c̣n những tật hư, nết xấu. Và bốn tướng
(Ngă-tướng, Nhơn-tướng, Chúng-sanh-tướng, Thọ-giả-tướng) đều Không. Trong
cơi Chơn-tâm chỉ có cái Tánh bổn-nhiên chủ trương mà thôi. Đó là chỗ mà
Nho-giáo gọi là Nhơn-dục tận tịnh Thiên-lư lưu hành. Nghĩa là ḷng
Nhơn-dục yên tịnh th́ Thiên-lư lưu hành.
Người ta vốn có một cái Biết, mà cái Biết ấy lại do hai lối : một là
Trí-thức hai là Trí-huệ
Trí-thức là một năng-lực nhờ học-vấn, tư lự để mở mang ; nó là ngọn đuốc
dẫn đường, chỉ nẻo cho chúng ta t́m lẻ phải, điều quấy.
Thành thử học-vấn càng ngày càng phải mở mang cho thật rộng, để thâu thập
kiến-văn, càng nhiều càng hay. Khoa-học vật-chất nhờ Trí-thức phát-minh
biết bao cơ-khí cực-kỳ tinh-xảo ; nhưng, đối với Đạo-học, Trí-thức chưa đủ
thông-đạt lẽ tinh-vi chơn-lư, thành thử phải nhờ đến Trí-huệ nữa, mới có
thể cảm thông với Trời Đất, đặng lănh hội lẽ mầu-nhiệm của Tạo-vật.
Trí-huệ là ǵ ?
Trí-huệ là cái năng-lực vô h́nh ảnh, vô phương-sở ; nó là cái Chiêu-minh
Linh-giác ở trong Tánh Bổn-nhiên, tức là nguồn Thiên-lư ở trong người. Ông
Vương-dương-Minh nói rằng : Bổn-thể của Tâm là Tánh, cũng gọi là Thiên-lư,
cái Chiêu-minh Linh-giác của Thiên-lư là Lương-tri, tức Trí-huệ vậy.
Trí-huệ tự-nhiên cảm-ứng mà biết ; chớ
chẳng phải suy nghĩ, rồi sau mới biết, như Trí-thức. Trí-thức nhờ học-vấn
để khai-hóa ; c̣n Trí-huệ lại nhờ lặng lẽ làm phương xuất
hiện.
Đức CHÍ-TÔN giáng cơ dạy rằng : Khi tạo dựng Trời Đất, rồi Đức Ngài phân
tánh mà sanh ra vạn-vật . Theo câu nầy mà suy rộng ra, th́ chẳng những
người ta có một điểm Tánh của Trời ban cho, mà cả vạn-vật
cũng đều có nữa. Câu Thánh-ngôn nầy cũng như Phật nói : Nhứt thiết
Chúng-sanh giai hữu Phật tánh . Cái Phật Tánh nầy vốn tự-nhiên tự-tại : ở
nơi Phật, nó không tăng ; ở nơi Chúng-sanh nó không giảm ; nhưng,
Chúng-sanh sở dĩ chẳng được sáng suốt như Phật chỉ v́ vật-dục sở-tế, khí
bẩm sở-câu mà Phật Tánh bị che khuất. Th́ công-phu Minh-tâm Kiến-tánh
trước kia đă làm cho Trí-huệ xuất-hiện, rồi bây giờ chúng ta phải giữ nó
cho c̣n măi măi, để làm đuốc thiêng rọi đường cho ḿnh.
Mà muốn bảo thủ Trí-huệ, phải làm sao ? Th́ cũng không ngoài phương pháp
Tịnh-định đă nói trong đoạn Minh-tâm Kiến-tánh.
Xin xem lời của Đức Lăo-quân kế đây th́ rơ rằng : Muốn có Huệ cần phải giữ
Tâm thanh-tịnh vô-vi, tức là phương-pháp Tịnh-định đă nói.
Vô danh Thiên địa chi thỉ ; hữu danh vạn vật chi mẫu. Cô thường vô dục dĩ
quang kỳ diệu ; hữu dục dĩ quang kỳ Khiếu. Thử lư ng-giả đồng xuất chi vị
danh ; đồng vị chi Huyền, huyền chi hựu huyển chúng diệu chi môn . Nghĩa
là cái không tên th́ có trước Trời Đất ; cái có tên là nguồn sanh vạn-vật.
Bởi vậy nên người nào chẳng có ḷng ham muốn th́ mới sáng được cái diệu
(tức Trí-huệ), c̣n kẻ có ḷng ham muốn th́ chỉ sáng cái Khiếu (tức
Trí-thức) mà thôi. Cả hai năng-lực nầy đồng do một nguồn mà ra ; nhưng
khác tên (Trí-thức và Trí-huệ). Cả hai đều là mầu-nhiệm ; nhưng cái
nhiệm-mầu ở trên cái mầu-nhiệm kia mới thật là tinh-vi hơn hết.
Thế đủ hiểu rằng : muốn dưỡng Tánh bổn-nhiên th́ phải giữ Tâm vô-dục. Đạo
học cốt ở chỗ khai thông Trí-huệ đó ; ngoài cái Chánh-pháp ấy chẳng c̣n
phép nào khác nữa. Bậc chơn tu châm châm làm cho trí-huệ minh-mẫn đến cùng
cực, để phân biệt điều thiện, điều ác, mà làm theo, hay xa lánh ; ở đời,
họ coi người, coi vật cũng như thân họ, coi việc nước cũng như việc nhà họ
và coi tất cả Trời Đất vạn-vật như một Thể. Đời sống của họ điềm đạm theo
Thiên-lư, chớ không dùng Trí-thức mà cưỡng-chế Đạo-tâm.
DƯỠNG-KHÍ
Lời dẫn giải.- Người ta ai ai cũng có một phần thể-xác, một phần Khí và
một phần Hồn. Ba phần nầy hợp với nhau th́ người ta mới có sự sống ; Đạo
thơ gọi ba phần nầy là Tinh-Khí-Thần (Tam-bửu) mà chúng tôi giảng giải kế
đây :
Tinh.- Là bổn-chất của vạn-vật ; nguyên nó là một chất hơi nước bàng bạc
lưu chuyển trong không gian. Mỗi loài vật phải hàm súc một phần Tinh ấy
trong thân thể ḿnh th́ mới sống và sanh hóa thêm ra. Đại
khái như ở trong Sanh-vật, Tinh là một năng-lực sanh-sản ; ở trong
Thảo-mộc, Tinh là một sức mạnh đâm chồi, trổ trái. C̣n như ở trong thân
thể người ta, Tinh thường bốc lên một thứ hơi, mạng danh là Khí.
Khí.- Theo văn-chương học mà cắt nghĩa, Khí là một thứ hơi, như hơi thở
người ta, hay hơi gió thổi trong không trung. Người ta nhờ có Khí trong
châu thân mới sống, mới có sức khỏe và sức mạnh. Khí là chất hơi của Tinh
phát tiết. Bên trong, nó điều ḥa Ngũ-khí của năm Tạng ; bên ngoài, nó bao
bọc chung quanh thân thể. Người ta có Huệ-nhăn trông thấy nó và định được
kẻ dữ , người lành với những màu sắc của nó. Khí
bị động th́ Khí ấy thành ra một thứ hơi của thân thể tiết ra ; cho nên gọi
là vật-chất-khí. Lẽ ấy, hễ thân thể trược th́ Khí trược ; thân thể trong
sạch th́ Khí thanh-khiết. C̣n như người biết theo Đạo-học, hàm dưỡng khí
th́ Khí có năng lực giúp cho Giác-tánh vững vàng minh-mẫn ; và nếu
công-phu tinh-tiến nữa th́ Khí có thể cấu hợp với Giác-tánh mà
tạo thành Chơn-thần, tức nhị xác thân của nguèời Chơn-tu.
Thần.- Là nguyên lư thông minh ; người ta nhờ nó mà học hỏi được sự nầy,
lư nọ ; nói tắt là người ta nhờ Thần mà được khôn ngoan và đứng đầu trong
vạn-vật. Nếu người ta theo Đạo-học mà dưỡng Thần th́ người có thể cảm
thông với Trời Đất mà quán triệt Càn-khôn vạn-vật và, ngày sau, người ta
cũng nhờ đó mà giải-thoát kiếp Luân-hồi Sanh-tử.
Trái lại, nếu để cho vật-thể lôi cuốn, Thần khuynh hướng theo vật-chất,
gây ra tội lỗi th́ người phải bị đọa trong ṿng Sanh-tử.
Thất-t́nh tuy do thân-thể phát sanh, song chủ-động của Thất-t́nh là Thần.
Đó là chỗ mà kẻ tu hành cần lưu-tâm ḍ xét cho lắm để tự chủ lấy ḿnh.
Tóm lại Tam-bửu : Tinh-Khí-Thần ở trong châu thân người ta, có thể làm ra
phiền khổ, mà cũng có thể tạo nên hạnh phúc. Bởi v́ theo lẽ tự-nhiên, nếu
người ta chẳng theo Đạo Trời mà tu dưỡng ba món nầy th́ không những kiếp
Hiện-tại chẳng được an nhàn, mà khi chung qui, kiếp Vị-lai cũng phải đắm
đuối trong luật Nhơn-quả Luân-hồi nữa. Trái lại, nếu người ta biết theo
Đạo-học mà luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hiệp Thần, th́ người ta đặng sáng
suốt mọi lẽ Thiện-Ác để theo hoặc tránh, và nếu công-phu tinh-tiến nữa th́
người ta có thể huờn Nhị-xác-thân để vân-du Thiên-ngoại. Nhưng đây, chúng
tôi chỉ nghị-luận phép Dưỡng-khí để giúp nguồn Chơn được vững vàng sáng
suốt, tức là thực-hành phép Tự-giác thôi.
Vậy Khí ra sao ?
Ngoài những lời lẽ mà chúng tôi giải-thích trong trương trước, Thầy
Mạnh-Tử gọi phần Khí ở trong thân-thể người ta là Hạo-nhiên-khí ; nguyên
lai khí ấy là một phần Khí Âm-Dương Trời-Đất chia cho ; nó rất khó
giảng-giải ; nhưng Ông miễn cưỡng nói rằng : Kỳ vi Khí giả chí đại, chí
cường, dĩ trực dưỡng nhi vô hại, tắc tắc hồ Thiên địa chi gian . Nghĩa là
cái ở trong người mà gọi là Khí đó rất lớn, rất mạnh, nếu người ta khéo
nuôi mà chẳng hại, th́ nó có thể đầy khoảng TrờI Đất.
Đại-ư câu nầy nói rằng Khí Hạo-nhiên có thể đầy khoảng Trời Đất là v́ Khí
ấy nguyên lai là Khí Tiên-thiên (Khí có trước Trời Đất) phân tán ra. Khi ở
trong châu thân người ta th́ Khí ấy trở nên trọng trước hơn, mạng danh là
Hậu-thiên Khí (Khí có sau Trời Đất). Nay, nếu người ta biết theo Đạo-pháp
mà lọc-lược th́ Khí Hậu-thiên sẽ đồng hóa với Khí Tiên-thiên mà trở nên
rất mạnh và rất lớn. Đó là cái thuyết Âm-Dương của Nho-giáo truyền dạy từ
ngàn xưa.
Kế đây, chúng tôi xin chép bài báo nói về Con người trong Vũ-trụ của
Bác-sĩ Nguyễn-văn-Ba, ấn hành trong Tập chí Bách-khoa số 6, ngày 6-161957,
để chứng minh rằng Khoa-học Tây-phương ngày nay đă công nhận cái thuyết
Âm-Dương của đạo-học Đông-phương.
Bài báo như vầy :
Con người, cục đất, miếng sắt, khúc gỗ, quyển sách ta cầm, không khí ta
thở, Mặt trời chiếu sáng, tất cả đều do một thể mà ra, do Điện-tử cấu
thành. Điện-tử cấu tạo muôn loài vạn-vật chỉ có một mà thôi, nhưng do cách
sắp đặt của Điện-tử mà chất khác nhau, c̣n thể th́ có một. Quan niệm
vạn-vật nhứt thể của Phương-Đông được hoàn toàn nh́n nhận, từ khi trái bom
nguyên-tử đầu tiên nổ tại HIROSHIMA. Vậy chớ Điện-tử là ǵ, Nguyên-tử là
ǵ, mà có liên-quan đên sự nghiên-cứu y-lư của ta ?
Một con vụ đang quây tít trước mắt, bỗng nhiên càng nhỏ, càng nhỏ lại quây
tít càng mau hơn, nhỏ đến đỗi phải sắp như vầy :
100.000.000.000.000.000.000.000.000 con số liên nhau nối dài như thế và
mau đến nỗi một giây đồng hồ nó tự quây được 1.000 triệu lần.
Hột Điện-tử là con vụ nhỏ như thế mà quây mau như thế đó. Mănh lực
Điện-tử xô đẩy, hay thâu hút nhau, gọi là Điện (électricité) ; áp lực
Điện-tử tạo chung quanh nó gọi là Từ-điện (magnétisme). Có Điện-tử-âm và
Điện-tử-dương : hột Điện-tử-dương ở giữa, một hoặc nhiều Điện-tử-âm chạy
chung quanh, như hành-tinh xoay chung quanh mặt Trời, là một Điện-tử-hệ
thường gọi là Nguyên-tử. Điện-tử-âm chạy chung quanh Điện-tử-dương với
tốc-lực 150.000 cây số một giây đồng hồ, nếu phá được Nguyên-tử th́ hột
Điện-tử sẽ bị bắn tung ra, với tốc-lực tương đương, tạo nên một sức mạnh
lạ thường, gọi là Nguyên-tử-lực.
Số 1 với 28 con 0 nguyên-tử là thành một người, cũng như số 1 với 28 con 0
người th́ to bằng Mặt Trời, đang chiếu chúng ta : con người ở giữa đường
Mặt Trời và Nguyên-tử ; của đại-khối và tiểu-khối vậy. Đông-y chúng ta dạy
: Nhơn tho Thiên-địa chi trung dĩ sanh. Thật không phải là ngoa chút nào .
Vậy chúng ta hiểu rằng hai cái nguyên-tố Âm-Dương tạo dựng Vơ-trụ sanh hóa
vạn-vật kia, Khoa-học gọi Điện-tử Âm và Điện-tử Dương hiệp thành Nguyên-tử
; c̣n Đạo-học th́ gọi Khí-Âm và Khí-Dương hiệp thành Khí-cơ. Danh-từ tuy
khác mà tựu-trung vốn một. Kẻ học Đạo ngày nay nhờ Khoa-học mà xác nhận
Chơn-lư với một cách rơ ràng. Ấy thật là công-đức của Khoa-học không phải
nhỏ vậy.
Phép Dưỡng-Khí
Bây giờ, xin bàn đến phép Dưỡng-khí, ông Mạnh-Tử nói rằng : Thị tập nghĩa
sở sanh giả, phi nghĩa tập nhi thủ chi . Nghĩa là phép Dưỡng-khí là cứ
thực-hành Đạo nghĩa hoàn-toàn rồi cái tinh-thần đạo nghĩa hợp mà sanh Khí
; chớ chẳng phải dùng sức mạnh để chụp lấy Khí.
Theo câu nầy mà suy rộng ra, chúng ta hiểu rằng kẻ học nếu muốn Dưỡng-khí
th́ bắt đầu hoán cải Tâm-lư của ḿnh từ sự ăn ở, hành-động hằng ngày, mỗi
mỗi phải có tiết-độ, mọi cách xử sự ... phải thích nghi đạo đức, rồi c̣n
phải tập ăn chay, kiêng hút á-phiện, kiêng uống rượu mạnh, cà-phê, nước
trà đậm, hút thuốc lá, nhai trầu, vân vân... nhứt là phải tiết dục và
tuyệt dục, để tích trử Tinh-ba được đầy đủ ; v́ Tinh-ba là chất nước sẽ
hóa ra Khí. Nói rút lại kẻ học phải làm tṛn Nhơn-đạo và thực-hành những
phép Tŕ-giới, Huờn-hư, Thủ-nhứt, Tịnh-định đă nói trong trương Hạ-thừa và
Thượng-thừa trước kia, để gột rửa những tật hư, nết xấu cho thật sạch và
tập rèn tánh tốt, hạnh lành cho đầy đủ. Tu tánh xong rồi, Mạng, (tức là
Khí) sẽ theo đó mà sanh trưởng ; cho nên sách Kim-Tiên trực-chỉ nói rằng :
Tánh phận chi công thiệt thị phụ Mạng chi cực . Nghĩa là công-phu tu Tánh
trước thiệt là phép tu Mạng rất mực vậy.
Tại sao ?
Bởi v́ Tánh với Mạng tuy là hai vật ; song sự tác-động vốn một ; thành thử
hễ Tánh tu th́ Mạng sẽ theo đó mà kết liễu.
Có điều nên nhận-định cho rơ là thay v́ nói hai chữ Tánh Mạng, ông Mạnh-Tử
lại dùng hai chữ Chí và Khí để giảng luận. Ông nói rằng : Chí giă Tâm chi
chỉ dă . Nghĩa là Tâm ngừng chỗ nào th́ Tâm-trạng đó gọi là Chí. Thế th́
chữ Chí chữ Tâm, chữ Tánh vốn một chớ chẳng phải khác ; c̣n chữ Mạng th́
ông gọi là khí Hạo-nhiên ở trong thân người ta. Đó là ông Mạnh-tử dùng
danh-từ riêng biệt của Ông mà thôi. Kẻ học chớ khá lầm lẫn.
Chí với Khí là hai vật, nay như hỏi tại làm sao hai vật lại có sự tác động
như một ? Th́ Ông Mạnh-Tử bảo rằng : Chí là tướng Soái của Khí ; hễ Chí
đến th́ Khí sẽ theo mà đến. Xem như Chí nhứt tắc động Khí ; Khí nhứt tắc
động Chí dă. Kim phù quệ giả, xu giả, thị Khí giă, nhi phản động kỳ Tâm .
Nghĩa là hễ Chí chuyển nhứt th́ động đến Khí ; Khí chuyển nhứt th́ động
đến Chí. Nay, giả tỉ như vấp té, chạy mau, ấy thuộc về Khí ; nhưng lại
động đến Tâm.
Đó đủ chứng minh Chí Khí liên hệ với nhau rất mật thiết ; cho nên hễ muốn
Dưỡng-khí th́ phải : Tŕ kỳ Chí nhi vô bạo kỳ Khí. Nghĩa là phải giữ Chí
cho kiên cố mà cũng đừng giục thúc Khí mau lớn . Đại-ư nói rằng chúng ta
cứ bền ḷng cho phép Tịnh-định đă nói trước kia mà tập rèn cho được viên
măn, th́ Khí tự nhiên theo đó mà sanh.
Phép Dưỡng-khí lâu lâu th́ có ấn chứng ; nhưng mặc dầu biết có Khí sanh mà
chu&ng ta chẳng khá điều chỉnh nó, Tâm chẳng khá động mà cũng chẳng khá
hối thúc cho Khí mau trưởng thành (Tất hữu sự yên chi vật chánh, Tâm vật
động, vật tự trưởng dă) Mạnh-Tử.
Người nước Tống trồng lúa ; anh ta muốn cho lúa mau lớn ; cho nên mới ra
đồng nhớm gốc lúa. Làm như vậy là anh ta muốn cho lúa mau lên cao ; nhưng
sự thật là anh ta hại lúa chết hết. Th́ phép dưỡng khi cũng giống như cái
thuật trồng lúa vậy. Thuật trồng lúa th́ phải bón phân, nhổ cỏ, rồi
tự-nhiên lúa theo thời tiết mà cao lên ; chớ chẳng phải nhớm gốc cho nó
chóng lớn. Phép Dưỡng-khí cũng vậy ; kẻ học cứ ung dung làm việc đạo-đức,
ung-dung tịnh-Dưỡng Khí-Thần, rồi Khí sẽ theo lẽ tự nhiên mà sanh trưởng,
chớ chẳng khá bức bách cho Khí chóng lớn.
Tóm lại : theo ư của ông Mạnh-Tử th́ người nào Tŕ chí Dưỡng-khí viên măn
th́ họ có tinh-thần đồng-nhứt với Vơ-trụ : họ đứng trước giàu sang không
bị mê hoặc ; nghèo hèn không dời đổi, uy-vơ không khuất-phục. Thật quả
vậy, người nào đă có tinh-thần ấy th́ mới có thể vượt qua khỏi ṿng
Trần-trục mà sống với cái thuyết Thiên-địa vạn-vật nhứt thể .
Như gương trước đă nói về Tam-bửu : nếu người ta biết theo Đạo-pháp, luyện
Tinh hóa Khí, luyện Khí hiệp Thần mà huờn nguyên Nhị-xác-thân, th́ bậc
Chơn-tu ấy có thể xuất Chơn-thần vân-du Thiên-ngoại. Đó là cái lẽ Thân hữu
ngoại thân của người xua ; nhưng, đây chúng tôi bàn cái phép Dưỡng-Khí cầu
cho Tâm-hồn được sáng suốt và tinh thần đạo-đức được lành mạnh, đủ làm
người truyền giáo mà thôi.
BẢO THỦ ĐẠO-TÂM
Chúng ta tạm câu khẩu quyết của Nho-giáo, để làm bài kết luận phương pháp
Minh-tâm Kiến-tánh và chúng ta cũng nương theo thứ tự đó mà Bảo-Thủ
Đạo-Tâm của ḿnh cho được trường-tồn, vĩnh-viễn.
Khẩu-quyết :
Nhơn tâm duy nguy.
Đạo tâm duy vi
Duy tinh, duy nhứt.
Doăn chấp quyết trung.
Giảng-lư.
Người ta vốn có một cái Tâm để làm chủ Thân-phàm mà thôi ; nhưng, khi Tâm
c̣n tự-nhiên nhi nhiên th́ gọi là Đạo-tâm. Nó vốn không hương sắc mùi vị ;
cho nên gọi là Nhỏ (Đạo-tâm duy vi). Đến chừng Tâm trước nhiễm vật-chất,
lại gọi là Nhơn-tâm. Tŕnh-Tử nói : Đạo-tâm là Thiên-lư ; c̣n gọi Nhơn-tâm
là Nhơn-dục . Đó là chỗ chia hai đường siêu đọa, nếu người ta cứ theo cái
Tâm bất chánh là Nhơn-dục mà hành động, th́ chẳng những đời hiện tại không
được an-nhàn, mà kiếp vị-lai cũng c̣n phải chịu những quả-báo chẳng lành
nữa ; cho nên nói Nhơn-tâm là nguy hại (Nhơn tâm duy nguy).
Duy tinh, duy nhứt
Chữ Duy tinh chỉ về kẻ học phải giữ phần tinh-túy của cái Tâm, tức
Đạo-tâm. Chữ duy nhứt chỉ về sự chuyên lấy một, tức Trí-huệ.
Đại-để cũng như phép Huớn hư, Thủ nhứt đă giảng trong bài trước.
Huớn-hư là đem Tâm về cảnh Không, để t́m lại phần tinh-túy của Tâm. Mà hễ
Tâm hư-không th́ Tánh bổn-nhiên xuất-hiện. Thủ-nhứt tức là chuyên giữ cái
Một (Tánh bổn nhiên, hay Thiên-lư, hay Trí-huệ). Doăn chấp quyết trung
Đại-ư nói rằng kẻ học phải tuân theo Đạo Trung th́ mới Duy tinh, duy nhứt
được.
Mà Đạo-Trung ra sao ?
Không thiên bên nầy, không thích bên kia, gọi là Trung . Nghĩa là Tâm
chẳng chịu thiên về thái-quá, chẳng lịch về bất cập th́ mới ở theo đúng
Đạo Trung . Hoặc nói rơ ra là Tâm chưa có mừng, giận, thương, vui, khuấy
nhiễu th́ gọi là Trung . Trong cái Tâm hư không ấy, nếu phát lên một cái
Biết, th́ cái Biết ấy do Thiên-lư tự-nhiên ; duy cái Biết trúng tiết nầy
mới phải là phương pháp đạt Đạo Trung nghĩa là Biết do Tánh bổn-nhiên phát
động mới hạp với Đạo Trời.
Nhắc lại, bài trước đă nói phép Tịnh-định. Tịnh tức là làm cho Tâm
hư-không, Định tức là trong Tâm chỉ có một cái Biết Hồn-nhiên vi chủ.
Đơn kinh gọi là Xích tử chi Tâm . Trong cái Tâm Xích-tử ấy có một năng lực
trực-giác huyền-diệu, tức là Huệ vậy. Kẻ học phải cố giữ ǵn nguồn
Thiên-lư ấy ; để làm bổn-ngă Chơn-thật của ḿnh. Mạnh-Tử nói : Bậc
Đại-nhơn chẳng hề bỏ mất cái Tâm hồn-nhiên của Trẻ thơ . Đạo nhơn giả bất
thất kỳ xích tử chi Tâm giă dă.
Vả lại, công-phu Dưỡng-khí mới vừa thành tựu, đạo-tâm mới vừa hồi-phục,
ḷng Nhơn-dục mới vừa đánh tan, nói tóm lại là tinh-thần đạo-đức mới
phát-khởi, chớ chưa được vững chắc, cũng như Chim non, tuy ra khỏi vỏ cứng
rồi ; song chưa có thể tung mây, lướt gió được ; thành thử chúng ta phải
lưu tâm bảo tồn Đạo-Tâm cho đến ngày viên-măn. Nên biết rằng : Người
Truyền-giáo c̣n phải lặn lội trong cơi đời để độ thế
; nếu hờ-h ng th́ sẽ bị vật-dục lôi-cuốn, Nhơn-tâm sống lại, đàn áp
Đạo-tâm. Thiên-lư phải v́ đó mà lu lờ tiêu diệt. Như thế là uổng công tu
niệm ngày trước.
Vậy phải làm thế nào để Bảo-Thủ Đạo-Tâm ?
Nhứt là phải giữ Tâm tịnh-định, như đă nói trong bài trước. Nhưng tịnh tâm
th́ lúc nào cũng phải tịnh ; Định-tâm th́ lúc nào cũng phải định. Nghĩa là
lúc đi đứng, nằm ngồi, khi ăn, khi làm; nhứt thiết phải tịnh-định ; chớ
chẳng nên bắt chước những người tinh-định trong giờ ngồi Thiền ; c̣n khi
ra ngoài th́ Tâm phóng như Vượn chuyền cây. Hễ Tâm định-tịnh vững vàng,
th́ Khí theo mà đến sau. Tâm-khí nương nhau mà thành một tinh-thần đạo-đức
sáng suốt vững vàng.
TỔNG LUẬN
Tín-đồ Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ chia ra hai bậc : Hạ-thừa và Thượng-thừa.
Hạ-thừa là hạng người c̣n ở thế, có gia-đ́nh, lo làm những bổn-phận làm
người, như : đối với gia-đ́nh ; đối với quốc-gia, Xă-hội ; đối với người
bổn-đạo, vân vân ... Kỷ cương làm người, Tân-luật Đại-Đạo định
là Tam-cang, Ngũ-thường, Tam-tùng, Tứ-đức. Về mặt Tôn-giáo, người Tín-đồ
phải chăm theo Ngũ-giới-cấm, Tứ-Đại Điều-Qui, với người trong Đạo phải thù
tạc văng lai với nhau trong những việc quan-hôn tang-tế.
Chương Thế-đạo của bổn Tân-luật Đại-Đạo đă qui định cách giao-thiệp rơ
ràng mà người Tín-đồ phải tuân hành. Mục-phiêu của bậc Hạ-thừa là lấy Đạo
Trời làm khuôn mẫu để sửa Đạo Người, cầu cho người có một phẩm giá đạo-đức
thanh cao, tức như cận kim người ta thường nói hạng người Chân thiện Mỹ
kia vậy.
Thượng-thừa là hạng người Thế-gian, họ chẳng c̣n bận rộn Nhơn-sự mà chỉ lo
tu học Thiên-đạo để độ ḿnh và độ người, tức tự-giác, giác-tha. Phương
pháp tu-học đại-để là sửa ḿnh theo Đạo Trời, để cùng vạn-vật tấn hóa theo
luật thiên nhiên ; và cùng Chúng-sanh sanh song đại đồng trong t́nh huynh,
nghĩa đệ. Mà muốn đi đến mục đích ấy, kẻ học phải bài trừ những thành kiến
hủ-lậu, những tật hư nết xấu ; nhất là Tánh ích-kỷ đê hèn. Nói tóm là làm
cho Nhơn-dục tận tịnh, và nguồn Thiên-lư ở trong người xuất-hiện, làm chủ
cho đời sống của ḿnh và khích lệ nó trên nền tảng Vạn vật nhứt thể . Cứu
cánh là giải-thoát kiếp Luân-hồi đặng vào cội an nhàn tự-tại.
Mà muốn theo phương pháp tu học nói trên, kẻ hành giả phải có đức tin Trời
Phật, hằng chăm nom giúp đở ḿnh, phải có đức-tin luật Nhơn-quả, Luân-hồi
hằng báo-ứng tội phước cho người Trần-gian. Đức CHÍ-TÔN c̣n lập ra
Hội-Thánh gồm có ba đài, như đă kể bên trên ; nhứt là Nhị hữu h́nh đài
Hiệp-Thiên-Đài và Cửu-Trùng-Đài có phận sự dạy dỗ, dắt d́u Tín-đồ được
ung-dung lập đức trên đường Đạo.
Kể sơ lược Giáo-lư, Đại-Đạo, Tam-kỳ Phổ-Độ là như thế ; nhưng nền Tảng của
nền Tân Tôn-giáo nầy là Qui-nguyên Tam-giáo (Thích, Đạo, Nho) thành một
Giáo-lư đại đồng. Vậy Tam-giáo ra sao, chúng ta cần phải bàn qua cho rơ.
Cái ư-nghĩ nầy khiến chúng tôi phải Lược-khảo Tam-giáo như sau, để bồi bổ
học-lư của ḿnh ; nhưng, Kinh-sách của Tam-giáo hiện giờ tàu chở không hết
; chúng tôi chỉ tham-khảo một cạnh Giáo-lư về Tâm-linh-học mà thôi. Mong
rằng quyển sách nhỏ nầy giúp cho người học đạo một phần nhỏ mọn nào. |