Tiểu Sử Nguyễn Bỉnh Khiêm

[ Trạng Tŕnh ]

 

Trạng Tŕnh Nguyễn bỉnh Khiêm (1491-1585). Thánh hiệu Thanh Sơn Đạo Sĩ  cũng gọi là Thanh Sơn Chơn Nhơn. Người Việt Nam. Tiền kiếp của Ngài là Bạch Vân Ḥa Thượng ở bên Tàu, mà chơn linh của Bạch Vân Ḥa Thượng là một chiết linh của Từ Hàng Bồ Tát. Sau đây là Tiểu sử của Trạng Tŕnh Nguyễn bỉnh Khiêm, trích trong quyển sách "Công Dư Tiệp Kư" của Vũ Phương Đề, dịch giả Tô Nam Nguyễn đ́nh Diệm. Ông Nguyễn bỉnh Khiêm, Đạo hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ, người làng Trung Am huyện Vĩnh Lại. Tiên tổ ngày xưa tu nhân tích đức đă nhiều (nay không thể khảo cứu được), chỉ biết từ đời cụ Tổ được tập phong Thiếu Bảo Tư Quận Công, mỹ tự là Văn Tĩnh, cụ Bà được phong Chính Phu Nhân Phạm thị Trinh Huệ, nguyên trước các cụ lập gia cư ở nơi có núi sông bao bọc, hợp với kiểu đất Cao Biền.

Phụ thân được tặng phong Thái Bảo Nghiêm Quận Công, mỹ tự là Văn Định, Đạo hiệu là Cù Xuyên Tiên Sinh, nguyên người học rộng tài cao, lại có đức tốt, được sung chức Thái Học Sinh.

Thân mẫu họ Nhữ, được phong Từ Thục Phu Nhân, nguyên người ở Ân Tử Hạ, thuộc huyện Tiên Minh, là con gái quan Hộ Bộ Thượng Thư Nhữ văn Lan. Bà vốn là người thông minh, học rộng văn hay, lại tinh cả môn tướng số, ngay thời Hồng Đức mà bà đă tính được rằng : Vận mệnh nhà Lê chỉ sau 40 năm nữa th́ sẽ suy đồi. V́ có một chí hướng pḥ vua giúp nước của bậc trượng phu, muốn chọn một người vừa ư mới chịu kết duyên, nên đă chờ ngót 20 năm trời, khi gặp Ông Văn Định có tướng sinh được quí tử nên bà mới lấy.

Nhưng lại gặp một trang thiếu niên trong lúc sang bến đ̣ Hàn thuộc con sông Tuyết giang, th́ Bà ngạc nhiên than rằng : Lúc trẻ chẳng gặp, ngày nay tới đây làm ǵ! Những người theo hầu không hiểu ra sao, cầm roi đánh đuổi thiếu niên ấy đi, rồi sau Bà hỏi lại tánh danh, mới biết người ấy là Mạc Đăng Dung, khiến Bà phải sanh ḷng hối hận đến mấy năm trời.

Tiên sinh sanh vào năm Hồng Đức thứ 21 (tức năm Tân Hợi 1491), lúc sơ sanh, vóc người có vẻ hùng vĩ, khi chưa đầy năm đă biết nói. Một hôm, vào buổi sáng sớm, Văn Định đang bế cậu ở trên tay, bỗng thấy cậu nói ngay lên rằng : "Mặt Trời mọc ở phương Đông." Ông lấy làm lạ ! Rồi năm lên 4, th́ Phu nhân dạy cậu học kinh truyện, hễ dạy đến đâu là cậu thuộc ḷng đến đó, và thơ quốc âm cậu đă nhớ được đến mấy chục bài.

Lại một hôm Bà đi vắng, Ông ở nhà bày tṛ kéo dây đùa với lũ trẻ, nhân đọc bỡn một câu rằng : "Nguyệt treo cung, Nguyệt treo cung", rồi Ông muốn đọc tiếp câu nữa nhưng chưa nghĩ kịp th́ cậu đứng bên đọc luôn ngay rằng : " Vén tay Tiên, nhẫn nhẫn rung".

Ông thấy cậu mẫn tiệp như vậy th́ có ư mừng thầm, đợi khi Bà về thuật lại cho nghe. Bà lấy làm bất măn nói với Ông rằng : Nguyệt là tượng bề tôi, cớ sao Ông lại dạy con ḿnh như thế ?

Ông cả thẹn xin lỗi, nhưng Bà vẫn không nguôi giận, bỏ về ở bên cha mẹ đẻ, cách ít lâu th́ mất.

Lại có truyền ngôn rằng : Lúc Ông c̣n để chỏm, cùng với lũ trẻ ra tắm ở bến đ̣ Hàn, khi ấy có chú thuyền buôn người Tàu nh́n thấy tướng mạo của Ông, chú bảo với mọi người rằng, cậu bé nầy có tướng rất quí, chỉ hiềm một nỗi là da hơi thô, về sau chỉ làm đến Trạng nguyên Tể Tướng mà thôi. V́ thế nên ai cũng đoán chắc rằng, Ông sẽ là bậc tể phụ của quốc gia sau nầy.

Như Ông lúc c̣n niên thiếu, học vấn sở đắc ngay tự gia đ́nh, đến khi lớn tuổi, nghe nói có quan Bảng Nhăn Lương đắc Bằng, nổi tiếng văn chương quán thế, Ông bèn t́m đến để xin nhập học.

Lương Công là người làng Hội Trào, thuộc huyện Hoằng Hóa, lúc Ngài phụng mệnh sang sứ nhà Minh, có học được phép Thái Ất Thần Kinh của người cùng họ, tức là ḍng dơi của Lương Nhữ Hốt (Ông Hốt trước hàng nhà Minh, được phong tước là Lăng Lăng Vương). Lương Công rất tinh thông về lẽ huyền vi, đem truyền lại cho Ông, đến khi Ngài bị ốm nặng, lại đem con là Lương hữu Khánh kư thác với Ông, Ông săn sóc dạy dỗ chẳng khác con ḿnh, sau nầy ông Khánh cũng được thành đạt.

Những năm Quang Thiệu (1516-1526), gặp lúc loạn lạc, Ông về ẩn cư để dạy học tṛ, lấy Đạo làm vui, chẳng cầu danh tiếng, nhưng sang đến thời đầu niên hiệu Thống Nguyên (tức Lê Hoàng Đệ Thung) th́ Trịnh Tuy và Mạc Đăng Dung cũng đều có ư hiếp chế Thiên tử để sai khiến chư hầu, hai bên gây cuộc nội chiến, khiến trong nước chịu cảnh lầm than, lúc ấy Ông có cảm hứng một bài thơ rằng :

Thái ḥa vũ tru ï bất Ngu Chu,

Hỗ chiến giao tranh tiếu lưỡng thù.

Xuyên huyết sơn hài tùy xứ hữu,

Uyên ngư tùng trước vị thùy khu.

Trùng hưng dĩ bốc độ giang mă,

Hậu hoạn ưng pḥng nhập thất khu

Thế sự đáo đầu hưu thuyết trước,

Túy ngâm trạch bạn nhậm nhàn du.

DỊCH :

Thái ḥa chẳng thấy cảnh Ngu Chu,

Hai phái thù hằn chém giết nhau.

Nhuộm máu phơi xương đà khắp chốn,

Xua chà đuổi sẻ vị ai đâu ?

Trùng hưng duỗi ngựa qua sông trước,

Hậu hoạn pḥng beo tiến cửa sau.

Ngán nỗi việc đời thôi phó mặc,

Say rồi dạo suối hát vài câu.

Sở dĩ có bài thơ trên v́ Ông biết rơ nhà Lê sẽ được trung hưng, dẫu rằng ngày nay tạm phải t́m kế an thân, nhưng rồi sau đây tất nhiên sẽ lại khôi phục được nước, mà câu : Beo tiến cửa sau, chỉ là nói kín đó thôi.  Quả nhiên về sau, nhà Lê trung hưng, bốn phương trở lại yên tịnh, bấy giờ bạn hữu đều khuyên Ông ra làm quan, đến năm 44 tuổi Ông mới chịu ra ứng thí, khoa hương thi ấy, Ông được đỗ đầu, rồi năm sau, tức là năm thứ 6 đời nhà Mạc (1535), lại ra tỉnh th́ được đỗ thứ nhứt, khi vào đ́nh đối, lại đỗ Tấn Sĩ đệ nhứt danh, được bổ chức Đông Các Hiệu Thư, trong thời Thái Tông nhà Mạc, Ông có làm 2 bài thơ " Xuân thiên ngự tửu", đều được hạng ưu, rồi thăng chức Hữu Thị Lang H́nh Bộ, sau thời gian ngắn lại thăng chức Tả Thị Lang, kiêm chức Đông Các Đại Học Sĩ.

Trong 8 năm ở triều, Ông có dâng sớ hạch tội 18 kẻ nịnh thần, xin đem chém để làm gương, bởi v́ bổn tâm của Ông chỉ muốn làm trăm họ đều được an vui, những người tàn tật mù ḷa cũng cho họ được có nghề ca hát bói toán, nhưng rồi gặp phải con rễ tên là Phạm Dao ỷ thế lộng hành, v́ sợ liên lụy đến ḿnh nên Ông cáo quan xin về trí sĩ.  Thế là giữa năm Quảng Ḥa thứ 2 (1542), Ông mới 52 tuổi đă xin trí sĩ, treo mũ về làng, dựng Am Bạch Vân ở phía tả chỗ làng Ông ở và vẫn lấy hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ. Khi ấy Ông có bắc 2 chiếc cầu Nghinh Phong và Tràng Xuân để khi hóng mát, dựng một ngôi quán gọi là Trung Tân ở bến Tuyết giang, có bia để ghi sự thực.  Ngoài ra, Ông c̣n tu bổ chùa chiền, có lúc cùng các lăo tăng đàm luận, có khi thả một con thuyền dạo chơi Kim Hải, Úc Hải để xem đánh cá. C̣n chỗ danh sơn thắng cảnh, như núi An Tử, Ngọa Vân, Kính Chủ, Đồ Sơn, nơi nào Ông cũng chống gậy trèo lên, thừa hứng ngâm vịnh, quên cả sớm chiều; mỗi khi thấy chỗ rừng cây chim đổi giọng ca th́ Ông hớn hở tự đắc, quả là một vị Lục địa Thần Tiên.  Nhưng trong thời gian dưỡng lăo ở chốn gia hương, tuy rằng không dự quốc chính, thế mà họ Mạc vẫn phải kính trọng như một ông thầy, những việc trọng đại thường sai sứ giả về hỏi, có khi lại đón lên kinh thành để hỏi, Ông đều ung dung chỉ dẫn, nhờ đó bổ ích rất nhiều. Xong rồi Ông lại trở về am cũ, họ Mạc ân cần giữ lại cũng chẳng được, về sau phải liệt vào hạng nhứt công thần, phong tước là Tŕnh Tuyền Hầu, dần dần thăng đến Lại Bộ Thượng Thư Thái Phó Tŕnh Quốc Công. Ông Bà nhị đại cũng được phong ấm, 3 người thê thiếp với 7 người con cũng theo thứ tự phong hàm.

Thế rồi đến năm Cảnh Lịch thứ 3 thời nhà Mạc (tức Mạc Phúc Nguyên 1550), Thư Quốc Công , người xă Khoa Hoạch huyện Thanh Oai tên là Nguyễn Thiến, con là Quyện và Mỗi về hàng Quốc triều, Ông có làm một bài thơ gởi cho Thiến có những câu rằng :

"Cố ngă tồn cô duy nghĩa tại,

Tri quân xử biến khởi tâm cam."

DỊCH :

Ta giúp mồ côi v́ trọng nghĩa,

Ông khi xử biến há cam ḷng.

Lại có câu rằng :

"Khí vận nhất chu ly phục hợp,

Trường giang khởi hữu hạn đông nam."

DỊCH :

Vận chuyển một ṿng tan lại hợp,

Trường giang đâu có hạn đông nam.

Thiến xem thơ, trong ḷng cảm thấy bứt rứt, c̣n Quyện cũng là tướng tài, luôn luôn lập được chiến công. Phúc Nguyên lấy làm lo ngại, hỏi kế nơi Ông th́ Ông thưa rằng : Cha Quyện với thần là chỗ bạn thân từ trước, và đă ở trong nhà thần, hiện nay được ra trấn thủ Thiên Trường, ở vào t́nh thế bán tín bán nghi, nay muốn dùng kế bắt lại, thực chẳng khác chi tḥ tay vào túi để lấy một vật ǵ mà thôi.

Rồi Ông xin với Mạc Phúc Nguyên trao cho 100 tráng sĩ, sai đi phục sẵn ở bên bắc ngạn. Ông gởi thơ cho Quyện, hẹn sang bên thuyền nâng chén rượu nhạt kể lại t́nh xưa, rồi nhân lúc đă quá say, phục binh nổi dậy bắt cóc đem về nam ngạn, Ông mới đem ân nghĩa quốc gia để khuyên nhủ. Quyện cảm động khóc nức nở, Ông bèn dẫn về qui thuận họ Mạc, rồi sau trở thành một viên danh tướng, nhờ đó nhà Mạc duy tŕ thêm được mấy chục năm nữa.

Trong thời gian ấy, Đức Thế Tổ (Trịnh Kiểm) đă dấy nghĩa binh , thanh thế vang khắp xa gần, đánh nhau mấy trận

ở cửa Thần Phù. Khiêm Vương Mạc Kính Điển đại bại, Thế Tổ thừa cơ tiến binh theo đường Tây Sơn ra đánh Kinh Bắc, khiến cho trong ngoài nơm nớp lo sợ, Ông hiến kế sách hư hư thực thực, họ Mạc theo đó thi hành, bấy giờ trong cơi mới tạm ổn định.  Mạc Mậu Hợp, năm Diên Thành thứ 8 (1585), tức năm Ất Dậu tháng 11 th́ Ông lâm bệnh. Mậu Hợp sai sứ đến vấn an và hỏi về quốc sự. Ông chỉ trả lời rằng : "Tha nhựt quốc hữu sự cố, Cao Bằng tuy tiểu khả duyên sổ thế." Nghĩa là : Sau nầy quốc gia hữu sự th́ đất Cao Bằng tuy nhỏ cũng giữ thêm được mấy đời.  Quả nhiên, cách 7 năm sau th́ họ Mạc mất, rồi các Chúa nhà Mạc như Càn Thống, Long Thái, Thuận Đức, Vĩnh Xương, rút lui lên giữ Cao Bằng được 70 năm, nghĩa là sau 3, 4 đời th́ mới hoàn toàn bị diệt, coi đó th́ lời nói của Ông dự đoán chẳng sai chút nào.  Nhưng rồi trong tháng ấy, giữa ngày 28 th́ Ông tạ thế, hưởng thọ 95 tuổi, học tṛ suy tôn hiệu là "Tuyết Giang Đại Phu", phần mộ ở trên một cái g̣ đất trong làng. . . . . . . . . . .

Năm Thuận B́nh thứ 8 (1556), Lê Trung Tông mất, không có hoàng nam nối ngôi. Thế Tổ (Trịnh Kiểm) do dự không biết lập ai, hỏi Trạng nguyên Phùng khắc Khoan, cũng không quyết định nổi, nên mới phải sai gia nhân ngầm đem lễ vật về tận Hải Dương để hỏi, Ông không trả lời mà chỉ quay lại bảo các gia nhân rằng : "Vụ nầy lúa không được mấy, chỉ tại thóc giống không tốt, vậy các ngươi phải đi t́m giống cũ để mà gieo mạ." Nói xong, Ông lại lên xe ra chùa, sai các chú tiểu quét dọn đốt hương, ngoài ra không hề đá động ǵ đến chuyện khác, bởi v́ Ông đă hơi tỏ cho biết cái thâm ư là : Cứ việc thờ Phật th́ được ăn oản.

Rồi Trạng Phùng thấy thế vội vàng về báo, Thế Tổ hiểu ngay, bèn đón Anh Tông (Lê duy Bang) về lập, t́nh thế trong nước mới được ổn định.  Trong thời gian ấy, Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng là con Chiêu Huân Tĩnh Vương, đương lúc ở trong t́nh thế nguy ngập v́ sợ không thoát khỏi tay Trịnh Kiểm, thân mẫu của người vốn ḍng họ Phạm đă được tôn là Thánh mẫu, nguyên quán ở làng Phạm Xá thuộc huyện Tứ Kỳ, với Ông là chỗ đồng hương, nên thường bí mật sai người về làng nhờ Ông chỉ giúp cho con trai bà một đường sống. Sứ giả đặt gói bạc nén ở trước mặt Ông, rồi bái lạy lia lịa.  Ông thấy sứ giả năn nỉ măi, nhưng vẫn không nói ǵ, rồi đứng phắt lên, tay cầm chiếc gậy, thủng thỉnh ra lối vườn sau, là nơi có hơn 10 tảng đá xanh xếp thành một dăy núi giả (non bộ) quanh co, trước núi lúc ấy có những đàn kiến dương men theo tảng đá leo lên, Ông ngắm nghía chúng một lát rồi mỉm cười đọc một câu :"Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân", nghĩa là : Một dăy Hoành sơn có thể dung thân được.

Sứ giả hiểu ư trở về thuật lại với Nguyễn Hoàng. Hoàng bèn xin vào trấn thủ Quảng nam, đến nay hùng cứ cả một vùng đó. . . . . . . . .

Nói về môn sinh của Ông, thực sự không biết bao nhiêu mà kể, nhưng nói riêng về những người có tiếng tăm lừng lẫy th́ có : Phùng khắc Khoan, Lương hữu Khánh, Nguyễn Dữ, và Trương Th́ Cử, đều đă nhờ ơn truyền thụ số học từng đi đến chỗ uyên thâm, và sau đều là các bậc danh thần trong thời Trung hưng.  Nhắc lại khi Phùng khắc Khoan c̣n theo học Bạch Vân Tiên Sinh, lúc thành tài rồi, bỗng có một đêm Tiên Sinh đến chỗ nhà trọ của Khoan, Tiên Sinh gơ cửa bảo rằng : Gà gáy rồi đấy, sao anh chưa dậy nấu ăn mà c̣n nằm ỳ ở đó.  Khắc Khoan hiểu rơ ư thầy nên vội thu xếp lẻn vào vùng Thanh Hóa, nhưng lại ẩn cư với Ông Nguyễn Dữ, chớ chưa chịu ra làm quan. Trong thời gian nhàn rỗi ấy, Nguyễn Dữ có soạn ra bộ Truyền Kỳ Mạn Lục, được Ông phủ chính rất nhiều, cho nên mới thành ra một cuốn Thiên cổ kỳ bút. Coi đó, ta thấy việc đào tạo nhân tài để giúp cho bổn triều lúc ấy, phần lớn là nhờ ở Tiên Sinh vậy.

C̣n nói về cá nhân của Tiên Sinh, ta thấy Tiên Sinh là người có ḷng khoáng đạt, tư chất cao siêu, xử sự hồn nhiên, không hề có chút cạnh góc, ai hỏi th́ nói, không hỏi th́ thôi, mà đă nói ra câu ǵ, thực là bất di bất dịch, dẫu rằng ở nơi thôn dă vui cảnh cúc tùng, hơn 40 năm mà ḷng vẫn không quên nước, tấc dạ ưu thời mẫn thế thường thấy chan chứa trong các vần thơ, văn chương viết rất tự nhiên, không cần điêu luyện, giản dị mà rất lưu loát, thanh đạm mà nhiều ư vị, câu nào cũng có quan hệ đến sự dạy đời.  Riêng về thơ phú quốc ngữ, Tiên sinh soạn cũng rất nhiều, trước đă xếp thành một tập gọi tên là Bạch Vân Thi Tập, tất cả đến hơn ngàn bài, ngày nay sót lại độ hơn một trăm, và một thiên Trung Tân Quán Phú , c̣n thi th́ thất lạc hết cả. Nhưng xem đại lược cũng toàn những thể gió mát trăng thanh, dẫu ngàn năm sau vẫn c̣n có thể tưởng tượng thấy vậy. Thử coi những câu :

Cao khiết thùy vi thiên hạ sĩ ?

An nhàn ngă thị địa trung Tiên.

Nghĩa là :

Cao sạch ai làm thiên hạ sĩ ?

Thanh nhàn ta cũng địa trung Tiên.

Đó là mấy câu Tiên sinh tự thuật chí hướng của ḿnh th́ đủ rơ. Nói về gia đ́nh Tiên sinh có 3 thê thiếp. Bà Chánh thất họ Dương hiệu Từ Ư, quê ở Hải Dương, cũng thuộc bổn huyện, nguyên là ái nữ của quan H́nh Bộ Tả Thị Lang Dương đắc Nhan. Thứ Phu nhân họ Nguyễn, hiệu là Nhu Tĩnh. Á Phu nhân họ Nguyễn hiệu Vi Tĩnh. Con cái cộng 12 người, 7 trai 5 gái. Con trưởng hiệu là Hàn Giang Cư Sĩ, được tập ấm hàm Trung Trinh Đại Phu, rồi sau làm đến Phó Hiến. Con thứ 2 hiệu là Túy Am Tiên Sinh, phong hàm Triều Liệt Đại Phu, tước Quảng Nghĩa Hầu. Con thứ 3 phong hàm Hiển Cung Đại Phu, tước Xuyên Nghĩa Bá, con thứ 4 là Thuần Phu, phong hàm Hoằng Nghị Đại Phu, tước Quảng Đô Hầu, con thứ 5 là Thuần Đức, tước Bá Thứ Hầu, con thứ 6 là Thuần Chính tước Thắng Nghĩa Hầu. Tất cả mấy người con đều có lập được quân công.

Rồi sau Hàn Giang sinh Thiết Đức, Thiết Đức sinh Đạo Tấn, Đạo Tấn sinh Đạo Thông, Đạo Thông sinh Đăng Doanh, Đăng Doanh sinh Th́ Đương. Lúc ấy Th́ Đương đă 65 tuổi, sinh được 3 người con trai, đều là cháu 8 đời của Tiên Sinh vậy.  Năm Vĩnh Hựu nguyên niên (tức là năm Ất Măo 1735), người trong làng nhớ tới thịnh đức của Tiên sinh, có dựng 2 ṭa miếu ngay ở nền nhà của Tiên sinh ngày trước, rồi người hàng Tổng v́ nhớ ơn đức cũng đến Xuân Thu hằng năm tế tự Tiên sinh; c̣n người trong họ là các Ông Nguyễn hữu Lư, v́ sợ sau nầy gia phả sẽ bị thất lạc, nên có nhờ ta soạn một bài tựa. Ta đây sinh sản ở đất Hồng Châu, đối với Tiên sinh ngày trước , dẫu là đồng hương, nhưng nay cách đă 190 năm rồi th́ c̣n biết đâu mà nói. . . . . . . . . .

Nhưng ta nhận thấy Kỳ Lân, Phượng Hoàng đâu phải là vật thường thấy ở trong vũ trụ, tất nhiên nó phải ra chơi ở vườn nhà Đường và núi nhà Chu th́ nó mới là điềm tốt.

C̣n như Tiên sinh, sẵn có tư chất thông tuệ, thêm vào Đạo học Thánh Hiền, ví thử đắc thời để mà thi thố sở học, chắc sẽ tạo ra cảnh trị b́nh, thay đổi phong tục phù bạc thành ra lễ nghĩa văn minh. Thế mà trái lại, một người có đức đủ pḥ tá vương, lại sinh ra giữa thời bá giả, thành ra sở học trở nên vô dụng, thực đáng tiếc thay !  Tuy nhiên, đời dùng th́ làm, đời bỏ th́ ẩn. Đối với Tiên sinh, dù chẳng đắc dụng cũng có hề chi.  Ta rất hâm mộ Tiên sinh về chỗ đó. Thử coi sinh trưởng trên đất nhà Mạc, khi thử ra làm quan để hành sở học, th́ cũng muốn bắt chước Đức Khổng Phu Tử vào yết kiến Công Sơn Phất Nhiễu, rồi khi biết rằng không thể giúp được th́ vội bỏ đi, lại muốn theo trí sáng của Trương Lương để hỏi thăm Xích Tùng Tử.  Nay đọc những văn chương c̣n lại, khác chi nghe thấy những tiếng ném ngọc gieo vàng, rực rỡ như mây năm sắc, sáng sủa như vừng thái dương, mà cái phong vị tắm sông Nghi, hóng mát cầu Vũ Vu của Ông Tăng Điểm ngày trước, và cái phong thú yêu sen, hái lan của tiền nho ngày xưa, h́nh như ta được nh́n thấy Tiên sinh và Ta được bái kiến ở trong Giáng Trướng.  Bởi v́ Tiên sinh chẳng những chỉ tinh thâm một môn Lư học, biết rơ dĩ văng cũng như tương lai, mà sự thực th́ trăm đời sau cũng chưa thấy có ai hơn được vậy.

Ôi ! Ở trong thiên hạ, các bậc quân vương, các vị hiền giả, hỏi có thiếu chi, nhưng chỉ có lúc sống th́ được phú quí vinh hoa, c̣n sau khi mất th́ những cái đó lại cũng mai một đi với thời gian, hỏi c̣n ai nhắc nữa ?  C̣n như Tiên sinh, nói về thế hệ đă truyền đến 7, 8 đời, gần th́ sĩ phu dân thứ ngưỡng vọng như bóng sao Đẩu trên trời, dẫu cách ngàn năm cũng c̣n tưởng tượng như một buổi sớm. Xa th́ sứ giả Thanh triều tên Chu Xán, nói đến nhân vật Lĩnh Nam cũng đă có câu : "An-Nam Lư học hữu Tŕnh Tuyền" , tức là công nhận về môn Lư học của nước An-Nam chỉ có Tŕnh Tuyền là người số một, rồi chép vào sách truyền lại bên Tàu.  Như thế, đủ thấy Tiên sinh quả là một người rất mực của nước ta về thời trước vậy.

Hậu học Ôn Đ́nh Hầu Vơ Khâm Lâm cẩn thuật.

GHI THÊM CHO RƠ :  Cụ Nguyễn bỉnh Khiêm, trước được phong là Đông Các Đại Học Sĩ, sau được phong tước là : Tŕnh Tuyền Hầu, rồi dần dần thăng lên Lại Bộ Thượng Thư Thái Phó Tŕnh Quốc Công. Cụ mất ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu (1585), thọ 95 tuổi.  Cụ Trạng Tŕnh Nguyễn bỉnh Khiêm, ngoài việc dùng thi ca ngâm vịnh làm thú tiêu khiển, Cụ c̣n muốn dùng văn chương để giáo hóa người đời, truyền bá những tư tưởng đạo đức, giác ngộ dân chúng, v́ trước mắt Cụ, hoàn cảnh đất nước thật điêu tàn, chiến tranh nồi da xáo thịt, chém giết nhau v́ quyền lợi riêng tư, không c̣n biết đạo đức nhơn nghĩa. Cụ đă thực hành chủ trương "Văn dĩ tải Đạo" của Thánh Hiền.  Cụ có viết một tập thơ chữ Hán gọi là " BẠCH VÂN AM THI TẬP " . Tập thơ nầy gồm hằng ngàn bài thơ vịnh cảnh, tả t́nh, hiện đă bị thất lạc gần hết.  Vê thơ Nôm, Cụ có viết tập "BẠCH VÂN QUỐC NGỮ THI TẬP ", gồm nhiều bài thi Đường luật và Cổ phong, với những chủ đề như sau :

- Thú ẩn cư, an nhàn tự tại,

- Than trách đời nhân t́nh thế thái,

- Khuyên răn người đời.

Ngoài ra, Cụ Trạng Tŕnh c̣n lưu truyền lại cho con cháu một quyển SẤM KƯ trường thiên, mà con cháu Cụ sau nầy chép vào cuốn BẠCH VÂN GIA PHẢ BÍ TRUYỀN TẬP, gọi là SẤM TRẠNG TR̀NH.

- Sau đây xin chép lại vài bài thi tiêu biểu trong cuốn Bạch Vân Quốc Ngữ Thi Tập :

THÚ THÔN CƯ

Một mai một cuốc một cần câu,

Thơ thẩn mặc ai vui thú nào.

Ta dại ta t́m nơi vắng vẻ,

Người khôn người đến chốn lao xao.

Thu ăn măng trúc, Đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, Hạ tắm ao.

Rượu đến gốc cây ta sẽ nhấp,

Nh́n xem phú quí tợ chiêm bao.

THẾ GIAN BIẾN ĐỔI

Thế gian biến đổi vũng nên đồi,

Mặn lạt chua cay lẫn ngọt bùi.

C̣n tiền c̣n bạc c̣n đệ tử,

Hết cơm hết gạo hết ông tôi.

Xưa nay vẫn trọng người chân thực,

Ai nấy nào ưa kẻ đăi bôi.

Ở thế mới hay người thế bạc,

Giàu th́ t́m đến, khó t́m lui.

CỦA NẶNG HƠN NGƯỜI

Đời nầy nhân nghĩa tợ vàng mười,

Có của th́ hơn hết mọi lời.

Trước đến tay không nào thiết hỏi,

Sau vào gánh nặng lại vui cười.

Anh anh chú chú mừng hơ hải,

Rượu rượu chè chè thết tả tơi.

Người, của, lấy cân ta sẽ nhấc,

Mới hay rằng của nặng hơn người. ,

+ Sau đây xin trích vài đoạn trong SẤM TRẠNG TR̀NH

CẢM ĐỀ

Thanh nhàn vô sự là Tiên,

Năm hồ phong nguyệt nổi thuyền buông chơi.

Cơ Tạo Hóa, phép đổi dời,

Đầu non mây khói tỏa,

Mặt nước cánh buồm trôi.

Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi,

Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh Trời.

Tuổi già thua kém bạn,

Văn chương gởi lại đời.

Dở hay nên tự ḷng người cả,

Nghiên bút soi hoa chép mấy lời.

Bí truyền cho con cháu,

Dành hậu thế xem chơi.

SẤM KƯ

Nước Nam từ họ Hồng bàng,

Biển dâu cuộc thế, giang san đổi dời.

Từ Đinh Lê Lư Trần thuở trước,

Đă bao đời ngôi nước đổi thay.

Núi sông Thiên định đặt bày,

Đồ thơ mấy quyển, xem nay mới rành.

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Ḱa ḱa gió thổi lá rung cây,

Rung Bắc rung Nam, Đông tới Tây.

Tan tác kiến kiều an đất nước,

Xác xơ cổ thụ sạch am mây.

Lâm giang nổi sóng mù thao cát,

Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy.

Một ngựa một yên ai sùng bái,

Nhắn con nhà Vĩnh Bảo cho hay.

Tiền ma bạc quỉ trao tay,

Đồ Môn Nghệ Thái dẫy đầy can qua.

Giữa năm hai bảy mười ba,

Lửa đâu mà đốt Tám Gà trên mây.

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Cửu cửu Càn Khôn dĩ định,

Thanh minh thời tiết hoa tàn.

Trực đáo dương đầu mă vĩ,

Hồ binh bát vạn nhập Tràng an.

Nực cười những kẻ bàng quan,

Cờ tan lại muốn toan đường đá xe.

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Long vĩ xà đầu khởi chiến chinh,

Can qua xứ xứ khởi đao binh.

Mă đề dương cước anh hùng tận,

Thân Dậu niên lai kiến thái b́nh.

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Thần Kinh Thái Ất suy ra,

Để dành con cháu đem ra nghiệm bàn.

Ngày thường xem thấy quyển vàng,

Của riêng bảo ngọc để tàng xem chơi.

Bởi Thái Ất thấy lạ đời,

Ấy thuở Sấm Trời vô giá thập phân.

Phú quí hồng trần mộng,

Bần cùng bạch phát sinh.

Hoa thôn đa khuyển phệ,

Mục giả dục nhơn canh.

Bắc hữu Kim Thành tráng,

Nam hữu Ngọc Bích Thành.

Phân phân tùng bách khởi,

Nhiễu nhiễu xuất đông chinh.

Bảo giang Thiên Tử xuất,

Bất chiến tự nhiên thành.

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Cơ Tạo Hoá phép mầu khôn tỏ,

Cuộc tàn rồi mới rơ thấp cao.

Thấy Sấm từ đây chép vào,

Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa.

Trong thời ĐĐTKPĐ, Cụ Nguyễn bỉnh Khiêm, Thánh danh là THANH SƠN ĐẠO SĨ, thường giáng cơ dạy đạo nơi Hội Thánh Ngoại Giáo tại Kim Biên (Nam Vang). Sau đây, xin chép ra 2 bài Thánh giáo quan trọng :  Báo Ân Đường (Nam Vang), đêm 13-8Bính Thân (dl 17-9-1956) Hợi thời.

Pḥ loan : Giám Đạo Lợi, Hữu Phan Quân Thoại.

THANH SƠN ĐẠO SĨ

Bần đạo xin chào Hộ Pháp, Bảo Đạo, và chư Hiền Nam Nữ. Thắm thoát nền Đại Đạo khai nơi Tần quốc đă 30 năm. Ngày ấy chính Chí Tôn sai Hộ Pháp đến để gieo hột Thánh cốc. Từ ấy những nay th́ các tay chấp chánh Đạo quyền nơi nầy không tô bồi thêm, trái lại làm cho phân chia tâm lư. Cớ ấy là chỗ ham quyền trọng vị. Các Chức sắc Thiên phong lănh Thiên mạng nơi ḿnh không làm xong phận, Ngôi th́ ham, quyền th́ muốn, mà hành động cho xứng lại không. Thử hỏi họ vưng Thiên mạng đến để làm ǵ kia chớ ? Họ phải cho xứng phận là anh, thầy, để gần gũi nhơn sanh, chia việc đau, an ủi điều khổ. Hôm nay Hộ Pháp đă đến th́ cả Chức sắc Thiên phong phải ráng thiệt thi quyền của ḿnh, hư th́ bỏ, nên th́ để, rửa ráy Thánh thể Đức Chí Tôn cho nên h́nh. Vậy khá liệu lấy. Có Quyền Giáo Tông đến. THĂNG.

TÁI CẦU :

Pḥ loan : Hộ Pháp - Bảo Đạo. THƯỢNG TRUNG NHỰT Qua chào mấy em. Khi nảy, Đức Thanh Sơn có ư khuyên mấy em gắng công hành đạo. Chính Qua cũng nh́n nhận mấy em thiếu kém công nghiệp cùng Đạo. Mấy em Nam Nữ đă thấy rơ v́ thế nào mà Chưởng Đạo Nguyệt Tâm đă từ bỏ chức vụ mà mấy em từ thử hay chăng ?

Mấy em nhớ lại coi, từ khi Phong Chí (Giáo Sư Thượng Bảy Thanh) nắm quyền đến nay, sự nghiệp Đạo đă hư hoại thế nào ? Th́ cũng do nơi bội phản Hộ Pháp và anh em giành quyền mà sanh ra rối loạn.  Qua nói thiệt cùng mấy em rằng, v́ hổ thẹn ấy mà Chưởng Đạo từ chức và hủy bỏ Hội Thánh Ngoại Giáo.  Các em đă hiểu rơ điều ấy. Qua chỉ thương Thanh Sơn mang tiếng phụ phàng, lỗi t́nh cùng Hộ Pháp. Qua đă nhiều phen cầu xin Nguyệt Tâm Chơn Nhơn tha thứ, nhưng Ngài quyết hẳn, v́ cớ là chúng đă mạo danh Bạch Vân Động đặng chia phe phân phái lập quyền đời của họ.  Các em có biết chăng, Đấng đă mang trọn ân của Hộ Pháp là Bạch Vân Ḥa Thượng, tức là Đức Thanh Sơn, v́ khi lănh lịnh Ngọc Hư th́ người đă hứa rằng : Hộ Pháp trọn quyền sử dụng các Chơn linh Bạch Vân Động. Hôm nay lời hứa ấy đă thất. Qua nhường cơ lại cho Đức Thanh Sơn Chơn Nhơn.  Mấy em sẽ hưởng đặng một điều quí báu. THĂNG.

TÁI CẦU :

THANH SƠN CHƠN NHƠN

Bần đạo trở lại là v́ lời kêu nài của Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt. Chư Thiên phong đủ hiểu rơ rằng : Mạng số Việt Nam nó liên quan mật thiết cùng kiếp sanh của Bần đạo là thế nào, và v́ lẽ ǵ mà Bần đạo phải giao trọn quyền điều khiển Bạch Vân Động cho Hộ Pháp.

Bảo Đạo ! Th́ Bần đạo cũng đồng tâm bịnh với Hiền Hữu. Cười . . . Bảo Đạo nghe :

THI :

Hoành sơn phân nước trót đôi lần,

Khí số bấy chừ dứt Nguyễn quân.

Lời sấm đoán văn khi thật quả,

Tiên tri toán số gẫm không lầm.

An dân buồn thiếu trang hiền sĩ,

Bảo quốc vui nhờ đức Thánh nhân.

Suy thạnh nước nhà do trị loạn,

Cũng như Đông măn tới hồi Xuân.

Đọc lại rồi kiếm nghĩa đặng hiểu. Bần đạo sẽ tái giáng đặng hiệp ư cùng nhau. THĂNG.

Ghi chú về : BẠCH VÂN ĐỘNG.

Đức Phạm Hộ Pháp giải thích về Bạch Vân Động :

" Xưa nay người ta vẫn coi Nguyệt cầu (Mặt Trăng) là nơi dừng chân của những vị Thánh, Thần, trước khi xuống trần giới (Địa cầu) đầu thai. Các vị đó phải ở lại Nguyệt cầu ít lâu để liên lạc với Địa cầu, để quen lần với đời sống ở thế gian nầy. Từ cổ, Thần thoại đă mệnh danh Nguyệt cầu là Bạch Vân Động (Quảng Hàn Cung). Cơ giáng ở Âu Châu, mệnh danh là LOGE BLANCHE (Bạch Động).

Giáo chủ của Bạch Vân Động là Bạch Vân Ḥa Thượng, miêu duệ của Từ Hàng Đạo Nhơn, ḍng dơi Đức Phật Quan Âm.  Bạch Vân Ḥa Thượng đă 2 lần giáng trần ở Pháp : Một lần là Hồng Y Giáo Chủ Richelieu, một lần là Quận Công La Roche Foucault. Ở VN, Ngài giáng trần là Tŕnh Quốc Công Nguyễn bỉnh Khiêm, tức gọi Trạng Tŕnh."

Victor Hugo"Tiểu sử NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN

Victor Hugo Nhân ngày vía của Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn tại Ṭa Thánh, đêm 22-5-1949 (25-4-Kỷ Sửu), Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo nói về Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn như sau : " Đức Victor Hugo, tự xưng là Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, là một Đấng thiêng liêng tại Quảng Hàn Cung.

Khi tái kiếp, Ngài sanh tại thành Besancon, Pháp quốc, nhằm ngày 26-2-1802. Ngài từ trần tại Paris ngày 22-5-1885, hưởng thọ được 83 tuổi. Từ buổi Đạo khai nơi Tần quốc, th́ Ngài giáng cơ với danh hiệu là Chưởng Đạo Nguyệt Tâm, Chưởng quyền Hội Thánh Ngoại Giáo. Ngài là một nhà thi sĩ trứ danh của nước Pháp trong thế kỷ 19. Lúc c̣n thiếu thời, Ngài thường châu lưu ở nước Ư, ở nước Tây Ban Nha, kế trở về Paris. Khi lên 10 tuổi th́ Ngài đă sẵn có tài thi văn, đến lúc trưởng thành th́ những văn từ thi phú của Ngài đều là những tác phẩm lỗi lạc, t́nh tứ cao thâm, nên trong trường đời, Ngài đă nổi danh là thi bá, đứng đầu các bậc kỳ nhân trong thời buổi ấy. Lần hồi tên tuổi của Ngài đă nêu danh nơi Hàn Lâm Viện và Ngài trở nên một đại công thần danh dự của Pháp triều buổi ấy. Đến sau cuộc Cách mạng 1848 tại nước Pháp, Ngài đắc cử vào Hạ Nghị Viện để bảo tồn nền chánh trị và luật pháp trong nước. Lúc Ngài lănh trách nhiệm trọng yếu ấy, Ngài đă lắm phen trổ tài hùng biện mà binh vực quyền lợi

cho dân Pháp với những lẽ công chánh, nhứt là sự tự do. Nước Pháp trong buổi ấy chưa yên, nên cách 3 năm sau, ngày 2-12-1851, lại có cuộc nội biến. Ngài phải buộc ḷng từ giă Paris ra ngoại quốc, măi đến năm 1970 ngày 4-9 Ngài mới trở lại trường chánh trị. Lúc đó Ngài đặng 68 tuổi. Từ ấy đến sau, Ngài đem hết nhiệt tâm mà chuyên lo cần mẫn v́ nước v́ dân cho đến ngày qui vị. Trong kiếp sanh của Ngài rất vinh diệu cho nước Pháp, ngoài những chuyện thi văn kiệt tác đối với quê hương dân tộc Pháp, Ngài c̣n để dấu trong trường chánh trị một danh thể bất hủ. V́ vậy mà khi Ngài qui vị, đám táng Ngài rất long trọng, quan cữu và linh vị đặng hưởng đặc ân của nước Pháp để vào Công Thần Miếu (Panthéon). Ấy vậy, thật là một vĩ nhân và một đại công thần nước Pháp đó vậy. Bần đạo cũng nên cho toàn đạo hiểu rồi đừng lầm tưởng chúng ta ngày nay đương tôn sùng lễ bái kỷ niệm một vị vĩ nhân công thần của Pháp như trên đă nói, đó là tôn sùng người Pháp. Nghĩ v́ Ngài cũng có công tŕnh khai đạo từ sơ khai, thọ mạng lịnh Đức Chí Tôn lănh quyền Chưởng Đạo cầm đầu Hội Thánh Ngoại Giáo, Ngài thường giáng cơ giáo hóa và phong Thánh cho chư Chức sắc Ngoại giáo, huống chi chúng ta ngày nay cả thảy đều đặng hiểu biết tiền kiếp của Ngài trước kia, tái kiếp nước Pháp th́ Ngài đă có một kiếp sanh tại nước Việt nam là Đức Nguyễn Du, là một nhà thi sĩ, tác phẩm Truyện Kim Vân Kiều mà ngày nay cả thế giới đều nhận bản tác phẩm ấy là vô giá, nhứt là chúng ta, dân tộc VN, càng vinh hạnh hơn hết."