Sử  Cương Đạo Cao Đài

 

Trần Văn Rạng

(  Hiệu  Trường Trung Học Phú Khương  )

 

HIỀN TÀI TRƯỞNG NHIM VĂN HÓA  BTĐ. ĐI ĐO SỬ CƯƠNG ĐI ĐO NĂM THỨ 44 TÁC GIẢ GI BẢN QUYỀN  một chín bảy không .

Lời giới thiệu

 

Của Ngài Hiến Pháp Thiên Đài Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh kiêmTrưởng Ban Đạo Sử.Tôi lấy làm hân hạnh xin chân-thành giới thiệu cùng bạn đọc bốn

phương cuốn ĐI ĐO SỬ CƯƠNG này do tá giả TRẦN VĂN RNG, hiệuTrưởng trường Trung Học Phú Khương, Hiền Tài Trưởng Nhiệm VănHóa Ban Thế Đạo biên soạn rất công phu.

Cuốn ĐI ĐO SỬ CƯƠNG này ghi tóm tắt lịch tŕnh thời tiền sử củaĐại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ nhưng cũng đủ làm tài liệu cho các nhà khảo cứu Sử Đạo.

Việc sắp đặt đúng theo thứ tự, có trước có sau, khiến cho dễ thấy và dễ hiểu những điều cần muốn biết.

Điều đáng chú ư và đáng khen tặng là tác giả nh́n thấy được tâm sự của giới trí thức, nhứt là tâm sự của các nhà chí sĩ thời tiền sử Đạo đă v́ ôm mối hận nước nhà bị đô-hộ mà hết sức cố gắng t́m lối thoát cho dân tộc. V́ vậy mà có sự hoạt động chống chế độ thực dân không ngừng. Những bậc tiền bối sáng lập Đạo CaoĐài cũng thuộc trong nhóm chí sĩ này.Khi họ phăng được bất cứ một mối dây nào khả dĩ đem đến một cơhội giải thoát th́ họ nắm chặt lấy liền.Cái cớ Đạo Cao Đài xuất hiện không mấy ngày mà thâu hút được mộtsố tín đồ khá lớn cũng v́ đó. V́ lúc đầu cá đấng Thiêng Liêng xâychuyển làm rung động tâm hồn của tất cả mọi người. Thêm vào đólại c̣n có nhiều huyền diệu thiêng liêng khác nữa.Ngoài sự biến chuyển về sau th́ Ban Đạo sử của Hội Thánh sẽ lầnlượt sưu tập và biên soạn thêm thành Đạo Sử tổng quát.Nay Tác Giả cho cuốn Đại Đạo Sử Cương ra đời, tôi nhận thấy rấthợp thời và hữu ích, nên xin kính cẩn lưu ư, giới thiệu quư vị

độc giả.

 

Nay Kính

 

Ṭa Thánh, ngày 16/06 Canh tuất ( D.L. 18/07/1970)

Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài

TRƯƠNG HU ĐỨC

(ấn kư)

 

 

 

LỜI TÁC GIẢ

 _._._._

 

Nhân hướng dẫn nhiều đoàn thể và các nhân vật ngoại giáo đến

viếng Ṭa Thánh (Tây ninh), sau khi xem qua đền đài và cách sắp

xếp, khách nhân xin chỉ dẫn các sách để t́m hiểu về căn cội Đạo

Cao Đài. Đến Lễ viện lay hoay t́m kiếm một quyển sách khả dĩ giúp

họ hiểu được đại cương sự diễn tiến của nền Tân tôn giáo theo ư

thức của một người ngoại đạo, th́ khó thấy. Phần lớn các sách đă

xuất bản nặng về giáo lư dành cho những người đă nhập môn. Chính

v́ lẻ đó, không nệ sự hiểu biết nông cạn mà viết quyển "Đại Đạo Sử

Cương" này, trước là tập tu học sau giúp nhân sanh một biểu đồ

đơn giản của Cao Đài từ ngày lập giáo.

 

Việc xây dựng lai lịch sử là một việc khó. Đối với Cao-Đài giáo

lại càng khó v́ thiếu tài liệu. Phương pháp sử là rơ ràng khúc

chiết và có cách thể ghi chép phải theo. Tuy nhiên, những nhà làm

sử được quan niệm riêng và lối phân tách chọn lựa theo cảm quan

của ḿnh, cố gắng được khách quan, chân thực càng nhiều càng hay.

 

Dựa vào những lẽ đó, tôi chia lịch-sử Cao Đài giáo Thánh nhiều

thời kỳ.

 

1- THỜI KHAI PHÁP (1920-1925)

 

   Sở dĩ chọn niên đại này v́ đến ngày 18/11/1926 (14-10 Bính

   Dần) th́ khai Đạo tại G̣ Kén. Và dùng 2 chữ khai pháp là khai

   chánh pháp, Đức Chí Tôn thâu nhận những tông đồ đầu tiên để

   lập cơ phổ độ.

 

2- THỜI ĐO PHÁP (1926-1929)

 

   Tức là bắt đầu từ ngày khai Đạo đến cuối đời Đức Cao Thượng

   Phẩm. Gọi "Thời Đạo Pháp" là v́ thời này đặt cơ sở nền tảng

   của Đạo : Tân luật, Pháp chánh Truyền. Theo Thánh ngôn, Đấng

   chí tôn ra lệnh cuối tháng 6-1927 th́ bế cơ, có nghĩa là không

   được cầu tự do như trước. Thời kỳ này coi như chi Đạo quản

   pháp.

 

3- THỜI CHÁNH PHÁP (1930-1956)

 

   Là thời kỳ do Đức Quyền Giáo Tông và Đức Phạm Hộ Pháp chưởng

   quản, chấn chỉnh các cơ cấu đạo đúng pháp chánh truyền cho ra

   thiệt tướng.

   Những năm c̣n lại chờ thời gian lắng dị và lịch sử an bài sẽ

   biên tiếp. Tác giả cũng xin nhắc lại, đây chỉ là biểu đồ Đạo

   sử chứ không phải một quyển giáo lư. Khi có đủ tài liệu sẽ

   tăng bổ và hiệu định.

   Kính thỉnh chi chức sắc Đại Thiên Phong và qui đồng đạo chỉ

   giáo cho những sự sơ lầm.

 

   Tam Tê Anh vào hạ 1970

   Hiền tài TRẦN VĂN RNG

 

 

 

PHẦN PHÁT ĐOAN

 

KHÁI QUÁT VỀ XĂ HỘI MIỀN NAM

 

NGUYÊN NHÂN CAO ĐÀI GIÁO XUẤT HIN

 

CHƯƠNG I

 

KHÁI QUÁT VỀ XĂ HỘI MIỀN NAM

 

KHI CAO ĐÀI GIÁO XUẤT HIN

 

1- Miền Nam là đất thuộc địa Pháp

 

Muốn hiểu rơ Đạo Cao Đài , ta hăy đặt nền Tân Tôn Giáo này vào

hoàn cảnh đất nước khi đạo khai, theo ḥa ước Patenôtre 1884

th́ người Pháp không có quyền can thiệp vào việc nội tŕ của

nước Việt Nam, nhưng Đại diện Pháp luôn luôn t́m cách lấn

quyền, chỉ c̣n giữ việc tế tự trời đất và lăng miếu. Trong nước

mọi việc đều do người Pháp quyết định. Viên Toàn quyền là chúa

tể nắm tất cả quyền hành.

 

Toàn quyền do sắc lệnh của tổng thống Pháp bổ nhậm đóng ở Hà Nội

điều khiển guồng máy chính trị, xă hội, tài chánh, kinh tế cả

liên bang Đông Dương. Phụ việc có Tổng thư kư hay Phó Toàn Quyền,

Tổng giám đốc các Nha chuyên môn, Tổng tư lệnh và Tư lệnh Hải

quân.

Bắc kỳ và Trung kỳ là hai xứ bảo hộ, riêng Nam kỳ là đất thuộc

địa do pháp trực tiếp cai trị. Từ năM 1862 đến 1879, vơ quan phụ

trách nền hành chánh. Sau năm 1879, văn quan thay thế. Phủ Thống

đốc Nam kỳ đặt tại Saigon, do Viên Thống đốc cầm đầu, phụ việc có

Phó thống đốc, Giám đốc các sở chuyên môn.

Hai Hội đồng Tư vấn là Hội Đồng Tư mật và Hội đồng Quản hạt như

ông Lê văn Trung là Nghị viên Hội Đồng này. Nam kỳ được chia làm

20 tỉnh trừ đô thành Saigon, Chợ lớn : Đứng đầu mổi tỉnh là viên

tham biện Pháp và Phó tham biện, chủ sự các pḥng chuyên môn và

công chức Việt Pháp.

 

Tỉnh chia ra quận do một Quận trưởng người Pháp cai trị, một ít

quận do Đốc phủ Việt-Nam phụ trách như quận Phú Quốc do Quan Phủ

Ngô văn Chiêu trông coi. Tổng th́ có cai Tổng, làng có ban Hội

tề, đứng đầu là Hương cả đến Hương chủ, Hương trưởng...

 

CÁC TẦNG LỚP XĂ HỘI

 

Với chính sách chia để trị này, những vị vua yêu nước đều bị truất

phế hoặc bị đày ra khỏi đất nước như vua Hàm Nghi, Thành Thái,

Duy Tân. Giai cấp xă hội cũng bị đảo lộn, trật tự mới được sắp

xếp.

 

a/ giới trí thức : th́ gồm có nhóm chống Pháp thành lập các Mặt

trận hoặc đảng như Đảng Lập Hiến hoạt động mạnh trong vụ bầu cử

Hộ đồng thuộc địa (conseil colonial) thành lập năm 1925 do Bùi

Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long (một tín hữu Cao Đài) lănh đạo.

Đăng thanh niên xuất hiện ở Saigon vào tháng 3 năm 1926 phản đối

việc Pháp bắt giam Nguyễn An Ninh và dự đám tang cụ Phan Chu

Trinh. Đảng Phục Việt ra đời ngày 14/0/1925 xin ân xá cho cụ Phan

Bội Châu. Việt Nam Quốc Dân Đảng thành lập năm 1926 do Nhượng

Tống và Nguyễn Thái Học gây cuộc khởi nghĩa ở Yên Báy _ Năm 1925

Nguyễn Ái Quốc lập thanh niên Hộ chống Pháp. Chính những cuộc nổi

dậy này ảnh hưởng nhiều đến việc thành lập quân đội Cao Đài và

Việt Nam Phục Quốc Hội.

Nhóm thỏa hiệp do Pháp đào tạo các trường thuộc địa phải lẳng

lặng nghe lời họ để được vinh thân ph́ da, họ sống cách biệt với

dân chúng như Hoàng Cao Khải, Trần Bá Lộc. Trong đạo Cao Đài th́

có quan phủ Vương quang Kỳ, quan phủ Ngô Văn Chiêu. hai ông này

rất mến Đạo, thương dân, nhưng vẫn sợ Pháp ḍm ngó.

 

b/ Giới trưởng giả và điền chủ : toàn là đại phú gia, họ có ruộng

c̣ bay thẳng cánh, thường sống ở tỉnh, lâu lâu mới về làng thâu

lúa thóc. Có kẻ ác nhưng cũng có người hiền như Bà Lâm Ngọc Thanh

là đại điền chủ ở Vũng Liêm, đă giúp phần lớn trong việc tạo tác

các Thánh Thất.

 

c/ Giới trung lưu gồm có trung nông, tiểu thương, công tư chức.

Các thành phần này theo Đạo Cao Đài đông nhất và cũng là những đệ

tử đầu tiên của nền Tân tôn giáo. Họ làm việc cho chính Phủ Bảo

hộ nếu là công chức như quí ông Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Lê

Văn Trung v.v. .và làm việc với người Pháp, nhưng đa số đều bất

măn v́ hoàn cảnh nước nhà bị đô hộ. Ngày tháng chỉ c̣n biết làm

bạn với cây cỏ hoặc người khuất mặt, hoặc tham gia cách mạng. Nhờ

vậy mà việc xây bàn (table tournante) được thịnh hành trong

thời đó.

 

d/ Giới cần lao gồm có thợ thuyền và nông dân, đời sống của họ

thật cơ cực, sống trong các túp lều xêu vẹo. Con cái họ thiếu ăn,

thiếu mặc và lẽ đương nhiên là thất học. Kịp khi Đạo Cao Đài khai

mở là nguồn cứu tinh của họ nên xin nhập môn rất đông. Bởi thế

không lấy làm lạ, tận trong thôn quê sằn dă đều có Thánh thất

 

3/ Văn hóa thời

 

a/ ảnh hưởng văn học Tây phương, bỏ Hán học, chính quyền Pháp mở

trường Pháp Việt. Số người theo Tây học tăng nhanh v́ thấy chữ

quốc ngữ vừa dễ học, vừa đủ khả năng diễn đạt tư-tưởng. Chính ông

Trương Văn Tràng (sau là tiếp Pháp Chơn Quân), thuở nhỏ theo học

chữ Hán sau bỏ vào trường Việt Pháp.

 

Tuy vậy, quốc văn c̣n trong thời kỳ phôi thai. Nhóm Đông Dương

tạp chí, Nam Phong tạp chí cố gắng làm cho được trơn tru, nhưng

đến thời Tự Lực Văn Đoàn mới được như ngày nay. Chính v́ thế mà

thế mà lời văn, từ ngữ trong Thánh ngôn, kinh sách đạo thời Khai

đạo cũng chịu ảnh hưởng đó.

 

b/ Thơ cổ vẫn được duy tŕ, điều này là một sự hiển nhiên trong các

văn phẩm Đại Đạo. Nhóm thơ mới như Thế Lữ, Lưu Trọn Lư không trấn

áp được thơ cổ của Tản Đà, Á Nam, Đông Hồ. Thuần Đức (Bảo pháp

Chơn Quân) là một thi sĩ đương thời chuyển về thơ luật.

 

c/ Âm nhạc cổ vẫn c̣n địa vị, tuy bị âm nhạc cải cách của giới

trẻ lấn át. Hát Bội, cải lương, há chèo, chầu văn cúng tế vẫn

được lưu hành. Tuy cổ nhạc Việt Nam bị hạn hẹp trong nhịp, điệu,

thể thức tŕnh bày phức tạp, nhưng Cao Đài giáo dùng làm âm nhạc

chánh. Chèo thuyền là h́nh thức hát bội pha hát chèo rất hợp với

quan cảm của người Việt Nam ông Cao Quỳnh Diêu (sau là Bảo Văn

Pháp Quân) rất rành về cổ bản, đă chỉ vẽ cho các nhạc công Bộ Lễ.

 

d/ Kiến trúc ảnh hưởng nhiều Tây Phương. Năm 1924 chính quyền

Pháp cho mở trường Cao Đẳng Mỹ thuật truyền bá môn hội họa, điêu

khắc, kiến trúc. Ṭa thánh Tây Ninh là một sự tổng hợp mỹ thuật

Đông phương và Tây phương. Một công tŕnh vĩ đại tiêu biểu cho

nghệ thuật Việt Nam trong buổi giao thời.

 

e/ Phong tục thay đổi, những giá trị cố hữu của dân tộc Việt Nam

bị các tư tưởng mới như tự do cá nhân, nam nữ b́nh quyền đàn áp.

Quyền của cha mẹ bị suy giảm. Thanh niên nam nữ t́m cách thoát ly

gia đ́nh. Cách phục sức từ thành đến tỉnh cũng thay đổi. Đàn ông

cắt tóc, phụ nữ ăn vận theo lối mới. các lễ nghi hôn nhân, tế tự

được thiết giảm.

 

Các tôn giáo Phật, Lăo, Nho độc tôn từ các triều Lê, Lư, Trần,

đến triều Gia Long thêM Đạo Thiên chúa bành trướng mau lẹ, dù bị

tàn sát và cấm theo đạo. Có lẽ dựa vào đó, nhà văn hóa Hồ Hữu

Tường, trong loạt bài trầm tư đă nghĩ rằng mảnh đất duy nhất có

thể thực hiện được nền văn hóa tổng hợp chính là Việt Nam. Nền

văn hóa truyền thống của ta khác biệt với mọi nền văn hóa trên

thế giới, tinh thần tam giáo trở thành ư thức hệ cho dân tộc,

thêm vào ư thức hệ văn minh khoa học của Thiên chúa giáo. Do đó

người ta hy vọng nền văn hóa Việt Nam là một nền móng cho thời kỳ

Phục Hưng Tôn Giáo của toàn thế giới. Muốn được điều đó, Việt Nam

phải là một quốc gia độc lập, thống nhất để có đủ thời gian phục

hưng cơ sở văn hóa, mà hiện nay ba điều kiện để thành công, thiên

thời, địa lợi, nhân ḥa chưa có đủ, chỉ có thiên thời là Đấng

Thượng Đế đă cho khai mở một nền Tân tôn giáo năm 1926 qui tam

giáo hiệp ngũ chi.

 

CHƯƠNG II

 

NGUYÊN NHÂN CAO ĐÀI GIÁO XUẤT HIN

 

 

1- Kinh sấm truyền báo trước Cao-Đài giáo xuất hiện

 

Trong càn khôn vũ trụ, theo Pasteur không có định luật ngẫu

nhiên, mọi sự việc đều có do lai riêng của nó. Cao Đài giáo trước

khi xuất hiện cũng đă có nhiều kinh sấm truyền báo trước.

 

a/ Lời tiên tri trong sách Phật tông nguyên lư. Đức thế tôn Văn

phật đă huấn dụ : " Sau Ngài sẽ có một Đức Phật lớn hơn Ngài ra

đời".

 

b/ Lời tiên tri trong quyển Thanh Tịnh Kinh : "Thanh Tịnh Kinh

hữu di-tích. Công viên quả măn chỉ thọ đơn thơ Thiên mạng phương

khả truyền đạo Tam kỳ Phổ Độ". Kinh Thanh Tịnh có dấu tích để lại

rằng : công đầy quả đủ sẽ được lănh thọ đơn thơ. Người có mạng

trời khá nên truyền đạo Tam kỳ Phổ Độ.

 

c/ Lời tiên tri trong quyển Vạn Pháp qui tông : "Cao Đài tiên bút

thi văn tự". Trong Đạo Cao Đài mai sau nầy sẽ có thơ văn của chủ

tiên do thần diệu cơ bút viết ra.

 

d/ Dự tiên tri trong Đạo Tam Thanh. Vào Thế kỷ XV bên Trung Hoa

có vị đạo sỹ tên Ngô Chi Hạc lập phái Tam thanh, nhờ giáo chủ 3

đạo lớn : Đức Lăo Tử, Đức Khổng tử, Đức Thích Ca. Đạo này là bước

đầu tiên của nền Đại Đạo.

 

e/ Lời tiên tri của chi Minh Sư.

Khi nhà Thanh (Trung Hoa) chiếm ngôi nhà Minh, một số vong thần

chạy sang Việt Nam và một nhóm lên núi lập ra chi Minh Sư, Minh

Đường (hai chi trong ngũ chi Đại Đại sau này). Ngoài b́a sách

kinh của các chi ấy có 2 câu thơ :

 

Cao như Bắc khuyết nhân chiêm ngưỡng

Đài tại Nam phương đạo thống truyền.

 

Đă tiên đoán- cho việc khai đạo Cao Đài tại phương Nam nước Tàu

tức Việt Nam.

 

f/ Lời tiên tri trong "Minh Thánh kinh linh sám" : "Mạng hữu Cao

Đài minh nguyệt chiếu". Danh của Đức Cao Đài sáng tỏ như trăng

sáng.

 

g/ Lời tiên tri trong sách "Ấu học tầm nguyên" "Đầu Thượng viết

trên Cao Đài" trên đầu mọi người gọi là Cao-Đài.

 

h/ Lời tiên tri của Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trong quyển

"Bạch Vân am thi tập" có ghi :

 

Con mừng búng tít con quay

Vù vù chong chóng gió lay trên đài

Nhà cha cửa đóng then cài

Ầm ầm súng dậy, hỏi người đông lân.

 

Hai câu đâu á chỉ chữ "Vạn" trên nóc các Thánh Thất đạo năm

1939-1945, cũng gọi là đài. Biểu hiệu này trùng với hiệu đảng Đức

quốc xă nên người Pháp ra lịnh đóng cửa các Thánh Thất, hợp ư với

2 câu sau. Rồi sau nhờ Nhật đảo chánh (1945), các Thánh thất được

mở cửa lại  tức "ầm ầm súng vậy hỏi người đông lân"

 

i/ Lời tiên tri trong quyển, "Giác mê ca"

 

Hữu duyên mới gặp Tam kỳ phổ độ

Muôn đời c̣n Tử phủ nên danh

 

l/ Lời tiên tri trong quyển Kinh "Tỉnh thế ngộ chơn"

 

Đại thiên tiên hóa hoằng chơn đạo

Trợ quốc cứu dân tích thiện luân

Nam Hải Từ Hàng chân vận tế

Tây Phương Tiếp dẫn, Phật Đông Lâm

 

Trước khi có cuộc thay đổi lớn sẽ có một nền đạo chân chánh xuất

hiện giúp nước cứu dân, làm điều thiện đáng khen. Biển Nam có

Phật Từ Hàng đi khắp nơi để độ rỗi. Phương Tây có phật tiếp dẫn

đưa người đến Đông độ.

 

m/ Lời tiên tri trong quyển Kinh "Vạn diệu thiên thư cổ bổn"

 

Tam giáo kim tùng cổ hóa sanh

Tiên thiên phu"ơng hữu thi Tam Thanh

Phật pháp Nho hề quy nhứt bổn

Tự nhiên tả đạo thống trương tranh

Vạn ức sơn hà giai hữu thử

Tổng quy nhất phái đắc an thành

xà vĩ, mă đầu khai đại hội

Tam kỳ hậu thế hiển phương.

 

n/ Lời tiên tri tại Trung Phần trước năm 1926

 

Canh dần mậu dần niên

Kỷ măo, canh th́n tiền

Tự nhiên Thiên phú tánh

Cao đài tân chân truyền

 

Lời tiên tri trong kinh các tu sĩ tại Trung phần theo phái Minh

Sư có câu :

 

Con cầu Phật tổ Như Lai

Con cầu cho thấu Cao Đài Tiên ông.

 

o/ Lời tiên tri của cụ Thủ Khoa Huân. Vào ngày 3 tháng I năm 1913

tại Cao Lănh (kiến phong) các kỳ hào hợp tại nhà ông Lê Quang

Hiển, nhạc phụ của ông Diệp văn kỳ để thỉnh tiên. Chơn linh củ

Thủ Khoa Huân có cho 2 bài thơ sau :

 

Dung tất Cao Đài nhiệm khuất thân

Tứ triêm đào lư nhứt môn xuân

Cánh tân bôi bức giang sang cựu

Trừ cựu thời thiêm tuế nguyệt thân

Cửu thập thiều quang sơ bán lục

Nhất luân minh nguyệt vị tam phân

Thừa nhàn hạc giá không trung vụ

Mụ đỗ Cao Đài tráng chí thân.

 

Cụ lại thích nôm luôn :

 

Co dũi Cao Đài khỏe tấm thân

Dạo xem đào lư đượm mùa xuân

Giang san chẳng khác ngàn năm cũ

Ngày tháng chờ thay một chữ tân

Chín chục thiều quang vừa nửa sáu

Một vùng trăng rạng chửa ba phân

Thừa nhân cỡi hạc không trung ruổi

Chạm mắt Cao Đài khỏe tấm thân.

 

Chữ Cao Đài dược nhắc đi nhắc lại 4 lần, nhưng măi đến năm 1927,

chức sắc đi truyền đạo tại Cao Lănh, ông Hiển đem 2 bài thơ trên

ra mới rơ lẽ mầu nhiệm của nền Tân tôn giáo.

 

2/ HOÀN CẢNH XĂ HỘI VIT NAM CHUNG ĐÚC CHO NỀN TÂN TÔN GIÁO

 

Đời nhà Lư, nhà Trần, Phật giáo cực thịnh, được xem như là quốc

đạo. Trong gần 1.000 năm, từ thế kỷ X, đến cuối thế kỷ thứ XIX,

cá triều Ngô, Đinh, Tiền Lê, Tiền Lê, Lư Trần, Hậu Lê và Nguyễn

đă dùng chữ Nho trong các công văn, trong sự học hành, các khoa

thi và hành chánh. Trong triều nhà Trần mở khoa thi Tam giáo

(Nho, Thích, Lăo) được gọi là Tam giáo đồng nguyên và được tôn

sùng ngang hàng. Tinh thần Tam giáo chẳng những biểu lộ trong văn

chương từ cú mà c̣n là những ǵ linh động được thể hiện qua mọi

lề lối sinh hoạt của dân tộc. Tinh thần Tam giáo đă trở thành một

ư thức hệ đơn thuần trong xă hội việt Nam, tạo cho dân tộc một

tinh thần bất khuất biết lư ḥa đồng để làm cơ giới tranh đấu.Đó

là một thần trí đặc thù mà người Việt Nam lấy làm hănh diện. Đă

bao nhiêu lần Bắc thuộc, kế đến PháP thuộc mà phong tục dân tộc

vẫn không mất bản sắc, bất khả đồng hóa, chính là nhờ cái thế

tôn giáo đồng nguyên Thích, Nho, Lăo.

 

Nền văn hóa Việt Nam lạ phải đương đầu với sự du nhập văn minh

vật chất Tây Phương, kèm ư thức hệ tâm linh thiên chúa giáo. Sóng

gió đạo lư đă nổi loạn, nền luân lư cổ truyền Khổng Mạnh bị lung

lay, nhưng rồi với thời gian đâu vào đấy, bước đến chỗ ḥa đồng

tôn giáo . Dù Đông hay Tây, cổ kính hay tân thời đă kết tinh lại

tạo thành một ư thức hệ tổng hợp, dung ḥa mọi bất đồng tiểu dị

trên mảnh đất nhỏ bé bất hạnh nhưng nhiều diễm phúc và hồng ân

Thiêng liêng này. Do đó, người ta hy vọng rằng Việt Nam sẽ là

rơi Đại phục hưng, Tôn giáo trên toàn thế giới.

 

3 ĐẤNG CHÍ TÔN ĐÀNH ÂN SỦNG CHO DÂN TỘC V

 

Đàn đêm 24/04/1926. Đấng Chí tôn đă dạy : "Vốn từ trước thầy đă

lập ra Ngũ cho Đại Đạo là : nhơn đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên

Đạo, Phật Đạo. Tùy theo phong hóa của nhân loại mà gầy chánh

giáo, là v́ khi trước : càn vô đắc khán, khôn vô đắc duyệt, th́

nhơn loại duy có hành Đạo nội tư phương ḿnh mà thôi.

 

"C̣n nay th́ nhân loại cũng đă hợp đồng, càn khôn dĩ tân thức th́

lại bị phân nhiều Đạo, mà nhân loại bị nghịch lẫn nhau nên thầy

mới nhứt định qui nguyên phục nhứt. Lại nữa, trước thầy giao

Tháng giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa Thánh giáo mà lập

ra cuộc phàm giáo.

 

"Thầy lấy làm đau đớn, hằng thấy gần trót 10 ngàn năm,nhân loại

đă bị sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp chốn A Tỳ. Thầy nhứt định đến

chính ḿnh thầy mà độ rỗi các con, chẳng chịu giao Thánh Giáo cho

tay phàm nữa. Nhưng buộc phải lập Thánh thể có lớn có nhỏ đặng dễ

thế cho các con d́u dắt lẫn nhau, anh trước em sau mà Đến nơi

Bồng Đảo.

 

"Chẳng c̣n một ai dưới thế này c̣n đặng phép nói rằng : thế

quyền cho Thầy mà tư phần hồn cho nhân loại. Ai có đức hạnh lớn

mới ngồi địa vị của thầy ban thưởng, c̣n cả môn đệ ai cũng như

ai, không đặng lập phe lập đảng. Nhược bằng kẻ nào phạm tội th́

thầy trục xuất ra ngoài cho khỏi điều rối loạn."

 

Đức lư giáo Tông chủ trị về hồn toàn đạo cũng giáng đàn đêm 13

tháng 1 năm 1927 như sau :

 

"Hiện nay nhân loại đang trải qua một thời kỳ khủng hoăng trầm

trọng. Trật tự và thanh b́nh thuở xưa không c̣n nữa. Luân lư sụp

đổ, nhân tâm sa đọa. Đối với  kẻ hoài nghi, Thượng Đế chỉ

c̣n là một tiếng suông. Họ không biết rằng trên Cao Đài kia ngự

trị của Đấng Chí Tôn, chúa tể cả vũ trụ và cả số phận loài

người."

 

4- TỔNG TẮT

 

Xem như thế, việc xuất hiên Cao Đài giáo là Thiên thơ dĩ định, mở

kỳ ba tam chuyển này để độ 92 ức nguyên nhân và truyền đạo đến

thất ức niên.

 

PHẦN THÚ NHỨT

 

THỜI KHAI PHÁP

(1920-1926)

 

CHƯƠNG I

 

ẤN CHỨNG THIÊNG LIÊNG

 

1- Người Đệ tử Cao Đài đầu tiên

Người Việt Nam đầu tiên được diễm phúc làm đệ tử cao đài là ông

Phủ Ngô văn Chiêu, người Chớ Lớn. Vào ngày 1 tháng 3 năm 1920,

ông Phủ Ngô Văn Chiêu được đổi ra Hà Tiên, một tỉnh thuộc miền

duyên hải Tây Nam Á. Hà Tiên từ xưa vẫn Được nổi tiếng là có

10 thắng cảnh thu hút nhiều du khách. Trên đất liền th́ có các

núi như núi Lăng trông thẳng ra biển sẽ thấy mộ phần Mạc Cửu,

thân sinh Mạc Thiên Tích, nổi tiếng nhờ 10 Bài

"Hà tiên Thập Vịnh Cảnh", một cựu thần Nhà Minh, rồi núi Thạch

Động, núi Đá dựng. Phía trước châu thành Hà Tiên có núi Tô Châu

gồm có Đại Tô Châu và Tiểu Tô Châu, ngó thẳng ra Đôn hồ, xa hơn

nữa th́ có Mũi Nay, ḥn Phụ Tử v.v.. Các núi này toàn đá vô nên

lắm động, nhiều hang  tạo thành khung cảnh huyền bí, thần tiên.

Nhờ non sông chung đúc dân chúng ở đây sớm biết cách pḥ cơ thỉnh

tiên.

 

Vốn là người mộ đạo, ông Phủ Ngô Văn chiêu thường lên núi Thạch

động để pḥ cơ thỉnh tiên nhờ hai đồng tử. Một vị tiên cô xưng là

là Ngô Kim Liên giáng cho ông hai bài thi :

 

Văng vẳng nhạc kêu bạn giữa thu

Rằng trời cùng đất vẫn xa m

ù

Non tây ngảnh lại đường gai gốc

Gắng chí cho thành bực trượng phu

 

2- Ngần ngần trăng tỏ giữa trời thu

Cái cảnh Tây Phương vẫn mịt mù

Mắt mẹ nào ai trông thấy đấy

Lắm công tŕnh mới đúng công phu

 

Ngô tiên cô khuyên tu nhưng Ông Phủ Ngô Văn Chiêu chưa thấm nhuần

chơn Đạo.

 

Ngày 26 tháng 10 năm 1920, ông được lệnh Phú Quốc. Phú Quốc ở về

phía Tây tỉnh Kiên giang, giống h́nh một tam giác chiều dài nằm

trong vĩ tuyến 10 độ 6 đến 11 độ 56 (50 cây số); chiều rộng nằm

trong kinh tuyến 113 độ 74 đến 114 độ (30 cây số). Xung quanh

Đảo về phía Nam c̣ một số đảo nhỏ. Phú quốc có 99 ngọn núi, phần

nhiều núi nhỏ và đồi chỉ có một vài ngọn núi cao. Diện tích

66.000 mẫu tây. Dân số đông vào khoảng 10 ngàn người đa số là

người đa số là người Việt Nam rồi đến Hoa Kiều và  người

KAMPUCHIA. Giữa đảo có núi Đường Đưng cao hơn trăm thước. Chính

trên đỉnh núi này mà ông Phủ Ngô văn Chiêu lập đàn thỉnh tiên.

 

Từ khi ông ra trấn nhậm đảo hể ông lập đàn th́ có tiên giáng

không như trước kia cầu cơ rất khó khăn. Một hôm có chịu làm đệ

tử th́ sẽ dạy đạo và bảo bỏ kinh Minh Thánh đừng tụng nữa. Về

sau, ông mới biết vị tiên Ông đó là Ngọc Hoàng Thượng Đế. Rồi bữa

kia, Tiên Ông giáng cơ bảo ông phải lo tu và ăn chay thêm cho đủ

10 ngày trong một tháng.

 

Ông nghĩ rằng : "Ḿnh đứng làm quan, nay người này mời, mai

người khác thỉnh, nếu chịu ăn chay 10 ngày, rồi sau rủi quên ăn

mặn th́ có tội với Trời Phật. Nhưng nếu theo lời dạy mà được có

kết quả th́ cũng rán mà ăn. Nếu ăn chay 10 ngày khi chết c̣n

phải chịu luân hồi th́ thà là ăn 2 ngày c̣n hơn. Miễn là ḿnh lo

tu nhơn tích đức, chẳng làm trái với lương tâm th́ thôi. Ông

định, khi cầu tiên sẽ bạch lại như vậy.

 

Vào đêm mồng 1 tết Tân Dậu (8-2-1921) có người thợ bạc có chuyện

muốn cầu tiên, đến mời ông chứng đàn. Tiên ông giáng cơ chưa kịp

bạch hỏi chi th́ cơ viết như vậy : "Chiêu, tam niên trường trai".

 

Thấy vậy, ông rất bối rối v́ ông chưa chịu ăn chay 10 ngày mà nay

Tiên ông lạ ra lịnh trường chay 3 năm. Ông mới bạch rằng : "Bạch

Tiên ông, Tiên ông đă dạy th́ đệ tử phải vâng, mong xin Tiên ông

phải bảo hộ đệ tử, chớ trường trai 3 năm lâu quá chẳng biết đệ tử

có chịu nổi hay không và xin Tiên ông bảo lănh, nếu đệ tử vâng

theo lời dạy th́ phải có chứng quả chi mới được". Tiên ông bảo cứ

theo lời dạy th́ sau sẽ rơ

 

Ông phủ Ngô Văn Chiêu khởi sự trường trai và học đạo kể từ đây.

Tiên ông thường giáng cơ truyền đạo cho ông tu và dặn phải giữ

bí truyền chứng nào tới thời kỳ khai đạo th́ Tiên ông sẽ dạy.

2- THIÊN NHĂN HIỂN HIN LẦN ĐẦU TIÊN

 

Tuy ông Đă làm đệ tử của Tiên ông chớ chưa lập bàn thờ; v́ không

biết phải thờ ra sao.

 

 Một buổi sáng lối 8 giờ, ông đương ngồi trên vơng bổng đâu thấy

trước mắt cách xa độ 2 thước lộ ra con mắt thiệt lớn, rất tinh

thần, chói ngời như mặt trời ông lấy làm sợ hăi, lấy hai tay đậy

mắt lại. Chừng 30 giây ông mở mắt ra th́ thấy con mắt cũng c̣n

và lạ chói sáng hơn nữa. Ông liền chấp tay vái rằng : "Bạch Tiên

ông đệ tử rơ biết huyền diệu của Tiên ông rồi. Đệ tử xin Tiên

đừng làm vậy, đệ tử sợ lắm. Như phải Tiên ông bảo thờ Thiên nhăn

th́ xin cho biến mất tức th́". Vái xong th́ con mắt lu dần rồi

mất.

 

Du vậy, ông vẫn chưa thiệt tin nên chưa tạo Thiên nhăn mà thờ.

Cách vài ngày sau ông thấy như lần trước nữa. Ông khấn nguyện

sẽ tạo Thiên nhăn mà thờ, tự nhiên con mắt biến mất.

 

Sau khi thấy thiên nhăn hiện 2 lần ông cầu cơ hỏi cách thờ phượng

th́ Tiên ông đă dạy vẽ con mắt như đă thấy mà thờ và xưng danh là

: "Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát và dạy ông chỉ kêu Tiên

ông bằng thầy mà thôi. Từ đó, ông chính thức trở thành người đệ

tử đầu tiên của Đức Cao Đài.

 

Lần lần Đức Cao Đài truyền đạo cho ông tu. Ông quyết chí tu hành,

trường trai giới sát và ông thệ nguyện rằng : "Nếu độ ông thành

Đạo th́ ông sẽ độ lại chúng sanh tùy theo phước đức của mỗi

người". Khi tu được 3 năm th́ thầy khuyên ông : "Ba năm lao khổ

độ nhất nhân, mắt thầy xem rơ ḷng đă chắc, thương v́ con trẻ

gắng chí tầm phương biết Đạo mầu". Sau v́ nhiều người ganh tỵ xúi

dân kiện thưa ông đắc lịnh đổi về Sàig̣n ngày 30 tháng 7 năm

1924, âu cũng là Thiên cơ dĩ định.

 

 

 

 

CHƯƠNG II

 

CƠ PHONG THÁNH

 

1- Đấng A, Ă, Â giáo đạo

 

"Trong năm Ất Sửu (1925), cá thầy các ông, từ hạng thông phán,

phủ huyện, muốn t́m một sự thật mà thiên hạ đă làm đảo lộn trong

giới trí thức đương thời là : "Con người có thể thông công cùng

các đấng Thiêng Liêng vô h́nh được". Thuyết này đă làm cho cả Âu

châu sôi nổi, nhiều sách báo tung ra cả hoàn cầu do các Hội Thần

linh học và Thông thiên học đă khảo cứu một cách rỏ rệt : "Loài

người có thể sống nơi cảnh thiêng liêng kia như chúng ta đang

sống". Cái thuyết lư ấy làm cho nhiều người, nhứt là hạng học

thức t́m hiểu

 

Trong hạng học thức ấy có một người cố tâm hơn hết là Đức Cao

Thượng Phẩm. Ban sơ chưa biết ǵ! chỉ làm theo phương pháp bên

Âu châu hay bên Pháp là Xây Bàn. Chúng tôi muốn t́m hiểu huyền vi

bí mật của thiêng liêng đă tạo ra càn khôn vũ trụ (Thuyết đạo của

Đức Phạm Hộ Pháp ngày 13-10 giáp Ngọ, 1954)

 

Mặc khác "vốn là những nhà thi sĩ và chất chứa nơi tâm" nổi câm

hờn v́ nước nhà bị đô hộ, ba vị này (Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc

và Cao hoài Sang) mượn thú xây bàn mời vong linh những người quá

văng để cầu hỏi về vận mạng tương lai của Tổ Quốc" (Lời xác nhận

của Đức Cao Thượng Sanh về Đạo sữ xây bàn ngày 22-12 Đinh

Mùi,1968).

 

Do Đó, vào ngày 25.7.1925 (ngày 5-6 Ất Sửu) hai ông Cao Quỳnh Cư

về Phạm Công Tắc đến nhà ông Cao Hoài Sang bên cạnh chợ Thái

B́nh (Sàig̣n) để thăm viếng và hàn huyên t́nh đời thế sự. Càng

lúc càng khuya có lẽ v́ thần linh thúc giục, các ông mới nghĩ đến

việc xây bàn. Ba ông đem ra trước hiên nhà một cái bàn vuông bốn

chơn kê cho một cái chân hỏng đất rồi đồng để tay lên bàn khấn

vái. Lúc sơ khởi gặp nhiều khó khăn, ba vị đốt nhan khấn nguyện

từ 21 giờ tối đến 2 giờ đêm có nhiều vong linh nhập bàn viết

tiếng Anh, Pháp và Hoa ngữ, cũng có một vong linh học sinh Hà Nội

viết tiếng quốc ngữ. Cái bàn gơ khi chửng chạc, khi lựng khựng

dường như có nhiều vong linh tranh nhau để nói chuyện. Do đó các

ông năn ḷng ngưng xây bàn.

 

Việc xây bàn thật vất vả v́ chỉ có khẩu ước với đấng vô h́nh trong

vần quốc ngữ. Như nhịp một lần "A" hai lần là "Ă" và 3 lần là "Â"

v..v.. khi chân bàn ngừng chổ nào th́ người ngoài hiên chữ ấy,

ặng

rồi nhiều chữ ghép thành 1 tiếng, nhiều tiếng mới ghép thành lời

văn hay câu thơ. Nhưng về sau nhờ thuần điển và quen việc nên sự

tiếp chuyện với các Đấng thiêng liêng càng mau lẹ và rơ ràng.

 

Qua đêm thứ nh́ (26-7-1925) ba ông lại xây bàn th́ đúng 24 giờ có

một vong linh nhập bàn, gơ chữ ráp thành bài thi bát cú đường

luật :

 

THI

 

Ly trần tuổi đă quá năm mươi

Mi mới vừa nên ước đặng mười

Tổng mến lời khuyên bền mộ chép

T́nh thương căn dặn gắng tâm đời

Bên màn đôi lúc trêu hồn phách

cơi thọ nhiều phen đặng thảnh thơi

Xót nổi vợ hiền con lụm cụm

Gặp nhau nhắn nhủ một đôi lời.

 

Kư tên CAO QUỲNH TUÂN

 

 

Cụ Cao Quỳnh Tuân l thân phụ ông Cao Quỳnh Cư qua đời đă 25 năm.

Ông Cư đọc tới câu thứ 7 quá ngậm ngùi. Cả 3 cảm phục ư nghĩa của

bài thơ.

 

Đến đêm 30-7-1925 ( 10-6 Ất Sửu), ba ông lại họp nhau tại nhà ông

Cao hoài Sang mở cuộc xây bàn. Hôm nay có một nữ vong linh giáng

đàn cho thi :

 

THI

 

Nỗi niềm tâm sự tỏ cùng ai

Mạng bạc c̣n xuân uổng sắc tài

Những ngở trao duyên vào ngọc các

Nào dè phủi nợ xuống truyền đài

Dưỡng sinh cam lỗi t́nh sông núi

Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai

Dồn dập tương tư oẳn một gánh

Nỗi niềm tâm sự tỏ cùng ai

 

Kư tên ĐOÀN NGỌC QUẾ

 

Ba ông họa lại 3 bài. Riêng ông Cư hỏi cô Quế hồi c̣n sống ở đâu _

Cô đáp : "ở Chợ lớn".

 

Hôm sau th́ ông Cư mời ông Tắc và ông Sang qua nhà ông để xây bàn

mời cô Đoàn Ngọc Quế về dạy làm thi. Ba ông hỏi cô quế về việc

thượng giới, cô tiết lộ đôi điều khiến các ông càng thêm học hỏi.

Cô gọi ông Cư là anh cả, ông Phạm Công Tắc là Nhị ca, ông Cao

Hoài Sang là Tam ca c̣n cô là tứ muội.

 

Đến hạ tuần tháng bảy năm đó, ba ông lại xây bàn bỗng có một ông

giáng xưng là A, Ă, Â cho bài tứ tuyệt.

 

THI

 

Ớt cay cay ớt gẫm mà cay

Muối mặn ba năm muối mặn dai

Túng lúi đi chơi nên tấp lại

Ăn ḅn chẳng chịu tấp theo.

 

Ông Cư hỏi ông A, Ă, Â mấy chục tuổi, ông gơ bàn hoài không

ngừng, nên ông không dám hỏi nửa. Từ đó về sau, hễ cơ ai giáng

xuống cho thi th́ ba ông cầu ông A, Ă, Â giải nghĩa.

 

Đến cuối tháng đó, cô Đoàn Ngọc Quế giới thiệu các tiên nương :

Hớn Liên Bạch, Lục Nương, Nứt Nương. Các ông rất mừng được thêm

bạn thi thơ, nên mời các cô ngày rằm trung thu. Cô Quế nói rằng :

Ba anh muốn cầu th́ ngày đó phải ăn chay, cầu mới được". ba ông

đồng ư.

 

2- HỘI YẾN DIÊU TR̀ CUNG

 

Tại nhà Ông Cao Quỳnh Cư số 134 Bourdais (nay là Calmette) Sàig̣n

vào ngày 15-8 Ất Sửu (1-9-1925) lập bàn hương án, chưng những hoa

thơm và xông trầm trọn ngày. Đến 12 giờ th́ 4 cô giáng cho thi.

 

THI

 

Im ĺm cây cỏ vẫn in màu

Mờ mệt vườn xuân điểm sắc thu

Gió dậy xao trời mây cuốn ngọc

Sương lồng ướt đất liểu đeo châu

Ngựa vàng ruổi vo thoi đưa sáng

Thỏ ngọc trau gương đậm vẽ làu

Non nước đ́u hiu xuân vắng chúa

Nh́n quê cảnh úa giục cơn sầu

 

LỤC NƯƠNG

 

Sau đó, Đức Chí Tôn mới hạ lệnh bảo làm một yến tiệc. Ngài dạy

sắp đặt để đăi các Đấng vô h́nh, đăi 10 người : Đức Phật Mẫu và

Cữu Vị Tiên Nương. Phần hữu h́nh có 3 ông. Việc lo cổ bàn do bà

Nguyễn Thị Hiếu(tức bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu), trên bàn thờ Phật

Mẫu, dưới sắp 9 cái ghế. ba ông th́ ngồi ăn, c̣n bà Hiếu th́ d'i

gắp đồ ăn để vào chén cho 9 vị và trên bàn thờ Phật Mẫu. Đó là bí

pháp truyền thống của Đạo Cao Đài. Hiện nay hằng năm đều tổ chức

Lễ Hội Yến Diêu Tŕ để tán tụng công đức của chư vị Tiên Nương, có

đại công trong việc khai đạo.

 

 

Khi Hội Yến xong, ông Cư và Tắc hỏi Đức Chí Tôn :

 

_ Khi nảy Diêu Tŕ cung đến Ngài có đến không ?

_ Có chớ, Ta ở đây từ lúc ban sơ, Đức Chí Tôn trả lời. Ông Tắc

lại hỏi :

 

_ Như em tôi Thất Nương (cô Đoàn Ngọc Quế) có thể đạt đạo

chăng?

 

_ Phải tu, bằng không th́ chẳng được.

 

Sau đó, các ông học đạo với Cửu Tiên nương.

 

Vái van xin quí Cửu Tiên nương.

Tâu với Ngọc Hư tỏ ngọn nguồn

V́ nghĩa... mang trọng tôi

Nghĩ t́nh đồng đạo để t́nh thương.

 

Vào đầu tháng 12-1925, ông Nguyễn Trung Hậu nghe đồn tại nhà 3

ông Cư, Tắc, Sang có tiên về cho thi hay lắm mới đến nhà Ông Cư

xem coi thiệt giả. Ông A, Ă, Â gơ bàn cho thi :

 

THUẦN văn chất Đức tài cao

Tên tuổi làng thơ đă đứng vào

Non nước muốn nêu danh tuấn kiệt

Đến hồi búa Việt giục cờ Mao

 

Nhờ Điểm danh đúng bút hiệu Thuần Đức, nên ông Hậu mới chịu theo

Đạo, rồi lần lượt độ các ông trong hàng Thập nhị thời quân.

 

3 Lập đàn cầu đạo

 

Vào ngày 27-10 năm Ất Sửu, Bà Cửu Thiên Huyền Nữ giáng cơ bảo :

"Mùng 1 tháng 11 này (16-12-1925) tam vị phải Vong Thiên cầu đạo.

Tắm gội cho tinh khiết, qú giữa Trời cầm chín cây nhang mà vái

rằng :

 

"Ba tôi là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang vọng bái

Cao Đài Thượng Đế, ban ơn đủ phúc lành cho ba tôi cải tà qui

chánh."

 

Sáng ngày mồng một ông Cao Quỳnh Cư qua nhà ông Tư mượn Đại Ngọc

cơ theo lời dạy của Đức Chí Tôn, như vậy việc xây bàn đến đây

thay bằng pḥ cơ (1). Đến giờ ba ông thiết lễ, tịnh tâm mặc niệm

như lời ông A, Ă, Â dạy, dù ngoài đường kẻ hiếu kỳ tới coi. Bỗng

đâu thi sĩ Bồng Dinh đến vịn cái bàn chổ 3 ông qú mà ngâm thi.

Đức Cao Đài giáng viết chữ Nho 3 ông không hiểu, nên thỉnh ông A,

Ă, Â xin giải thích. Ông A, Ă, Â nói Đấng CAo Đài khuyên quí vị

nghĩ cho thấu đáo lư tao đoan rồi cho thi.

 

THI

 

Cứ níu theo Phan Đức Thượng Hoàng

Tự nhiên tu tánh đặng b́nh an

Nguyệt hoa căn tội tua xa lánh

Vịnh lấy nhành dương hưởng Đạo nhàn.

 

 

________________________________________

 

(1) Cơ là giỏ đan bằng tre, ngoài phất giấy vàng, có cần bằng

cây dương liểu hay cây dâu, đầu chạm h́nh chim loan, ở cổ chim

loan có cây cọ bằng tre hoặc mây để viết chữ xuống mặt bàn cơ.

Người đứng ngoài có thể đọc được.

 

 

 

 

 

Thuở trước khi cầu cơ khi đọc bài :

 

 

BÀI TRỜI C̉N

 

 

Trời c̣n sông biển đều c̣n

Khắp xem cơi dưới núi non đượm nhuần

Thanh Minh trong tiết vườn xuân

Phụng chầu, hạc múa, gà rừng gái reo

Đường đi trên núi dưới đèo

Lặng t́m cao thấp phải trèo chông gai

Phận làm con thảo há nài

Biết thường Tiên, Phật, Bồng lai mà t́m

Xem qua xét lại cổ kim

Một bầu trời đất thanh liêm chín mười

Vàng trao ngọc chuốc càng tươi

Bền ḷng theo phật cho người xét suy.

Thần Tiên vốn chẳng xa chi

Có ḷng chiêm ngưỡng nhứt th́ giáng linh

 

 

Và khi Thần, Thánh, Tiên Phật giá lâm phải đọc bài :

 

BÀI MỪNG THAY

 

Mừng thay chi xiết nổi mừng

Hào quan chiếu diệu ngàn tầng không trung

Hạc reo bay khắp đạo cùng

Càn khôn thế giới cũng chung một bầu

Môn sanh thành kính chực chầu

Tửu trà hoa quả mừng cầu Tiên ông

Nhan thơm tốc Đốt nực nồng

Đèn ḷa ngọn lửa tựa rồng phun châu,

 

Đến khi khai đạo tại G̣ kén th́ không c̣n đọc hai bài này nữa.

 

 

4- Các vị tông đồ đầu tiên và cơ phổ hoá

Vào đêm 25/12/1925, nhân lễ Noel của chúa Jésus Christ, ông A,Ă,

 giáng :

Đức Cao Đài đă hiểu ḷng của 3 đệ tử : Cao Quỳnh Cư, Phạm Công

Tắc, Cao hoài Sang, ngài đă ban đầy ơn cho mỗi người, đêm nay

phải vui mừng v́ là ngày của Thượng Đế xuống trần dạy Đạo bên

Thái Tây (Europe).

 

"Ta rất vui ḷng đặng thấy 3 đệ tử kính mến Ta như vậy, nhà này

(nhà ông Cư) sẻ đầy ơn Ta, giờ này gần đến đợi lịnh, Ta sẽ làm

cho thắng huyền diệu đặng kính mến Ta hơn nửa".

 

Đêm 31-12-1994, Đấn A, Ă, Â giảng dạy :

 

"Ba con thương thầy lắm há ? Con thấy rơ sự hạ ḿnh của A, Ă, Â

thê- nào chưa ? Con có thấy thấu thấu đáo cái quyền năng của Thầy

chưa ? Người quyền thế bậc nhứt có thể hạ ḿnh bằng A, Ă, Â

chăng ?

 

"A, Ă, Â là Thầy. Thầy đến con thế ấy, con thương thầy không ?"

 

Như vậy, từ đây các ông biết Đấng A, Ă, Â là ông Trời, là Ngọc

Hoàng Thượng Đế, là Đức Cao Đài, xưng là Thầy. Đến ngày 1-1-1926,

Thầy giáng cơ phủ dụ và báo trước nhiệm vụ cao trọng của 2 ông

trong nền Tân Tôn Giáo :

 

"Cư, Tắc ! Hai con đừng lấy làm việc chơi nhé, Thầy dặn 2 con một

điều, nhứt nhứt phải đợi lịnh Thầy. Phận sự của hai con, trách

nhiệm của hai con Thầy đă định trước song ngày giờ chưa đến, phải

tuân lời Thầy nghe. Từ đây thầy khởi sự dạy Đạo cho".

 

"Khi Đức Chí Tôn đến với chúng tôi, Đức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam kỳ

Phổ Độ. Lúc Ngài bảo chúng tôi cầm một cây cơ và mộ ngọn bút đi

các nơi thâu môn đệ. Trọng yếu của Ngài là thâu mấy vị Tông đồ có

sứ mạng trong nền Đại Đạo này đă giáng sanh trước, để làm mô giới

độ đạo về sau. Đức Chí Tôn bảo chúng tôi pḥ loan đặng ngài dùng

năng thiêng liêng kêu gọi mấy vị tông đồ đó. Quả nhiên chẵng bao

lâu, có đủ Thập Nhị Thời Quân hiển hiện. Trong các vị Thời Quân

ấy có ông Cao Tiếp Đạo ở KiêM Biên (Kampuchia) chớ không ở

Sàig̣n,

 

"Ngài lại chỉ cho chúng tôi biết rằng : có 1 người đă thờ Ngài

rồi là Ông Văn Chiêu. Dức Chí Tôn muốn phong làm Giáo Tông. Bà

Nữ Chánh phối sư Hương Hiếu may sắc phục cho người kỳ trong 10

ngày. Chúng tôi không hiểu nguyên cớ nào ông Ngô văn Chiêu không

hưởng được vị ấy " (Phạm Hộ Pháp thuyết đạo đêm 13-10 năm Giáp

Ngọ, 1954).

 

Ngày 28-01-1926, hai ông Cư, Tắc vào độ ông Lê văn Trung trong

Chợ Lớn.

 

"Buổi nọ, ông Lê văn Trung đang làm Thượng Nghị Viện Hội Đồng

Thượng Nghị Viện đời Pháp lớn lắm. Ông là người Nam làm đến bực

đó thôi. Ông là người quá sức đời, tôi và Đức Cao Thượng Phẩm

không hạp chút nào. T

ôi kỵ hơn hết, nhứt định không làm không làm

điều đó được. Một ông Quan trong thời mất nước không thể tả hết.

 

"Khi chúng tôi ôm cái cơ đến nhà Ngài đặng Đức chí Tôn độ. Mục

đích của chúng tôi là Đức Chí Tôn bảo đâu làm đó vậy thôi. Khi vô

tới nhà thú thật với Ngài rằng :

"Chúng tôi Được lịnh Đức Chí Tôn đến nhà Anh ph loan cho Đức chí

Tôn dạy Đạo". Ông biết Đấng đó hơn chúng tôi. Lo sắp đặt bàn ghế

sửa soạn buổi pḥ loan, rồi bắt ông nhập môn.

 

"Trong nhà có một người con nuôi tên là Thạnh c̣n nhỏ độ 12 tuổi.

Hai cha con kiếm được cơ đâu kiếm được cơ đâu không biết, vái rồi

cầu cơ. Khi pḥ loan thằng nhỏ ngũ, ông th́ thức. Cơ chạy hoài.

Ông hỏi th́ Đức chí Tôn trả lời, chỉ có 2 người biết với nhau mà

thôi. Từ đó ông mới tin Đấng Chí Tôn.

 

"Từ khi Đức Chí Tôn đến độ Đức Quyền Giáo Tông rồi mới xuất hiện

ra Hội Thánh Cửu Trùng Đài. Ngài đi đến đâu tôi và Đức Cao Thượng

Phẩm theo pḥ loan của Đức Chí Tôn thâu môn đệ. Thâu được bao

nhiêu th́ giao cho Đức quyền giáo Tông giáo hoá.

 

"Khi đó Đức Chí Tôn thâu ông Nguyễn Ngọc Thơ tức (phối sư Thái

Thơ Thanh) làm môn đệ. Thái thơ Thanh là bạn đời củ Bà Nữ Đầu

Sư Lâm Hương Thanh. Chính bà là người cầm đầu nữ phái đó vậy.

(Bài thuyết đạo đă dẫn tản trên).

 

Vào đêm mồng một Tết năm Bính Dần (13.02.1926) giờ Tư tái cầu th́

Đức Thượng Đế giảng dạy rằng :

 

"Chiêu, buổi trước hứa lời truyền đạo cứu vớt chúng sanh, chẳng

nên tháo trúc. Phải thay mặt ta mà dạy dổ chúng nó. Trung, Kỳ,

Hoài ba con phải lo thay mặt Chiêu mà đi độ người, nghe và tuân

theo.

 

Đó là lời Thánh Giáo đầu tiên và là ngày kỷ niệm khai đạo CAo Đài

về Cơ Phổ hoá. Đến ngày 9-1 năm đó (21-2-1926) nhằm vía Đức Ngọc

Hoàng Thượng Đế ông Phủ Vương Quang Kỳ c thiết đàn riêng tại nh

số 80 đường Lagrandière (nay là Gia-Long). Đêm ấy có mờo chư nhu

và mấy vị đạo hữu hầu đàn. Đức Thượng Đế dạy rằng :

 

"Bửu ṭa thơ thới trổ thêm hoa,

Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà

Chung hiệp rán vun nền đạo đức

Bền ḷng son sắc đến cùng ta

 

"Thầy làm chủ, sau các con sẽ hiểu. Thầy vui muốn cho các con

thuận ḥa nhau. Ấy là lễ hiến cho Thầy rất trọng. Phải chung lo

cho Đạo thầy. Đạo thầy tức là các con, các con tức là Thầy. Các

con giữ phận làm tuỳ ư thầy muốn.

 

Khi ấy, ông phủ Ngô Văn Chiêu xin Thượng Đế lấy tên mấy người đệ

tử đầu tiên mà cho một bài thi kỷ niệm. Đức Thượng đế liền cho

 

Chiêu, Kỳ, Trung độ dẫn Hoài sanh

Bản đạo khai Sang, Quí Giảng thành

Hậu, Đức, Tắc, Cư thiên địa cảnh

Quờn, Minh, Mân đáo thủ đài danh

 

Nguyên 12 xiêng trong 4 câu trên là tên của 13 vị môn đệ đầu tiên

của Đức Thượng Đế : Vơ Văn Sang và Cao Hoài Sang. Thầy điểm danh

chung một tên. C̣n 3 chữ câu chót là tên 3 vị hầu đàn, chưa nhập

môn.

 

5- Thiên Phong đầu tiên

 

Đến tháng 3 năm Bính Dần (1926). Đức Chí Tôn giáng cơ dạy bà

Nguyễn thị Hiếu may thiên phục cho chức sắc Hiệp Thiên Đài và Cửu

Trùng Đài liệt kê như sau :

 

A. Thiên phục Cửu Trùng Đài

 

1- Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt : 1 cái áo đại phục xanh và 1

   cái khăn đống chín lớp xanh.

 

2- Ngài Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt : 1 cái áo Đại phục xanh và một

   cái khăn 9 lớp đỏ.

 

3- Ngài Thái Chánh Phối Sư thái Thơ Thanh : 1 cái áo Đại Phục

   Vàng và 1 cái khăn 9 lớp vàng.

 

4- Ngài Chánh Phối sư Thượng Tương Thanh (tức Nguyễn Ngọc Tương)

   1 cái áo Đại phục xanh, 1 cái khăn 9 lớp xanh.

 

5- Ngài Chánh Phối sư Ngọc Trang Thanh : 1 cái áo Đại phục đỏ và

   1 cái khăn 9 lớp đỏ.

 

6- Ngài Ngô Văn chiêu : 1 cái áo Giáo Tông có thêu bùa bát quái

   và một cái măo Giáo Tông.

 

7- Vương quang Kỳ, một Đại Phục Giáo sư phái thượng mộ cái khăn

   7 lớp.

 

B/ Thiên phục Hiệp thiên Đài

 

1- Đức Cao thượng Phẫm : 1 cái áo Đại phục trắng và cái áo lá

   xanh.

 

2- Đức Cao Thượng Sanh : 1 cái áo Đại Phục trắng và 1 cái áo lá

   xanh.

 

3- Và 12 cái áo Đại phục trắng và 12 cái Nhựt nguyệt măo cho 12

   vị thần quân.

 

Vào ngày 22 tháng 4 năm 1926 (11-3 Bính Dần) cầu cơ tại tư gia

ông Cao Quỳnh Cư, Đức Cao Đài giảng dạy :

 

"Đạo phát trể một ngày là 1 ngày hại nhơn sanh. Thầy nôn nóng

nhưng mà Tản cơ chẳng nghịch đặng".

 

Đến ngày 25/04/1926 (15-3-BD) th́ thiết lễ Thiên Phong tại nhà

ông Lê Văn Trung ở Chợ Lớn, thầy dạy :

"Lịch con đă nghe đọc những lời thầy dặn há ?

 

"Cư nghe dặn : con bảo Tắc tấm rửa sạch sẽ, xông hương cho nó,

hiểu nó lựa một bộ đồ tây cho sạch sẽ ăn mặc như thường, đội nón,

cười...

 

"Đáng lẽ nó phải sấm khôi giống như hát bội mà mắc nó nghèo nên

thầy không bảo. Bắt nó lên đứng trên, ngó mặt vô cho ngay ngôi

giáo Tông, lấy 9 tất vải điều đấp mặt no- lại, biểu Đức, Hậu đứng

gần, kẻo xuất hồn nó té tội nghiệp.

 

"Khi chấp cơ xong, hai con mặc Thiên phục vào rồi, nó mới leo

lên.

 

"Lịch ! con viết 1 lá bùa Gián Ma Xử đưa cho Tắc cầm. Hai con mặc

đồ thường, chừng nào thầy triệu Ngũ lôi và Hộ Pháp về rồi thầy

biểu mặc vô thề mới đặng.

 

"Bàn thấy giáng cơ th́ để trước bàn Ngũ Lôi, khi giáng rồi th́

dời đi cho trống chỗ, đặng nhị vị đầu sư qú mà thề.

 

"Cư đem 3 bộ Thiên phục để vọng trên 3 cái ngai, rồi con chấp bút

bằng nhang như mọi lần, đặng thầy trấn thn 3 bộ thiên phục và 3

cái ngai ấy. Rồi mới kêu 2 vị Đầu sư đến qú trước bửu ngài của

nó đặng thầy vẻ phù vào ḿnh, xong cho giảng xướng lên "phục vị"

th́ 2 người leo lên ngồi. Cả thảy chư môn đệ đều qú xuống, bảo

Tắc nó leo lên bàn, con chấp bút bằng nhang đến bàn Ngũ Lôi đặng

thầy trục xuất chơn thần nó ra. Rồi bảo hai vị Đầu Sư xuống ngai

đến trước mặt Ngũ Lôi hai tay chấp trên đầu cúi ngay bùa Kim

Quang Tiên mà thề như vầy :

 

"Tôi là Lê Văn Trung tự Thiên ân là Thượng Trung Nhựt và Lê Văn

Lịch tự Thiên ân là Ngọc Lịch Nguyệt, thề Hoàng thiên Hậu thổ

trước bửu pháp Ngũ lôi rằng : làm tṛn Thiên đạo và d́u dắt mấy

em chúng ta đều là môn đệ của Đức Cao Đài Ngọc Đế. Nhứt nhứt do

lịnh Thầy phân định chẳng dám chuyên quyền mà lập thành tả đạo.

Như ngày sau hữu tội, th́ thề Ngũ lôi tru diệt".

 

"Đến bàn Hộ Pháp cũng qú xuống vái y như vậy nhưng câu sau như

vầy : Như ngày sau phạm Thiên điều thề có Hộ Pháp hành Đọa Tam đồ

bất năng thoát tục.

 

" Rồi mới bảo Giảng xướng lại nữa "Phục vị" th́ nhị vị Đầu sư trở

lại ngồi trên ngai. Chư môn đệ mỗi người đều đến lạy mỗi người

hai lạy.

 

"Tới phiên các môn đệ, từ người đến bàn Ngũ lôi mà thề rằng : Tên

ǵ...họ ǵ... thề từ đây biết một Cao Đài Ngọc Đế chẳng đổi dạ

thay ḷng, hiệp đồng chư môn đệ, ǵn luật lệ Cao Đài. Như ngày

sau có ḷng hại thiên tru địa lục.

 

"Tới trước bàn Hộ Pháp cũng thề như vậy, rồi mới đến lạy nhị vị

đầu sư".

 

Đó là những nghi lễ bí truyền, về sau đạo cứ theo đó mà thi hành

tùy theo chức sắc hay đạo hữu mà lời thề được biến đổi như trên.

 

Đến hai Mươi ba giờ rưởi đêm đó, Thầy lại giáng cơ cho thi :

 

"Kim Triêu dĩ đáo Thiên Trung quang

Ám hiểu thế t́nh tánh đức nang

Chí tại thời lai quang minh tự

Hửu bang thiểu đức, tả bang mang

"Đức, Hậu Phong tiên đạo, Pḥ cơ Đạo sỹ; Phong Cư tá cơ Tiên hạc

Đạo sỹ; phong Tắc, Hộ giá Tiên đồng tá cơ Đạo sỹ; Trung, Lịch đă

thọ sắc cứ tước vị mà theo lịnh sắc mạng Ta.

 

Sau đây là danh sách và ngày tháng các vị Đại Thiêng phong trước

khi khai đạo chính thức.

 

A. Hiệp Thiên Đài

 

1- Ông Phạm Công Tắc thiên phong Hộ Pháp ngày 15 tháng 3 năm

                                                    Bính Dần.

 

2- Ông Cao Quỳnh Cư ...........Thượng Phẩm ..................

 

3- Ông Cao Hoài Sang ..........Thượng Sanh ..................

 

 

B. Cửu Trùng Đài

 

1- Ông Nguyễn Văn Tương thiên phong Chưởng Pháp phái ngày

   24-07 năm Bính Dần.

 

2- Ḥa Thượng Như Nhăn thiên phong Chưởng Pháp Phái Thái ngày

   24-07 năm Bính Dần.

 

3- Ông Thụ Minh Sư thiên phong Chưởng Pháp Phái Ngọc ngày 24-07

   năm Bính Dần.

 

4- Ông Lê Văn Trung thiên phong Đầu Sư Thượng Trung Nhựt ngày

   15-03 năm Bính Dần.

 

5- Lê văn Lịch thiên phong Đầu sư Ngọc Lịch Nguyệt ngày 15-03

   năm Bính Dần.

 

6- Ông Thiện Minh thiên phong Đầu Sư Thái Minh tinh ngày 13-10

   năm Bính Dần.

 

7- ông Lê Bá Trang thiên phong Phối Sư Ngọc Trang Thanh ngày

   03-07 năm Bính Dần.

 

8- Ông Nguyễn Ngọc Tương thiên phong Phối Sư Thượng Tương Thanh

   ngày 17-05 năm Bính Dần.

 

9- Ông Lê Văn Hóa thiên phong Phối sư Thượng Hóa Thanh ngày 19-08

   năm Bính Dần.

 

10- Ông Nguyễn Ngọc Thơ thiên phong Phối Sư Thái Thơ Thanh ngày

   02-07 năm Bính Dầ

 

 

6/ Các đàn lệ

 

Vào ngày 24-04-1926 (14-03 Bính Dần) th́ ông Ngô Văn Chiêu tách

riêng, không đi phổ độ mà lo tu tự giác vô vi, lấy câu : "Ngô

thân bất độ hà hà thân độ" làm chủ thuyết. C̣ ông Lê văn Trung

vâng thánh ư lo thiết Đàn truyền bá mối đạo. Dù vậy, cả hai đều

thờ kính Đấng Cao Đài.

 

Về đàn lệ th́ khởi đầu chỉ có Đàn Cầu kho tại nhà ông Đoàn Văn

Bản, sau thành Tiểu Thánh Thất. Nhưng Đàn Cầu kho rất hẹp, đồ đạt

thiếu hụt. Bàn thờ Chí Tôn chỉ là một cái ghế nhỏ bằng cây dá tị.

Thiên Nhăn Được vẽ trong mănh giấy cao 3 tấc, rộng 2 tấc. Chiếu

đệm cũng không Đủ trăi mà lễ bái. Tuy thanh đạm mà hàng chục tín

hữu cứ mỗi đêm thứ bảy đến hầu đàn học đạo. Sau Thánh thất được

nhiều vị sửa sang lại được khang trang.

 

V́ cung ứng cho kịp với việc phổ thông mối Đạo, Đức Chí Tôn dạy

lập thêm 5 đàn lệ nữa.

 

a/ Đàn Cầu Kho :

 

Do ông Phủ Vương quan Kỳ chứng đàn sau có quí ông Ngô tường Vân,

Nguyễn Văn Mùi, Nguyễn Văn Đạt, Nguyễn Văn Kinh (ông này có viết

nhiều sách Đạo) cùng với ông Kỳ luân phiên trông coi việc cúng

tế. Sắp đặt trong ngoài lễ lộc th́ do quí ông Đoàn Văn Bản, Hoàng

 

Văn Giả, Lê Văn Giỏi, Lê Văn Giảng, Nguyễn Văn Tường. C̣n pḥ

loan do 2 ông Nguyễn Trung Hậu và Trương Hữu Đức.

 

b/ Đàn Chợ Lớn :

 

Tại nhà ông Cựu Nghị viên Lê Văn Trung. Ông Trung và ông Phủ Lê

Bá Trang chứng đàn và hai ông Cao Hoài Sang và Cao Quỳnh Diệu th́

pḥ loan.

 

c/ Đàn Tân Kim (Cần Giuộc) :

 

Tại nhà ông Cựu Hội đồng địa hạt Nguyễn Văn Lai. Quí ông Nguyễn

Ngọc Tương và Lê Văn Lịch chứng đàn. Quí ông Ca Minh Chương và

Phạm Văn Tươi pḥ loan. Lo việc cúng tế do quí ông Lê Văn Tiếp,

Vỏ Văn Kinh, Nguyễn Văn Nhơn, Phạm Văn Tỉ.

 

d/ Đàn Lộc Giang (Chợ Lớn) :

 

Tại chùa Phước Long của Yết ma Giống. Ông phủ Mạc văn Nghĩa và

ông Yết Ma chứng đàn. Quí ông Trần Duy Nghiă và Trương Văn Tràng

pḥ loan.

 

e/ Đàn Tân Định :

 

Tại nhà ông huyện Nguyễn Ngọc Thơ, do ông Chứng đàn và quí ông

Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc pḥ loan.

 

f/ Đàn Thủ Đức :

 

Tại nhà ông Ngô Văn Điều do ông chứng Đàn và quí ông Huỳnh văn

Mai, Vơ Văn Nguyên pḥ loan.

 

Ngoài những đàn lệ trên, côn thiết Đại Đàn nhiều nơi khác, để góp

phần phổ thông nền chơn giáo. Thêm vào đó, Đức chí Tôn dạy lập

một Đàn đặc biệt tại nhà ông Trần văn Tạ để chửa bệnh. Phần

công quả này do ông Tạ và con là Trần Văn Hoàng lo liệu.

 

7- Việc Tảo quả Càn Khôn thờ Đức Chí Tôn

 

Từ trước đă họa Thiên nhăn mà thờ Đức chí Tôn nhưng trong đàn cơ

ngày 17-06-1726 (12-8 Bính Dần), Đức Chí Tôn dạy :

 

 

Một quả càn khôn như trái đất tṛn quay. Bề Kinh tâm (đường

kính) 3 thước 3 tấc. Lớn quá song phải vậy v́ là cơ mầu nhiệm Tạo

hóa trong ấy, sơn màu xanh da trời. Cung Bắc đẩu và tinh tú vẽ

lên quả Càn Khôn.

 

"Thầy kể Tam thập lục thiên, Tứ đại bộ châu ở không không trên

không khí, tức không phải tinh tú. C̣n lại Thất thập nhị địa và

Tam thiên thế giái th́ đều là tinh tú. C̣n lại Thất thập nhị địa

và Tam thiên thế giái đều là tinh tú. Tính lại : ba ngàn bảy mươi

hai ngôi sao, con liệu vẽ lên đó cho đủ. Tại ngôi Bắc đẩu rơ

ràng. Trên sao Bắc đẩu vẽ con mắt Thầy. Đáng lẽ trái đất phải

bằng chai, đúc trong một ngọn đèn thường sáng. Ấy là lời cầu

nguyện rất quí báu cho cả nhân loại Càn khôn thế giới đó. C̣n chư

Phật, tiên, Thánh, Thần đă lên ngôi cốt rồi để th́ dài theo

dưới."

 

C̣n việc, tại sao thờ Thiên nhăn th́ Đức Chí Tôn giảng rằng :

 

"Nhăn thị chủ tâm

Lưỡng Quang chủ tể

Quang thị Thần

Thần thị Thiên

Thiên giả, ngă giả

 

"Nghĩa là : Mắt là chủ tâm, hai ánh sáng trong mắt là chủ tể. Ánh

sáng là Thần. Thần là trời, trời là Ta vậy."

 

8- Số dố đệ của kỳ ba tam chuyển

 

Đàn đêm 4 tháng 10 năm 1926 (27-08 BD) đă quy định rơ số đồ đệ

của CAo Đài giáo. "Thầy Khổng Tử trước có tam thiên đồ đệ truyền

lại c̣n thất thập nhị hiền.

 

"Thầy Lăo Tử trước đặng một tṛ là Ngươn Thỉ. Thầy Giê Su trước

đặng 12 người, chừng bị bắt c̣n lại một Pierre mà thôi.

 

Thầy Thích Già đặng 4 người, ba người bỏ Thầy c̣n lại một. C̣ nay

thầy giáng thế chọn đến : nhứt Phật, tam Tiên, tam lục Thánh,

thất thập nhị Hiền và tam thiên đồ đệ.

 

Các con coi đó mà hiểu, từ ngày tại thế đến giờ có chăng? Nơi

Bch Ngọc Kinh hơn sáu chục năm trước chư Thần Thánh, Tiên, Phật

thấy đại độ Thầy, nên t́nh nguyện hạ thế cứu đời.

 

"Các con có 3 chánh đạo là Tam giáo, các con biết tôn trọng, lại

thêm chánh Đạo nữa, các con biết ít nước nào được vậy. Thầy cho

các con biết : dù một vị Đại la thiên đế xuống phàm mà không tu

cũng khó trở lại dịa vị đặng.

 

9- Khai đạo với Chính Phủ Pháp

 

Ngày 29 tháng 9 năm 1926 (23 tháng 8 Bính Dần), Ngài Đầu Sư Lê

Văn Trung vâng Thánh ư hiệp với chư đạo hữu hết thảy là 247 người

tại nhà ông Nguyễn Văn Tường, đứng tên vào tịch đạo để khai đạo

với Chính phủ Pháp.

 

Ngày 7-10-1926 tờ khai đạo được gởi lên quan thống Đốc Nam kỳ là

ông Le Fol (c̣ Toàn quyền Đông Pháp là ông Pierre Pasquier, nhằm

triều Bảo Đại). Trong tờ ấy có 27 người kư tên là : Bà Lâm Ngọc

Thanh, ông Lê Văn Trung, ông Nguyễn Ngọc Tường, ông Nguyễn Ngọc

Thơ, ông Nguyễ Văn Kinh, ông Lê Bá Trang, ông Đoàn văn Bản, ông

Lê văn Giáng, ông Cao Quỳnh Cư, ông Phạm công Tắc, ông Cao hoài

Sang, ông Nguyễn Trung Hậu, ông Trương Hữu Đức, ông Vương Quang

kỳ, ông Trần Đạo Quang, ông Lê văn Lịch v..v..

 

Nội dung tờ khai đạo ngày 07/10/1926 :

 

Bẩm quan Thống Đốc,

 

Những người kư tên dưới đây thành kính thưa cùng quan lớn rơ việc

như sau :

 

Vốn từ trước, tại xứ Đông Pháp vẫn có tam giáo lưu hành là : Nho

Thích Đạo Tổ tiên chúng tôi tôn sùng cả Tam giáo và thực hành

theo Thánh huấn tốt đẹp của các vị giáo chủ truyền dạy, mới đặng

an cư lạc nghiệp. Trong cố văng ấy, thiên hạ thái b́nh đến nổi

đêm ngủ không đóng cửa, đi đường chẳng lượm cửa rơi, "gia vô bể

hộ, lộ bất thập đi".

 

Rất tiếc thay! Cái thời mỹ tục ấy chẳng c̣n thấy nữa, bởi các cớ

sau này :

 

- Tôn chỉ của cá tôn giáo giống in như một là làm lành lánh dữ

chỉ tâm sùng bái Đấng tạo hóa, mà các người hánh đạo kiếm thế

chia rẽ nhau.

 

2- Các người ấy lại canh cải cho sai nát mối chơn truyền quí báu

của Tam giáo.

 

3- Đều tranh nhau trong chốn phù ba, trong vùng vinh hoa phú quí.

cái ḷng tham dục của nhân sanh cũng là một nguyên do độc nhứt

phát sanh ra những sự bất đồng ư kiến ngày nay. Vậy nên người

Việt Nam hiện giờ mới bỏ mất cả thuần phong mỹ tục ngày xưa.

 

Thấy t́nh cảnh rất thương tâm, nên một nhóm người Việt Nam v́

ḷng muốn giử căn bản, v́ ḷng mến Đạo, mới kiếm phu"ơng châm để

dựng lại cái nền Tôn giáo độc nhứt kêu CAO ĐÀi ĐI ĐO."

 

Cái tên "Đại Đạo Tam kỳ Phổ Độ" chỉ nghĩa là "Đại Ân xá kỳ ba"

cũng của Đức Chí Tôn đến giúp các người đứng tên dưới đây lập nền

Đạo mới này đặt ra. Đức chí Tôn đến xưng danh là "Ngọc Hoàng

thượng Đế" dùng đấng loan thư cơ, chấp bút để, truyền thánh Huấn,

hàu tom góp và truyền dạy các giáo lư của Tam Giáo.

 

Giáo Lư sẽ dạy chúng ta :

 

1/ Luân lư cao thâm của Đức Khổng Thánh.

 

2/ Những đức tánh của Thích Giáo và Đạo Giáo.

 

Các Thánh Đức ấy cốt dạy làm lành lánh dữ, rộng thương nhân loại,

giữ ḷng ḥa hiệp và tránh các mối cạnh tranh cùng chinh chiến.

 

10- Thầy giao quyền cho Đức Lư Thái Bạch

 

Đàn đêm 29-10-1926, Đức Chí Tôn giao cho Đức lư Giáo Tông d́u dẫn

và nghiêm trị những giáo đồ hành sái chơn truyền. Đức lư Thái

Bạch là nhứt trấn oai nghiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam kỳ Phổ độ, Đức

Quan âm Bồ Tát là nhị trấn c̣n Đức Quan Thánh Đế quân là Tam Trấn

để trông nom d́u dắt chư món đệ.

 

"Từ đây Thầy đă giao quyền thưởng phạt về nơi tay Bần Đạo (Đức lư

Thái Bạch). Vậy các đạo hữu khá hết ḷng vun đắp nền đạo cho vững

vàng, hiệp ư với thiên cơ mà bước lần lên địa vị cao thượng. Chớ

sụt sẽ ôm thói mờ hồ th́ uổng công tŕnh cực nhọc bấy lâu nay.

Lại thêm, chẳng đặng theo Thánh ư của thầy là bậc Chí Tôn đă hết

sức nhọc nhằn v́ sanh chúng.

 

Mở một mối Đạo chẳng phải là sự thường tặnh mà sanh nhằm đời gặp

đặng một mối Đạo chẳng phải dễ. Muốn lập thành tất phải có điều

nghiêm chánh thưởng phạt. Có thưởng mới dục ḷng kẻ có công. Co-

phạt mới răn dạy ḷng tà dại.

 

"Đặng bậc Chí Tôn cầm quyền thế giới, d́u dắt, rửa lỗi mà chẳng

lo cho kịp th́ để đua nhau phân xét, nghĩ tính về miếng đỉnh

chung. Nếu Thầy chẳng Đại từ, Đại Bi th́ công quả đă chảy theo

ḍng nước.

 

Từ đây BẦn Đạo phải để ư d́u dắt bước đường cho các đạo hữu, phải

gắng công thêm nữa cho hợp vơi cơ trời.

 

"Ai hữu phước th́ được cao thêm. Ai vô phần th́ bị đọa Tam pháp.

Phước phần cũng khó lựa người. Rủi rủi may may đừng trách Bần

Đạo".

 

Đức Ngọc Đế lại cho thi :

 

Từ đây ṇi giống chẳng chia ba

Thầy hiệp cá con lại một nhà

Nam, Bắc cùng rồi ra ngoại quốc

Chủ quyền chơn đạo một ḿnh ta

 

 

 

 

 

PHẦN THỨ HAI

 

THỜI ĐO PHÁP

(1926-1929)

 

 

CHƯƠNG I

 

ĐT NỀN TẢNG ĐI ĐO

 

1- Đức Chí Tôn định ngày khai đạo 14-10 Bính Dần

 

Sau khi lập tờ khai Đạo với chính phủ Pháp ngày 07-10-1926, th́

việc phổ độ các tỉnh bắt đầu từ tháng chín năm Bính Dần. Phân

định vùng trách nhiệm như sau

 

_ Nhóm 1 : do quí ông Lê văn Trung, Nguyễn Ngọc thơ, Trần Dao

Quang lo việc phổ độ trong các tỉnh : Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần

Thơ (nay là Kiến Phong), Sóc Trăng, Bạc Liêu (nay là Ba Xuyên),

Long Xuyên, Châu Đốc, Hà tiên, Rạch giá (nay là Kiên giang).

 

Quí ông Cao Quỳnh cư và Phạm Công Tắc  pḥ loan.

 

_ Nhóm 2 : Do quí ông Lê Văn Lịch, Nguyễn Ngọc Tương, yết ma Luật

(đă nhập môn) lo phổ độ trong mấy tĩnh : Chợ Lớn, G̣ Công, Tân

An (nay là Long An), Mỹ Tho (nay là Định Tường), Bến Tre (nay là

Kiến Ḥa).

 

Quí ông Nguyễn Trung Hậu và Trương Hữu Đức pḥ loan .

 

_ Nhóm 3 : do quí ông Lê Bá Trang, Vương Quan Kỳ, yết ma Nhung lo

phổ Độ trong các tỉnh : Tây Ninh, Thủ Dầu Một (nay là B́nh

Dương), Gia Định, Biên Ḥa, Bà Rịa (nay là Phước Tuy), Sađéc.

 

Riêng ông Nguyễn Văn Tương (chưởng pháp khác với ông Nguyễn Ngọc

Tương) và ông Nguyễn Văn Kinh (có viết nhiều sách Đạo) là rơ

thông đạo lư hơn cả nên đi khắp nơi mà giảng đạo.

 

Việc phổ độ này để chuẫn bị cho ngày khai đạo, nên kết quả ngoài

sức tưởng tượng. Chỉ trong một tháng mấy ngày đă có mấy vạn người

nhập môn cầu Đạo. Đến 10 tháng 10 th́ tạm ngưng việc phổ độ để lo

sắp đặt lễ khánh thành thất "Từ LâM Tự" ở G̣ Kén (Tây Ninh).

 

Chùa này vốn của Ḥa thượng Như Nhản ở chùa Giác Hải, chợ gạo

(nên c̣n gọi là Hoà thượng Giác Hải), quyên tiền trong bổn đạo

của ông ấy mà lập thành. Vào tháng 7 năm Bính Dần (tháng 8-1929)

ông t́nh nguyện dâng chùa. Lúc bấy giờ chùa cất xong, nhưng đông

lang, tây lang chưa có, tráng xi măng chưa rồi, sơn phết chưa lo,

chung quanh chùa c̣n nhiều cây bụi xầm uất.

 

Ông Nguyễn Ngọc Thơ và bà Lâm Ngọc Thanh được lịnh chi tiền lo

tất cả mọi việc cho hoàn tất để kịp khai đạo. Lại phải xây tượng

Phật Phật thích ca, cất Tịnh thất, đấp đường từ quốc lộ 22 vào

chùa để xe hơi vào được, rồi nào đốn cây, trồng kiểng v...v...

C̣n bà Nguyễn thị Hiếu th́ lo mọi việc trù pḥng, đăi ăn uống cho

khách thập phương.

 

Ông Lê văn Trung thay mặt cho toàn bổn đạo mời đông đủ các chức

sắc Hiệp Thiên Cửu trùng đài, các quan khách, chính quyền Pháp và

Việt Nam đến dự lễ. Các đạo hữu hiện diện đến hàng muôn người.

Hội Tha-nh tiếp đăi rất đầy đủ ân cần mà không nhận tiền bạc của

ai cả ngoại vật phẩm cúng tế.

 

Đêm 14 rạng ngày rằm tháng 10 năm Bính Dần (18-11-1926) là đêm

khai Đạo Cao Đài và làm lễ Thánh thất đầu tiên. Lễ xong rồi th́

cầu cơ, đoạn tới lễ nhập môn, kéo dài đến 3 giờ sáng.

 

4- Cuộc thử thách đầu tiên trong nền Đạo

 

Đêm hôm ấy, v́ quá đông người nên cuộc lễ bớt phần trang nghiêm.

Khi cầu cơ, Đức chí Tôn chỉ để ít lời quở trách rồi thăng. Thừa

dịp, tà quái nhập vào một nam và một nữ bổn đạo mà gây rối. Họ

mạo xưng là là Tề Thiên Đại Thánh và Quan Âm Bồ Tát. Lúc đầu, bổn

đạo tưởng thật, nhưng sau ử chỉ lung lăng, người người đều biết

tà quái xuất hiện. Thấy việc lộng hành như vậy, ông Monet quan ba

(đại úy) người Pháp khuyên giải trong bổn đạo như sau :

 

"Công việc các ông làm đây là rất phải. Cá ông chẳng nên v́ một

cuộc biến thường t́nh như vậy mà ngă ḷng thối chí. Tôi cho là

thường t́nh, v́ bên Pháp trong mấy đàn thỉnh tiên  cũng thường

xảy ra những điều rối rấm như vậy. Tôi có một lời khuyên các ông

là từ đây trở đi, hễ có cầu cơ th́ chớ họp nhau đông đảo, v́ cần

phải thanh tịnh, hai là tư tưởng bất đồng không tương ứng nhau

được th́ không linh nghiệm".

 

Việc biến loạn đó khiến cho những kẻ nhẹ dạ ít tâm thành ngă

ḷng. C̣n hàng chức sắc th́ cho đó là một thử thách để trau dồi

thêm ḷng tin tưởng. Và cũng là mộ tiếng vang để cho khách bàng

quang chú ư theo dơi tà giáo hay chánh giáo. Vô h́nh trung, cơ

phổ độ xoay đổi được thế cờ chuyển hư thành nên chỉ 3 tháng sau

khi mở đạo tại Từ Lâm Tự mà số người nhập môn lên đến hàng ức,

đủ thành phần, chánh kiến và quốc tịch : Pháp Cao Miên (Nay là

Kampuchia), Hoa kiều....

 

Ba hôm sau thầy giáng cơ dạy về việc này như vầy : "các con !

Thầy nghĩ lại việc hôm nọ tại Thánh Thất biến ra một tà quái mà

Thầy bắt đau ḷng đó các con. Cá con nghĩ lẽ nào ?

 

"Đó là bước Đạo. Đó là Thiên cơ? Các con hiểu sao được. Nhu"ng

Thầy nghĩ lại mà thương Môn đệ của thầy nhiều đứa muốn bỏ đạoy,

nép dép có, lột khăn tu mà mong hồi thế tục. Bởi bước đạo gập

gh́nh kho- tới mới ra đến đỗi. Bởi c̣n vướng bụi trần ham mùi phú

quí, mê chữ vinh sang mà ngán. Các con hiểu, Thầy buồn, nhưng đó

là máy trời đă định chạy sao cho khỏi. Thầy biết bao lần v́ các

con mà chịu nhọc nhằn.

 

3- Thầy khai Đạo Tịch Nữ phái

 

Ngay đêm khai Đạo, Đức Chí Tôn lập thành Tịch đạo nữ Phái : "Nữ

phái nghe thầy khai tịch Đạo :

 

"Hương tâm nhứt phiến cận càn khôn

Huệ đức tu chơn độ dẫn hồn

Nhứt niên Quan âm thuỳ bảo mạng

Thiên niên đẳng phái thủ sanh tồn.

 

"Lâm thị, phong vị Giáo Sư, lấy Thiên ân Hương thanh, Ca thị,

phong vị Phó Giáo Sư, lấy Thiên ân Hương ca.

 

C̣n cả chư ái nữ Thầy sẽ lập đại hội cho đủ mấy vị rồi sẽ phong

sắc một lần".

 

Nhưng măi đến 1 tháng giêng Đinh Măo (1-2-1927) mới ban sắc phục

và lập thành Nữ phái.

 

 

"Nữ phái phải tùng Đầu sư Nữ Phái, song tùng quyền của giáo tông

và Chưởng Pháp Nam phái. Đầu sư Nữ phái cũng phải chịu công cử

theo luật Hộ Thánh ban hành. Theo luật Hội Thánh ban xử Đường Đời

và Đường Đạo.

 

"Đầu sư Nữ Phái mặc một Đạo phục y như Đạo phục Đầu sư Nam phái,

phải đội một ni Kim cô như các vải chùa, toàn hàng trắng chín,

vải áo có thêu bông sen? Cái Kim cô có choàn từ đầu tới gót. Đội

măo Phuương Thiên, trên phương thiên ngang đầu tóc, có Thiên nhăn

thầy, bao quanh một ṿng Minh Khí, đi giày Vô ưu màu trắng, trên

chót có đề chữ Hương.

 

"Phối sư cũng mặc in như vậy, song không có măo Phương Thiên, áo

ba vải nhưng trước ngực co- Thiên Nhăn Thầy, bao quanh một ṿng

Minh Khí.

 

Giáo Sư mặc áo ba vải, đội Kim Cô bằng hàng trắng, không đi giày.

 

"Giáo Hữu mặc Đạo phục như giáo sư, đầu không không mảo, mà giắt

một bông sen, trên bông sen có Thiên Nhăn Thầy.

 

Lễ sanh Nữ phái mặc như giáo hữu, nhưng choàn ngang trên đầu một

đoạn vải mỏng cột ra sau ót, thả một núi dài, một núi vắn, ngay

đầu tóc có vắt một bông sen.

 

Lâm Hương Thanh, hiền muội phải viết thơ mời đủ mặt ngày rằm

tháng này. Thầy đến phong lập thành Nữ phái".

 

Đêm Thiên phong nữ phái ngày 14 tháng giêng năm Đinh Măo

(15-02-1927), thiên ân 2 vị phối sư, 8 vị giáo sư, 28 vị giáo

hữu, 56 vị lễ sanh. Trong dó có bà Lâm Hương Thanh và bà Lê Thị

Ngân thăng lên Phối sư ? C̣n quí bà giáo sư tân phong có tên tuổi

sau :

 

Bà Bùi thị giàu (tức bà Phủ Tuơng), bà Trịnh thị Huệ (thân mẫu

Đức Cao Thượng Phẩm), bà Nguyễn thị Hiếu (bạn đời ông Cao Quỳnh

Cư), bà Huỳnh thị Hồ (ái nữ bà Lâm Thanh)v...v...

 

Và dưới đây là Tịch Đạo của Nam Phái :

 

Thanh Đạo tâm khai thất ức niên

Thọ như địa huyển thạnh ḥa thiên

Vô lui qui phục nhơn sanh khí

Tạo vạn cổ đàng chiếu Phật duyên

 

Đạo dưới thời Lư Giáo Tông th́ Nam lấy chữ THANH, Nữ lấy chữ Đ0,

Nữ lấy chữ TÂM. Khi nào hết Tịch Đạo th́ Đấng Chí Tôn sẽ giáng cơ

cho Tịch Đạo khác. Lớn nhỏ, trước sau nhờ chữ Tịch Đạo này mà

phân biệt.

 

Đấng chí Tôn lại giải : "có kẻ hỏi: Thí dụ như đời Giáo Tông th́

Tịch Đạo của chư Đạo hữu Nam Nữ đời trước, dù chức sắc hay tín đồ

cũng vậy, có buộc phải thay đổi Tịch Đạo hay không ? Ta nói :

không, v́ chính ḿnh Giáo Tông kế vị cũng phải giử Tịch Đạo

trước. Kỳ dư những tí đồ của NGài độ rồi, tức là chi tộc của Ngài

mới đặng thay đổi mà thôi.

 

"C̣n những chức sắc cùng là tín dồ của Giáo Tông đời trước c̣n

sót lại th́ thuộc về cho tộc của Giáo Tông ấy không đặng phép

thay đổi Tịch Đạo.

 

"Tỷ như có Tân Giáo Tông sẽ lên kế vị cho Lư Giáo Tông th́ cả tín

đồ nam nữ mới nhập môn đều phải lấy Tịch Đạo Tâm. Dù trong hàng

tín đồ ấy sẽ có một chơn linh xứng đáng địa vị Chánh Phối sư, mà

Thầy giáng cơ phong chức đi nữa th́ cũng phải chịu Tịch Đạo Tâm

như các tín đồ khác. C̣n chức sắc và tín đồ trong đời Lư Giáo

Tông c̣n lại th́ giữ Tịch Đạo Thanh Hương, không đặng thay đổi".

 

4- Lập thành Pháp Chánh Truyền và Hội Thánh Cửu Trùng Đài

 

Đến ngày 16-10 năm Bính Dần (20/11/1926), Đức Chí Tôn giáng cơ,

cũng tại Từ Lâm Tự kêu Ngài Đầu Sư Lê Văn Trung dạy lập Pháp

Chánh Truyền và Ngôi vị Hội Thánh Cửu Trùng Đài.

 

Giáo Tông nghĩ anh cả các con, có quyền thay mặt Thầy mà d́u dắt

cá con trong đường Đạo và đường Đời. Nó có quyền về phần xác chớ

không có quyền về phần hồn. Nó đặng phép thông công cùng Tam thập

lục thiên và Thất Thập Nhị điạ giái đặng cầu rỗi cho các con.

 

Chương pháp của 3 phái là Đạo, Nho , thích, Pháp luật, Tam giáo

tuy phân biệt khác nhau song trước mặt thầy vốn coi nhu" một.

Chúng nó có quyền xem xét luật lệ trước buổi thi hành, hoặc là

nơi Giáo Tông truyền xuống, hay là Đầu sư dâng lên. Như hai đàng

chẳng thuận th́ chúng nó phải dâng lên cho Hộ Pháp đến Hiệp Thiên

Đài cầu Thầy giáng xuống mà sửa lại, hay là tùy ư mà lập luật

lại. Vậy chúng nó có quyền xem xét kinh điển trước khi phổ thông.

Như thoảng có kinh luật chi làm hại phong hóa th́ chúng nó phải

từ bỏ chẳng cho xuất bản. Buộc cả tín đồ phải vừa sức mà hành sự

trước mặt luật đời. Thầy khuyên các con rán xúm nhau vừa giúp

chúng nó. Mỗi chưởng pháp có ấn riêng. Ba ấn phải có trên mỗi

luật, mới đặng thi hành, chư môn đệ. Nó đặng quyền lập luật,

song phải dâng lên cho Giáo Tông phê chuẩn. Luật lệ ấy, phải xem

xét một cách nghiêm nhặt, coi có ích cho nhân sanh chăng. Giáo

Tông buộc phải xem xét trước khi phê chuẩn.

 

"Chúng nó phái tuân mạng lịnh Giáo Tông, làm y như luật lệ Giáo

Tông truyền dạy. Thoảng như luật lệ nào nghịch với sinh hoạt của

nhân sanh th́ chúng nó được phép nài nỉ huỷ bỏ.

 

"Ba chi tuy khác nhau, nhưng quyền lực như nhau. Như luật lệ nào

Giáo Tông truyền dạy, mà cả ba đều kư tên không tuân mạng th́

luật lệ ấy phải trả lạiu cho Giáo Tông. Giáo Tông truyền lịnh

Chưởng pháp xét nét lại. Chúng nó có ba cái ấn riêng nhau, mỗi tờ

giấy chi chi phải có đủ ấn mới thi hành.

 

"Phối sư mỗi phái là 12 người, cộng là 36 người, trong 36 vị ấy

có 3 vị Chánh Phối Sư. Ba vị ấy đặng thế quyền cho Đầu Sư mà hành

sự, song chẳng đặng quyền cầu phá luật lệ.

 

"Giáo Sư có 72 người, trong mỗi phái có 24 người? Giáo sư là

người dạy dổ chư môn đệ trong đường Đạo và đường Đời. Chúng nó

cầm cả sổ bộ của tín đồ. Chúng nó phải chăm nom về sự tang hôn

của mỗi đứa.

 

Tại châu thành lớn th́ mỗi đứa đặng quyền cai quản cúng tế Thầy

như Đầu Sư và Phối Sư. Chúng nó đặng quyền dâng sớ cầu nài về

luật lệ làm hại nhân sanh, hay là cầu xin chế giảm luật lệ. Chúng

nó phải thân cận với mỗi môn đệ như anh em một nhà.

 

"Giáo hữu là người để phổ thông chơn đạo của Thầy. Chúng nó đặng

quyền xin chế giảm luật lệ Đạo. ba ngàn giáo hữu chia ra mỗi phái

là 1.000, chẳng nên tăng hay là giảm bớt. Chúng nó đặng phép hành

lễ khi làm chủ các chùa trong mấy tỉnh nhỏ.

 

"Lễ sanh là người có hạnh, lựa chọn trong hàng chư môn đệ mà hành

lễ. Chúng nó đặng quyền đi khai đàn cho mỗi tín đồ. Lễ sanh là

người thầy yêu mến, chẳng nên hiếp đáp chúng nó. Như vào hàng Lễ

sanh, mới mong bước qua hàng chức sắc. Kỳ dư Thầy phong thưởng

riêng mới đi khỏi ngă ấy mà thôi.

 

C̣n về việc tăng lên phảm vị th́ phải có Bộ Pháp chánh minh tra

đủ lẽ, đưa qua Hội nghị nhân sanh tuyển chọn, dâng lên Thượng Hội

rồi mới tŕnh lên Cung Đạo để Đức chí Tôn phán xét, sau khi theo

luật dưới đây :

 

"Đầu sư muốn lên Chưởng Pháp th́ phải nhờ ba vị công cử nhau.

 

"Phối sư muốn lên Đầu sư th́ nhờ 36 vị kia công cử.

 

"Giáo hữu muốn Giáo sư th́ nhờ 3.000 vị kia công cử.

 

"Lễ sanh muốn lên Giáo Hữu th́ nhờ cả Lễ sanh xúm nhau công cử.

 

"Môn đệ muốn lên Lễ sanh th́ nhờ cả Môn đệỳ (tức Hội Nhơn Sanh)

công cử.

 

"Kỳ dư Thầy giáng cơ phong cho người nào th́ mới ra khỏi luật lệ

ấy mà thôi.

 

"C̣n Giáo tông th́ hai phẩm Chưởng Pháp và Đầu Sư tranh đặng,

song phải chịu cho toàn môn đệ công tử mới đặng. Kỳ dư Thầy giáng

cơ ban thưởng mới ra khỏi luật lệ ấy".

 

Pháp Chánh Tuyền th́ gồm có việc tổ chức Hội Thánh Hiệp Thiên Đài

Nam Nữ và Hội Tha-nh Hiệp Thiên Đài. V́ những điều khoản quá

súc tích nên mỗi người hiểu theo mỗi cách. Do Đó, ngày mồng 3

tháng 10 năm canh ngọ (1930) Đức lư Giáo Tông mới dạy Đức Phạm Hộ

pháp chú giải,(Đạo Nghị Định thứ sáu).

 

5 Ban hành Tân luật

 

Pháp chánh Truyền và Tân luật coi như hiến Pháp của Đại Đạo Tam

kỳ Phổ Độ. Tất cả chi chi phải noi theo đó mà thi hành không được

chậm bước. Vào ngày 6-12-1926 (2/11 năm Bính Dần), Đức Chí Tôn ra

lịnh hội chức sắc thành lập Tân luật.

 

"Khởi đầu lập luật tu gọi là là TNH THẤT LUT. Kế nữa lập luật

trị gọi là ĐO PHÁP LUT, thứ ba lập luật đời gọi là THẾ LUT".

 

Trong Phần Đạo Pháp gồm có 8 chương :

1/ Về việc chức sắc cai trị trong họ Đạo

2/ Về người giữ Đạo

3/ Về việc lập họ

4/ Về ngũ giái cấm

5/ về tứ đại điều qui

6/ Về giáo huấn

7/ Về h́nh phạt

8/ Về việc ban hành luật pháp

 

Phần Thế luật là đời của Đạo tức là luật nhà tịnh dành cho cá tín

đồ vào mà tu luyện gồm có 8 điều.

 

6- Thành lập Hội Thánh Hiệp Thiên Đài

 

Để tiếp cho trọn bộ Pháp Chánh Truyền, vào ngày 13-2 năm 1927

(12-1 Đinh Măo. Đức Chí Tôn giáng cơ dạy về ngôi vị Hội Thánh

Hiệp Thiên Đài.

 

"Hiệp Thiên Đài là nơi thầy ngự cầm quyền thiêng liêng mối Đao.

Hễ Đạo c̣n th́ Hiệp Thiên Đài c̣n.

 

"Thầy đă nói ngũ chi Đại Đạo bị qui phàm là v́ khi trước Thầy

giao Chánh giáo cho tay phàm càng ngày càng xa Tha-nh giáo mà lập

ra phàm giáo. Nên Thầy nhứt định đến chính ḿnh Thầy đặng dạy dỗ

cho các con mà thôi, chớ không chịu giao chánh giáo cho tay phàm

nữa.

 

"Lại nữa Hiệp Thiên Đài là nơi của Giáo Tông đến thông công cùng

Tam Thạp Lục Thiên, Tam Thiên Thế giái, Lục Thập Bác Địa Cầu,

Thập điện Diêm cung mà cầu siêu cho cả nhơn loại, Thầy đă nói sở

dụng thiêng liêng, nên Thầy cũng nói sở dụng phàm trần của nó

nữa.

 

"Hiệp Thiên Đài dưới quyền Hộ Pháp chưởng quản, tả có Thượng

Sanh, hữu có Thượng Phẩm Thầy lại chọn Thập Nhị Thời quân chia ra

làm ba chi :

 

"1- Hộ Pháp Chưởng quyền về Pháp th́ có :

 

    "Hậu"   là Bảo Pháp

    "Đức"   là Hiến PháP

    "Nghĩa" là Khai Pháp

    "Tràng" là Tiếp Pháp

 

"Lo bảo hộ luật Đời và luật Đạo, chẳng ai qua luật mà Hiệp Thiên

Đài chẳng biết.

 

"2- Thượng Phẩm th́ quyền về phần Đạo dưới quyền có :

 

    "Chương" là Bảo Đạo

    "Tươi"   là Hiến Đạo

    "Đài"    là Khai Đạo

                Tiếp Đạo (1)

 

 

___________________________________

 

(1) : C̣n Tiếp Đạo Cao Đức Trọng thân sau ở Kiêm Biên (Kampuchia)

 

_____________________________________

 

"Lo về phần Đạo nơi Tịnh Thất, mấy Thánh Thất đều xem sóc chư môn

đệ Thầy, binh vực chảng cho ai phạm luật đến khổ khắc cho đặng.

 

3- Thượng Sanh th́ lo về phần đời

 

   Bảo Thế  là "Phước"

   Hiến thế là "Mạnh "

   Khai Thế là "Thâu "

   Tiếp Thế là "Vĩnh "

 

"Thầy khuyên các con lấy tánh vô tư mà hành Đạo".

 

7/ Cất Ṭa Thánh tạm

 

Lấy lư do về việc tà quái xảy ra hôm ngày khai đạo (15-10 Bính

Dần) thêm vào một số đồ đệ Hoà Thượng Như Nhăn xúi giục đ̣i chùa

lại, nên Hội Thánh hẹn trong 3 tháng (tức đến 15-01 Đinh Măo) sẽ

trả chùa. Nhưng măi đến ngày 20 tháng 2 năm đó (23-03-1927) mới

thỉnh chư Phật, dời Thánh Tượng về đất mới thuộc làng Long Thành.

 

Sở dĩ, chậm trễ như vậy v́ không t́m được đất, nên Đức Lư giảng

dạy : "Mai này chư hiền hữu lên đường dây thép (tức đường từ Mít

Một chạy tới cửa Ḥa viện ngày nay) nhắm địa thế dài theo cho tới

ngă ba Ao hồ (hồi đó chưa có đường vào Trường Nữ Trung Học) coi

chư hiền hữu có thấy đặng chăng ?"

 

Hôm sau, nhờ xe của Ông Nguyễn Ngọc Thơ và bà Lâm Hương Thanh,

Hội thánh Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài, trong đó có Đức Phạm

Hộ pháp, Đức Cao thượng Phẩm, Ngài Đầu Sư Lê văn Trung, hai vị

Phối Sư Thượng Tương Thanh và Ngọc Trang Thanh, lên đường đến cửa

số 2. Bấy giờ, nơi đây c̣n rừng rậm, nhiều thú dữ, nhưng v́ Thánh

ư nên hỏi mua của ông kiểm lâm người Pháp tên Aspar.

 

Đêm hôm ấy, quí ông cầu Đức lư về dạy việc : "phải đó tưởng chư

hiền hữu không thấy. Lăo bất nghĩa v́ sao cuộc đất ây là Thánh

địa, sâu hơn 300 thước như con sông, giữa trung tâm đất giáp lại

trúng giữa 6 nguồn, làm như 6 con rồng đoanh châu. Nguồn nước ấy

trúng ngay đỉnh núi gọ

i là lục long pḥ ấn. Ngay miếng đất có 3

đầu ra giếng mạch ao hồ, hai đầu nữa bên cụm rừng bên kia".

 

Về khuôn viên Ṭa Thánh tạm th́ Đức Lư dạy : "Thánh Thất tạm phải

cất ngay miếng đất trống. C̣n Hiệp Thiên Đài tạm phải cất trước

Thánh Thất tạm. Đạo hữu phải khai phá đám rừng, cách miếng đất

trồng chừng ba thước rưởi, đóng một cây nọc, đo Hiệp Thiên Đài

như vậy : ngoài Bào Cà Na đo chừng 50 thước đóng một cây nọc. Ấy

là khuôn viên Ṭa Thánh. Lăo lại dặn, từ cây nọc bên phía miếng

đất phải đo vô Bào Cà Na 27 thước Lang Sa (Tây). Từ vuông 27

thước mỗi góc của Bát quái Đài, nghĩa là h́nh nhà tṛn có 8 nóc,

cao từ đất lên thêm 9 thước Lans Sa, làm 9 nóc rộng bao nhiêu

tuỳ. Trên điện Bát Quái bề cao 9 thước, hnh tṛn mô lên, chỉ cỏ

nóc, cho phân minh, trên đầu đài phải để cây đèn xanh. Kế nữa là

chánh điện, bề dài 81 thước, bề ngang 27 thước. Hai bên Hiệp

Thiên Đài, bên mặt th́ có Lôi Âm cổ đài, bên trái th́ có Bạch

ngọc chung đài".

 

Sau đó Dức lư lại giảng dạy lại : "Họa đồ của Lăo, Đức Chí Tôn

sủa lại mỗi cấp 3 tấc tay mà thôi, dưới đất 5 tấc, chí cấp 3 tấc

là 2 thước 70 cộng lại là 3 thước 20. Nóc của Đại Diện và Hiệp

thiên Đài cũng y mực nhu" vậy, phải làm plafond (trần) hai đài

chuông trống cao hơn nóc Hiệp Thiên Đài 6 thước.

 

Khi phá rừng để cất Ṭa Thánh th́ người thổ, người Tà Mun đến

công quả hàng ngàn. Ông chánh tham biện người Pháp lo ngại nên

mời Đức Cao Thượng Phẩm ra Ṭa Bố (ṭa Hành chánh) hỏi cớ sự.Đức

ngài phải trả lời, phá đất trồng cao su. Do đó mà trong nội ô

hiện nay, c̣n lại một ít cây cao su. Bởi vậy, trong Thánh Thất

chị có một ḿnh ông lễ sanh Thượng Tường Thanh hành lễ Đức Chí

tôn mà thôi. C̣n Đức Cao Thượng Phẩm và thợ mộc, phu làm chùa

không được vào cúng bái.

 

Sau đó, Đức Cao Thượng phẩm mới thỉnh cốt Phật Tổ tầm đạo từ G̣

kén về Đại Đồng xă. Rồi cất Hậu điện; Đông Lang, Tây lang, Trù

Pḥng v.v...

 

8- Ngưng cơ Phổ Độ

 

Đàn đêm mồng 1 tháng 6 năm 1927 Đức chí Tôn giáng cơ báo trước

việc ngưng cơ bút :

 

từ nền Đạo khai sáng đặng gieo truyền mối chánh giáo đến nay th́

phần nhiều môn đệ đă trọn tấc thành mà d́u dắt sanh linh và đấp

vun mối Đạo Trời. Ấy là những đứa Thầy đă tin cậy đặng gia công

dọn lối chông gai để mở trống nẻo thiêng liêng, dẫn lần nhân sanh

khỏi sông mê, bến khổ.

 

"Cuối kỳ tháng 6 th́ thầy phải ngưng hết cơ bút truyền đạo. Các

con sẽ lấy hết chí thành để un đúc bấy lâu nay mà lần hồi lập cho

hoàn toàn mối đạo. Này là mấy lời đinh ninh sau rốt khá lưu tâm.

Ai Ai vạy tà nấy có phần riêng, cứ giử nẻo thường đường ngay bước

đến thang thiêng liêng. Chờ ngày hội hiệp cùng Thầy. Ấl là điều

quí báu đó!"

 

Ngưng cơ phổ độ là không được cầu nhiều nơi và tự do như trước.

Đó là điều hay nhưng bất tiện chpo những người muốn hiểu rơ huyền

diệu của thiêng liêng nên sanh nhiều trắc trở.

 

Ngày mồng 1 tháng 10 năM Đinh Măo (1927), thầy mới giáng cơ như

vầy : "kỳ ngưng cơ phổ độ đến nay chưa bao lâu mà nền Đạo xảy ra

lắm điều trắc trở. Thầy đă un đúc chí Thánh cho mổi đứa, Thánh ư

đă giao truyền cho các con chung lo hiệp trí nhau, mà d́u dắt,

phổ thông mối Đạo cho đến tận cùng bước đường. THiên cơ đă dĩ

định cho nền Đạo sáng lập để cứu vớt sanh linh. Ngày này, tháng

này mà nền Đạo chưa trọn thành, th́ năm nào tháng nào?"

 

9- Thống hiệp Ngũ chi Đại Đạo

 

Ngũ chi Đại Đạo theo Thánh giáo ngày 5-9-1926(29-7 Bính Dần) th́

gồm có :

 

- Minh Lư tại chùa Tam tông Miếu (đường Cao Thắng-Sàig̣n) lú bấy

giờ do ông Kích quản trị. Chi này đă dâng nhiều Kinh cúng từ thời

cho nền đại Đạo và nhất là Kinh Sám Hối.

 

- Minh sư tại chùa Linh quang Tự, An Nhơn, Gia-định do ông Trần

Đạo Quang quản trị. Ông cũng là một nội chức sắc của Đạo Cao Đài.

 

- Minh Tân tại chùa này nằm trên Bến VÂn Đồ, Vĩnh hội (Sàig̣n) do

ông Lê Minh Kha quản trị hiệp nhứt chặt chẽ với nền Tân tôn

giáo. Sau ông cựu Quốc Trưởng, Phan Khắc Sữu đặt cơ sỡ CAo Đài

Thống nhất tại đây.

 

-  Minh Thiện tại chùa Minh Thiện, Thủ dầu Một (B́nh Dương) do

hai ông Đạt và Mùi quản trị.

 

- Minh Đường tại Cần Giuộc, Chợ Lớn do ông Lê văn Lịch quản trị.

Ông Lịch đắc thiên phong Đầu sư Ngọc Lịch Nguyệt cùng lượt với

Đầu Sư Thượng Trung Nhựt.

 

Vào tháng 7-1927, Thầy giáng cơ tại Minh Lư (Tam tông miếu) dạy

rằng : "Thầy hội chư Tiên Phật lại mà thương nghị về sự lập Đạo

tại Việt quốC. Cá con khá nghe lời Thầy dặn, chớ khá nghịch lẫn

nhau. Phải đồng ḷng một dạ mà lo chấn hưng đạo đức. Tuy bây giờ

phân chia nhiều nhánh, nhiều chi, chớ ngày sau cùng có một mà

thôi. Cá con dầu bên nào cũng thương nhau như con một nhà, chớ

khá ganh gổ chê bai nhau". Ngũ chi c̣n có nghĩa là Nhân đạo, Thần

đạo, Thánh đạo, Tiên đạo và Phật giáo.

 

10- Thầy phong thánh lần chót

 

Từ khai Đạo đến nay đă gần tṛn năm các cơ chế Đạo đă nên h́nh,

các hàng chức sắc khá đông. Buổi đầu tiên ân huệ sắp chấm dứt.

Mọi tông đồ đến sau phải lập công bồi đức, noi theo Tân luật và

Pháp Chánh truyền mà tiến thân trong trường Đạo gồm 5 lớp Nhơn,

Thần , Thánh, Tiên, Phật.

 

Đức Chí Tôn, ngày 17 tháng 9 năm 1927 dạy như sau : "Phần nhiều

chư môn đệ ham muốn phong Tịch, nhưng chưa hiểu Thiên phong là

ǵ? Thầy để lời cho các con biết rằng : Nhiều Thánh, Tiên, Phật

xuống phàm nếu căn quả tiền khiên không mấy trọng hệ, nghĩa là ặ

áo

kiếp trần duyên không chi phải nhơ bọn nhiều, th́ dầu không Thiên

phong, hễ gắng tâm thiện niệm, th́ địa vị cũng đạt hồi đặng.

 

"Thiên Phong là để cho bậc Thánh, Tiên, Phật ĺa trần phải lắm

dày công cùng sanh chúng mới mong hồi cựu phẫm đặng. Các con nên

nhờ, Thầy lấy từ bi phong tịch. Nhưng các chức sắc, nếu v́ áo mảo

hơn đạo đức th́ tội chất bằng hai.

 

Thầy v́ ḷng từ bi hay thương môn đệ, phong tịch lần này là chót

v́ Tân luật đă hoàn toàn, nếu chẳng theo đó th́ Lư thái Bạch hẵng

kêu nài, quan Thánh và Quan Âm cũng hiệp sức mà dâng sớ kêu về

sự ấy. Vậ sau này có ai xứng đáng th́ do Tân luật mà công cử, c̣n

về phong Tịch th́ có Lư Giáo Tông tiến cử, Thầy mới nhận phong.

nghe!"

 

11- Một vị Thời quân liễu đạo đầu tiên

 

Trong làng chức sắc Hiệp Thiên Đài, Ngài Bảo Đạo Ca Minh Chương

không những có công trong buổi khai đạo mà c̣n là người có niên

kỷ cao nhấT. Ngài về chầu Đức Chí Tôn giảng dạy về việc này như

sau :

 

"Từ thử có một ḿnh Bảo Đạo là niên cao kỷ trưởng hơn các con

hết. Mà buộc Thầy phải đem về th́ tưởng các con đủ biết ḿnh côi

cúc về đường đời, không ai đủ trí thức hoàn toàn mà bênh vực cá

con nữa.

 

"Thầy khuyên các con lấy Chương (quí danh Ngài Ca Bảo Đạo) làm

giây thân ái mà buộc nhau, mới đặng ḥa nhă nơi Hiệp thiên Đài.

Thầy cho phép các con làm lễ táng long trọng hầu nêu gương cho

hậu tấn.

 

"Đủ ba năm phải thiêu hài cốt, lên tượng đặng đem nó vào Bát quái

Đài. Nơi mộ nó phải để quan tài khỏi mặt đất một tấc mà đấp xây

tháp y như Thầy dặn. Trên mặt tháp để chữ vàng "Bảo Đạo Chơn

Quân".

 

Trong đạo Cao Đài, chức sắc Cửu Trùng Đài th́ hàng Đầu sư trở lên

và và Hiệp Thiên Đài Tứ Thập Nhị thời Quân trở lên, khi chết táng

trong liên đài, thế ngồi và xây tháp h́nh bát giác.

 

12- Điềm báo trước phân chia chi phái

 

Vào ngày 18-07-1928, Chơn cực Lăo Sư giáng đàn :

 

"Đấng Chí Tôn v́ thương dân t́nh nơi đây, đă khổ tâm nên gieo

Đạo, đem chiếc thuyền cập bến để d́u dắt vào chỗ b́nh địa đặng tự

tại thung dung, mà v́ chưa hiểu thấu căn nguyên, nên khổ bao giờ

trông thoát?

 

Đạo sắp tàn, mỗi đạo phân chia. Chư đạo hữu phải lo níu kéo lại

một mớ, người nào hay người nấy. Rồi đậy mỗi chỗ, mỗi dựng riêng

ra. Chư đạo hữu mới tùy thế đó mà tom góp lại".

 

Theo Thánh ư phân chia để dễ truyền bá mối đạo trời rồi ngày kia

sẽ qui nhất lại. Nhưng tai phàm mắt thịt ham quyền chức tranh

dành để Đấng Chí Tôn phải giáng đàn ngày 05/08/1928 (19/06

Mậu th́n) dạy :

 

"Đạo thế chẳng kịp th́ chầy sẽ thành ra một mối hàng, mà mổi

người trong đạo, sau khi dành giựt, cấu xé nhau th́ sẽ phân chia

tan tành manh mún để tṛ cười về sau.

 

"Người hành Đạo chẳng đủ quyền chế cải, kẻ tự cao muốn chiếm địa

vị cầu danh, nghịch tư cách đối đăi với thế t́nh, gây ác cảm mà

tạo thù oán. Phải biết chổ yếu nhược của đạo nơi đó mà kiếm

phương, t́m chước lấy cộng Ḥa, hiệp nhơn ư mà điều đ́nh sửa cải

cho đúng, làm sao cho mỗi đạo hữu các con đều ngó về Ṭa Thánh mà

xưng tụng ân huệ của mỗi con có trách nhiệm xứng đáng. và làm sao

cho dứt mối hiềm thù riêng của mỗi đứa hiệp hiệp đồng trí thức mà

làm cho người ngoài ḍm vào, nh́n nhận mối đạo quí hoá và thảy

đều sùng bái cử chỉ cao thượng của các con.

 

"Chừng ấy, các con dù không mạnh cũng ra mạnh, không đông cũng

nên đông, mà việc phổ độ nhơn sanh chẳng c̣n điều chi trắc trở".

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG II

 

 

NHNG GIÁO ĐIỀU CĂN BẢN

 

 

1- Việc thờ Thượng Đế

 

Từ khai đạo đến đây việc thờ phượng và tế tự đưọc chuyên nhất.

Đại Đạo như các tôn giáo trên hoàn cầu, đều có lễ nghi, qui điều,

giới luật riêng biệt. Một đàng soi sáng đức tín, đàng khác đôn

đốc kềm giữ hạnh tu hành.

 

Trước hết, chính giữa Bát quái Đài, có một quả càn khôn (trái

đất. Trên có vẽ đủ 3.072 ngôi sao và họa Thiên nhăn và cung Bắc

Đẩu để thờ. Trong quả Càn khôn đốt một ngọn đèn luôn luôn sáng,

tên là Thái cực đăng, để tượng trưng Đấng thượng Đế ngự trên Thái

cực, hằng vĩnh cửu.

 

Dưới có Tam giáo : Đức Thích Ca ở giữa, trái có Đức Khổng Tử,

phải có Đức Lăo Tử. Kế có Tam Trấn oai nghiêm Đức Lư Thái Bạch ở

giữa, trái có Đức Quan Thánh tượng Đức Jésus Christ, (Đại diện

Thánh giáo) và Đức Khương Thái Công (Đại diện Thần giáo).

 

Việc cúng tế chỉ dùng nhan trầm, nến và hoa quả

 

2- Lễ nhạc

 

Nhạc lễ của Cao Đài giáo là nhạc cổ truyền Việt Nam, chia làm 2

giọng nam ai và nam xuân.

 

Lễ nhạc cảm hóa ḷng hóa ḷng người về đạo đức. Trong các đàn

cúng, nếu có lễ mà không có nhạc hoặc ngược lại th́ mấT vẻ trang

nghiêm : "Nhạc giả Thiên Địa chi ḥa".

 

Lạy th́ bắt ấn tư tức là hai bàn tay chấp lại, ngón cái của bàn

tay trái chỉ vào gốc ngón đeo nhẫn (cung tư), tay phải bao lại

bên ngoài rồi lấy dấu 3 ngôi Phật, Pháp, Tăng trên trán.

 

"Thầy khai Bát quái Đài mà tác thành càn khôn thế giới, nên gọi

là Pháp. Pháp có mới sanh cà khôn vạn vật rồi mới có người nên

gọi là Tăng.

 

"Thầy là Phật chủ tể cả Pháp và Tăng, lập thành các Đạo mà phục

hồi các con hiệp một cùng Thầy."

 

Thánh ngôn lại chép :

 

"Lạy là để tỏ ra bề ngoài, lễ kính trong ḷng.

 

"Chấp hai tay là tại sao?

 

"Là nguồn góc của nhơn sanh lưỡng hiệp mà ra

 

"Vong Phàm, 4 lạy là tại sao?

 

"Hai lạy phần người, một lạy Trời, Một lạy Đất.

 

"Lạy Thần Thánh 3 lạy tại sao ?

 

" Là lạy Đấng thứ ba củ Trời và cũng chỉ về Tinh khí thần hiệp

nhất, ấy là Đạo.

 

"Lạy Tiên Phật 9 lạy là tại sao ?

 

"Là lạy 9 đấng Cửu thiên khai hóa.

 

"C̣n lạy Thầy 12 lại là tại sao ?

 

"Các con không hiểu đâu : Thập Nhị Khai Thiên là Thầy, Chúa Tể

Chúa Tể Càn khôn thế giới, nắm trọn Thập nhị Thời Thần vào trong

tay. Số 12 là số riêng của Thầy.

 

Mỗi ngày tín đồ phải làm lễ tại Thiên bàn 4 lần gọi là cúng tứ

Thời (Tư, Ngọ, Mẹo Dậu), c̣n ngày Sóc vọng mới đến Thánh Thất hầu

lễ. Đấng Chí Tôn dạy khi vào đàn cúng, phải tự hỏi ḿnh coi phận

sự ngày ấy xong chưa và lương tâm có cắn rứt chi chăng ?

 

Việc cúng bái người chết th́ theo kinh Thế Đạo và làm tuần cửu

rất chuyên biệt. C̣n việc thờ cúng tổ tiên th́ theo phép Đạo nho

 

8- Quan niệm về Vũ Trụ và con người

 

Vũ trụ; quan của Cao Đài giáo được Đấng Chí Tôn dạy :

 

"Khi chưa có Trời Đất th́ khí hư vô sanh có một thầy và một

ngôicủa Thầy là Thái cực. Thầy phân Thái cực ra Lưỡng nghi, Lưởng

nghi sanh Tứ Tượng. Tứ Tượng biến ra Bát quái, Bát quái biến hóa

vô cùng mà tạo lập càn khôn thế giái".

 

Quan niệm về nhân sinh th́ Đức Chí Tôn cũng giáng cơ dạy :

 

"Đạo là con đường để cho Thánh, Tiên , Phật theo đó mà hồi cựu

vị. Đạo là đườnản hồig của nhơn Phẩm do theo mà lánh khỏi luân

hồi. Nếu chẳng theo Đạo th́ cá bậc ấy đều lạc bước mất hết ngôi

phẩm.

 

"Đời cũng thế, Đạo cũng thế. Chẵng có đạo th́ chẳng nên đời th́

chẳng nên Đạo. Lấy Đạo trau dồi, mượn Đời giồi Đạo. Đạo nên, Đời

rạng, dũ áo phồn hoa, nương bóng khổ, trăm năm măn cuộc, tự ḿnh

thanh tao, nếm mùi tự toại dưỡng khí thanh nhàn th́ có chi hơn".

 

4- Đẳng cấp ngườitheo Đạo

 

Trong Đạo Cao Đài phân ra hai đẳng cấp chính : thượng thừa và hạ

thừa

 

1/ thượng thừa là bậc xuất thế ly gia cắt ái chẳng c̣n bận nhân

t́nh thế sự. Họ chỉ lo tu và phổ độ cho mau đắc đạo. Tân luật qui

định rằng : chức sắc từ Giáo hữu trở lên phải chọn lựa trong bậc

Thượng thừa.

 

2/ Hạ thừa là bậc mới nhập môn, c̣n ở lẫn lộn với Đời, vừa giữ

Đạo vừa lo việc gia đ́nh, xă hội. Cố gắng hoàn thành bổn phận làm

người bằng cách giữ tam cang ngũ thường để có thể chuẩn bị vào

bậc Thượng thừa.

 

5-  Luật luân hồi

 

Dù bậc thượng thừa đều phải chịu luật luân hồi :

 

"Các con sanh trưởng nơi thế gian này, khi tử, các con đi đâu ?

thầy nói : cả kiếp luân hồi của chúng sanh thay đổi từ vật chất

ra khỏi thảo mộc, từ thảo mộc ra côn trùng, từ côn trùng ra cầm

thú. Loài người phải chuyển kiếp ngàn ngàn muôn muôn lần mới đến

địa vị nhân phẩm.

 

"Nhân Phẩm chia ra làm nhiều hạng : bậc đế vương nơi Địa cầu này

chưa bằng bậc chót của nhơn phẩm địa cầu 67. Số địa cầu càng tăng

lên, nhân phẩm càng cao trọng. Măi đến đệ nhứt địa cầu, Tam thiên

thế giái, rồi mới đến Tứ Đại bộ châu, rồi mới vào Tam thập lục

thiên rồi c̣n phải chuyển kiếp tu nữa mới vào Bạch ngọc kinh".

 

Mỗi con người chúng ta đều có ba phần sác thân : đệ nhứt xác thân

tức nhục thể, đệ nhị xác thân tức chơn thần và đệ tam xác thân

tức là chơn linh. Về luân hồi đệ nhị xác thân th́ Đức chí Tôn

dạy :

 

"Chơn thần là đệ nhị xác thân của các con, là khí chất (sperme

évaporé) bap bọv thân thể các con như khuôn bộc

vậy. Trung tim là óc, cửa ra vào là mỏ ác chữ gọi là vi hộ. Nơi

ấy Hộ Pháp hằng đứng ǵn giử chơn linh các con. Khi luyện đạo,

đặng giúp cho Tinh với Khí và đưa khí đến Thần. Tinh Khí Thần

hiệp nhứt th́ mới siêu phàm nhập thánh."

 

Về luân hồi cho"n linh th́ Thầy dạy : "Nơi thân phàm ở các con

mỗi đứa, thầy đều cho một cho"n linh theo giữ sinh mạng sanh tồn

: Thầy tưởng không cần nói các con cũng hiểu rằng : chơn linh ấy

vốn vô tư mà lại đặng phép thông công cùng cả chư Thần, Thánh,

Tiên, Phật và các Đấng Trọn Làng nơi Ngọc Hư Cung. Nhứt nhứt việc

lành dữ đều ghi chép không sai, đặng dâng vào Ṭa phán xét. Bởi

vậy một măi không sai : dữ lành đều có trả. Lại nữa, cho"n linh

ấy có tánh thánh nơi ḿnh, chẳng phải ǵn giử các con mà c̣n dạy

dổ nữa. Thường nghe đời gọi lẫn là lương tâm".

 

6- Ngũ giới cấm

 

Cũng năm 1928 (Mậu th́n), Đức chí tôn giảng dạy về ngũ giới cấm,

 

1/ Bất sát sanh : là chẳng nên giết hại các giống sanh vật. Thầy

dạy : mạng sống của chúng sanh cũng như nhành cây trong cội, phải

có đủ ngày giờ thầy định để nở bông, sanh trái đặng trồng nữa,

biến hóa thêm ra. Nếu kẻ nào làm hại nữa chừng là sát hại một

kiếp sanh. Một mạng sống đều hữu căn, hữu kiếp, đến thế lâu hoặc

mau đều có định trước. Nếu ai giết một mạng sống th́ phải chịu

quả báo Mạng sống là của Thầy, mà giết Thầy không phải dể.

 

2/ Bất du đạo : là cấm trộm cướp, lường gạt, mượn vay không trả

và cờ gian bạc lận. Thầy dạy : v́ sao nhơn sanh có ḷng tham

gian ? V́ muốn có nhiều kẻ phục tùng, không chi bằng nắm chặt

quyền phân phát áo cơm, phải dùng đủ mưu chước quỷ quyệt thâu

đạt : lợi lộc, thế quyền. V́ vậy mà đời trở nên hổn độn : tranh

đấu, giựt dành, mạnh được yếu thua, mất công b́nh thiên nhiên Tạo

hóa".

 

3/ Bất tà dâm : là cấm lấy vợ người, xúi dục làm loạn luân

thường. Đạo vợ chồng để truyền tử lưu tôn, không gọi là tà dâm.

Thầy dạy "Vật ăn vào tỳ vị tiêu hoà ra khí, khí biến ra huyết. Nó

có thể hườn thành nhơn h́nh. V́ vậy nên mới có sự sống chết của

chúng sanh. Một giọt máu là 1 khối chơn linh. Nếu các con dâm quá

độ tức là sát hại nhiều chơn linh. Khi các con thoát sát, nó đến

Nghiệt Cảnh Đài mà kiện, các con chẳng hề chối tội đặng.

 

4/ Bất tửu nhục

 

Là cấm say mê rượu thịt, ăn uống quá độ. Thầy dạy :

 

"H́nh chất các con cũng như h́nh chất thú, phải ăn uống mới sống

được. Rượu vào tỳ vị chạy khắp ngũ tạng lục phủ.

Trái tim là chủ động bộ máy sanh sống, mà trái tim bị rượu xâm

nhập, khiến cho nó rung động quá mức thiên nhiên đă định, thôi

thúc huyết mạch vận hành, một cách quá mau lẹ. Sanh khí nơi phổi

không đủ ngày giờ nhuận huyết, rồi trượt huyết thối nhập trong

thân thể, truyền những chất độc vào trong những sanh vật. Mỗi

khối sanh vật ăn rồi phải bịnh, càng ngày càng tăng, rồi cũng

phải chết, thân thể tự nhiên chết theo. Nhiều kẽ bị t  liệt hết

hết nữa thân h́nh cũng v́ rượu.

 

5- Bất vọng ngữ : là cấm xảo trá, gạt gẫm người, khoe ḿnh nhạo

báng chê bai, nói hành kẻ khác, xúi giục ngu"ời kiện thưa hoặc ăn

nói thô tục, hủy báng tôn giáo khác. Đức chí Tôn dạy : "Như các

con nói dối , điều ấy chưa dối đặng người mà các con đă dối

lương tâm ḿnh. Một lời nói, tuy chưa thi hành, song tội t́nh

cũng đồng thề, như đă có làm . Thầy dặn các con : phải cẩn ngôn,

cẩn hạnh. Thà các con làm mà chịu tội cho đành. Chẳng hơn các mà

phải chịu trọng h́nh đồng thể.

 

7- Tứ đại điều qui

 

Tứ đại điều qui là bốn điều qui định, luật lệ buộc phải trao dồi

đức hạnh.

 

1/ Phải tuân lời dạy của bề trên, chẳng hổ cho bực thấp hơn điều

độ. Lấy lễ ḥa người. Lỡ lầm lỗi phải ăn năn chịu thiệt.

 

2/ Chớ khoe tài, đừng cao ngạo, quên ḿnh mà làm nên cho người.

Giúp người nên Đạo, đừng nhớ thù riêng, chớ che lấp người hiền.

 

3/ Bạc tiền xuất nhập phân minh, đừng mượn vay không trả. Đối với

trên dưới đừnh lờn dễ. Trên dạy dưới lấy lễ, dưới gián trên đừng

thất khiêm cung.

 

4/ Trước mặt sau lưng cũng đồng một bực, đừng kính trước rồi khi

sau : Đừng thấy đồng đạo tranh đua ngồi mà xen không để lời ḥa

giải . Đừng lấy chung làm riêng, đừng vụ riêng mà bỏ việc chung.

Đừng cậy quyền mà yếm tài người.

Trên đây là những giáo điều căn bản của nền Tân Tôn giáo. Nó

c̣n phức tạp hơn khi đi vào phần chuyên giáo lư.

 

8- Đức Cao Thượng Phẩm về Thảo Xá Cung

 

Trong khi Đức Cao Thượng Phẩm đang lo chu tất việc tạo các Ṭa

Thánh tạm. Vào tháng 3 năm Mậu th́n, một nhóm người từ Thủ Đức do

ông Tư Mắt tức Nguyễn Phát Trước hướng dẫn về Ṭa Thánh đặt điều

nước lă khuấy nên hồ. Họ đuổi Đức Cao Thượng ra khỏi Ṭa Thánh

trong 24 giờ, nếu không đi th́ cột trong rừng mà bắn. Ngài uất ức

nhưng không thể giải bày cho những người bạo hành rơ được? Ngài

quá buồn bỏ về Thảo xá Hiền Cung (thánh Thất Tây Ninh ngày nay)

và có làm bài thi tự thán như sau :

 

THI

 

Công tŕnh gầy dựng thất Tây ninh

Bằng địa sóng xao khiến rập ŕnh

Tà mị phàm rung rinh chất Thánh

Mùa màng sâu phá hoại hồn kinh

Xưa Ṭa Thánh dập d́u lai văng

Nay Bửu đ́nh lửa quạnh lụy nh́n.

Thương Đạo mến thầy xin sớm liệu

Cộng tâm chung trí  chớ làm thinh.

 

Bịnh Ngài càng ngày càng thêm, Đức Chí Tôn giản dạy :

 

"Thầy thấy con bịnh phổ và bao Tử, nên cho huyền diệu phép cho

con khỏi ăn đôi lúc cho thiệt mạnh. Hai cơ khí ấy vốn ấy là h́nh

chất nên khó lấy huyền điệu mà trị nó theo lẽ thường. Thầy buộc

ngưng phận sự nó đặng tiếp dẫn hườn nguyên". Nhờ đó, Đức Cao

thượng Phẫm không ăn mà vẫn no, do hớp không khí sớm mai lúc mặt

trời vừa mọc.

 

9- Đức Cao Thượng Phẩm trở về Ṭa Thánh nhập tịnh

 

Từ thuở khai Đạo, Đức Cao Thượng Phẫm vẫn là người phế đời hành

Đạo trước nhứt. Thế nên đu3ợc toàn Đạo kính mến không nở để cơn

khảo đảo kéo dài, nên 7 giờ sáng ngày 15-20 năm Mậu Th́n (1728),

một đoàn xe hơi đưa chức sắc Đại Thiên Phong Hiệp Thiên và Cửu

Trùng Đài đến thảo xá Hiền cung rước Đức Ngài về Ṭa Thánh nhập

tịnh thất. (Tịnh thất này ở vào khoản Báo Ân Từ ngày nay). Hội

Thánh có tuyển bổ chức sắc để phục vụ mọi việc cho Ngài.

 

Nhập tịnh thất thời gian bệnh vẫn không thuyên giảm, nên vào 18

giờ ngày 16 tháng 12 năm Mậu th́n (1628). Giáo hữu Thượng Trí

Thanh kêu một cổ xe ngựa đưa Đức Ngài trở về thảo xá Hiền Cung.

 

9- Đức Cao Thượng Phẩm đăng tiên

 

Vào 11 giờ ngày 1-3 kỷ tỵ (10-04-1929). Đức Cao Thượng Phẩm cho

mời Đức Phạm Hộ Pháp, Ngài Bảo Văn Pháp Quân và một số chức sắc

đến thảo xá Hiền Cung mà trối rằng : "Nay qua về chầu Đức Chí

Tôn, em ở lại, hiệp với chư chức sắc chung lo nền Đạo của Thầy

cho được vẹn toàn mọi sự". Nói dứt lời, Ngài xuất hồn êm ái,

gương mặt cũng như người đương ngũ.

 

Hội Thánh thông tri cho toàn Đạo để cầu nguyện cho Đức Ngài được

tiêu diêu miền Tiên cảnh, chứng vị Kim Tiên.

 

Quàng tà thảo xá 3 ngày th́ Hội Thánh nu"ớc Liên Đài về Ṭa

Thánh, đây là một đám tang điển h́nh tổ chức theo Đại Đạo, sắp

đặt như sau :

 

1/ Tấm hoành danh hiệu : Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ

 

2/ Phướng Thượng Phẩm (nếu là chức sắc từ Lễ sanh trở xuống th́

Phướng Thượng Sanh)

 

3/ Bàn hưng án có bửa ảnh người quá cố

 

4/ Các dàn nhạc

 

5/ Các bàn đưa, phúng, văn.

 

6/ Đồng nhi, nam trái, nữ phải

 

7/ Thuyền Bát nhă chở Liên đài

 

8/ Tang quyến

 

9/ Chức sắc Hiệp Thiên, Cửu Trùng, lớn đi trước nhỏ đi sau, rồi

   đến chức việc, đạo hữu.

 

11- Việc xây tháp các Cao đồ

 

Đến ngày 16-04-1929 (7/03 năm Kỷ ty) và giờ Tư Đức Chí Tôn giảng

dạy :

 

"Thầy đă nói rơ rằng : Thượng Phẩm phải về Thầy trước các con.

Nhưng mà, hại thay, v́ biếng nhắc, các con không đọc Thánh Ngôn

của thầy mà t́m hiểu.

 

"Đạo vốn vô vi, nếu Thượng Phẩm không trở lại thiêng liêng chư vị

th́ ai đem các chơn hồn vào cửa Thiên dùm cho các con. Lại nữa,

các con vốn là kẽ dẫn đường cho cả chúng sanh thay mặt thầy nơi

trần thế về phần đời. C̣n phần Đạo cũng phải có đôi đứa mới đặng.

 

"Phải xây cái tháp Thượng Phẩm phiá trước cây ba nhánh chung

quanh Bát Quái Đài phải làm như h́nh có cột. Tại chính giữa tháp

phải có một lổ cho Nhựt Quang rọi tới Liên Đài"

 

12- Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt bị quyền chức

 

Gần cuối năm Kỷ tỵ (1929), Đức Cao Thượng Phẩm giáng đàn nói về

thiên cơ tiền định và các cuộc khảo đảo.

 

"Anh (Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt) có lúc nghe lời Anh Ngọc

(Ngài đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt) mà nghi hoặc bụng em, làm cho em

bị khảo duyệt mà Kỹ trung anh đặng phải. C̣n anh Ngọc lại bị tội

t́nh cờ mà bị quyên Thên khiển cái phẩm vị cao trọng. Anh Ngọc

không rơ giá trị th́ mất vị đă đành. Nhưng nhờ công khai đạo, em

không nỡ ngồi ngó, nên đương liệu phương cầu rỗi.

 

"Mấy vị Thiên phong vô lực, Đức Lư Giáo Tông sẽ giáng cơ định

đoạt. Những kẻ phạm tội giải ra Ṭa Tam Giáo th́ ngài sẽ quyết

định. Anh Ngọc lúc này, nếu biết ḿnh cũng nên ẩn nhận đợi đến

lúc nữa sẽ hay, miễn đừng gây tội nữa".

 

Đức Cao Thượng Phẩm có giáng cho bài thi, hằng năm đều thài dâng

lễ vào dịp hội yến Diêu tŕ cung như sau :

 

 

THI

 

Ngảnh tại mà đau cảnh đoạn tràng

Cơi thiên mừng đặng đứt giây oan

Nợ trần đă phủi ḷng non sắt

Ngôi vị nay vinh nghĩa đá vàng

Cổi tấm chơn thành loè nhựt nguyệt

Phơi gian chí sĩ nhuộm giang san

Bốn mươi hai tuổi sanh chưa phỉ

Để mắt xanh coi nước khải hoàn.

 

Đến đây thời Đạo Pháp đă dứt, xin mời quí vị đọc tiếp Thời Chánh

Pháp do Đức Quyền Giáo Tông và Đức Phạm Hộ Pháp quản trị.

 

 

 

 

 

Hăy t́m đọc :

 

 

 

ĐI ĐO TẦM NGUYÊN

 

      A

 

A-Ă-Â _ ba nguyên âm đầu tiên trong vần Việt Ngữ.

 

Lần đầu tiên thâu dụng đệ tử, Đức chí tôn xưng tên là A-Ă-Â. Đến

đêm 25-12-1925 các vị đệ là Cao Quỳnh Cư _ Phạm Công Tắc và

Cao Hoài Sang mới biết Đức A-Ă-Â Đấng Huyền Khung Cao Thượng Đế,

tức Đấng Chí Tôn, c̣n gọi là trời.

 

Đấng A-Ă-Â đă dùng huyền diệu cơ bút đến thâu nhận đệ tử và khai

sáng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, thường gọi là Đức Cao Đài.

 

Ba chữ A-Ă-Â c̣n ám chỉ ba ngôi củ Đấng Chí Tôn : A là ngô trung

ḥa, Ă là ngôi âm, Â là ngôi dương.

 

Chữ A lại là chữ thứ nhất của mẫu tự La-tinh, ám chỉ ngôi xuất

hiện tiên khởi mà Phật Giáo gọi là Đại ngă và Thiên chúa giáo gọi

là Đức chú Trời, v́ Đấng Christ tuyên bố :

 

"Ta là chữ A (Je suis l'Alpha)

 

A DI ĐÀ PHT _ (AMITABHÂ _ AMITAYS) . Tiếng Phạn A là vô, Di Đà

là lượng tức vị Phật sáng suốt không lường được.

 

Đức A DI ĐÀ ở Cực Lạc quốc, ngự nơi Lôi âm Tự cai quản Càn Khô vũ

trụ Hào Quang của Ngài sáng suốt vô lượng chiếu khắp vũ trụ mà

không bị che ngăn. V́ thấy thế nên ngài c̣n được tôn là Vô Lượng

Quan Phật.

 

Đức A Di Đà Phật thường hóa thân đi tiếp dẫn chúng sanh có duyên

tu niệm, hai bên có hai vị Bồ Tát chầu. Thường được gọi la A Di

Đà Tam Môn. Nơi cực lạc quốc cũng thường có hai vị Bồ Tát chầu

theo ngài : Hữu Tôn là Đại Thế Tà Tông  là QUAN Thế Â Bồ Tát.

 

A Di Đà Phật (Thập Tam hiệp) _ Đức Phật A Di Đà Phật có mười ba

danh hiệu :

 

1/ A Di Đà Phật hay vô lượng Thọ Phật : đời sống cu!!_a ngày lâu

dài khôn lường; hào quang của Ngài chiếu sáng Ngài sáng suốt vô

tận.

 

2/ Vô lượng Quang Phật : hào quang trí huệ của Ngài sáng suốt vô

tận.

 

3/ Vô Biên Quang Phật : hào quang của Ngài chiếu sáng vô tận

chiếu đến đâu th́ giải thoát chúng sanh đến đó

 

4/ Viêm Vương Quang Phật Hào quang của Ngài soi sáng hơn hết.

 

5/ ThaNh Tịnh Quang Phật : Hào Quang của Ngài vô cùng tinh khiết,

trong sáng ặnh

 

6/ Hoan Hỉ quang Phật : Ai được hào quang Ngài chiếu vào ḿnh đều

thơi thới an lạc

 

7/ Trí huệ Quang Phật : Hào Quang của Ngài chiếu tới đâu th́

chúng sanh trở nên sáng suốt minh

 

8/ Bất Đoan Quang Phật : Hào quang của Ngài chiếu sáng không dứt.

 

9/ Nam Tư Quang Phật : Hào Quang của Ngài không ai suy xét cho

cùng

 

10/ Vô xưng Quang Phật : Hào Quang của Ngài không ai cân lường

cho nổi

 

11/ Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật : Hào quang của Ngài Chiếu sáng

khắp cỏi trong khôn thế giới, từ Cực Lạc quốc đến tầng địa ngục,

nên sức chiếu thắng được sức chiếu của mặt trời mặt trăng.

 

 

DK :

 

Đầu vọng bái Tây Phương Phật Tổ

A Di Đà Phật độ chúng dân

 

 

(K.cầu siêu)

 

 

A Đà Na _ Tiếng Phạm chỉ là tầm thức, là tên riêng của cái thức A

Lại Da. Luật của thức này giữ lấy nghiệp nhơn thiện ác và giữ

cho khỏi phá hoại thân thể hữu h́nh.

 

ặ chẳng c̣n sanh

A La Hớn _ (Arat) Tiếng Phạn chỉ quả Thánh thứ tư, gọi tắt là La

Hớn, A La Hớn là người đă dứt hết mọi mối phiền năo, lỗi lầm và

chẳng c̣n sanh ra ở cơi thế nữa. Người đắc quả A La Hớn th́ có

đủ sáu phép huyền diệu.

 

Trong hội họa hay điêu khắc Trung Hoa và Nhật Bản, các vị A la

Hớn thường đưỢc mô tả như những vị ấn sĩ gầy g̣ và ăn mặc rách

rưới.

 

 

D.K. :

 

NGŨ bá La Hớn cứu độ đọ tử...

 

(K. cứu khổ)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Kiểm duyệt ngày 29 tháng 6 năm Canh tuất (D.L. 31/07/1970)

 

Trưởng ban kiểm duyệt kinh sách

 

HIẾN PHÁP H. T. Đ.

 

TRƯơng Hưu ĐứC

(Ấn kư)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

MỤC LỤC

 

                                                      Trang

 

- Lời giới thiệu của Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức      05

- Lời tác giả.......................................    07

 

PHẦN PHÁT ĐOAN

 

 

CHƯƠNG  1

 

Khái quát về xả hội VIETNAM

 

   1- Miền Nam là đất thuộc địa Pháp.................   11

   2- Cá tầng lớp xă hội ............................   12

 

   3- Văn Hóa........................................   13

 

 

 

CHƯƠNG 2

 

Nguyên nhân Cao đài Giáo xuất hiện ....................  17

 

1- Kinh sấm truyền báo trước Cao đài giáo xuất hiện      17

 

2 Hoàn cảnh xả hội Việt Nam............................  21

 

3- Đấng chí Tôn dành cho dân tộc Việt Nam..............  21

 

PHẦN THỨ NHỨT : Thời Khai Pháp (1920-1926)

 

CHƯƠNG 1

 

Ấn chứng thiêng Liêng..................................  27

 

1- Người đệ tử Cao Đài đầu tiên........................  27

 

2- Thiên nhăn hiển hiện lần đầu........................  29

 

CHƯƠNG 2

 

Cơ Phong Thánh ........................................  31

 

1- Đấng A-Ă-Â giáo đạo.................................  31

 

02- Hội yến Diêu Tŕ Cung...............................  35

 

03- Lập đàn cầu đạo ....................................  37

 

04- Các Tông đồ đầu tiên và Cơ Phổ hóa..................  39

 

05- Thiên phong đầu tiên................................  43

 

06- Các đàn lệ..........................................  47

 

07- Việc tạo quả Càn Khôn...............................  49

 

08- Số đồ đệ kỳ ba tam chuyển ..........................  49

 

09- Khai đạo với chính phủ Pháp.........................  50

 

10-Thầy giao quyền cho Đức Lư thái Bạch ...............  52

 

 

PHẦN THỨ HAI : THỜI ĐO PHÁP (1926-1929)

 

CHƯƠNG 1

 

01- Đức Chí Tôn định ngày khai đạo.....................  57

 

02- Cuộc thử thách đầu.................................  59

 

03- Khai Đạo Tịch Nữ phái..............................  60

 

04- Lập Thành Pháp Chánh Truyền Hội Thánh

    Cửu Trùng Đài .....................................  63

 

05- Ban hnh Tân luật...................................  66

 

06- Thành lập Hội Thánh Hiệp Thiên Đài ................  66

 

07- Cất Ṭa Thánh tạm .................................  68

 

08- Ngừng cơ Phổ độ....................................  70

 

09- Thống hiệp ngũ chi Đại Đạo ........................  71

 

10- Thầy phong thánh lần chót..........................  72

 

11- Một vị thời quân hiểu đạo .........................  73

 

12- Điểm báo trước phân chi phái ......................  74

 

 

CHƯƠNG 2

 

Những giáo điều căn bản................................  75

 

01- Việc thờ Thượng ...................................  75

 

02- Lễ nhạc ...........................................  76

 

03- Quan niệm về vũ trụ vàcon người ...................  77

 

04- Đẳng cấp người theo đạo ...........................  78

 

05- Luật luân hồi .....................................  78

 

06- Ngũ giới cấm ......................................  80

 

07- Tứ Đại điều qui ...................................  81

 

08- Đức Cao Thượng Phẩm về Thảo xá ....................  82

 

09- Đức Cao Thượng Phẩm nhập tịnh .....................  83

 

10- Đức Cao Thượng Phẩm đăng tiên .....................  83

 

11- Việc xây tháp các Cao đồ ..........................  84

 

12- Đầu sư Ngọc Lịch Nguyệt bị quyền chức..............  85

 

 

TONG BIỂU Đ-

NIÊN ĐI ĐO Sử

 

Âm Lịch. D. Lịch . Biến Cố Đạo Sự . ghi chú

 

1/1 T.Dậu - 08/12/01921 - Đức Cao Đài thâu ông Ngô văn Chiêu làm

môn đệ tử thứ nhứt - ở Phú Quốc

 

5/6 Ất Sửu - 25/07/1925 - Quí ông Cư, Tắc, Sang xây bàn đấu tiên-

nhà ông Sang.

 

18/05 Ất Sử - 01/09/1925 - Hội Yên Diêu Tŕ cung đầu tiên - nhà

ông Sang.

 

01/11 Ất Sửu - 16/12/1925 - Lập đàn cầu Đạo - nhà ông Cư

 

25/12/1925 - Đức Cao Đài nhận 3 ông Cư, Tắc, Sang làm môn đệ

 

28/01/1926 - Ông Lê Văn Trung được quí ông Cư, Tắc độ theo đạo -

nhà ông Trung

 

14/03 B.Dần - 24/04/1926 - Ông Ngô Văn Chiêu tách riêng tu đơn -

nhà ông Trung

Ông Cao Quỳnh Cư đắc thiên Phong thu"ợng Phẩm - nhà ông Trung

Ông Lê Văn Trung đắc Thieản Phong Thượng Đầu Sư - nhà ông Trung

Ông Lê Văn Lịch đắc Thiên Phong Ngọc Đầu Sư - nhà ông Trung

12/08 Bính Dần - 17/09/1926 - Tạo quả Càn Khôn thờ Đấng Chí Tôn -

nhà ông Trung

07/10/1926 - Khai đạo với Chính phủ Pháp - nhà ông Tường

29/10/1926 - Đức chí Tôn giao quyền cho Đức Lư Thái Bạch - nhà

ông Tường

15-10 Bính Dần - 18/11/1926 - Khai đạo với thiên Đ́nh Khai Tịch

Đạo Nữ Phái - G̣ Kén

16/10 Bính Dần - 19/11/1926 - Lập Pháp Chánh Truyền phân định

phẩm vị Cửu Trùng Đài - G̣ Kén

02/11 Bính Dần - 06/12/1926 - Thành Lập Tân luật - G̣ kén

12/01 Đinh Măo - 13/12/1927 - Phân định phẩm vị Hiệp Thiên Đài -

G̣ Kén

 

20/02 Đinh Măo - 23/03/1927 - Thỉnh Thánh tượng về Ṭa Thánh tạm

tại làng Long Thành - G̣ kén

c.th. 6-1927 - Ngưng cơ phổ độ

th. 7 1927  - Hiệp nhất Ngũ Chi Đại Đạo - Minh lư Đàn

17/09/1927 - Đức Chí Tôn phong Thánh lần chót

01/03/ Kỷ Tỵ - 14/04/1929 - Đức Cao Thượng Phẩm đăng tiên

 

Kiểm duyệt ngày 29 tháng 6 năm Canh Tuất (DL 31/07/1970)

Trưởng Ban kiểm duyệt kinh Sách

HIẾN PHÁP H.T.D

TRƯƠNG HU ĐỨC

(Ấn kư)

 

 

VÂN ĐẰNG

TRẦN VĂN RNG

ĐI ĐO SU CUONG

QUYỂN II

ĐI ĐO NĂM THỨ 46

TÁC GIẢ GI BẢN QUYỀN

Một-chín-bảy-một

TRẦN VĂN RNG

Hiệu Trưởng Trung Học Phú Khương

Hiền Tài Trưởng Nhiệm Văn Hóa

BAN THẾ ĐO

 

ĐI ĐO SỬ CƯƠNG

QUYỂN II

(Thời đại Đức Quyền Giáo Tông và Đức Phạm Hộ Pháp)

ĐI ĐO NĂM THỨ 45

Tá giả giử bản quyền

một-chín-bảy-không

 

LỜI GIỚI THIU

 

Của Ngài Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài

Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh

kiêm Trưởng Ban Đạo Sử

    __________

Tôi lấy làm hân hạnh xin chân thành giới thiệu cùng bạn đọc bốn

phương cuốn ĐI ĐO SỬ CƯƠNG này do tác giả TRẦN VĂN RNG, Hiệu

Trưởng Trung Học Phú Khương, Hiền Tài Trưởng Nhiệm Văn Hóa Ban

Thế Đạo, biên soạn rất công phu.

Cuốn ĐI ĐO SỬ CƯƠNG này ghi tóm tắt lịch tŕnh của Đại Đạo Tam

Kỳ Phổ Độ, nhưng cũng đủ làm tài liệu cho các nhà khảo cứu Sử

Đạo.

Việc sắp đặt đúng theo thứ tự, có trước có sau, khiến cho dễ thấy

dễ hiểu những điều cần muốn biết.

Điều đáng chú ư và điều đáng khen tặng là tác giả nh́n thấy được

tâm sự của giới trí thức, nhứt là tâm sự của các nhà chí sĩ thời

tiền sử Đạo đă v́ ôm mối hận nước nhà bị đô hộ mà hết sức cố gắng

t́m lối thoát cho dân. V́ vậy mà có sự hoạt động chống chế độ

thực dân không ngừng. Những bậc tiền bối sáng lập Đạo Cao Đài

cũng thuộc trong nhóm chí sĩ này.

Khi họ phăng được bất cứ một mối dây nào khả dĩ đem đến một cơ

hội giải thoát th́ họ nắm chặt lấy liền.

Cái cớ Đạo Cao Đài xuất hiện không mấy ngày mà thâu hút được một

số tín đồ khá lớn cũng v́ đó. V́ lúc đầu, các Đấng Thiêng Liêng

xây chuyển làm rung động tâm hồn của tất cả mọi người. Thêm vào

đó, lại c̣n có nhiều huyềnh diệu thiêng liêng khác nữa.

Ngoài sự biến chuyển về sau th́ Ban Đạo Sử của Hội Thánh sẽ lần

lượt sưu tập và biên soạn thêm thành Đạo Sử tổng quát.

Nay tác giả cho cuốn Đại Đạo Sử Cương ra đời tôi nhận thấy rất

hạp thời và hữu ích, nên kính cẩn lưu ư, giới thiệu quí vị độc

giả.

 

Nay kính

Ṭa Thánh, ngày 16/06 năm Canh Tuất

(D.L. 18/07/1970)

HIẾN PHÁP HIP THIÊN ĐÀI

TRƯƠNG HU ĐỨC

(ấn kư)

 

PHẦN THỨ BA

  _____

Thời Chánh Pháp

(1930-1934)

* THỜI QUYỀN GIÁO TÔNG

(1930-1934)

* THỜI PHM HỘ PHÁP

(1935-1956)

 

CHƯƠNG I

THỜI QUYỀN GIÁO TÔNG

(1930-1934)

1/ Ngài Thượng Đầu Sư đắc phong Quyền Giáo Tông

Vào ngày 22/11/1930 (03/10/Canh Ngọ), một đàn cơ do Đức Phạm Hộ

Pháp cầu nơi Hiệp Thiên Đài Ṭa Thánh, Đức Lư giáng cơ ban phẩm

Quyền Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cho Ngài Đầu sư Thượng

Trung Nhựt thế danh Lê Văn Trung.

Đạo Nghị định thứ nh́, điều thứ nhứt, ban hành ngày 15/10 Canh

Ngọ, Đức Lư phán rằng : "Ban quyền cho thượng Đầu Sư thay mặt cho

lăo mà thi hành các phận sự Giáo Tông về phần xác, c̣n phần

thiêng liêng có lăo". Như vậy, Đức Quyền Giáo Tông chỉ có quyền

về phần nhân sanh mà thôi.

Một đàn cơ khác (ngày 01/08/1931), Đức Lư lại dạy : "Ngày nay lăo

đă nhượng nửa quyền hành cho đó, là có ư để mặt coi hiền hữu

đúng phận cùng chăng ? Lăo hạ ḿnh bỏ quyền Nhứt Trấn, lănh việc

Giáo Tông mà lập vị cho đoàn em bước tới. Lăo đă lắm phen thấy

nhiều khó kha&n của phần ấy, nên ra tay giục loạn đặng phân rơ

chánh tà hầu giúp phương cho Hội Thánh trừ khử.

 

Lăo mừng hiền hữu đó. Lăo v́ Chí Tôn đă hứa mà lo lập vị cho đáng

giá. Vậy hiền hữu cũng phải tận tâm mà chung lo với lăo mới phải.

 

Ngày nay đă hành chánh, th́ cũng nên lập ḿnh cho đủ tư cách của

một người cầm sanh mang của nhân loại. Chưa có ngôi vị đế vương

nào mà sa-nh với phẩm vị Thiêng Liêng đặng. Khá phân biệt trượng

khinh mà giữ ǵn kẻ bị tà tâm rối loạn."

 

2/Bát Đạo Nghị Định

 

Bát Đạo Nghị Định do Đức Lư và Đức Phạm Hộ Pháp lập thành, ngày

03/10 năm Canh Ngọ, chỉ có sáu nghị định và ban hành ngày 15/10

năm đó. C̣n hai nghị 7 và 8 lập ngày 15/07 năm Giáp Tuất

(25/08/1934).

 

1- Đạo Nghị Định thứ nhứt : Buộc các chức sắc Hội Thánh Cửu

Trùng và Hiệp Thiên đài phải tuân y Tân luật Pháp Chánh Truyền mà

hành Đạo, lớn nhỏ giữ phận.

 

2- Đạo Nghị Định thứ hai : Ban quyền Giáo Tông cho Thượng Đầu Sư

và quy định rơ quyền hạn của chánh Phối sư được quyền giao tiếp

với chánh quyền và nhơn sanh, tức hành sự về phương diện Chánh

Trị Đạo.

 

3- Đạo Nghị Định thứ ba : Nam Nữ Chánh Phốisư phải hành chánh

riêng và chia phận sự như sau :

 

_ Phối sư phải ở tại Ṭa Thánh.

- Giáo sư làm đầu một tỉnh.

- Giáo hữu làm đầu một quận

- Chánh Trị sự làm đầu một làng

- Phó trị sự và Thông sự làm đầu một xóm.

 

Từ ban hành Đạo Nghị Định này th́ việc phân nhiệm phân vùng mới

rơ rệt và chức sắc mới được tuyển bổ đi khắp nơi, đủ các châu Tộc

Đạo.

 

4- Đạo Nghị Định thứ tư : Phân rơ quyền hạn của ba vị Chánh Phối

Sư.

 

5- Đạo Nghị Định thứ năm : Buộc tất cả các chức sắc Thiên phong

phế Đời hành Đạo, c̣n những người ngoài ṿng chẳng đặng dự vào

việc Chánh Trị Đạo.

 

Từ ban hành Đạo Nghị Định mới có áo tràng y chín nút( Cửu Trùng

Đài) và sáu nút (Hiệp Thiên Đài).

 

6- Đạo Nghị Định thứ sáu : chỉ định Đức Giáo Tông và Hộ Pháp chú

giải Pháp Chánh Truyền.

 

Kể từ đây Pháp Chánh Truyền mới được Đức hộ Pháp chú giải rơ ràng

như ngày nay, khiến mỗi người không hiểu méo mó theo ư riêng của

ḿnh.

 

7- Đạo Nghị Định thứ bảy : Tất cả chức sắc Nam Nữ Cửu Trùng Đài

dă trọn hiến thân hành Đạo buổi sơ khai đều thăng nhất cấp, trừ

những người phạm tội hoặc phế phận sự hay mới được thăng.

 

Đạo Nghị Định này và Đạo Nghị Định sau, lập thành 15-7 năm giáp

Tuất (25-08-1927).

 

8- Đạo Nghị Định thứ tám : Qui định những chi Phái không tùng

mạng lệnh Hội-Thánh (Ṭa Thánh Tây Ninh) đều coi là bàn môn tả

đạo.

 

Nghị định này ban hành bị nhiều đả kích và t́nh trạng chi phái

vẫn không bớt.

 

3- ĐỨC LƯ GIÁO TÔNG TÁI THỦ QUYỀN HÀNH

 

Sau khi, Ngài thượng Đầu Sư được phong Quyền Giáo Tông, một số

chức sắc đố kỵ, Đức Lư giáng cơ ngày 24/12/1930 dạy :

 

"Lăo là người đứng ngoài ṿng thế sự đă lâu, nên đôi phen bợ ngợ,

phải lưọng trí mỗi người. Ôi! Nghĩ nên rất khó. may là một nước

Việt Nam chưa đủ trọn Đạo mà dường này, ngày nào truyền bá trong

nhân loại, trọn khắp ngũ châu.

 

"Lăo chỉ sợ một điều là Lăo không phương gần kẻ tà tâm, toan dạy

dỗ, c̣n như gần kẻ đạo đức, chơn thành th́ rất dễ, song chẵng cần

ích. Tâm thần là ngôi vị của Đấng Thiêng Liêng không lo trau giồi

th́ cũng c̣n vẽ đẹp. Lăo đến gieo hột Thánh cốc nơi ḷng của kẻ

tà tâm, mong cho đươm bông kết quả, đặng liệu hồi tâm, chớ chẳng

phải đến rước người hiền ngơ.

 

"Lăo nghĩ như thế nhất định tái thủ quyền hành, để cập nhản

Thiêng Liêng thay v́ cập nhản của Thầy đặng thấy dùm mọi điều cho

chư hiền hữu, chư hiền muội để quyết thắng chúng sanh trong kỳ

khai đạo này.

 

"Lăo nặng mang t́nh nghĩa cùng một bạn Thiêng liêng v́ đời lănh

mạng tạo Đạo cứu chúng sanh. Cơ thưởng phạt của Thiên cơ th́ làm

điều trái hẳn với trí người tưởng tượng. Co- nhiều khi thưởng hữu

h́nh mà h́nh phạt vô vi. Mà cũng co- nhiều khi h́nh phạt hữu vi

mà thưởng Thiêng Liêng công nghiệp. Đừng vội luận nhảm bàn khùng

mà mang tội Thiêng Liêng". Lễ Đức Lư tái thủ quyền hành được

thiết lập nơi Cửu Trùng thiên giữa Đại Đồng Xă.

 

4 Nội Luật Ṭa Thánh

 

Từ khi lập ngôi Ṭa Thánh đến thời Đức Quyền Giáo Tông, Ngài mới

sọan thảo nội luật ngày 19-11-1931. Hội Nhơn sanh ngày

24-11-1931, Hội Thánh ngày 24 đến 26 -12 năm 1931 và Thượng Hội

ngày 4 đến 6 tháng 1 năm 1932. Măi năm đến ngày 20 tháng 2 năm

1932 (15.01.Nhâm Tuất) mới ban hành.

 

Bộ Nội luật này có bảy chương, lời mở đầu ghi : Đại Đạo Tam kỳ

Phổ Độ khai d'ă 6 năm rồi. Ṭa Thánh là nguồn Đạo phải có nội

luật nghiêm trang. Vậy từ đây, ai ở Toà Thánh cũng phải tùng theo

Nội Luật.

 

1/ chương nhất : Qui định về Đại lễ cúng tư thời tụng kinh tại

Bửu D'iện, lễ cầu siêU, cầu nguyện cho lành cho lành bịnh, lễ hôn

phối, lễ nhập môn.

 

2/ chương thứ nh́ : Bổn phận người hiến thân tại Ṭa Thánh và

Thiên Phong, chức sắc cùng Đạo Hữu lưỡng phái về Ṭa Thánh, phải

Thông thạo kinh sách, học đạo và luật đạo.

 

3/ Chương thứ ba : Pḥng Trù và nhà khói, phải giữ vệ sinh và thứ

tự theo điều luật của Quản Lư Nội Viện và Lưỡng Viện sắp đặt.

 

Đông lang th́ có chức sắc Nam Phái, Tây lang th́ có chức sắc Nữ

Phái.

 

Chương thứ tư : Pḥng-Văn, nhà giảng Đạo, nhà ngủ nhà thương, các

trường, các trường, giờ mở cửa làm việc :

 

_ Sáng từ 7 giờ đến 11 giờ 30

_ Chiều từ 2 giờ 30 đến 5 giờ 30.

 

Việc lập nhà thương, trường học đến năm 1938, Đức Phạm Hộ Pháp

ban hành Bộ Đạo Luật mới ra h́nh tướng khởi Đầu chỉ hạn hẹp.

 

5/ chương thứ năm : Luật lệ chung về cách giao thiệp với nhau.

 

Chức sắc đối với Đạo hữu phải giữ khiêm cung tỏ ḷng Đạo đức nhớ

lời này :

 

Nghiêu chẳng dùng Pháp Luật

thuấn chẳng lập Luật Điều*Thang không dùng H́nh Phạt

Văn Vương không lập Ngục Thất

 

mà thiên hạ đều kính Phục. Khá lấy ḷng đạo đức lập chí thương

yêu, kính người yêu vật mà dạy nhơn sanh.

 

6/ Chương thứ sáu : chức sắc và Đạo hữu về Ṭa Thánh th́ ḷng

tín ngưỡng mấy điều sau :

 

- Về sùng bái Đấng Chí Tôn và Đấng thiêng Liêng cũng như về nhà

ông cha yêu dấu chung.

 

- Ai cũng có ḷng về Ṭa Thánh học hỏi việc Đạo và lập công bồi

đức, làm công quả có ích cho Đạo là lo chung cho nhơn sanh.

 

7/ Chương thứ bảy : Định phần thưởng phạt phân minh, qui định rơ

ban kỷ luật.

 

5_ Quyền chí Tôn nơi Hộ Pháp và Giáo Tông

 

Ngày 23-12-1931, thầy giáng cơ nơi thảo xá Hiền Cung ban quyền

Chí Tôn nơi Hộ Pháp và Giáo Tông.

 

Các con hăy nhớ rằng : Toàn thế giới càn khôn chính có 2 quyền :

quyền hành chí tôn của thầy, dưới là quyền hành của chúng sanh.

Thầy đă lập h́nh thể hữu vi của Thầy là Hội Thánh của Đại Đạo,

rồi thầy cũng phải ban quyền hành trọn vẹn của Thầy cho h́nh thể

ấy, đặng đủ phương tiện tận độ chúng sanh, dưới quyền hành chuyển

thế của đời nghĩa là, toàn thể nhân loại Đồng quyền cùng Thầy. Mà

tạo hoá vạn lịnh vốn con cái của Thầy. Vậy th́ Vạnlinh cũng co-

thể đoạt vị Thần, Thánh, tiên Phật đặng.

 

Thầy nói rơ : quyền Chí Tôn là Thầy, quyền vạn linh là sanh

chúng. Ngày nào quyền lực chí Tôn đặng hiệp cùng vạn linh th́ Đạo

mới ra thiệt tướng.

 

Thầy đă ban quyền hành chí Tôn của thầy cho hai đứa làm đầu Hội

Thánh là Giáo Tông và Hộ Pháp. Vậy th́ quyền hành chí tôn của

thầy đặng trọn vẹn khi giáo Tông cùng Hộ Pháp hiệp một. Quyền

hành Chí Tôn của Thầy duy chỉ quyền hành vạn lịnh đối phó mà

thôi".

 

Xem như thế, từ đây Đức Ngài Lê văn Trung và Phạm Hộ Pháp thống

nhất ư chí tạo luật là quyền lực Chí Tôn tại thế. Nhất nhất tín

đồ phải nghe theo. Duy chỉ có quyền vạn linh mới nạy lư không

tuân mà quyền vạn linh là phối hợp cửa 3 hội : Hội Nhơn Sanh, Hộ

Thánh và Thượng Hội th́ cũng khó mà bá bỏ một Đạo Luật do nhị vị

đưa ra.

 

6- Ba Hội lập quyền Vạn Linh

 

Ba hội lập quyền Vạn Linh là : Thượng Hội, Hội Thánh và Hội Nhơn

                               Sanh.

 

1/ Thượng Hội gồm có :

   _ Giáo Tông ............... Hội Trưỏng

   _ Hộ Pháp ................. Phó Hội Trưởng

   _ Thượng Phẩm ............. Nghị viện

   _ thượng Sanh ............. Nghị viện

   _ Ba vị Chưởng Pháp ....... Nghị viện

   _ Ba vị Đầu sư Nam Phái ... Nghị viện

   _ Ba vị Đầu sư Nữ Phái .... Nghị viện

 

Mục đích củ Thượng Hội là xem xét và phê chuẩn.

_ Các điều của Hội Nhơn sanh mà Hội Thánh đánh đổ th́ không được

phép đem vào Thượng Hội, nếu không có đơn củ 2 ông Chủ Hội kêu

nài.

 

_ Thượng hội bàn luận và Định đoạt các việc cần gắp hoặc yếu

trọng phải ban hành trong Đạo.

 

_ Nội luật nà ban hành ngày 22 tháng 1 năm Nhâm thân (17-02-1932)

do Đức Phạm Hộ Pháp và Đức Quyền Giáo Tông kư.

 

2- Hội Thánh gồm có :

 

- Thái chánh Phối sư ......... Chủ Trưởng

_ Từ Giáo hữu đến Phối sư .... Hội Viên

 

Hội Thánh có quyền xem xét các việc của Hội Nhơn sanh dâng lên

và các việc hành chánh trong Đạo rồi đệ lên thượng Hội. Thường

ngày, Hội thánh đại diện quyền của Đại Đạo hành khiển mọi việc.

 

3_ Hội Nhơn sanh gồm có :

 

- Thái Chánh Phối sư ......... Nghị Trưỏng

- Nữ Chánh Phối Sư ........... Phó Nghị Trưởng

- Lễ sanh, Chánh Phó  trị sự

 

Và Thông  sự ................. Nghị viện Phái Viên

Mục đích của hội Nhơn sanh trù tính các việc :

 

a/ Giáo hóa Nhơn sanh.

b/ lo liệu phương hay cho Đạo Đời khỏi điều phản khắc và nâng

cao Tinh Thần trí thức của Nhân sanh.

c/ Phổ Độ nhơn sanh vào cửa Đạo, d́u dắt tín đồ cho khỏi trái

bước, trọn dâng cá luật lệ của Đạo.

 

d/ Xin sửa cải thêm bớt hay huỷ bỏ những luật lệ của Đạo không

phù hạp với tŕnh độ trí thức tinh thầnh của nhơn sanh.

 

e/ Lo cho nền Đạo được trong ấm ngoài êm và đủ phương thông nền

chơn giáo.

 

g/ Xem xét và công nhận về phương diện chánh trị của Đạo, quan

sát sổ sách phân xuất tài sản và nghị số.

 

7_ Hiến PháP Hiệp Thiên Đài năm Nhâm Thân

 

Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài năm Nhâm Thân (1932) cách tổ chức giống

như Thánh Ngôn giáng cơ ngày 13.02 năm 1927 (12.01.Đinh Măo).

Song định rơ chức phận và phẩm vị từng người như :

 

- Hộ Pháp là chưởng Quản Hiệp Thiên, kiêm Chưởng Quản chi Pháp.

- Thượng  Phẩm Chưỏng Quản Chi Đạo.

_ Bảo pháp, Bảo Đạo đều đồng thể

_ Hiến Pháp, Hiến Đạo, Hiến Thế đều Đồng thể

_ Khai Pháp, Khai Đạo,  Khải Thế đều đồng thể.

- Tiếp Pháp, Tiếp Đạo, Tiếp Thế đều đồng thể.

 

Ngoài ra, c̣n có Nội luật luật qui định vị nào có thể thay thế

cho vị nào khi vắng mặt, nhưng cùng một Chi mới đặng thay quyền

cho nhau.

 

Cổ Pháp của Hộ Pháp là Bửu Pháp của Tam giáo gồm có : b́nh bát

du, cây phất chủ và bộ Xuân Thu.

 

1/ B́nh bát du là bửu pháp của Phật giáo, cái b́nh của người khất

sĩ tịnh độ, là y bát chánh truyền của Ngũ Tổ chức Hoằng Nhẫn S

2/ Phất phủ là bửu pháp của Lăo giáo, c̣n gọi là phất trần tức

loại dụng cụ kết bầng lầu rồng để quét sạch bụi trần chất vấn

vương nơi ḷng phàm.

 

3/ Xuân thu là bộ sách Đức Khổng Phu Tử viết ra, nếu nh́n về bề

ngoài là một bộ sử biên niên, theo lối chép truyện kể từ Lổ Ẩn

Công đến Lổ Ai Công. Nhưng nếu xét về tinh thần th́ là một bộ

sách triết lư và chính trị (Xuân Thu dĩ đạo danh phận : Xuân Thu

là để nói về danh và phận).

 

Biểu hiệu của Chi Thế là Phất Chủ và Thư Hùng Kiếm là gươm thần

huệ nghiêm trị xảo trá, khử trừ tà mị. Biểu hiệu của Chi Đạo là

Long Tu Phiến, tức cây quạt kết hằng râu rồng dùng để xướng xuất

khả năng, mở ṿng oan trái, đư chơn linh tái nhập trường thi Tiên

Phật. Biểu hiệu của Chi Pháp là cổ pháp củ Hộ Pháp.

 

Ba Bửu pháp, Long Tu Phiến, Thư Hùng Kiếm và Phất Trần nhập lại

lại gọi là Cổ Pháp Giáo Tông. Tất cả chức sắc Cửu Trùng Đài dùng

cổ pháp này.

 

Ngoài thập nhị Thời Quân c̣n có thập Nhị Bảo Quân. Theo lời phê

của Đức Phạm Hộ Pháp ngày 26-10 Canh Dần khi Ngài Tiếp lễ nhạc

Quân hỏi về 12 Bảo Quân : "Toàn thể Bảo quân là Hàn lâm viện, mỗi

vị có sở thức, sở năng là điều khác nhau đặc biệt, như Bảo Huyền

linh Quân coi về phần linh hồn, khác với Bảo học Quân coi về khoa

học. Thập Nhị Bảo Quân riêng cho quyền Thượng Hội, dưới quyền chỉ

huy của Giáo Tông và Hộ Pháp".

 

Mười hai Bảo Quân là : Bảo Huyền Linh Quân, bảo Thiên văn quân,

Bảo Địa Lư Quân, Bảo Học Quân, Bảo Văn Pháp Quân, Bảo y Quân, Bảo

Y Quân, Bảo y quân, Bảo Nông Quân, Bảo Công Quân, Bảo Thương Quân.

 

Chỉ có 3 chức vị đă được phong :

 

1/ Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu, bào huynh của ông Cao Quỳnh

 

2/ Bảo Sanh Quân Lê văn Hoạch, Bác sĩ y khoa

 

3/ Bảo cô Quân Dương Văn Giáo, Luật Sư

 

Nay chỉ c̣n Bảo Sanh Quân, nhị vị kia đă triều thiên c̣n chín vị

chưa tới, nên áp măo và quyền hạn chưa định.

 

8/ Hội Thánh Ngoại Giáo

 

Hội Thánh Ngoại Giáo là cơ quan truyền giáo ra ngoại quốc, thành

lập vào rung tuần tháng 5 năm 1927. Cơ sở đặt tại đường Lalande

Calan (Phnom-Penh) dưới sự d́u dắt của Đức chưởng Đạo Nguyệt Tâm

chơn nhơn, tức đại văn hào Pháp hào Pháp Quốc Victor Hugo và dưới

sự bảo hộ hữu h́nh của Đức Phạm Hộ Pháp.

 

Những chức sắc đầu tiên củ cơ quan được Đức chí Tôn ân phong ngày

27-07-1927 tại Nam Vang như sau.

 

a/ Nam Phái : Giáo hữu Thượng Bảy Thanh, Giáo hữu Thượng Lắm

Thanh, giáo hữu Ngọc Sự thanh, Lễ Sanh Thượng, Chữ Thanh, Lễ Sanh

Thượng Vinh thanh, Lễ sanh Thái Của Thanh.

 

b/ Nữ phái : Giáo hữu Hương Phụng (tức là Batrya), Giáo hữu Hương

Huê.

 

c/ Hiệp Thiên Đài : Tiếp Đạo Cao Đức Trọng (bào huynh của Đức Cao

Thượng Sanh). Cũng nên nhớ năm nầy (1927) Đức Phạm Hộ Pháp làm

việc tại Khmer.

 

Chỉ trong ṿng một năm (1927-1928) mà số tín đồ tăng trên 10.000.

Nhờ phục vụ đắc lực mà có nhiều vị được tha&ng cấp chủ trưởng Hội

Thánh Ngoại Giáo. Thứ tự được kể sau : Giáo Sư thượng Bảy thanh

(1927-1937), Cao Tiếp Đạo, Giáo Sư Hu"ơng Phụng, gia-o Sư Thượng

chữ Thanh, giáo sư Thượng Vinh Thanh, Giáo sư Thái Gấm Thanh,

Giáo Sư thái Phấn Thanh. Hai vị sau Hội tha-nh bổ từ Ṭa Thánh

đến Nam Vang.

 

Hội Thánh Ngoại giáo thành lập để phổ hóa các sắc dân. Trên nhờ

co- Đấng Chí tôn pḥ tŕ, Đức chưởng Đạo Nguyệt Tâm chơn nhơn chỉ

giáo, dưới quí vị chức sắc thừa hành hết ḷng.

 

Đàn tại Thánh Thất Kiêm Biên, ngày 14.02 Nhâm thân (20.03.1932),

Đức Nguyệt Tâm dạy : "Bần đạo chào Quyền Giáo Tông, Hộ Pháp, Tiếp

Đạo và Hội Thánh Ngoại Giáo.

 

"Bần Đạo khi đắc lịnh làm chưởng Đạo lập Hội Thánh Giáo Đạo tha

phương, th́ tùy ḷng bác ái củ Đức chí Tôn, mở rộng cửa thế cho

nhơn sanh dân công đổi vị. Bần Đạo chẳng kể nguyên nhân, hóa nhân

hay quỉ nhân, v́ biết lập công th́ thành Đạo".

 

I_ Truyền Đạo tại Khmer : Ngay từ khi lập Đạo người khmer (tên củ

Cao Miên), từ xứ họ không nệ xa xôi đă đến cầu Đạo tại ṭa Thánh

Tây Ninh và ở lại làm công quả. Họ mang theo cả gạo, thức ăn đến

khi nào hết lương thực mới trở về xứ.

 

Ngày 02-06-1927, Sở Tuần Cảnh Pháp báo cáo với nhà đương cuộc là

có 5.000 người CAo Miên đến lễ bái trước Chánh điện Ṭa Thánh Tây

Ninh và bái lễ trước pho tượng Đức Phật Thích ca cỡi ngựa tầm

đạo nơi Đại Đồn Xă.

 

Khi số người tăng lên 30.000 người th́ Chánh Thâm Biện Tây Ninh

sợ biến báo cáo với chính quyền Pháp, Bộ Trưởng tôn giáo ra thông

tri ngày 23.05.1927 như sau :

 

Sau khi nghiên cứu tận nơi, ta phải nhận định rằng giáo phái nầy

đă dựng lên trong mục đích bất chánh, đáng trách v́ họ lấy Tôn

Giáo làm phương tiện lường gạt, lợi dụng ḷng tín ngưởng của dân

chúng thật thà, để đem quyền lợi về cho nhóm củ họ.

 

"Nay giáo lư Đạo Phật mà dân Miên đă thấm nhuần đang dẫn dắt ta

đến chơn thiện và liêm khiết. Ngoài ra không một giáo phái nào

khác đến choán chổ trên các địa phương của ta

 

Tháng sau, các sư sải Kampuchia được chỉ thị rơ ràng là : họ có

bổn phận đẩy lui Giáo Lư Cao Đài trái nghịch với Hiến Pháp Vương

quốc, trái với những điều giới răn Phật tổ và tác phong của hàng

Phật tử.

 

Đến ngày 22.12.1927, Sắc lệnh của nhà Vua lên án Cao Đài giáo và

định h́nh phạt đối với người Cao Miên nào nhập môn theo Đạo Cao

Đài. Viện lẽ rằng, theo điều 15 của hoà ước bảo hộ ngày

11.08.1863 và những Sắc lệnh củ nhà vua ngày 21.11.1903, ngày

06.08.1919 và 31.12.1925. Thêm vào các điều 149, 213 và 214 củ bộ

H́nh luật Cao Miên th́ Phật giáo và Thiên chúa giáo mới được hành

lễ tự do tại xứ Chùa Tháp.

 

V́ Thế, người Kampuchia bớt theo Đạo và vắng bóng họ trên đường

về Ṭa Thánh. Quí vị chức sắc bèn chú trọng đến Việt kiều và Hoa

kiều, nhờ đó việc truyền Đạo không bị gián đoạn. Để trấn an chính

quyền Pháp, quí vị chức sắc và Đạo hữu làm tờ cam kết như sau :

 

"chúng tôi đồng kư tên dưới đây, chức sắc và thiện nam tín nữ cư

trú tại xứ Cao Miên đồng ư với nhau cam kết với chính quyền Pháp

và Chính Phủ Cao Miên rằng : chúng tôi nguyện sinh hoạt theo đời

sống đạo đức thuần túy, trọn tuân luật pháp chơn truyền Đại Đạo

Cao Đài với tôn chỉ qui nguyên tam giáo, hiệp nhứt ngũ chi, hầu

đem toàn cảnh nhơn loại đến đại đồng đặng hưởng ḥa b́nh hạnh

phúc. Chúng tôi xin cam kết với Chính phủ là không bao giờ làm

rối rắm cuộc trị an. Nếu chúng tôi thất hứa th́ cam chịu tộ tử

h́nh".

Dù vậy, vẫn bị ḍm ngó, nên việc truyền giáo phải thận trọng và

khéo léo, bằng cách thiết đàn tại tư gia và trong việc quan, hôn,

tang,tế.

 

Về sau, khâm sứ bảo hộ Vương quốc Cao Miên thương lượng với thống

đốc Nam kỳ và nhà vua, cả ba đồng thỏa thỏa thuận khoan hồng cho

Đạo Cao Đài hành giáo nơi đất Kampuchia nhưng không được truyền

đạo và không được cất thêm Thánh Thất.

 

Đức Quyền Giáo Tông nhân cơ hội đó, ban bố sự tự do tín ngưỡng

cho các tín hữu và thông báo với các Chánh tham biện Chủ tỉnh

các nơi để tường. Giáo sư Thượng Bảy thanh bắt đầu vận động cất

một Thánh Thất lớn để làm cơ sở của trung tâm truyền giáo tại xứ

Chùa Tháp. Số người theo Đạo tăng lên các Hương chức làng xă giúp

đỡ phương tiện. V́ thế, chính phủ Bảo Hộ lại băi bỏ chính sách

khoan hồng, bắt buộc phải thi hành những đều cấm ngăn của Vương

quốc.

 

Ngày 04.07.1930, khâm sứ Bảo Hộ chỉ thị cho các Chủ tỉnh nguyên

văn như sau :

 

"Để ngăn ngừa mọi cuộc hội họp có thể gây rối cho chế độ cai trị

và phiến loạn, tôi nhất định thủ tiêu cho đến khi có lệnh mới,

những biện pháp khoan hồng mà chính phủ hoàng gia Cao Miên với

tôi đă ban cho Cao Đài giáo từ trước. Như vậy kể từ nay trở đi,

bổn chức cấm Đạo Cao Đài cúng kiến bất luận ác cuộc lễ cưới h́nh

thức nào, lớn hoặc nhỏ cũng thế. Tuy nhiên, trong vùng nầy, nếu

có ai cúng việc chi, th́ vị Công Sứ Chủ Tỉnh phải ngăn chận

không cuộc lễ trần thiết giữa đường phố th́ các vị đương không

được dung thứ.

 

"Gặp trường hợp như vậy, tôi yêu cầu các giới hữu trách hăy lấy

lư lịch những người tổ chức buổi họp. Kẻ nào cầm đầu lập tức báo

ngay bằng điện tín cho tôi rơ. Tôi sẽ đối phó bằng cách bắt họ

phải tuân hành, trục xuất ra khỏi xứ Cao Miên. Tôi yêu cầu các

Công sứ chủ Tỉnh hăy thông báo quyết định này khắp nơi để bố cáo

cho dân chúng được biết".

 

Hậu quả của chỉ thị này là các vụ bắt bớ Đạo Hữu, đập phá nơi thờ

phượng. Các buổi hành lễ dù có xin phép dẫn bị đàn áp Giáo sư

Thượng Bảy Thanh, Chủ Trưởng Cơ quan truyền giáo đệ dơn xin phép

cúng rằm tại Thánh thất (ngày 08.09.1930), nhưng vẫn bị ngăn cấm

và bị bắt câu lưu. Sau hai ngày bị giam mới được giấy thông báo

cho biết : nhà cầm quyền bát đơn xin phép.

 

Tất cả bị đưa ra ṭa Sơ Thẩm ngày 20-05-1931 kết án như sau : Ông

Lê văn Bảy bị phạt 200 quan (đồng Franc của Pháp) chức sắc và

chức việc bị phạt 100 quan, đạo hữu mỗi người 50 quan. Ṭa án lại

tuyên bố giải tán Giáo Hội Cao Đài tại Nam Vang.

 

Giáo sư Lê Văn Bảy cương quyết chống án và được nhiều luật sư

người Pháp biện hộ, nhưng không được trắng án. Chống lên Ṭa

Thượng thẩm (ngày 07.11.1931) rồi Ṭa Phá án, bị bát đơn ngày

31.01.1932. Đến tháng 02.1932, Hạ nghị viện Pháp mới thông qua

một Đạo Luật ân xá. Dù vậy, các đạo hữu ở các nơi vẫn bị truy tố,

v́ nền hành chánh co dăn tùy theo quan cảm của nhà cầm quyền địa

phương lúc bấy giờ.

 

Trải bao cơn sóng gió, chức sắc truyền giáo vẫn một ḷng gieo

truyền mối đạo. Vững ḷng hơn nhờ nhiều sĩ quan Pháp, các luật sư

Jacob và LaScaux, nhất là văn Gabriel Gobron giúp đở can thiệp

với Hội Nhân quyền và các yếu  nhân chính trị tại Pháp quốc,

 

Ngày 03.09.1931 tờ La Griffe số 36 và các số kế tiếp bêu xấu thái

độ của viên khâm xứ Cao Miên đe dọa Ông Lê văn Bảy(không có vấn

đề đối xử ḥa b́nh với người Đạo Cao Đài) và thẳng tay lên án các

viên chức thuộc địa. Tờ báo nầy lại đă kích việc thành lập tổ

chức "kiêm biên Phật giáo nghiên cứu viện" do nghị định ngày

25.01.1930 của Toàn quyền Pierre Pasquier có mục đích phổ biến

Phật giáo để chống lại Giáo Tông Lê Văn Trung người đang nắm

quyền Cao Đài giáo (1).

 

Bởi những lẽ ấy, người Kampuchia không nhập môn nữa chỉ có Việt

kiều, hoa kiều cầu Đạo mà thôi. Việc truyền Đạo lại ảnh hưởng

t́nh h́nh Ṭa Thánh Tây Ninh. Ông Nguyễn Phan Long họp Hội Vạn

Linh (?) tố Đức Quyền Giáo Tông. Ông Lê Bá Trang thừa dịp đưa Đơn

tố ông Lê Văn Bảy về tội lạm dụng ngân quỹ. Ông Lê Văn Bảy bị bắt

vào tháng 8/1930.

 

Sau khi Giáo sư Thượng Bảy thanh bị bắt, Giáo sư Thượng

Vinh Thanh lên thay chức Chủ trưởng Hội Thánh Ngoại giáo,(trước

ông Trần Quang Vinh làm phó Chủ trưởng). Lúc bấy giờ Đạo Cao Đài

tại Kampuchia độ 30.000 tín hữu. Đến năm 1951, Hội Thánh lập bộ

Đạo th́ con số này tăng lên cả thảy là 73.167 tín hữu chỉ có

8.210 người Kampuchia, kỳ dư là Hoa kiều và Việt kiều.

 

II- Truyền giáo tại Trung Hoa : Năm 1937, Ông Lê Văn Bảy được bổ

đi truyền giáo tại Trung Hoa. Ông đến tỉnh Vân Nam (Yunnan) và

lập văn pḥng tại Vân Nam phủ. Ông chỉ hành Đạo nơi đây có 1 năm.

Năm sau (1938) ông hồi hương và được bổ về Ṭa Thánh Tây Ninh.

 

 

___________________________________________________

 

(1) Xin xem mục sau : Toàn quyền Pasquuier Cấm Đạo.

 

___________________________________________________

 

 

 

Năm 948, Đức Hộ pháp có sang Hồng Kông để thương thuyết chính

trị và truyền Đạo.

 

III_ Truyền Giáo tại nước Pháp : Năm 1931, chính phủ Bảo Hộ tại

Cao Miên phái ông Trần Quang Vinh sang Ba Lê công cán, nhân dịp

nước Pháp tổ chức cuộc triển lăm quốc tế Vincennes.

 

Ông đă gây thiện cảm được nhữnh nhân vật sau đây :

Albert Sarraut, Marius Moutel, cả hai là Tổng trưởng; Henri

Guernut, Emile kahn cả hai là Tổng thư kư (Tân và cựu) Hội Nhân

quyền; nhất là ông bà Gabriel Gobron. Ông Gobron sau đắc vị Tiếp

Dẫn Đạo Nhân. Nhờ vậy các vụ rắc rối ở Nam Kỳ hoặc Vương quốc Cam

Miên được giải quyết ổn thỏa.

 

Năm 1954, Đức Phạm Hộ Pháp có sang Pháp thuyết lượng về cha-nh

T́nh Việt Nam và viếng mộ phần đại văn hào Vitor Hugo tức Đức

Nguyệt Tâm Chơn Nhơn tại điện Panthéon. Năm trước, Đức Ngài ban

cho Lễ sanh Thượng Minh Thanh ở tại Ba Lê chức Chủ trưởng "Hải

Ngoại Cao Đài Truyền Giáo Hội".

 

Một tờ báo ở Pháp viết về Cao Đài Truyền Giáo như sau : Đạo Cao

Đài sẽ có một trọng trách lớn lao trong Hội Nghị quốc tế về tôn

giáo. Tất cả mọi người đều chú ư đến điểm Dạo Cao Đài có cái lư

tưởng họp nhất các tôn gíao để đem lại thái b́nh ổn định thế

gian. Đấy cũng là mục đích mà mọi chúng ta đang theo đuổi.

 

Tiếp dẫn Đạo Nhơn Gabriel Gobron đă đại diện Hội Thánh tham dự

các Hội Nghị sau :

 

- Hội Nghị quốc tế về Thần học tại Barcelone năm 1934

- Hội Nghị quốc tế về Tôn giáo tại Luân đôn năm 1936

- Hội Nghị quốc tế về Thần học tại Glasgow (Anh quốc) năm 1937

- Hội Nghị quốc tế về tôn giáo tại Ba Lê năm 1939.

- Hội Nghị Thần Học ở Haywards Henth năm 1950

- Hội Nghị quốc tế tôn giáo ở Stockholm (Thụy Diển) năm 1951

- Hội Nghị quốc tế tôn gia-o ở Bruxelles (Bỉ) năm 1951

 

Trong Hội Nghị ở Bruxelles được báo chí ghi nhận là : Đạo Cao Đài

có thái độ rất khoan ḥa rộng răi đối với các tôn giáo khác. Tôn

trọng tín ngưỡng của mọi người, cũng như tôn trọng chơn lư nguồn

gốc từ Đấng Chí Tôn vô biên vô tận, tối cao, tối thượng. Nếu ta

tổng hợp tôn giáo khoa học triết học tâm lư học và nghệ thuật để

t́m hiểu các Thần linh th́ Cao Đài có khả năng giúp chúng ta

đến mục tiêu đó.

 

Năm 1955, Hội Nghị tôn giáo ở Atamis (Nhật) một giáo sĩ Nhật phát

biểu : tôn giáo, từ xưa đến nay, mắc ba chứng bịnh trầm kha là :

tự tôn tự đại, tự măn tự túc và độc thiện kỳ thân, không chịu

tham gia các cuộc hội thảo chung. Nếu không sớm sửa chửa, sẽ suy

yếu và tự diệt. Thế giới đang mắc phải đám cháy to lớn, nếu tôn

giáo cứ tiếp tục hoạt động riêng rẻ th́ chỉ là một gáo nước, c̣n

họp lại sẽ trở thành một khối nước khổng lồ để cứu nhơn sanh và

chúng ta khuyên Cao Đài giáo tiếp tục sứ mạng của họ".

 

IV_ Truyền giáo tại Nhật bản : Năm 1935 ông Isao Deguchi Giáo chủ

Đạo Đại Bản Nhật co- liên lạc với Đầu sư Thái Thơ Thanh t́m hiểu

về Đạo Cao Đài. Năm 1954, Đức Phạm Hộ pháp sang Nhật rước di hài

Ngoại hầu Cường Để và truyền Đạo, có phong ông Nagafuchi, người

nhật Lễ Sanh phái Thái.

 

V_ Các nơi khác : Thái Lan, Ai Lao đề có truyền Đạo nhưng thiếu

nuôi dưỡng hoặc ảnh hưởng hoàn cảnh bên ngoài, nên không bành

trướng.

 

Khoản năm 1936-1937, nhà Thần bí triết học Đức có liên lạc thơ từ

với Ṭa Thánh Tây Ninh, xin tài liệu về Cao Đài giáo để tham

khảo. Hậu quả của việc đó là năm 1940-1941 Cao Đài giáo bị nghi

ngờ là có liên hệ với Đức quốc xă nên các chức sắc Đại Thiên

phong bị bắt.

 

Năm 1961, tạp chí National Geographic số tháng 10 có đăng bài

biên khảo của Peter White phân tách giáo lư Cao Đài. Đồng thời

báx sỹ Quinter Lyon thuộc Đại Học đường Mississipi cũng viết bài

tham khảo về Đạo Cao Đài với tiêu đề "The great rligion" để làm

tài liệu giáo khoa cho trường.

 

Năm 1962, ông Arthur Moor gửi thư đến Ṭa Thánh Tây Ninh xin tài

liệu về Cao Đài giáo trong có ghi nhận về việc cầu cơ đang phổ

quát. Cùng gởi thơ xin tài liệu tham khảo về nền Tân tôn giáo.

 

Đức Quyền Giáo Tông rất lo việc phộ độ ngoại quốc, nên trong

"chương Tŕnh hành Đạo" ban hành ngày 01.04.1933 có giao trách

nhiệm cho Phái Thái : "Việc phổ độ tha phương chẳng phải kể nội

vùng Đông Dương này mà đủ, mà cả toàn cầu. Đâu đâu Hội Thánh cũng

phải đê6n gieo truyền mối Đạo Trời chủ Nghĩa tối cao của Đại Đạo

chẳng những là hiệp Ngũ chi, qui Tam giáo mà thôi. C̣n phải làm

thế nào cho dù các bậc Đế Vương cũng phải bái phục, phải tùng

Đạo, phải đồ theo cả cơ thể Đạo, phải nhờ Đạo mới trị an thiên

hạ. Vậy mới gọi là hiệp nhứt. Vậy mới kêu là Đại Đạo".

 

9/ Phúc tŕnh của Đại diện Cao Đài giáo tại Pháp quốc

 

Dưới đây là bản phúc tŕnh của ông Henri Regnault Đại diện Cao

Đài giáo tại Pháp Quốc, phó Chủ tịch Ủy ban quốc tế của Đạo Hội

Thần linh học thế giới.

 

I- tôn giáo hoàn cầu : Năm vừa qua, tôi đă có dịp điều trần ở Hội

Nghị Bruxelles (Bỉ) rằng Cao Đài giáo có thể có một trách vụ quan

trọng ông việc thực hiện một nền Tôn giáo hoàn cầu.

 

Tôi căn cứ vào những đề mục mà những người tổ chức Hội Nghị Luân

Đôn đôn đă nêu ra để khảo cứu xem một tôn giáo như Cao Đài giáo

xây dựng trên căn bản thần Linh học, có thể giúp ta hiểu ra thêm

việc thống hợp tôn giáo, triết lư, khoa học, tâm lư học và nghệ

thuật hay không ?

 

Từ cuộc Hội Nghị Lausane (1948) đến nay, năm nào tôi cũng có cơ

hội đễ làm cho quư vị hội viên phải lưu tâm đến Đạo Cao Đài.

 

Đạo CAo Đài có thái độ khoan dung rộng răi đối với những tôn giáo

khác, tôn trọng tín ngưỡng của mọi người, cũng như tôn trọng chơn

lư nguồn cội ở Đấng Chí Tôn vô biên vô tận, vô thường, vô danh,

vô đối.

 

Nếu ta phải tổng hợp tôn giáo khoa học triết học, tâm lư học,

nghệ thuật để t́m hiểu thần linh th́ tôi cho Cao Đài có thể rất

có ích cho chúng ta để đạt tới mục đích ấy.

 

2/ Cao Đài giáo với tôn giáo khác : là một tôn giáo CAo Đài giáo

liên hợp hết thảy các tôn giáo đông tây.

 

Trong Hội Nghị Thần linh học thế giới các ngành Thần linh học đều

có cử Đại biểu. Tuy không người Cao Đài nào dự để thấy rằng chỉ

co- Cao Đài giáo khả dĩ thực hiện được việc tổng hợp mà Đại hội

thường niên 1952 theo đuổi. Nhưng tín đồ Cao Đài nào cũnh biết

rằng, Cao Đài giáo chung góp một phần quan trọng vào việc thực

hiện mục đích đó.

 

3/ Cao Đài giáo với khoa học và triết học : Đạo Cao Đài cứ vào

Thần linh học mà Thần linh học là một khoa học và một triết lư.

Năm 1950, trong một buổi họp của Hội Nghị Haywards Henth, tôi đă

có dịp định nghĩa rơ ràng thế nào là Thần Linh học, một khoa học

không nên lầm với mê tín quàng xiêng.

 

Thần linh học làm cho ta thấy chắc chắn rằng linh hồn có thực,

tuy xác chết mà hồn vẫn c̣n và giữa những người sống và người

chết vẫn c̣n giao cảm được.

 

4/ Cao Đài giáo và tâm lư học : Cao Đài giáo có những liên quan

mật thiết với tâm lư học.

 

Thượng đế đă giáng trần khai Đạo, nhưng Ngài không đụng chạm đến

các tôn giáo hiện hữu.

 

Tín đồ Cao Đài cung kính cầu nguyện những vị thần, Thánh, Tiên,

Phật đă giáng trần để cứu vớt nhơn sanh. Họ không quên một vị nào

mà họ thờ phượng cả từ Phật Thích Ca, Chúa Jésus, Đức Khổng Tử

đến các vị tiên Phật thời thượng cổ, Thần Thánh Âu Châu như Á

Châu. Người có đức tin như người không đức tin đều có thể vào

trong Thánh Thất Cao Đài để trầm tư mặc tưởng và cầu nguyện theo

sở vọng.

 

Đó chẳng phải là một lư thuyết lư thuyết sâu xa hay sao?

 

Cái đó chẳng có ǵ lạ. V́ Cao Đài giáo nguồn gốc là ở chỗ siêu

trần mà lại sự nghiệp của thế nhân.

 

Căn nguyên của Đạo Cao Đài là ở đó, là truyền đạt nghĩa ḥa b́nh,

ḷng nhân đức, t́nh thương thân, tương ái và Đại đồng.

 

5/ Cao Đài giáo và nghệ thuật : những vị hội viên có mặt tại hộ

nghị Bruxelles đă nhận được cuốn sách nhỏ trong đó có in bản phúc

tŕnh của tôi. Trong sách đó có nhiều h́nh vẽ những vị nào co- dự

Hội Nghị Assise, Haywards Henth, Bruxelles th́ đă nhận được cuốn

di bút của M. Gobron nói về lịch sử và Giáo lư Đạo Cao Đài. Cuốn

sách đó, nhiều tranh ảnh. cái đó tất đă thấy rằng trong nền tôn

giáo nầy, nghệ thuật đă có một địa vị rất quan trọng.

 

Kiến trúc trong ngoài Ṭa Thánh là một mỹ thuật đáng được chú ư

đặc biệt. Khi trông ngắm Ṭa Thánh Tây Ninh, mặt trước đến mặt

bên và gần trong đền, nhưng tượng phật Thích Ca, Jésus, Lăo Tử,

và thiên bàn đấng Chí Tôn.

 

10- Hội Nhơn sanh lần đầu tiên

 

Hội Nhơn sanh nhióm lần thứ nhứt tại Ṭa Thánh Tây Ninh vào ngày

15.10 năm Tấn V́ (24.11.1931) "Tờ tỏ bài việc Đạo" của cha-nh

Phối Sư Thượng Tương Thanh (Nguyễn Ngọc Tương) có những khoản

như sau :

 

1/ thầy dạy phải lập Ṭa Thánh nơi Tây Ninh mà thôi v́ là Thánh

địa.

 

2/ Số đạo hữu được 35 muôn có vào bộ chắc chắn. Các tỉnh Mỷ Tho,

Bến Tre, Gia Định có từ 3 muôn rưởi tới 5 muôn.

 

3/ Số Thánh Thất cất được 62 cái và 43 cái lập tạm nơi nhà đạo

hữu.

 

4/ Tài sản : mua sở đất 96 mẩu để cất Ṭa Thánh và cáo viện 5

mẫu. Hai sở đất này do bà Lâm Ngọc Thanh và ông Nguyễn Ngọc Tương

đứng tên thay Hội Thánh (v́ lúc đó đạo chưa có tư cách pháp nhân)

 

5/ Nhà in Thái Ḥa của ba vị chánh Phối Sư vay 5.000 đồng mà lập

riêng có lời th́ giao hết cho Hội Thánh nhà in nầy sau giao về

Hội Thánh.

 

6/ Giáo Huấn : dạy trẻ nhỏ và chư chức sắc hành đạo. Trước kia,

Ṭa Thánh cất tạm bằng tranh vào năm 1933 th́ đặt nền móng.

Nhưng măi đến năm 1936 mới khởi công xây lên và cất xong. Vào năm

1941, chưa kịp trang hoàng th́ Đức Hộ Pháp bị Pháp bắt đền năm

1954 mới tô điểm, trang trí hoàn thành hẳn và khánh thành từ ngày

06 đến 16 tháng giêng năm Ất mùi (29.01. đến 08.02.1655) kéo dài

trong 11 ngày. Ngoài việc tế lễ c̣n có cuộc vui triển lăm văn

đàn, đấu quyền, ḥa nhạc v..v..

 

Đền Thánh dài 145 thước, rộng 40 thước, cao 36 thước, về phía

tháp chuông Hiệp Thiên Đài 25 thước nơi Cửu Trùng Đài dài 30

thước nơi Bát Quái Đài. Mặt tiền hướng về hướng tây trang hoàng

rất mỹ thuật với tất cả biểu hiệu của Tam Giáo và Ngũ Chi.

 

Đền Thánh kiến trúc thật vĩ đại, không ai có thể tưởng tượng

d'ược một công tŕnh tân kỳ đồ sộ như vậyu mà chỉ thực hiện bằng

công quả (làm âm chất, không lấy tiền) của các tín đồ khắp nơi từ

vật thực tiền của đến công cán. Một đặc điểm là tất cả thợ hồ xây

dựng Toà Thánh phải thủ trinh và chạy lạc trong suốt thời kỳ tạo

tác để gây bầu khí thiêng liêng vĩnh cữu.

 

12- Lễ đăng điện ban quyền

 

Ngày 01.04.1933(Quí Dậu) Đức Quyền Giáo Tông ban hành châu tri

số 1 qui định việc tổ chức ṭa Nội chánh và chương tŕnh hành

đạo trong thời Đức Ngài cầm quyền.

 

Châu tri gồm có 5 điều :

 

       1- Đầu Sư Thượng Trung Nhựt cầm quyền Giáo Tông

 

       2- Trong lúc Chưởng Pháp chưa có chánh vị th́ quyền

          Chưởng Pháp giao chpo Hiệp Thiên Đài. Ba vị Thời quân

          cầm quyền Chưởng Pháp là vị Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu,

          vị Bảo Thế Lê thiện Phước và vị Hiến đạo Phạm văn Tươi

          (1).

 

        3- Ba vị Chánh Phối Sư : Thái Thơ Thanh , Thưọng Tương

           Thanh và Ngọc Trang Thanh cầm quyền Đầu Sư.

 

        4- Trong lúc Chánh Phối Sư chưa có chánh vị th́ quyền

           hành giao cho Hiệp Thiên Đài cầm. Ba vị thời quân Hiệp

           Thiên Đài cầm quyền Chánh Phối Sư là vị Khai Pháp

           Trần Duy Nghĩa, vị khai đạo Phạm Tấn Đăi và vị Khai

           thế Thái văn Thâu.

 

           - Vị khai Pháp cầm quyền Ngọc Chánh Phối Sư.

           - Vị khai Đạo cầm quyền Thái Chánh Phối Sư.

           - Vị khai Thế cầm quyền Thượng Chánh Phối Sư.

 

        5- Ba vị Tân Chánh Phối Sư được quyền lập nội chánh để

           cầm quyền cửu viện tại Ṭa Thánh.

 

           a/ Phái Thái gồm có Lương viện, Hộ viện và Công viện.

           b/ Phái Thượng gồm có Học viện, Nông viện và nội viện.

              Ngày nay Viện này được thay bằng Y viện, việc tổ

              chức và quản trị cũng khác nhau.

 

            c/ Phái Ngọc gồm có Lại viện, Lễ viện và Hoà viện.

               Lễ đăng điện và ban quyền cho Quyền Giáo Tông,

               quyền Đàu sư, Chánh Phối Sư và Nội chánh đă thiết

               hành ngày 12.03.133 (17.02 Quư Dậu) tại Ṭa Thánh.

               Ba vị Chánh Phối Sư và Nội Chánh đă bắt đầu hành

               chánh kể từ ngày 26.03.1933 (01.03. Quư Dậu). Từ

               đây việc truyền bá trong Đạo phải có giấy của ba

               vị Cháng Phối sư kư mới được thi hành.

 

13- Chương tŕnh hành đạo

 

Chương tŕnh hành đạo đă lập thành đúng ra phải đưa qua Hội Nhơn

Sanh, Hội Thánh và Thượng Hội phê chuẩn. Nhưng v́ các khoản định

trong chương tŕnh đều không trái với Tân luật, Pháp chánh truyền

và Đạo Nghị Định. Nhất là cần phải thi hành ngay để có tôn ti

trật tự trong Đạo nên Đức quyền Giáo T và Đức Phạm Hộ Pháp dùng

quyền Chí Tôn do Thánh ngôn ngày 23.12.1931 mà ban hành.

 

       1/ Phái Thái :

 

       - Lập nội luật Hội Thánh.

       - Thâu nạp các tài sản, tài chánh làm bộ sổ.

       - Giúp Hội Thánh Ngoại giáo truyền Đạo ra ngoại quốc.

       - Cất trường học. ả0t kinh

       - Sắp đặt việc ăn ở và hành Đạo nơi Thánh Thất.

       - Ở trong Thánh địa phải có phép của Giáo tông hay người

         thay mặt.

       - Không cho vào làng Đạo mà không  phép.

       - Cất nhà cho thiên phong chức sắc.

 

       2/ Phái Thượng :

 

       - Xem xét lại Thánh ngôn thấy đều nào cần ích đưa ra thi

         hành.

       - Bỏ bớt các Thánh Thất không hữu dụng để làm nơi Phước

         thiện.

       - Bày vẽ các Thánh Thất cúng kiến y luật lệ.

       - Qui định luật lệ các Thánh Thất và Hội Thánh Ngoại giáo.

       - Lập Tàng thơ viện.

       - Lập Ban kiểm duyên kinh sách Đạo không có Chưởng Pháp

         phê chuẩn.

       - Liệu phương giao thiệp cùng các tôn giáo và các chi phái

         nghịch Đạo.

       - Giao thiệp chánh quyền

       - Lập ngành giáo huấn nuôi dưỡng học-sinh

       - Lập Nội luật Hội Nhơn sanh

       - Khai khẩn đất Thánh địa

 

     3/ Phái Ngọc :

 

       - Quan sát lại việc hành chánh

       - Yêu cầu chức sắc Thiên Phong phế đời hành Đạo.

       - Trừ bỏ các chức sắc tam phong của trùng đài đă tuyển bổ

         đi hành chánh các nơi.

 

       - Bổ Bàn Trị sự.

       - Định lệ cho cả chức sắc Thiên Phong về Ṭa Thánh

       - Trừ bỏ các chức sắc làm việc đời mà sai luật pháp

       - Sửa đổi những điều không đúng với Tân luật và Pháp Chánh

         truyền.

       - Định trách nhiệm đặc biệt của Cửu trùng đài Hiệp thiên

         đài.

       - Chỉnh đốn các thức lệ cúng kiến.

       - Sửa sang thảo xá Hiền cung.

       - Lập nội luật Ṭa Thánh và Thánh địa

       - Kiểm soát nhân sự

       - Kiểm soát án tiết của Ṭa Tam giáo để xin ân xá

       - Thiết lập ba hội để tuyển thêm chức sắc công lao.

 

14/ Cơn khảo dượt thứ hai

 

Sau cơn khảo dượt Đức. Cao thượng Phẩm năm 1928 nay đến lượt Đức

Quyền Giáo Tông.

 

Sau khi được Đức lư ban quyền, th́ toàn đạo hân hoan vui mừng,

từ nay Hội Thánh có Giáo Tông là anh cả để dẫn dắt tín đồ và

phổ độ chúng sanh. Nhưng một ít chức sắc ganh hiền ghét ngơ kém

tính vị tha sanh ḷng đố kỵ.

 

Vào ngày 19.05 năm Quí Dậu (11.06.1933) một số chức sắc ở Sài G̣n

và một ít đạo hữu các nơi do sự triệu tập của quí vị nầy về Ṭa

Thánh nhóm Hội Vạn Linh (?) trong nội điện Ṭa Thánh nầy về ṭa

Thánh nhóm Hội Vạn Linh (?) trong nội điện Ṭa Thánh.

 

Giáo sư Kinh đề cử Ngài ông Nguyễn Phan Long làm Nghị trưởng ông

Trương duy Toản làm phó Nghị Trưởng và Từ hàn là Tuyết Tấn Thành

để vấn nạn Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt.

 

Ngài Lê văn Trung cử Ngài Tiếp thế Lê thế Vĩnh đại diện nhưng v́

t́nh huynh đệ Ngài bỏ họp, chiều có trở lại nhưng ông Nguyễn Phan

Long không thuận cho đại diện. Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc th́ cử

trạng sư Diệp văn Kỳ đến tŕnh bày rằng không có hội Vạn Linh mà

chỉ có quyền Vạn Linh và cho phiên nhóm không hợp lệ với luật

đạo, ông Nguyễn Phan Long mời ông kỳ ra ngoài v́ ông là người

ngoại đạo. trong khi đó ông Nguyễn Phan Long mặc âu phục ngồi chủ

tọa một phiên họp quan trọng c

 

Phiên họp chỉ có một ngày, nhóm phiên buổi chiều theo biên bản

số đo hữu dự hội vắng bớt vài trăm. Biên bản có hai mươi sáu

trang đánh, máy khổ 21 x 27 với cấu kết là "chư hội viên Hội Vạn

Linh đồng quyết định đệ lên cho Ṭa Tam Giáo Thiêng Liêng định"

(1).

 

Về sau họ bới lông t́m vết thưa nơi chính quyền đời để kết án

phạt hai người đạo hữu công quả đánh xe ḅ của Hội Thánh về tội

đi xe không đốt đèn và bỏ thiếu sợi dây buộc ách.

 

Sở Tuần cảnh Tây Ninh đem án phạt vào Giáo Tông Đường mời D'ức

Ngài ra Tây Ninh chịu ngồi khám vào ngày 20.02.1934 (07.01 Giáp

Tuất) trên 24 giờ mới được trả về Ṭa Thánh.

 

Sau đó Đức ngài viết thơ gởi về Sàig̣n trả huy chương Bắc Đẩu Bội

Tinh cho Chính phủ Pháp với lời giải thích : "Đừng tưởng tôi trả

Bắc đẩu Bội Tinh mà có ư chi phiền chính phủ. Bởi danh giá và thể

thống của viện Bửu Tinh nên buộc tôi phải làm như vậy.

 

Về sau, nhân ngày vía Đức Thích ca (8-4 Giáp Tuất) Đức Ngài

thuyết đạo có nói về cơn khảo dượt như sau :

 

"Một mảnh thân phàm, cô thân bạc nhược này, yếu ớt hèn mọn nầy,

có đủ tài đức chi mà Đại Từ Phụ lại tin giao một giang sơn sự

nghiệp của toàn nhơn loại hoàn cầu.

 

"Càng nghĩ càng lo. Lo rồi lại sợ. Sợ không tham trách nhiệm mạng

trời. Càng suy càng tưởng, tủi rồi lại khóc, khóc sợ không phương

nâng đở mối chân truyền.

 

"Anh th́ nghèo, em th́ khó, gia nghiệp cũng không. Chức sắc th́

bèn tín đồ thời dở. Mối thương tâm chất chứa đầy ḷng.

 

"An đâu được mà tịnh. Vui đâu đặng mà nhàn. Chúng sanh th́ khóc.

Hội Thánh th́ than mà chẳng thấy một ai lo đạo. Tệ huyn xem lại

những trang yếu trọng chấp chánh đạo quyền thay v́ chia đau sớt

thảm lo giải khổ chúng sanh lại cố ư giựt giành quyền thế. Nhiều

vị lại muốn cho Tệ huynh phải an tịnh đặng đắc đạo thành tiên dù

mối đạo chinh nghiêng đừng ngó đến.

 

"V́ Tệ huynh biết được cái bí mật huyền vi ấy nên không khứng

nghe lời nới nẩy sanh ra trường ác cảm, nào là lường gạt nhơn

sanh, nào là tranh giành quyền tước. Gieo nhục mạ khắp nơi

 

(1) có điều mâu thuẩn là một hội viên cho phiên họp chỉ có vài

trăm, mà buổi chiều thơ kư ghi biên bản vắng mặt vài trăm (?)

 

lấy quyền đời chế đạo. Duy làm cho thiên hạ chê khinh chánh giáo.

"Tệ huynh hồi nhớ lại đă cách 10 năm làm thượng Nghị viện vào lầu

ra các. Trong thời bạn ngoài th́ quan, nẻo hoạn lộ hèn sang đă

chán, lẽ nhục vinh đă ngán với tuồng đời, mùi cay đắng đă từng

quen với mặt thế.

"Nay lục tuần hầu đến. Lẽ nên hư quyền biến cũng đă thừa, có chi

pḥng mến pḥng ưa. Tệ huynh hằng hỏi lấy ḿnh, ngày Đại Từ Phụ

sai Hộ Pháp và Thượng Phẩm đem lịnh vào dạy một đứa tội t́nh này

phải dâng xác hồn cho ngài làm lợi khi mở chơn truyền nên gọi là

ngày hữu duyên hai ngày trả nợ, nếu phải trả nợ th́ thầy nào đành

giao gia nghiệp vĩ đại của nhơn sanh cho một kẻ gian tham bạo

ngược, c̣n như gọi rằng duyên th́ chắc chi đủ quyền lực cầm vững

đạo.

"Đă chín năm xông lướt trên con đường đi than lửa, bước chông gai

mà cũng có thể bảo thủ chơn truyền của Thầy; th́ không phải là

một tay giả mạo hay một đứa tội nhân mà làm cho Thánh chất đặng

thắng hơn phàm tánh.

"Bởi biết ḿnh biết thầy, biết người biết đạo, mới yên trí đạo

tâm ǵn giử đạo mạch.

15- Phân chia chi phái

Sau một thời gian khai đạo Đức chí Tôn đă cho biết việc chia chi

rẻ phái qua bốn câu thơ :

       Đạo thầy nhiều nhánh các con coi

       Nhánh có trái bông nhánh cục c̣i

       ................................

       Thầy làm ra mặt các con coi .

Nhánh nào đúng thiên thơ đạo pháp chơn truyền th́ cành lá sum sê

đơm hoa kết quả. C̣ nhánh nào tự chuyên phạm dây oan nghiệt

trong một thời gian rồi mai một.

Ngoài ra c̣n có nguyên nhân phàm trần ham quyền lấn vị. Lại nữa

thời buổi ấy mỗi đêm thường có đàn cơ nên số môn đệ đến nhập môn

có khi lên cả hai trăm người.

Chính quyền pháp sợ đạo bành trướng và lớn mạnh, trở thành một

phong trào ái quốc sẽ gây khó khăn cho họ. Họ t́m đủ mọi cách để

ly gián, khéo ngụy trang khiến cho chư tín hữu khó phân rơ chánh tà.

Đức Thái Thượng Đạo Tổ có giáng cơ ngày 16-7 năm giáp Tuất 1934

dạy về việc này : "Tà chánh, Bần đạo nói thiệt cũng chưa dám định

đoạt. Trong cái rủi thường có cái may. Trong cái may vẫn khép cầm

cái rủi, khó lường được. Điều cần là nên làm mà thôi. Nếu luận tà

chánh, th́ chưa một ai dám c̣n mang mắt phàm xưng tụng ḿnh là

chánh. Cái tà v́ thiên cơ sử dụng. Tà v́ cơ thử thách của Ṭa Tam

Giáo. Tà v́ những quỷ xác ma hồn lẫn lộn của quỷ vương để làm cho

công phu lở dở. Ngày chung qui, chỉ đem về thầy một chữ tâm và

những công nghiệp đă gây thành cho chúng ta. Nền Đạo đă chia ba,

theo lời Bần đạo đă nói M.N.G... Hiền hữu muốn lập công nơi nào?

Ṭa Thánh Trung ương hay Hậu Giang ?

"Ṭa Thánh là gốc cội của Đạo, nếu muốn lập công nơi đó, v́ thầy

đă dạy th́ nên làm đi. Cách xây đổi phượng lược tùy cơ ứng biến.

Ấy là cơ nghiệp riêng của mỗi đạo hữu".

Việc chia rẻ chi phái rạn nứt từ sau khi Đức quyền giáo Tông nắm

quyền hành. Khởi đầu là ông Nguyễ Văn Ca tách rời khỏi Ṭa Thánh

Tây Ninh về lập Đạo ở cầu Vĩ, Mỹ Tho. Về việc này, chánh phối Sư

Ngọc Trang Thanh có ra Châu tri số 31 ngày 22.09 Tân Mùi

(01.11.1931) để dự pḥng việc chia rẻ như sau :

"Ngày nay mối Đạo sắp phân chia v́ có một phần chức sắc và tín đồ

tự quyền lập Đạo riêng ra nhiều chổ. Ṭa Thánh có khuyên lơn, Ṭa

Tam Giáo có phán đoán rồi, mà cũng không ai tuân mạng lệnh. Lại

cách thi thố, các hành Đạo của các chức sắc ấy, nhiều khi không

tuân phép nước. Nên xin chư hiền hữu xem xét lại cho kỹ càng rồi

biên tên họ những chức sắc nào không tùng mạng lịnh Ṭa Thánh,

gởi về trước cho tôi trong kỳ hạn 10 ngày đặng cho chính phủ biết

rằng các Đạo-hữu ấy hết thuộc về Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ và từ hậu,

Đạo không c̣n can dự chi tới việc hành động của mấy vị ấy nữa.

Sau đó, Chánh phối Sư Thượng Tương Thanh (tức Nguyễn Ngọc Tương)

gởi một tâm thư cho ông Nguyễn Văn Ca, đề Tây Ninh ngày

01.11.1932, lời lẽ thống thiết, kêu gọi ông Ca mau trở về Ṭa

Thánh Tây Ninh.

"Tôi có tiếp được xấp Thánh ngôn Hậu Giang của anh gởi và một cái

thơ mời Hội Thánh Thất Mỹ Tho ngày 15.10 tới đây. Tôi có đọc kỹ

và cũng có đọc lại các Thánh Ngôn anh gởi mấy kỳ tru"ớc. Tôi thấy

rơ một cuộc khảo, do nơi Tam Trấn để cho tà thần mượn tên cám dỗ.

Trong ba cái bịnh lớn của con người là tham, sân, si. Nếu bậc cầm

đuốc dẫn đường mà không trừ hết, c̣n một hai cũng phải vướng.

"Anh đọc kỹ các Thánh Ngôn của cơ bút Hậu Giang từ khi ban sơ tới

bây giờ, tôi chắc anh cũng thấy rơ cái hư thiệt ở trong, như tôi

vậy. Có một ít của Thánh Thần c̣n bao nhiêu đều là mưu chước của

tà thần cám dỗ.

 

"Nếu phăng lại gốc, th́ tôi rơ biết, khi ban sơ lúc anh thay mặt

cho tôi nơi Ṭa Thánh. Anh có bất b́nh về hành động, cử chỉ cuả

mấy vị Đại thiên Phong nơi đây đối đăi với anh.

"V́ sự bất b́nh ấy mà anh dùng cơ bút Rạch Giá để cầu hỏi "Bài

Chánh tà yếu lư" ra đời, rất hạp với tư tưởng của anh lúc đó, mà

làm cho anh vui ḷng để trọn đức tin vào rồi đó dắt anh lần lần

từ mấy thứ An thiên đại hội qua đến sự lập Ṭa Thánh nơi Tam

B́nh, Kiên Giang, Thất sơn đă nhiều phen tiên tri này nọ điều

trôi hết nay đem lại đem anh trở về lập Ṭa Thánh Trung ương Mỹ

Tho là chỗ ở của anh. Tôi xét kỳ thiệt là công cuộc của cơ cám dỗ

Hậu Giang do sự bất b́nh kia mà gây ra đó.

"Thầy đă dạy đạo khai là tà khởi. Nó cũng dám lấy tên Thầy mà cám

dỗ, lựa là tên Tiên, Phật. Nên Thầy đă căn dặn ngoài Thập Nhị

Thời quân của Thầy đă chọn đừng vội tin Thầy có giáng nơi nầy nơi

nọ mà phải bị lầm mưu tà quái cám dỗ. Vậy nên anh rất thong thả

mà nghe hay không nghe, tin hay không tin tự nơi anh không có một

mảy chi bó buộc anh hết, đặng ngày sau anh không sang sớt một

mảy chi bó buộc anh hết, đặng ngày sau anh không sang sớt một mảy

đặng cho ai hết.

"Thiêng phong chức sắc nào ở Tây Ninh thiệt có tộ th́ bị phạt ặ

dâng lên

không khi nào chạy khỏi. Anh đă thấy tỏ rơ sự anh làm trong một

năm rưởi nay đối với đạo đức thế nào, xạ đạo đức bao nhiêu dặm.

"Tôi bảo kiết rằng : mấy anh em trên Ṭa Thánh Tây ninh đều sẽ

vui ḷng mà đua tay tiếp ru"ớc mấy anh em Hậu Giang cùng nhau tới

hiệp trùng phùng để những điều rắc rối đă xảy ra cho cơ khảo của

tà thần sắp đặt. ăo Nghị dịnh số 17 ngày 28/07/1933 không

"Sự ḥa hiệp đó là một lễ hiến trang trọng hơn hết cho thầy. Xin

anh và mấy anh em theo anh mau mau về hiệp mà dâng lên Đại Từ

Phụ, chung nhau trau dồi nền Đại Đạo lại cho tỏ rạng mà phổ thông

đến ngoại bang".

Sau đó , ông Nguyễn Ngọc Tưng vaặ ông Lê Bá Trang tách rời Ṭa

Thánh Tây Ninh ra Đạo Nghị định số 17 ngày 28.07.1933 không nh́n

hai ông nầy nữa (1).

Châu tri số 6 ngày 12.06 Ất Hợi (12.07.1935) có ghi "Bần đạo chưa

hề đặng lịng cơ bút của Đại Từ Phụ hay là của Đức Lư định nhượng

phẩm ấy cho người nào cả.

"Sự hành đỘng mê hoặc tín đồ của đạo hữu Thượng Tương Thanh đều

là giả dối, huống chi sự hám vọng của người đă nảy sanh ra từ khi

Đức Quyền giáo Tông c̣n tại thế, chỉ cố xô ngă Thượng Trunh Nhựt

đặng t́m phương tiếm vị.

"Bần đạo chỉnh nguyện cho Thượng Tương Thanh lấy thủ đoạn thâu

phục nhơn tâm sao cho đặng toàn hết thiên hạ, rồi Bần đạo sẽ đem

áo mảo Giáo Tông ra qú trướC cửa Ṭa Thánh đặng dâng cho người,

rồi nh́n nhận người, nâng đở người lên ngôi báu đặng làm chúa cả

toàn sanh chúng.

"Hại thay! cái sở vọng ấy e không đắc nguyện đặng, v́ dưới mắt

Bần đạo thấy , ba tay kiện tướng của người là ông Qui ông Hậu,

ông Kinh cũng c̣n phản người rồi đó".

Rồi từ đó, sự phân chia ngày càng nhiều đến năm 1940 mới đủ 12

chi phái như dưới đây mà Ṭa Thánh Tây Ninh là nguồn cội và tổ

đ́nh của nền Đại Đạo.

 

(1) Lần tái bản sẽ viết rơ

 

1/ Minh chơn lư : đặt tại cầu vỹ (Định Tường) do ông Nguyễn Văn Ca

lập. Phái này hoạt động với sự cộng tác của phái CẦu Kho của ông

Trần đạo Quang gồm chư chức sắc và đạo hữu hai miền Tiên giang,

Trung giang và Hậu giang như quí vị Lê Kim ty, Nguyễn Văn Ṭng,

Nguyễn Văn Thiệu v..v...

Phái Minh Chơn lư theo đuổi ba mục đích là chấn chỉnh nền đạo và

ra kinh sách khuyên thiện như kinh Tu Chơn Thiệp Quyết; chánh

Giáo thánh truyền , chánh tà yếu lư, Giác mê khải ngộ. Cá bài

kinh nhật tụng bằng quốc ngữ : kinh xưng tụng thầy, Mẹ, Tam giáo.

2/ Ban Chỉnh Đạo được thành lập vào khoảng năm 1933-1934 do 3 vị

thiên Phong trước tu ở Ṭa Thánh Tây Ninh lập nên quí ông Nguyễn

Ngọc Tương, Lê bá Trang và Nguyễn Văn Lai. Thánh Thất của phái

này đặt tại làng An hội (thuộc Châu thành - Kiến Ḥa). Về sau gọi

là Hội Thánh Bến Tre mà ông Nguyễn Ngọc Tương là Giáo Tông. Ông

Lê Bá Trang được thăng lên chức Chưởng pháp.

Sau Ṭa Thánh Tây Ninh, phái Bến Tre có đến mấy trăm Thánh Thất

mấy trăm ngàn tín hữu. Phái này hành đạo theo tân luật, Pháp

chánh truyền và Thánh ngôn Hiệp tuyển như buổi ban sơ.

 

3/ Tiên Thiên do giáo hữu Thượng Chính Thanh lập nên . Từ ngày

khai đạo, ông đă theo học đạo tại Ṭa Thánh Tây Ninh. Sau ông lập

đồng tử riêng để cầu cơ nên phải ra khỏi Thánh địa. Ông về quê

nhà làng Phước Mỹ Tây, quận Cái bè (Định Tường) lập ra phái Tiên

Thiên. Ông hành đạo theo lối riêng của ông.

 

Vào khoảng năm 1932-1933 một số chức sắc Minh Chơn Lư thích nghe

thiên cơ nên gia nhập vào phái Tiên Thiên như quí vị Lê Kim Ty,

Nguyễn văn Ṭng v.v... Phái này lập Thất thập nhị tịnh và ấn tống

nhiều kinh sách như tiếng trống giác mê, Minh giáo thánh truyền,

Thi văn diệu kư, Ngọc Minh kinh, Diệu minh kinh, Bát bộ chơn

kinh, Thánh đức Chơn kinh.

 

Hiện nay, trụ sở phái này đặt tại Ṭa Thánh Châu Minh (Sóc sải).

 

4/ Thông Thiên Đài do quí ông Nguyễn văn Nhă (Bác sĩ), Lê Quang

Hộ (Đốc Phủ) và Quách văn Nghĩa (Đại điền chủ) lập nên. Ngoài ba

vị ấy, c̣n có chín vị khác như ông Huệ chương (ông Thân) Ngươn

Ngọc (ông Đức), Cẩm Đ́nh, Quảng Vân v.v...

 

Phái Thông thiên Đài có liên lạc với Đức Phạm Hộ pháp nhưng

không chịu về Ṭa Thánh. Thánh Thất phái này đặt tại Đông Sơn,

tổng Ḥa đồng thượng (tỉnh G̣ Công).

 

5/ Liên ḥa Tông Phái hay Liên ḥa Tổng hội đặt tại Thánh Thất

Cầu Kho (Saig̣n) do ông Nguyễn Phan Long và ông Trần Văn Quế lập

nên. V́ nhận thấy, năm 1935 sự chi rẻ phái làm tổn thương quá

nhiều uy tín của nền đạo, nên phái này lập ra để liên ḥa.

 

6/ Minh chơn Đạo hay Cộng Đồng hội Giáo đặt tại Giồng Bướm, quận

Phước Long (Bạc Liêu), tên gọi là ṭa Thánh Ngọc Minh hay là Ṭa

Thánh Hậu Giang. Phái này do 3 vị Đại thiên Phong của Phái Minh

Chơn lư chủ tŕ là quí ông Trần đạo Quang, Cao Triều Phát, Nguyễn

văn Thiệu.

 

Sau Ṭa Thánh Tây Ninh, phái Minh Chơn lư, Ban chỉnh Đạo, phái

tiên thiên, phái Minh Chơn Đạo có một số Thánh Thất và nhiều đạo

hữu răi rác khắp các Tỉnh miền Hậu giang. Phái này hành y theo

Tân luật, pháp chánh truyền lo việc phổ độ nhơn sanh. Nhưng về

sau, chuyển hướng thờ trái tim và thậ ngũ linh đăng.

 

7/ Trung Ḥa Học Phái hay Nữ Trung Ḥa chỉ là một (1) do quí ông

Phan Trường Mạnh, Trương Kế An tổ chức có tính cách thanh niên.

Chú trọng vào sự học tập, hành Đạo hơn là một chi phái có nhiệm

vụ hành chánh và phổ độ.

 

Trung Hoà Học Phái đặt tại Thánh Thất Minh Đức (Kiên Giang) do bà

Nữ Đầu Sư Ngọc Nhiên Hương Chưởng Quản, Hiện nay đặt tại Saigon.

 

8/ Tây Tông Vô Cực do ông Nguyễn Bửu Tài lập nên, trụ sở đặt tại

Thánh Tịnh Tây Tông Vô Cực Cung ở lành chẹt Sậy (kiến Ḥa).

 

Phái này cũng như phái Tiên Thiên gồm các bậc chơn tu, trường

trai, tuyệt dục, ly gia cắt ái, chuyên luyện kim đơn theo lối

xưa.

 

(1) Trong Histoire et Philosophie du Caodaisme của Gabriel Gobron

ghi là hai phát. .

 

Sở dĩ gọi là Tây Tông để đối lại phái Đông Tông của ông Ngô Văn

Chiêu từ phú quốc dời về Sàig̣n(phía đông Nam Phần).

9/ Tuyệt Cốc do hai ông Nhuận và Ruộng (Nguyễn Ngọc Điền) tru"ớc

làm công quả tại Ṭa Thánh v́ bất măn điều chi đó kéo thêm một số

người xuống tóc, mặc áo dài tuyệt cốc (không ăn ngũ cốc) rồi cùng

nhau vào đại diện của Đền Thánh (Tây Ninh) lên ngồi trên bảy cái

ngai trước Bát Quái đài (tức 1 ngai Giáo Tông, 3 ngai Chưởng pháp

và 3 ngai Đầu Sư).

 

V́ thế họ bị trụx xuất ra khỏi Ṭa Thánh. Họ tức lư làm những

điều xằng bậy mang tai tiếng, nhất là đối với chính quyền Pháp.

Thật ra là một nhóm người làm loạn chớ không hội đủ điều kiện

thành một chi phái trong Đại Đạo. V́ một chi phái phải có chức

sắc, Thánh Thất, hành đạo và truyền Đạo.

 

10/ Chiếu Minh Đàn do ông Ngô Văn Chiêu, sau khi tách rời khỏi cơ

phổ độ về lập ở Cần Thơ. Sau gọi là Chiếu Minh vô vi v́ chủ

trương tu đơn và phân thành Chiếu Minh Long Châu, Cao Đài Thượng

Đế hội giáo hay Chiếu Minh Đàn.

 

11/ Cầu Kho thành lập năm 1930 đặt tại Thánh Thất Cầu Kho

(Saigon) nhà ông Đoàn Văn Bảy (nay đổi tên là Nam thành Thánh

Thất, đường Nguyễn Cư Trinh, Saigon). Đây là trung tâm tu học,

thuyết pháp, ra sách, báo chí, phổ độ nhơn sanh.

 

Lănh đạo phái này có quí ông Đoàn Văn Bản, Vương Quan Kỳ, Vơ Va&n

Tường, Trần Quang Minh, Huỳnh Trung Tuất, Nguyễn Phát Trước (tự

Tư Mắt). Sau thêm quí ông Lương văn Bồi, Phan Trường Mạnh, Trần

Văn Quế, Nguyễn Văn Phùng...

 

Một số quí vị Thời quân Hiệp Thiên Đài Ṭa Thánh Tây Ninh cũng có

đến đây hội đàm Đạo sự như Nguyễn Bảo Pháp, Lê Bảo Thế v.v...

 

12/ Cơ quan Truyền Giáo Trung Việt là biến thể phái Thiên Tiên

tại vùng Đà nẵng. Thánh Thất Trung Thành đặt ngoài vùng ngoại ô

thị xă này.

 

Sau khi hiệp định Genève (1954) chư tín hữu các nơi họp lại quyết

định đưa cơ quan Truyền giáo lên hàng Hội Thánh. Năm 1956 sau khi

xây cất xong Trung hưng Bửu ṭa Hội Thánh truyền giáo tổ chức

khánh thành có nhiều chi phái đến dự.

 

Thật ra, ngày nay số Thánh thất tự trị lập nên nhiều, lắm nơi lớn

mạnh. Trong khi 12 chi phái vừa kể co- một số không c̣n dấu vết

ǵ. Cá phái đáng kể ngoài 12 phái trên là :

 

1/ Bạch y Chơn lư do quí ông Nguyễn Văn Ṭng, Tô Bửu Tài lập

Thánh Thất tại Mông thọ (Kiên Giang) gọi là Hội Thánh Bạch y,

chuyên lo phổ độ chúng sanh, củng cố nội bộ theo Tân luật, Pháp

chánh Truyền, nhưng chỉ vận toàn đồ trắng.

 

2/ Tam kỳ Nguyên Bản lập nên do Ngũ vị Thiên sư của Phái Minh

chơn lư tách ra do quí ông Nguyễn văn Kiên, Nguyễn Văn Phấn và

nhiều vị nữa. Phái này đă đi đến chỗ siêu h́nh siêu tướng về

cách thờ phượng, trên Thiên bàn không có h́nh tướng dấu hiệu ǵ cả.

Thánh Thất đặt tại tiên An với lối kiến trúc đặc biệt, số tín đồ ít.

3/ Ṭa Thánh Nhị Giang đặt tại Châu Đốc (An Giang). Ṭa Thánh này

thi hành theo Tân luật và Pháp chánh truyền cũng có Hội Thánh

lưỡng đài.

4/ Ṭa Thánh Tiền Giang đặt tại Thánh Tịnh Minh Kiến đài thuộc

làng Hạnh Thông tây, quận G̣ Vấp (Gia Định).

5/ Việc hiệp nhất các phái đạo

Vào khoảng 1945-1946 quí ông Nguyễn Hữu Đắc, Lê Kim ty lập cơ

quan "Cao Đài Hiệp Nhất" để qui hiệp các chi phái. Sau Cựu Quốc

Trưởng Phan Khắc Sửu lập "Cao Đài Thống Nhất" cũng để qui tụ các

chi phái, nhưng vẫn không thành.

Vào 15 tháng 6 năm Giáp Th́n (1964) một phiên nhóm của Đại diện

Hội Thánh các chi phái đạo Cao Đài tại Tam giáo điện Minh Tân

(Saigon), gồm có Đại diện 7 Hội Thánh và Đại diện 9 cơ quan đạo.

Mục đích t́m phương pháp qui hiệp thống nhất các chi phái Cao Đài

về Ṭa Thánh Tây Ninh. Toàn hội giao cho ông Phan Khắc Sửu chủ

tọa phiên họp.

Toàn hội quyết nghị thành lập ban vận động lấy hiệu là "Tổng hợp

chi phái Cao Đài". Tạm thời ủy nhiệm cho ông Trần Văn Quế lănh

tiếp xúc với các Hội Thánh.

Đại hội "Tổng hợp chi phái Cao Đài" họp ngày 23.08.1964 (16.07

Giáp Th́n) tại Thánh Thất Nam thành gồm có 7 đại diện Hội Thánh.

Sau khi bàn giải, thành lập ban chấp hành lâm thời với danh

hiệu"Ban vận động Tổng hợp chi phái Cao Đài".

Vị Tổng thơ kư là ông Trần Văn Quế Đại diện Hội thánh truyền

giáo. Những chức vụ khác chia cho các chi phái sau đây : Hội

Thánh Nhị Giang, Ṭa Thánh Tây ninh, Bạch Y Liên đoàn, Cộng đồng

hội giáo v.v... Về sau ông Trần văn Quế có hướng dẫn phái đoàn về

Ṭa Thánh Tây Ninh để thống nhất nhưng bất thành v́ c̣n ư kiến dị đồng.

Việc phân chia chi phái có cái lợi là chia vùng ảnh hưởng để phổ

biến Đạo Trời. Dựa vào xu hướng và tŕnh độ của nhân sanh mà giáo

hoá. Đó là nguyên tắc hóa dân từ xưa của Chư Tiên Phật.

Trong hoàn cảnh chiến tranh lệ thuộc, sự phân chia khiến cho nhà

cầm quyền bớt ḍm ngó, không làm hại các bậc chân tu. Nhiều chi

phái bày tṛ âm thinh sắc tướng. Nhà cầm quyền cho đó là các tṛ

hí cuộc không đáng quan tâm.

 

V́ không tập hợp nên chính phủ có đóng chi này thi chi kia vẫn

sống mà phổ thông giáo lư giúp cho ngọn cờ cứu khổ của Cao Đài

lúc nào cũng phất phới.

 

Nhưng việc phân chia cũng là một mối tai hại v́ chung nhau thi

giàu mà chia nhau th́ khó". Một chi không làm nên việc vĩ đại

chưa kể đến mỗi phái hành đạo một khác làm cho người đời đàm

tiếu.

 

16- Đức Quyền Giáo Tông đăng tiên.

 

Chương Thái Viêm một nhà bác học Trunh Hoa khi thảo luận về tôn

giáo, ông cho rằng "Thiên Trung điểu tích họa giả giai nan" (Dấu

chân của con chim bay trên không thợ vẽ nào cũng cho là khó).

 

Huống chi đạo Cao Đài bao nhiêu giáo thuyết c̣n trong thời phôi

thai và do cơ bút lập thành th́ chẳng làm sao nghị luận cho xác

được. Duy có chỗ truyền bá mối Đạo nhanh, tổ chức hoàn bị trong

buổi đầu phải đặt công nơi Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung.

 

Nhưng mệnh Trời phải theo, Đức ngài đăng tiên sau một cơn bệnh sơ

sài vào ngày 13 tháng 10 năm Giáp Tuất (19.11.1934). Nếu tính từ

ngày th́ ngày Khai Đạo 19.11.1926 tại Từ Lâm tự cho đến

19.11.1934, ngày Đức Ngài qui thiên cộng đúng là 8 năm không

thiếu không dư một ngày. Điều đó có huyền diệu ǵ chăng ?

 

Trong ngày Kỷ niệm của Đức Ngài của năm giáp Ngọ (1954) Đức Phạm

Hộ Pháp có thuyết giảng : "Xét lại cái dĩ văng, nh́n cái đương

nhiên bây giờ, cả thảy con cái của Đức chí Tôn lấy nó làm chứng

quả cho người anh cả buổi ban sơ chịu khổ nhục dường nào. Hôm nay

chúng ta hưởng được cái vinh quang phú quí vinh hiển. thật Đức

chí Tôn rất công B́nh và mănh liệt đó vậy".

Rồi đức Ngài làm một bài thi để kỷ niệm :

 

THI

 

Nguyện vọng như anh đă thỏa rồi,

Cố tâm kế chí có thằng tôi.

Bầu linh gây sắt ông an thế (1)

Chày gián xử ma tớ giúp đời (2)

Vững tiếng xa thơ già gắng đẩy,

Xuôi chèo bát nhă trẻ đua bơi.

Khuôn hồng trước thấy trời quang đảng.

Kế nghiệp mai sau vẫn có người.

 

(1) tiền kiếp Đức Thượng Trunh Nhựt là Đức Lư Ngưng Vương, cầm

gậy quảy bầu linh.

(2) Gián ma xử là bửu pháp của Hộ Pháp để trừ tà khử mị.

 

CHƯƠNG II

THỜI PHM HỘ PHÁP

(1935-1956)

 

TIẾT I

XÂY DỰNG CHÁNH PHÁP

(1935-1940)

1- Đức Phạm Hộ Pháp Chưởng Quản Nhị Hữu H́nh Đài

Sau khi Đức Quyền Giáo Tông đăng tiên, ngày lễ Đại Tường được

thiết lập vào ngày 08.11.1935. Đồng thời Đại Hội Đồng gồm tất cả

nhơn sanh và Hội Thánh nhóm họp tại Ṭa Thánh Tây Ninh vào ngày

8, 9, 10 tháng 11 năm đó, có hàng vạn tín đồ các nơi về tham dự.

Toàn Đại Hội đă đồng thanh tín nhiệm Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc

cầm quyền thống nhất Chánh Trị Đạo cho đến ngày có Đầu Sư chánh vị .

Tờ của Hội Nhơn Sanh đă biểu quyết như vầy : "Nghị viên nam nữ

Hội Nhơn Sanh nhóm Đại Hội thường niên tại Ṭa Thánh ngày 17

tháng 10 Ất Hợi, đồng ḷng bỏ thăm tín nhiệm chánh sách độc tài

của Đức Hộ Pháp và xin đem hết tâm trí giúp Ngài có đủ quyền hành

giử nghiêm Pháp Luật của Đạo".

Thế là, từ đó (1935) về sau (1956), Đức Phạm Hộ Pháp Chưởng Quản

Nhị Hữu H́nh Đài, Hiệp Thiên và Cửu Trùng để lo xây dựng chánh

pháp và Đạo Sự đặng bảo tồn chơn truyền d́u dắt con cái Đức Chí

Tôn trên đường Thánh Đức.

 

2- Chức Sắc H.T.Đ. từ Tiếp Dẫn trở xuống

 

Đàn cơ tại Ṭa Thánh ngày 16 tháng 2 năm Ất Hợi (20.03.1935), Đức

Chưởng Đạo Nguyệt tâm Chơn Nhơn (tức Victor Hugo) giáng cơ dạy về

Chức Sắc Hiệp Thiên Đài từ Tiếp Dẫn Đạo Nhơn trở xuống.

 

"Thưa Hộ Pháp, Bần Đạo để lời chia vui cùng Ngài. Hôm qua nhờ có

Thánh chỉ của CHÍ TÔN, nên mới rộng đường xuất Thánh.

 

"Phẩm Trật rắc rối khó nói rơ, nhưng chia làm ba Pháp, Đạo, Thế.

Theo sự hiểu biết của Bần Đạo như vầy :

Tờ của Hội Nhơn Sanh đă biểu quyết như vầy :"Nghị vie

 

"Sĩ Tải là Secrétaire Archiviste lên phẩm Truyền Trạng Greffier

rồi lên Phẩm Thừa Sử là Commissaire de la Justice (1),

 

"Phẩm Giáo Đạo là Inspecteur lên Phẩm Cải Trạng là Avocat, rồi

lên phẩm Chưởng Ấn là Chancelier.

 

"Lên phẩm ấy rồi tùy chi lên Đại vị Hiệp thiên Đài. Nhưng phải

biết rằng : Chưởn Ấn phải lên Đại vịTiếp Dẫn Đạo Nhơn

(Instructeur) mà đắc phong phổ thông một nước rồi mới vào chánh

vị".

 

Ngoài ra c̣n thêm phẩm Luật sư (Licencié en Doctrine) dưới cấp Sĩ

Tải được thành lập bởi sắc lịnh Đức Phạm hộ Pháp số : 34/sl ngày

23 tháng 5 năm Bính Tư (11.07.1936). Phẩm này do khoa mục chọn.

 

Luật sư và Sĩ Tải muốn lên cấp phải có đủ 5 năm công nghiệp c̣n

các phẩm khác chỉ có 3 năm lên trật.

 

Ngoài luật định cầu phong và cầu thăng mỗi cấp bậc kể trên, những

Chức Sắc Hiệp Thiên Đài c̣n được hưởng trường hợp đặc biệt.

 

1-/ Có Công Nghiệp phi thường được công chúng hoan nghinh có bằng

cớ xác đáng và có Bộ Pháp chánh minh tra đủ lẽ.

 

 

_____________________________________________________________________________

 

(1) Truyền trạng, Gobron dịch là Enquêteur

(2) Thừa Sử là historien.

 

__________________________________________________________________________________

 

 

2-/ có khổ hạnh trong trách vụ hành đạo và được vị Thời Quân

Chưởng quản đề nghị cầu thăng thưởng đặc biệt.

 

Sự cầu thăng đặc biệt không áp dụng trong trường hợp Chức Sắc bị

tù tội hay giam cầm v́ những hành vi trái với luật pháp Chơn

truyền của đạo.

 

3- Ṭn Quyền Đông Dương diệt đạo

 

Cơ Đạo càng ngày vững mạnh là mối lo ngại to lớn cho nhà cầm

quyèn pháp. Việc truyền Đạo ra Trung Kỳ bị cấm. "Bảo Đại tự niên

cấm bấc đắc truyền giáo Trung kỳ. Chức Sắc nào được bổ ra đều bị

bắt giam rồi trục xuất đuổi về Nam. Toàn quyền Đông Dương lúc bấy

giờ là Pierre Pasquier, một tên diệt Đạo khét tiếng.

 

Đức Phạm Hộ Pháp phải làm đơn xin được tự do tế tự và hành lễ

theo Cao Đài Giáo. Theo lịnh dạy củ Đấng chí Tôn đơn ấy phải điện

qua nước Pháp cho Tổng trưởng Thuộc Địa là Georges Mandel. Đơn

được chuẩn phê "Đạo Cao Đài tại Nam kỳ được tự do truyền bá, tự

do cúng kiến."

 

Từ đó việc tế tự khỏi phải xin phép. Người theo đạo mỗi ngày một

đông thêm. Bên cạnh các nhóm ái quốc do các ông Tạ Thu Thâu,

Nguyễn An Ninh hoạt động mạnh. Toàn quyền Pasquier v́ an-ninh

thuộc địa đặt kế hoạch dẹp các nhóm quần chúng nhuộm màu sắc

chánh trị. Ông cũng muốn rút giấy phép hành đạo của Cao Đài,

nhưng không thể hành động được v́ c̣n sợ phạm tội lỗi với Hội Quốc

Liên (nay là Liên Hiệp Quốc).

 

Họ t́m đủ mọi phương cách dựng tài lậu giả cho lính mật thám chụp

h́nh các Đàn lệ, các buổi nhóm họp của Cao Đài Giáo trong toàn

quốc. Rồi sắp xếp làm phúc tŕnh, chính toàn quyền Pasquier mang

về Pháp, có gia đ́nh đi theo nhưng chẳng may chuyến phi cơ ấy ngộ

nạn, vợ con ông chết. Riêng ông rơi vào ống khói nhà máy cơ khí

Messageries Métallurgiques de France.

 

Cách tháng sau, ngẫu nhiên Đức Phạm Hộ Pháp cầu cơ, một chơn linh

giáng cho bài thi sau :

 

"Oh! Salue Haute Âme, tôi xin nói tiếng Việt Hán,

Vương Bá Bửu ngôi thị ngục h́nh

Thiên lao như thử tấc công khanh

Đồ lưu Pháp phối cầm vận mạng

Y phục đai cân thị tử thành.

 

             Pierre PASQUIER

 

"Ôi nha lại! Ôi nha lại! cũng v́ mi mà làm cho ta bịt mắt trái

tai". Cơ động đến đây rồi im hẳn.

 

Khoảng thời gian này khó khăn nhất cho nền Đại Đạo bên trong th́

nạn chia rẻ chi phái lũng đoạn, tuyên truyền xuyên tạc bôi bẩn

các Chức Sắc và Hội Thánh. trong châu tri số 19 ngày 24 tháng 4

năm 1936 do ba vị cha-nh Phối sư kư có ghi.

 

"Hội Thánh có đăng tờ vi bằng của Ban Chỉnh Đạo Bến Tre đề ngày

mồng 8 tháng 01 năm Bính Tư (31.01.1936) trong tờ vi bằng đó có

nhiều khoản không chân thật về cử chỉ hành động ông Nguyễn Ngọc

Tương, chẳng những ngày nay mà thôi, trước của khi hai ông Trang

và Tương c̣n ở Ṭa Thánh Tây Ninh, cầm quyền Chánh Trị đạo nơi

tay, th́ không thực hành theo tôn chỉ Đại Đạo. Mỗi ông đều dùng ư

riêng của ḿnh toan cải sửa chơn truyền.

 

"Trong vi bằng có khoản nói về Thánh Thất 135 cái đă về tay người

hết 96 cái và số đạo hữu chung trong mỗi tỉnh cũng được phân nửa.

Hội Thánh chỉ rơ cho chư đạo hữu thấy. Nếu Ṭa Thánh Tây Ninh c̣n

36 cái th́ những Thánh Thất được chính phủ công nhận 65 cái rồi

c̣n của người ở vào khoản nào đâu ? Trong số 135 cái Thánh Thất

là nhiều cái nhà tư tạm dùng đó thôi chớ không phải là Thánh

Thất".

 

Bên trong th́ bị khảo đảo tranh chấp từ quyền lănh đạo đê-n tài

săn. Bên ngoài th́ người Pháp hạn chế việc truyền giáo, bí mật

ḷng người vào đạo để theo dơi và t́m tài liệu rồi phóng đại gởi

về chính quốc báo cáo để diệt Đạo.

 

Việc xây Ṭa thánh cũng bị ảnh hưởng, đặt nền móng từ năm 1933,

đến lúc bấy giờ Hội Thánh ra thông tri số 39 ngày 28/05 Đinh Sửu

(04.07.1937) kêu gọi : "Ai là người tâm đạo, ai là người có dạ

nhiệt thành biết rằng trời giáng trần cứu thế, nên đem cả mănh

lực tinh thần kẻ công người của, kẻ ít người nhiều đặng tô điểm

vẽ vời cho cơ thể đạo trở nên xinh lịch. Ấy là công nghiệp thứ

nhứT của chúng ta d'ối với tương lai đạo. Giàu nghèo chẳng nệ xin

để trọn tấc thành cùng Đại từ Phụ. Buổi này tưởng lại chẳng có

công quả nào vĩ đại bằng công quả tạo Đền thờ cho mau thành tựu

hầu trụ cả đức tin con cái yêu dấu của Thầy cho ra thiệt tướng".

 

4- Bộ Đạo luật Mậu Dần

 

Do tờ kiết chứng ngày mùng 8 tháng giêng năm Mậu Dần (07.02.1938)

th́ nền chánh trị Đạo gồm có 4 cơ quan : Hành Cha-nh, Phước

Thiện, Ṭa Đạo và Phổ Tế. Bộ Đạo luật này được ban hành ngày

16.01 Mậu dần (15.02.1938).

 

a/- Hành Cha-nh là cơ quan để thi hành các luật định của Hội

Thánh hoặc của chúng sanh dâng lên mà đă có quyền chí Tôn phê

chuẩn. Nghĩa là buộc chúng sanh phải tuân y luật pháp mà đi trên

con đường Đạo đức.

 

Về hành Chánh gồm có các điều khoản :

   1- Cầu phong

   2- thăng thưởng

   3- Hàm phong

   4- Truy phong

   5- Tổ chức Hội quyền Vạn linh.

 

b/- Phước Thiện là cơ quan bảo tồn sanh chúng trên đường sanh

hoạt, nuôi sống thi hài, tức là cơ quan giải khổ cho chúng sanh,

tầm phương bao bọc cho những kẻ tật nguyền cô độc hoặc giúp tay

cho Hành Chánh thi hành luật pháp được trọn vẹn.

 

Thập nhị đẳng cấp Thiêng Liêng của chư Chức Sắc Phước thiện định

như sau (từ dưới lên trên).

   1-/ Minh Đức                   2-/ Tân Dân

   3-/ Thính Thiện                4-/ Hành Thiên

   5-/ Giáo Thiện                 6-/ Chí Thiện

   7-/ Đạo Nhơn                   8-/ Chơn Nhơn

   9-/ Hiền Nhơn                 10-/ Thánh Nhơn

  11-/ Tiên Tử                   12-/ Phật Tử

 

Có luật tuyển chọn phong thưởng riêng nếu có đủ 3 năm công

nghiệp, có Bộ Pháp Chánh minh tra đủ lẽ đưa ra hội nghị phước

thiện xét nét đủ công hạnh sẽ lên cấp bậc, khác với Hành chánh

(tức Cửu Trùng Đài)  phải có đủ 5 năm công nghiệp.

 

Việc tạo cơ sở Phước thiện th́ lập các cơ quan thực dụng như :

 

    - Bảo Sanh Viện

    - Y Viện

    - Ấu Trỉ Viện

    - Dưỡng Lăo Đường

    - Học Viện

 

Mỗi Bàn Cai Quản có 12 người : 1 Chủ Trưởng, 1 Phó Chủ Trưởng, 1

thủ Bổn, 1 Từ Hàn (thư kư), 1 Phó Tư Hàn và 6 Nghị Viên.

 

Trong Phước Thiện có Phạm môn có qui luật tịnh luyện. Hồng thệ

đầu tiên điểm ngày 03.01 Nhâm thân (1932) gồm 72 vị tại sở

Trường Ḥa trong đó có Phối Thánh Phạm văn Màng.

 

c/- Phổ Tế : là cơ quan để cứu vớt hoặc độ rỗi những người lạc

bước thối tâm, cùng an ủi khuyên lơn những kẻ đă bị luật pháp

buộc ràng mà phế vong phận sự, hay là độ rỗi những kẻ hửu tâm tầm

đạo.

 

Không có Chức Sắc riêng mà do bên Hành Chánh hoặc Phước Thiện bổ

qua.

 

d/- Ṭa Đạo : là cơ quan bảo thủ chơn truyền, giử ǵn luật pháp,

chăm nom chư Chức sắc, chức việc và đạo hữu thi hành phận sự, che

chở những kẻ yếu, binh vực người cô thế tức là giử ǵn công b́nh

luật đạo. Cũng là cơ quan giúp cho Hành Chánh Phước Thiện và Phổ

tế thêm uy quyền mạnh mẽ và được tôn nghiêm.

 

Những ai phạm luật pháp th́ chiếu theo Thập h́nh của Đức Lư Giáo

Tông; Tân luật, Bát Đạo nghị định, Đạo luật năm Mậu Dần, Pháp

chánh truyền, các án lệ mà Định tội.

 

5-/ Chức sắc mặc đạo phục khi hành đạo.

 

Từ năm 1935, Hội Thánh đă ra kiểu áo trắng bên Cửu Trùng Đài áo 9

nút, Phước Thiện 12 nút, Hiệp Thiên Đài 6 nút, đă được chính phủ

Pháp cho phép mặc đi hành Đạo từ tháng 2 năm 1936. Nhưng thỉnh

thoảng có chức sắc vẫn bị cưỡng chế mặc thường phục khi tiếp xúc

với họ.

 

Châu tri số 62 ngày 19.09 Mậu Dần (07.11.1938) nhắc lại việc này

như sau.

 

"Từ xưa đến nay, tôn giáo nào cũng vậy, hễ người tu th́ mặc đồ tu

theo tôn chỉ đạo ấy. Đồ mặc là thể đạo như Phật giáo, Gia Tô

giáo.

 

"Lúc trước Đức Hộ Pháp đă gởi thơ cho Toàn quyền Hà Nội, quan

Tổng Đốc Nam kỳ và các quan Bảo Hộ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Lào và Cao

Miên, đặng cho lệnh các viên quan của Chính phủ hay rằng Chức sắc

Cao Đài kể từ tháng 2 năm 1936 sẽ mặc đạo phục đi đường và có

giao h́nh đạo phục của toàn chức sắc Thiên Phong nam nữ Hội

Thánh Cao Đài. Từ chức việc Chánh Phó Trị sự tới Giáo Tông, từ sĩ

Tải tới Hộ Pháp.

 

"Nay lại xảy ra vụ bất ngờ nói rằng không cho chức sắc Đạo Cao

Đài mặc đạo phục khi đến hầu chuyện với quan dời mà phải mặc áo

thường.

 

"Vậy từ đây cứ y luật pháp mà hành đạo, chư chức sắc nào có việc

mà phải đến quan làng hầu chuyện th́ cứ mặc đạo phục như thường.

Nếu họ không tiếp th́ viện đủ lẽ chứng cớ rơ ràng hoặc mời Trưởng

Ṭa nhân chứng, rồi cho Hội Thánh hay"

 

"Đến ngày 27.12.1938, Toàn quyền Đông dương Brévié phúc thư như

sau : "V́ muốn thi hành các sở định của Tổng Trưởng thuộc địa. Vị

thượng quan tái truyền lịnh cho cả tín đồ trong các cơ quan dưới

quyền của Đạo đặng thờ phượng khỏi điều trở ngại và nhất là không

c̣n buộc họ phải mặt đồ thế phục khi đến tŕnh diện trước quyền

hành chánh đời nữa"

 

Cũng nên biết sắc phục đi đường trước kia của các chức sắc theo

màu của ba phái Thái, Thượng, Ngọc trên đầu có vấn khăn cùng màu.

 

6-/ Danh từ chuyên biệt của Cao Đài Giáo

 

Cao Đài giáo là một nền Tôn giáo mới tuy qui Tam giáo, nhưng vẫn

có những danh từ chuyên biệt để gọi như Thượng Đế th́ gọi Đấng

Chí Tôn, Đấng Vĩnh Cữu, Niết Bàn hay thiên Đàng th́ gọi là cơi

thiêng Liêng Hằng sống v..v..

 

Theo Thánh Huấn số 77 ngày 17.01 Canh Th́n (24.02.1940), Hộ Thánh

dạy như sau :"Buổi trước nền Đạo mới sơ khai th́ những tiếng xung

hô đặt để phải tùy theo thế tục cho dễ hiểu.

 

"Nay Hội Thánh đính Chánh tiếng hô ấy tại cho hợp với chơn truyền

Đại Đạo như các khoản sau đây :

 

1- Xứ Nam kỳ kêu là Nam Tông Đạo

2- Bắc kỳ kêu là Bắc Tông Đạo

3- Trung kỳ kêu là Trung Tông Đạo

4- Kiêm Biên kêu là kiêm biên Tông Đạo

5- Giáo Sư Thanh Tra kêu là Giáo Sư Khâm Trấn Đạo

6- Giáo hữu Đầu họ Đạo  kêu là Giáo hữu KhâM Châu Đạo

7- Lễ sanh Đầu Quận Đạo kêu là Lễ Sanh Đầu Tộc Đạo

8- Chánh Trị Sự kêu là Chánh Trị Sự Đầu Hương Đạo

9- Phó Trị Sự kêu là Phó trị Sự Lư Đạo

10 Thông Sự kêu là Thông Sự Thông Lư Đạo

11 châu Tri là Thánh Huấn

12 Nghị Định kêu là Thánh Lịnh

13 Sắc lệnh kêu là Sắc Huấn hay sắc tứ

14 Âu Phong quyền Chí tôn gọi là Ân tứ

15 Nghị Phong quyền Vạn Linh gọi là Nghị tứ

 

Vậy chức sắc, chức việc, Đạo Hữu đều phải tuân chẳng nên cải

sửa."

 

7- Đức Phạm Hộ Pháp bị pháp bắt

 

Khi Thế chiến thứ hai (1939-1945) bùng nổ giửa Đồng Minh và

trục Phát xít (Đức, Ư, Nhựt), thừa vận hội mới các nhược tiểu nổi

dậy chống đế quốc. Xứ Việt Nam các Đảng phái nổi lên như : Đại

Việt Quốc Dân, Duy Tân, Phục Việt, Việt Nam Quốc gia Độc lập...

 

Năm 1940, Nhật tràn vào đại lục Trung Hoa tiến xuống miền Đông

Nam Á Châu. Pháp lo sợ, bắt đầu đàn áp các Đảng phái, Cao Đài

chịu chung số phận của đất nước. Biểu hiệu chữ Vn Tịnh (ngược

chiều kim đồng hồ) trên nóc cá Thánh Thất giống như chữ Vạn động

(cùng chiều kim đồng hồ) của Đức Quốc Xă, bị Pháp hiểu lầm, Cao

Đài theo Đức, nên Hội Thánh phải ra Thánh Huấn số 79 ngày 2.4

Canh th́n (8.5.1940) như sau :

 

"Hộ Thánh cho toàn Đạo hay rằng : mới đây có nghị định số 72 củ

Toàn quyền Đông Dương Pháp ngày 03.05.1940 cấm treo cờ phướn có

dấu hiệu chữ Vạn.

 

"Những Thánh Thất, nhà sở Phước Thiện của Đạo, cùng gia Cư củ Đạo

Hữu, cả đồ vật dụng thờ phượng có gắn hoặc vẽ chữ Vạn đều bị cấm

cả".

 

Phong trào bài pháp lan rộng trên toàn quốc. Các tín đồ cũng là

con dân trong nước, nên nhảy vào ṿng tranh đấu. Hội Thánh không

thể ngăn được v́ nước mất nhà tan, Đạo sự phải suy vi. Nhân cơ

hội đó, một ít người vô lương, quá thiên về bả lợi danh, dựa theo

quyền đời, ám hại Đạo. Họ vu cáo phao truyền Đạo Cao Đài lập một

nước nhỏ trong nước lớn. Họ chú giải lệch lạc các danh từ Pháp

Chánh truyền, Ta2n luật, Đạo Nghị Định, Hội Thánh, Hội Nhơn Sanh,

Hạ Nghị viện Ṭa Án, Cửu Bộ... Rồi cho Đạo CAo Đài có ư chủ

trương quân chủ lập hiến.

 

Ngày 23 tháng 7 năm Canh Th́n, lính mật thám Pháp vào chu vi

thánh Địa xét giấy tờ và đóng cửa Báo Ân Từ.

 

Ngày 08 tháng 11 họ đem 5 xe hơi vào Toà Thánh bắt các Chức Sắc

và Đạo Hữu giải ra Tây Ninh.

 

Ngày 25 tháng 5 năm Tân Tỵ (1941) chính phủ Pháp cấm các công quả

tạo tác không được xây tiếp Ṭa Thánh.

 

Ngày 04 tháng 06 vào 8 giờ sáng, lính mật thám vào bắt đức Hộ

Pháp.

 

Ngày 09 tháng 07 Chủ quận và lính vào Ṭa Thánh xét giấy thuế

thân và đuổi tất cả tín hữu về tỉnh, về xứ, không cho ở trong chu

vi Thánh Địa.

 

Ngày 11 tháng 07, lính vào bắt ba vị chức sắc Thiên Phong và bắt

thêm tại Cao Miên một vị và Sàig̣n một vị(1).

 

Ngày 07.08 quân đội Nhật chiếm đóng Ṭa Thánh. Ngày 25.10 lính

mật thám Pháp lại vào Ṭa Thánh bắt thêm ba vị chức sắc nữa.

 

Ngày 27.07.1941, Pháp đày Đức Phạm hộ Pháp và 5 vị chức sắc :

Phối sư Thái Phấn Thanh, Phối sư Ngọc Trọng Thanh, Giáo sư Thái

Gấm Thanh (qui liễu tại Mă Đảo ) khai Pháp Trần Duy Nghĩa và Sĩ

Tải Đổ Quang Hiển (cũng chết ở Mă Đảo) sanh Madagascar (Phi

châu) dưới chiếc tàu Compiège.

 

Cùng đi đày trong chuyến đó có các nhà cách mạng như quí ông

Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Thế Song, Ngô Văn Phiến. Thế là, Đức

Phạm Hộ Pháp phải biệt xứ trong khoảng thời gian 5 năm, 2 tháng,

3 ngày.

 

Trong thời gian nơi hải đảo các Đấng Thiêng Liêng có giáng cho

Đức Ngài các bài thi như sau.

 

I-  Ḥn đảo này đây trước nhốt tù,

    Mà nay làm khám nhốt thầy tu,

    Quả như oan nghiệt vay rồi trả

    Th́ lũ Tây Man, Nhật Bổn trừ,

 

II- Nô-Xi-Lao tiếng đặt buồn cười,

    Mi đă rước ai, hỡi hỡi ngươi

    Lượn thảm bủa ghềnh t́nh ồ ạt,

    Gió sầu xô đảnh ái tơi bời,

    Yêu phu điểu gọi thương cành sớm,

    giọng nhạn quyên khêu gợi buổi mơi,

    Tổ quốc con đường bao dặm thẳng,

    Đưa xa thăm thẳm một phương trời.

 

_________________________________________________________________________

 

(1) Xem Tiết 2 đoạn 1

(2) Nossilave là tên một ḥn Đảo Madagascar (Mả Đảo)

 

___________________________________________________________________________

 

 

TIẾT II

 

TOÀN QU-C TAO LON, NỀN ĐO SUY VI

 

(1941-1946)

 

I- T́nh H́nh Ṭa Thánh sau khi Đức Phạm Hộ Pháp bị bắt

 

Khoảng thời gian 1941-1946, mùa Pháp nạn của Đức Phạm Hộ Pháp nằm

gọn trong thế chiến thứ hai giửa Đồng Minh và Trục. Nước Việt Nam

như các nước dù muốn dù không vẫn bị lôi cuốn vào chiến tranh.

Nền Đạo Cao Đài cũng bị ảnh hưởng thời cuộc. Đây là giai đoạn khó

khăn nhất của Đạo Cao Đài v́ số tín hữu lan tràn khắp Nam, Trung

Bắc. Không khéo, tín đồ bị vạ lây.

 

Tôn Giáo vốn không chính trị, nhưng tôn giáo phát sanh để cứu

khổ, mà cứu khổ phải chen vai vào đám nhân dân. Dù muốn đứng

ngoài thế cuộc vào thời ấy, thật cũng khó khăn. Chỉ c̣n giải pháp

hợp tác Ôn nhu đễ giữ vững lái thuyền và bảo vệ tín hữu.

 

Đức Phạm Hộ Pháp và năm vị Chức Sắc Thiên Phong đă bị bắt rồi,

nên toàn thể chức sắc Thiên Phong thiết phiên họp ngày 16 tháng 6

nhuần năm Tân Tỵ (1941) giao quyền Thống Nhất cho ba vị Chánh

Phối sư. Nhưng không biết có ǵ bí ẩn mà hai vị luật sư Hiệp

Thiên Đài là Phan Văn Phước và Vơ Văn Nhơn tranh giành các bổn

vi bằng trước mặt quí vị Chức Sắc Cửu Trùng Đài. V́ thế, quyền

Thống Nhất do ba vị chánh Phối sư không thành tựu.

 

Ngày 27.07 năm 1941, Pháp lưu đày các vị Quyền Ngọc Chánh Phối Sư

Ngọc Trọng Thanh, Giáo Sư Thái Gấm Thanh, Sĩ Tăi Đổ Quang Hiển

đều bị bắt tại Ṭa Thánh. Đồng thời Giáo sư Thái Phấn thanh bị

bắt tại Kim Biên (KAMPUCHIA) và ngài Khai Pháp Trần Duy Nghiă bị

bắt tại Saig̣n cùng ngày. Thế nên, việc quản trị tài sản trong

chu vi Ṭa Thánh giao cho Giáo sư Thượng Trí Thanh.

 

Tháng 8 năm đó, Tỉnh Trưởng Tây Ninh hỏi mượn Ṭa Thánh cho lính

Pháp vào ở, bạn định trong 24 giờ phải dọn đồ đi nơi khác. Cá

chức sắc phải tản cư ra ngoài hoặc về xứ ẩn thân.

 

Ṭa Thánh lúc nầy do Giáo Sư Thượng Tước Thanh và Giáo Hữu Thượng

Chất Thanh điều hành và sắp đặt mọi việc để giử ǵn cơ nghiệp

Đạo... Tuy nhiên hai ông hằng tháng mới đến thăm một lần chớ

không dám ở.

 

Lấy cớ quân đội Pháp chiếm đóng trong Nội ô, nên họ cho Linh Mục

vào Ṭa Thánh quyến rũ tín đồ. Mặt khác Ban Chỉnh Đạo (kiến Ḥa)

phái Lễ Sanh Thới đến xin cho ông Nguyễn Ngọc Tương về Ṭa Thánh,

nhưng không ai nghe.

 

2- Hành Đạo tại Thánh thất Kiêm Biên

 

Hạ tuần tháng 3 năm Nhâm Ngọ (1942), những chức Đại Thiên Phong

đều tề tựu lên Thánh Thất Kiêm Biên như quí Ngài Cao Tiếp Đạo,

Quyền thượng Chánh Phối Sư Thượng Vinh thanh, nhị vị Giáo Hữu

Thượng Tuy Thanh, Thái Đến thanh v...v... Từ đó, Thánh Thất Kiêm

Biên là nơi thay thế cho Ṭa Thánh Tây Ninh. Được vậy, nhờ quân

Nhật đóng nơi Thánh Thất khiến Ty Mật Thám Pháp không bạo hành

đưọc.

 

Sau quân Nhật trả Thánh Thất, nên chính phủ Pháp có lư do hỏi

mượn làm dưỡng đường. Ngài Cao Tiếp Đạo hứa cho mượn một nửa.

Việc chưa ngă ngũ th́ Chánh Phối Sư Thượng Chữ thanh sang Thái

Lan. Đến 15 tháng 8 năm Nhâm Ngọ th́ Thánh Thất Kiêm Biên bị

phong tỏa không ai dám tới nữa. Ba hôm sau, Ngài Cao Tiếp Đạo

xuất dương qua Thái Lan.

 

Ngày 20 tháng 8 năm Nhâm Ngọ, chính phủ Pháp Chiếm Thánh Thất

Kiêm Biên dọn Thiên Bàn, thỉnh hết bài vị đập phá Quả Càn Khôn.

Ngày 25 tháng đó, Lễ Sanh Ngọc Hoai Thanh từ Nam Phần lên báo tin

sở Hiến Binh Nhựt muốn gặp các chức sắc cao cấp bàn việc quốc sự

và có tin của Đức Cường Để từ Đông kinh gởi về. Sau đó, Giáo Sư

Thượng Vĩnh Yhanh và Lễ Sanh Ngọc Hoai Thanh hội đàm với sở Hiến

Binh Nhựt tại pḥng Thương Măi (Sài G̣n).

 

3- Hiệp Tác với Nhật

 

Ngày 01 tháng 12 năm Nhâm Ngọ, có 12 vị Chức Sắc đại diện Đạo,

phía Nhật có 2 vị sĩ quan Kimura và Mochizuki họp bàn việc hợp

tá. Khái quát, quân đội Nhật đến Đông Dương không phải để xâm

lược mà có ư định giải thoát cho khỏi sự đô hộ của người da trắng.

Chính phủ Nhựt ủng hộ Đức cường Để thành lập Việt Nam Phục Quốc

Đồng Minh hội gọi tắc Việt Nam Phục Quốc hội để liên lạc các

chính đảng hầu thống nhất lực lượng quốc Gia. Hai bên hứa giúp đở

lẫn nhau. Sau đó toàn thể chức sắc tín nhiệm Giáo Sư Thượng Vĩnh

Thanh làm đại biểu thay mặt cho toàn đạo.

 

Trong nước, lúc bấy giờ các đảng phái tổ chức chưa hoàn bị nên bị

nhà cầm quyền Pháp khủng bố. Kẻ th́ sang Bangkok, người qua Tân

Gia Ba. Chỉ có Đạo Cao Đài được công khai hoạt động. Thế nên các

đảng yêu cầu yểm trợ giúp họ như ở Đông Kinh th́ tiếp tế cho

Trung Ương Tổng Bộ của Đức Cường Để. Ở Bangkok th́ nuôi dưỡng của

ông Dương Văn Giáo, Cao Đức Trọng, Đặng Trung Chữ. Ở Tân Gia Ba

th́ giúp đỡ các ông Trần Trọng Kim, Dương Bá Trạc, Trần Văn Ân.

C̣n tại Nam Kỳ th́ bảo thủ các ông Ngô Đ́nh Diệm, Nguyễn Xuân

Chữ. Bởi vậy dư luận lúc đó cho rằng Đạo Cao Đài là cái vú sữa để

nuôi các phần tử chánh trị.

 

4- Hăng tàu NITINAN và Nội ứng Nghĩa binh

 

Số tín hữu về Sài G̣n ngày càng đông, để t́m sinh kế Giáo sư

Thượng Vinh thanh kư hợp đồng với quân đội Nhựt làm công các trại

cưa nhứt là đóng tàu gần cầu chữ Y. Lúc này chính phủ Pháp thấy

đạo Cao Đài hợp tác với Nhựt nên họ khủng bố Đạo khắp nơi, gây

phong trào lập châu vi đạo và di cư đến hăng tàu NITINAN ngày

thêm đông. Số nhân công lên trên 3.000 người.

 

Sau đó, được lịnh Đức Cường để lập Nội ứng nghĩa binh do Giáo Sư

Thượng Tước Thanh Tổng chỉ huy và Cận vệ quân do Giáo Hữu Thượng

Tuy Thanh chỉ huy, c̣n Giáo Hữu Thái Đến Thanh Giám đốc việc đóng

tàu.

 

Nội ứng nghĩa binh tuyển chọn tráng đinh từ 18 đến 40 tuổi chia

thành Đội ngũ nên chẳng bao lâu hăng tàu trở thành đạo binh. Ngày

mồng 1 tết năm Ất Dậu (1945) làm lễ duyệt binh có tư lịnh quân

đội Nhật dự khán.

 

V́ muốn lật đổ chế đô hộ của chính phủ Pháp nên quân đội Cao Đài

đă thỏa thuận giúp quân đội Nhựt trong ngày đảo chánh. Vào 21 giờ

ngày 09 tháng 03 năm 1945, các cơ quan quân sự và chánh trị Pháp

đều bị bao vây vây. Thủy sư Đô Đốc Decoux bị bắt. Sáng hôm sau

các công sở Pháp ở Sài G̣n đều có quân đội Cao Đài trấn giữ. Quân

đội Nhật đă làm chủ t́nh h́nh toàn cơi Việt Nam và họ đưa Nội các

Trần Trọng Kim ra lănh đạo quốc gia.

 

5- Cao Đài Tham mưu quân sụ vụ

 

Nhà cầm quyền Nhựt chặnh o quân đội Cao Đài tổ chức bộ Tham mưu riêng

trụ sở Cao đài Tham mưu Sự vụ đặty tại thành quan sáu (số 6

boulevard Norodom). Đến 18.08.1945, Nhật đầu hàng, Nam phần được

Nhật lại lại cho chính phủ Việt Minh do ông Nguyễn Văn Sâm làm

Khâm sai. Bắc phần th́ Việt Minh cướp chính quyền. Hoàng đế Bảo

Đại từ chức, Nội các Trần Trọng Kim đổ. C̣n khâm sai Nguyễn văn

Sâm sau hai ngày hành chánh cũng giao lại cho mặt trận Việt Minh

do Trần vĂn Giàu làm chủ tịch Ủy ban hành chánh.

Từ đó, Việt Nam thành Cộng Ḥa Dân Quốc. Trước t́nh trạng đó quân

đội Cao Đài luôn giữ thái độ b́nh tỉnh nhẫn nại tránh các vụ xung

đột. Giáo sư Thượng Vinh Thanh họp Bộ Tham mưu định kế hoạch, vài

hôm sau th́ từ chức đại biểu trở về hành Đạo, giao ông Đặng Trung

Chữ thay thế.

 

6-/ Hiệp tác với Mặt trận Việt Minh

 

Thời thế đă giúp Mặt trận Việt Minh lên nắm chính quyền thành lập

Cộng Ḥa Dân Quốc. Quân đội Cao Đài như các chính đảng khác đồng

thanh ủng hộ và gia nhập vào mặt trận để chống Đế quốc Pháp sửa

soạn tṛng lại ách nô lệ.

 

Ủy ban ặnh Hành chánh triệu tập các chính đảng để trở thành lập

bốn sư đoàn quân dân cách mạng của Nam bộ dưới sự Tổng chỉ huy của

Ủy Trưởng quân sự Trần Văn Giàu. Quân đội Cao Đài đượC vào đệ tam

sư đoàn, chỉ v́ đặt quyền lợi tổ quốc trên hết.

 

Sau đó th́ quân đội Đồng minh vào Đông dương giải giáp Quân đội

Nhựt và ra lịnh các sư đoàn lập tức rút ra khỏi châu thành

Sàig̣n. Cơ sở Cao Đài Tham mưu sự vụ cũng lo chuyên chở đồ đạt

d'i nơi khác hoặc về Ṭa Thánh.

 

Vào ngày 24.09.1945, trụ sở Ủy ban Hành chánh bị quân đội Đồng

minh chiếm. Dân chúng bỏ Sàig̣n chạy về quê. Sau đó không biết v́

lư do ǵ Giáo sư Thượng Vinh Thanh bị việt Minh bắt nên quân đội

Cao Đài rời bỏ hàng ngũ về rừng vùng Lộc Hưng (Trảng Bàng). Lúc

này quân đội Cao Đài chống đối nhiều mặt nào quân Đồng Minh,

quân Miên biên giới cả quân Việt Minh.

 

7-/  Thỏa ước 09.06.1946 hiệp tác với Pháp

 

Ngày 08.04 Bi-nh tuất (08.05.1946) các cơ sở Đạo Sàig̣n bị chánh

phủ Pháp phong tỏa và bắt giam các người lănh đạo họ hăm dọa đánh

khảo và sau cùng yêu cầu họp tác. Giáo sư Thượng Vinh Thanh đưa

ra bốn nguyện vọng.

 

     1- Xin cho Đức Hộ Pháp và Chư vị Thiên Phong bị đày ở Mă Đảo

        được về Việt Nam.

 

     2- Trả lại tự do tín ngưỡng cho toàn Đạo, Ṭa Thánh và các

        Thánh Thất được mở cửa.

 

     3- Nh́n nhận tư cách pháp nhân của Đạo Cao Đài

 

     4- Ngưng khủng bố và bắt bớ các chức sắc và Đạo hữu.

 

Để đền bù lại quân đội CAo Đài phải ngưng chiến và hiệp tác với

quân đội Pháp. Nhờ đó mà tất cả tính hữu được tha. sau 22 ngày bị

bắt bị đánh đập. Sau 3 ngày hội đàm, bản thỏa ước ngày 09.06.1946

ra đời, đại để :

 

Đối với Pháp : Quân Đội Cao Đài ngưng chiến và giải tán tất cả

các bộ đội lưu động kháng chiến.

 

Đối với Đạo : quân Pháp ngưng cuộc khủng bố, không bắt giam tín

hữu, bảo đảm quyền tự do hành giáo và truyền giáo. Mở cửa Ṭa

Thánh và các Thánh Thất được tự do tế tự trong phạm vi tôn giáo.

Trao trả Đức Phạm hộ Pháp và chư vị Thiên Phong về cố quốc, phục

hồi các quyền công dân.

 

Ṭa Thánh vẫn thành lập một đạo binh tự vệ để pḥng thủ do Đại tá

Nguyễn Thành Phương Tổng chỉ huy.

 

Từ đây, Ṭa Thánh dưới sự điều khiển của ngài Khai Đạo Hiệp

Thiên Đài, Phạm Tấn Đăi tổ chức lại Cửu Viện, sửa soạn các dinh

thự. Tín hữu mọi nơi lần lượt trở về tụ tập quanh Tổ Đ́nh.

 

8-/ Đức Phạm hộ Pháp hồi loan

 

Chiều ngày 21.08.1949 tàu Ile de France cập bến Vũng Tàu đưa Đức

Phạm Hộ và chư vị thiên Phong trở về cố quốc sau trên 5 năm Pháp

nạn.

 

Hôm sau, ông Frémolle, Đổng lư văn pḥng của ông Cédille, Ủy Ban

Cộng Ḥa Nam Kỳ mời giáo sư thượng Vinh Thanh cùng đi phi cơ ra

Cấp rước Đức Phạm Hộ Pháp. Sau khi về Sàig̣n, D'ức Ngài lưu lại

trên tuần lễ tại nhà ông Nguyễn Văn Hội gần chợ Thái B́nh để lo

các thủ tục và thương thuyết về việc Đạo với chính phủ Pháp.

 

Ngày 30.08.1946, toàn đạo và chính phủ Pháp làm lễ rước Phạm Hộ

Pháp về Ṭa Thánh. Đoàn xe gồm 5 chiếc hướng trên đường

Sàig̣n-Tây Ninh, lúc đó rất sầm uất.

 

Đến Ṭa Thánh 12 giờ trưa cùng ngày chức sắc Hiệp Thiên và Cửu

Trùng Đài, cả tín đồ sấp hàng dày đặc, có cờ xí nghinh tiếp Đức

Ngài. Sau khi đảnh lễ Đức chí Tôn, Đức Quyền Giáo Tông, một bửa

tiệc đánh dấu ngày sum họp và hồi cựu vị của Đức Phạm Hộ Pháp.

Tất cả mừng rở đến rơi lệ !.

 

 

 

 

TIẾt III

 

THỜI THÁI B̀NH THNH TR

 

(1947-1956)

 

1- Khái niệm về thời thái b́nh

 

Nh́n cục diện quốc gia khoảng thời gian (1947-1954) thật là bi

đát. Chiến tranh Việt pháp đến hồi quyết liệt thanh niên bị nướng

vào trận Điện Biên Phủ. Kết liễu là Hiệp định Genève (1954) ảngphân

chia việt Nam qua Bắc vĩ tuyến 17 lấy sông Bến hải thay Linh

Giang thời Trịnh Nguyễn.

 

Trong khi đó, toàn thể tín đồ Cao Đài d'ưp30c yên lành, nhất là

Thánh địa Tây Ninh suốt gần 10 năm không nghe tiếng súng, dù là

một tỉnh biên giới, rừng thiên lam chướng. Được vậy là nhờ có

quân đội Cao Đài bảo vệ. Các chức sắc được tự do hành đạo, khai

đàn, thượng trang, cầu kinh, tế tự. Nơi nào có Đạo là nơi đó bóng

cờ Bảo Sanh Nhâ Nghĩa Đại Đồng phất phới. Các chiến sĩ chẳng quản

đồng sâu nước mặn hay sằng dă thôn quê, họ chỉ một ḷng v́ Thầy

v́ Đạo, c̣n hy sinh đồnh lương eo hẹp của ḿh để lo cơ sở xă hội

như trường học, thiếu Nhi quân...

 

Tuy mang danh Quân đội Cao Đài nhu"ng tuyệt nhiên không có một vị

Chức sắc nào theo binh đội ngay cả sĩ quan tuyên úy cũng không,

dù chỉ đễ hướng dẫn tinh thần hay đạo lư.

 

chính khoảng thời gian này Đức Phạm Hộ Pháp đă gia công thuyết

đao, các tốc kư viên đă ghi chép và sưu tầm thành bộ "Lời Thuyết

Đạo" sách trên ngh́n trang. Quí nhất là quyển "Con đường Thiêng

Liêng Hằng Sống", và quyển "Bí Pháp" của Đạo Cao Đài. Các phố chợ

và đường sá cũng được kiến thiết trong thời kỳ này.

 

Thời kỳ này, chấm dứt bằng buổi Lễ Khánh thành Ṭa Thánh Tây Ninh

kéo dài trong 10 ngaặy vô tiền khoán hậu trong lịch sử Cao Đài

Giáo. Buổi lễ được hầu hết các quan khách quốc tế đến tham dự, có

cả Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm, người đă tạo ra biến cố 1955, chấm

dứt giai đoạn vàng son đó.

 

Số tín đồ Cao Đài, trong 10 năm này tăng một cách nhanh chóng :

1953 có một triệu rưỡi (1.500.000) người, chưa kể các chi phái,

đến năm 1954 lên đến 2 triệu rưởi (2.500.000), chưa kể mười lăm

ngàn (15.000) chiến sĩ Cao Đài. Cũng nên biết là người theo đạo

Cao Đài phải nhập môn, lập thệ và có "Sớ cầu Đạo" hẳn hoi. Tất cả

đều được liệt kê vào bộ sổ chứ không ước đoán.

 

2- Hội Nghị Nhơn Sanh và Phước Thiện

 

Sau khi Đức Phạm Hộ Pháp trở về Ṭa Thánh Đức Ngài triệu tập Hội

Nghị Nhơn Sanh để chấn chỉnh nguồn máy Đạo. Trong huấn từ khai

mạc Đại Hội, nỗi lo sợ cho vận nước tránh không khỏi cái nạn

chiến tranh loạn ly.

 

"Con Hạc lạc hồi quê, nh́n không nhớ tổ, xem nước non đổi vẻ thay

màu, thảm thiết nơi ḷng tuông châu đổ ngọc muốn kêu một tiếng

nỉ non giục kẻ tri âm hồi đáp. Ôi dưới bức thê lương nầy, ai là

tri kỷ tri âm cùng Bần Đạo, ngoài ra chư hiền hữu hiền muội.

Tưởng khi các bạn cũng có lẽ tội nghiệp cho con Hạc bịnh này mà

để tai lóng tiếng.

 

Vậy Bần đạo cúi ḿnh cậy các bạn một điều rất yếu thiết là ḥa

giọng yêu thương cùng con Hạc lạc nầy, đặng giục ḷng bác ái đến

cảnh an nhàn thiêng liêng cho toàn sanh chúng. Vừa để gót về tổ

đ́nh th́ đă quên mảnh thân tiều tụy hao ṃn, vội cầm quyền của

Đạo đặng sửa đường cho đẹp vẻ chơn truyền, nên tức cấp mở Hội

Nghị Nhơn Sanh đặng phục vụ quyền vạn linh như trước.

 

Mười lăm hôm sau, khai mạc Đại Hội Phước Thiện (tức ngày 15 tháng

12 Bính Tuất 1946), Đức Ngài nói :

 

"Hội Thánh có 2 cơ quan Hành Chánh và Phước Thiện thường tương

khắc nhau, song chưa t́m được chơn lư ḥa nhau. Ngày nào chưa ḥa

nhau là c̣n thất sách, bất lực th́ không thi thố phận sự cho ra

thiệt tướng được. Ấy vậy, mấy em phải rán sức định tâm, lấy tinh

thần vi chủ, nêu gương cho mấy em sau này đi theo. Nếu khối phàm

c̣n trong óc mấy em th́ không bao giờ đạt mục đích tối cao tối

trọng, phải có khối óc thiêng liêng mới mong thay h́nh Thánh Thể

Chí Tôn, đối với con cái Ngài là quần linh".

 

Như vậy, vừa khai Hội Nhơn Sanh và Phước Thiện vừa thông báo

chính thức cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn hay rằng Đức Ngài tái

thủ quyền Vạn Linh khuyên toàn Đạo chung hiệp xây dựng tổ đ́nh và

chơn truyền Đại Đạo.

 

3- Lễ Trấn Thần Ṭa Thánh Tây Ninh

 

Vào ngày 6 tháng 1 năm Đinh Hợi (27.01.1947) Đức Phạm Hộ Pháp làm

lễ trấn thần Đền Thánh.

 

Cũng nên nhắc lại ṭa Thánh khởi công năm 1933, bị ngưng trệ v́

ảnh hưởng lủng củng nội bộ. Năm 1936, Đức Ngài ra lệnh khởi công

tạo tác lại. Đến ngày 3 tháng 1 năm Đinh Hợp, các công thợ làm lễ

bàn giao Đền Thánh cất xong cho hội Thánh. Đến ngay này th́ Đức

Phạm Hộ Pháp dạy Lễ viện cúng giờ mẹo rồi làm phép trấn thần.

 

Đúng chín giờ ngày 06.01 Đinh Hợi, Đức Hộ Pháp mặc Tiểu Phục, dạy

thừa Sử Huỳnh Hữu Lợi và Truyền Trạng Phạm Ngọc Trấn theo Đức

Ngài đến Báo Ân Từ. Đức Phạm Hộ Pháp vào Điện làm lễ xong dùng

nước âm dương giao cho Thừa Sử Lợi, Đức Ngài lấy 3 bó nhang hành

pháp vong th́ giao cho Truyền Trạng Trấn.

 

Khi đến Đền Thánh, Đức Ngài ngó ngay Thiên Nhăn trước Phi tưởng

Đài rải Cam lồ thủy và cầm nhang làm phép trấn thần cái Cân Công

B́nh trên ngưỡng cữa Đức Ngài nói : "kể từ đây cái CÂn Công B́nh

Thiêng Liêng của Đức chí Tôn đă biếu tướng thiệt hiện ở thế gian

này, để phân công chiết tội và định phẩm vị ṭa son của toàn con

cái của Ngài."

 

Đức Ngài sang phía trái Đền Thánh, đứng ngang Cửu Trùng Đài cách

12 thước, trấn thần Long Mă. Trên lưng Long Mă có bộ Lạc Thơ Bát

Quái Đồ và cây kiếm, nên có câu "Long mă phu hà đồ". Long Mă chạy

về Tây mà đầu quay về phiá đông, ư nghĩa Đạo xuất từ Đông, đem từ

Đông sang Tây cứu vớt chúng sanh.

 

Kế Đức Ngài đến Bát Quái Đài ngó lên trấn thần Tam Thế Phật :

 

1/ Phật Brahma đứng trên một con thiên nga nh́n thẳng, đó là ngôi

   thứ nhứt, tượng trưng Thánh Đức, thuộc về Cơ Sanh Hóa.

 

2/ Phật Christina (hay Vishou?) đứng trên thất đầu xà (rắn 7 đầu)

nh́n thẳng bên phải về phía Tây Lang Ṭa Thánh. Đó là ngôi thứ

hai, tượng trưng phần âm có sanh có diệt, ấy là Cơ Bảo Tồn.

 

3/ Phật Civa : đứng trên con giao long nh́n qua trái. Đó là ngôi

thứ ba tượng trưng phần trí năo, thuộc Cơ Tranh Đấu.

 

Đức Phạm Hộ Pháp đến trấn thần bốn con Kim mao hẩu ở hai nấc

thang bên phải Đền Thánh. Rồi Đức Ngài vào cửa Cửu Trùng Đài,

sang qua bên tả trấn thần 4 con kim mao hẩu. Đức Ngài nói "Con

Kim mao hẩu rất mạnh và khoẻ, tượng trưng cái năng lực tinh thần

con người, nhờ nó mà qua các từng trời về cùng thầy."

 

Sau đó, Đức Ngài vào cửa bên trái Cửu Trùng Đài, trấn thần Thiên

Nhăn quanh tổ đ́nh, lần lượt xuống tới Bát Quái Đài, rồi sang bên

phải, cả thảy là 23 Thiên Nhăn ngó ra ngoài. Vào trong đến cửa

Cửu Trùng Đài bên phải, lên trấn thần tượng Bái Tiên và sang bên

tả trấn thần tượng Thất Hiền. Rồi Đức Ngài trở xuống bàn Hộ Pháp

trấn thần chữ Khí, Ngai Hộ Pháp có một con rắn 7 đầu : Thất đầu

xà, cái thân nó quấn dưới ngôi Hộ Pháp, đưa lê trên 3 đầu và gục

xuống 4 đầu, choàn cái ḿnh quấn dưới ngôi Thượng Phẩm và cái

đuôi dưới ngôi Thượng Sanh.

 

Khi tọa, Đức Hộ Pháp hai chân đạp lên hai đầu có tên AI, CỤ, hai

tay đè 2 đầu -, DỤC, 3 đầu sau lưng là :HỈ, LC, ÁI.

 

C̣n 23 thiên Nhăn nh́n vào trong Đền, Đức Ngài không trấn thần v́

người Đạo qú ngang sợ ô uế.

 

4/ Lễ Xuất Quân Quân Đội Cao Đài

 

Quân đội Cao Đài thoát thai từ hăng tàu Nitinan với danh hiệu Nội

Ứng Nghĩa Binh, đă tham gia cuộc đảo Pháp ngày 09.03.1945. Nhưng

măi đến 08.01 Đinh Hợi (1947) mới chính thức làm lễ xuất quận và

có quân kỳ 3 màu vàng, xanh, đỏ, trên góc bánh xe tiến hóa. Trong

dịp này, Đức Phạm Hộ Pháp có hiểu dụ : "Ngày hôm nay, lá cờ của

Chi Thế ra mặt với đời, cùng cây Thư Hùng Kiếm, y theo lời hứa

của Đức Chí Tôn lập cho nước Việt Nam một nền Quốc Đạo, cơ quan

cứu sanh cho vạn loại. Vậy quân đội Cao Đài phải giử ǵn thanh

gươm nghĩa hiệp, cờ nhân nghĩa cho vững vàng."

 

Việc thành lập quân đội có nhiều người công kích nhưng thật ra

không phải ư kiến riêng của Đức Phạm Hộ Pháp mà Đức Ngài phải

nhận lănh nơi quyền thiêng liêng giao phó và di sản những ngày

vắng mặt trên nước Việt Nam. Trong một đàn đàn cơ do Đức Ngài và

Ngài khai Pháp Trần duy Nghĩa cầu đêm mùng 01 tháng 03 năm Mậu

Thân (1948) Đức Lư Giáo Tông giảng dạy như sau :

 

"Hiền hữu khuynh tâm v́ lăo và Thượng Trung Nhựt lập quân đội khi

hiền hữu vắng mặt có phải? T́nh cảnh đôi ta phản trắc. Lăo là

thiện điều mà cầm quyền trị thế, c̣n hiền hữu tại thế mà nắm

thiên điều.

 

"Lăo xin nhắc, khi hiền hữu tịnh pháp tại Thủ Đức. Lăo đă nói :

cơ chuyển thế, Trời người hiệp nhứt, hiền hữu có nhớ, cười...

 

 

THI

 

"Việt thường hữu phúc xuất thiên quân,

Chuyển thế Chí Tôn dễ định tuần.

Trị loạn Nam Phương trừ mănh hổ

Thừa b́nh Bắc địa kiến kỳ tân

Hoàng triều hậu nhựt nghi tung cổ

Văn hiến tương lai khả hoán tân.

Thánh chúa hiền thần pḥ tổ nghiệp.

Khải ca định vận tại thu thân".

 

Trong "Bản Tuyên Ngôn" ngày 20.03 Bính Thân (30.04.1956), Đức Hộ

Pháp xáx nhận rơ việc lập Quân Đội Cao Đài như sau :

 

"Sau 5 năm 2 tháng bị đồ lưu nơi hải ngoại, Bần Đạo đă để hết sức

lực và tâm nảo đặng nghiên cứu và thi hành các phương pháp bảo vệ

phong trào cách mạng và giải ách lệ thuộc của Tổ Quốc và giống

ṇi. Lại t́m phương hay bảo thủ tinh thần dân tộc hầu đủ phương

thống nhứt hoàng đồ, tránh nạn Nam Bắc phân tranh, nồi gian xáo

thịt.

 

"Rủi thay! khi trở về nước Bần Đạo đă bị trong cảnh ngộ khó khăn

là sự chia rẻ của hai miền : Nam th́ Quốc Gia, Bắc th́ Cộng sản.

Trong cuộc tranh đấu họ đă gây thù kết oán với nhau rất nhau và

khối quân lực của Cao Đài lại là tay mở màn cách mạng đă đảo

chánh quyền Pháp Quốc. Bần Đạo trong khi ấy, không có ư định ǵn

giử tổn tại Quân lực Cao Đài. Nhưng v́ trường hợp tranh đấu đă

gây hấn quá kịch liệt giữa khối Quốc Gia và Cộng sản, nên cả tín

đồ Cao Đài đă bị khủng bố tàn sát quá thê thảm, và quá nhiều v́

lằn tên mũi đạn của Pháp và Việt Minh, nên buộc ḷng Bần đạo phải

chấp thuận hàng ngũ của khối quốc gia và trong phận sự thiêng

tranh đấu đặng thực hiện độc lập.

 

"Khi Đức Bảo Đại về nước, chính ḿnh Bần Đạo giao trọn quyền sử

dụng Quân Đội Cao Đài cho Đức Ngài điều khiển trong hàng ngũ Quân

lực Quốc Gia. Kịp khi Đức Ngài điều khiển trong hàng ngũ Quân lực

Quốc Gia. Kịp khi Đức Ngày đi Pháp mới tạm giao Quân lực ấy lại

cho Bần Đạo. Trong lúc vắng mặt Đức Ngài đă ra lịnh cho hai

chánh phủ của Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm và Bửu Lộc thi hành hợp

pháp quốc gia hóa quân đội Cao Đài. Nhưng sự thi hành ấy vẫn kéo

dài cho tới ngày Chánh phủ Ngô Đ́nh Diệm thọ phong toàn quyền

cũng chua quyết định. Bần Đạo phải nhắc nhở và cầu cho Chánh phủ

Ngô Đ́nh Diệm quốc gia hóa Quân Đội Cao Đài một cách hợp pháp

(1).

 

 

"Bần Đạo không buổi nào muốn giải quyết vận mạng nước nhà với

quân lực, mà chỉ dùng phương đạo đức đặng đem ḥa b́nh hạnh phúc

lại cho giống ṇi".

 

Theo Hiệp ước ngày 08.01.1947, giữa chánh phủ pháp và đức Phạm Hộ

Pháp, nên Đức Ngài kêu gọi tín đồ giúp Pháp. Nhưng theo Thánh

Lịnh số 149 ngày 21.01 Kỷ Sửu (21.02.1949) th́ : "Nghĩ v́ Quân

Đội CAo Đài chẳng có lẽ ǵ, bởi giúp quân đội Pháp thi hành hiệp

ước, mà bỏ qua cho được cái sứ mạng thiêng liêng tái phục hoàng

đồ phụng sự tổ quốc. Nghĩ v́, nhà cầm quyền Pháp không thật hành

đúng theo hiệp ước, ngày 08/01/1947, nên Hội Thánh nhứt định cho

toàn đạo hữu Cao Đài giáo sẽ giải giáp đứng trung lập mà thôi.

 

Xem thế, người Cao Đài thừa biết rơ giả tâm của Pháp. Họ hợp tác

với Pháp chẳng qua v́ cái thế lúc bấy giờ, nhưng vẫn ngầm chống

lại Pháp. Bằng chứng hiển nhiên là Tướng Trịnh Minh Thế vào rừng

ngày 07.06.1951 lập chiến khu để chống Pháp và Việt Minh với danh

nghĩa "MT TRN LIÊN MINH QU-C GIA KHÁNG CHIẾN" gọi tắt là "LIÊN

MINH". Sau khi quốc gia hóa Quân Đội Cao Đài, tướng Trịnh Minh

Thế về thành hợp tác với chính phủ Ngô Đ́nh Diệm, nhu"ng bị đạn

chết một cách mờ ám vào tháng 5 năm 1955 trên cầu Tân Thuận (Nh

Bè).

 

5-/ Lễ rước quả càn khôn an vị Ṭa Thánh

 

Quả càn khôn được Thánh Giáo chỉ vẻ từ lâu, nhưng chưa thực hiện

được như Thánh ư. Đến 08/01 Đinh Hợi mới an vị được quả càn khôn

mà toàn Đạo ngày nay đồng kinh bái.

 

Đức Hộ Pháp đă thuyết giảng : "Ngày nay đă dời Quả càn khôn về

Đền Thánh.

Đức Chí Tôn đă ngự nơi ngai của Ngài, chúng ta nên mừng cho nhân

loại được ảnh hưởng nơi Đền Thánh này mà tiến hóa. Đền Thánh kể

từ đây, không c̣n ai xem nó là vôi, cát, xi măng nữa, mà là khối

đức tin của toàn con cái Đức Chí Tôn đă dựng nên h́nh vậy. Nhờ

những bàn tay khéo léo của mấy em, mấy con thợ hồ, thợ mộc đă

chịu đói rách cực khổ hơn 10 năm trường mới tạo nên. Từ đây mọi

sắc dân nào có đủ đức tin nơi Chí Tôn là chúa tể vạn loại th́ dẩu

nơi phương trời nào, họ sẽ hướng về Đền Thánh mà cầu nguyện hằng

ngày hằng giờ đễ mong hưởng phước lành của Ngài. Đền Thánh làm

xong, nền Đạo đă vững vàng chúng ta sẽ đem hạnh phúc lại cho

thiên hạ trong buổi chuyển thế này".

 

6-/ Báo Ân Từ

Nơi thờ phượng Đức Phật mẫu hiện nay gọi là Báo Ân từ. Đền này

được trần thiết thờ Đức Phật Mẫu từ ngày 01.02 Đinh Hợi (1947)

(1).

Đức Phạm Hộ Pháp trong ngày lễ an vị có giảng :

"Từ đây chúng ta rất hân hạnh thờ Phật Mẫu tại Báo Ân Từ. Mới mở

Đạo, Bần Đạo biết công nghiệp của Phật Mẫu thế nào. Ngài và Cửu

Vị Nữ Phật d́u dắt con cái của Đức Chí Tôn từ ban sơ đến ngày đem

chúng ta giao lại cho Thầy. Ngày mở Đạo, v́ cái t́nh cảm thấy,

các vị Đại Thiên Phong xin thờ Phật Mẫu ở Đền Thánh. Phật Mẫu cho

biết quyền Chí Tôn là chúa, c̣n Phật Mẫu là tôi, mà tôi th́ làm,

sao ngang hàng với chúa. Chúng ta thấy Phật Mẫu cung kính Chí Tôn

đếnn dường ấy".

 

7-/ Bộ Quốc Sự Vụ

Phiên nhóm 09.02 Đinh Hợi (1947), toàn hội đă Đồng ư lập Bộ Quốc

Sự Vụ Đức Ngài trong dịp này có thuyết giảng như sau :

"Chúng ta cũng dư hiểu hiện giờ các liệt cường như Pháp-Anh, Mỹ,

Nga mỗi nước đều có một chế độ chánh trị riêng. Nói đến Chánh

trị, chúng ta nên hiểu rằng chế độ chánh trị là do một mục đích,

một chủ nghĩa một tinh thần của quần chúng tạo ra. Quần chúng của

mỗi nước v́ cái nạn độc tài của quân chủ hay của vị thủ lănh mà

phát sanh một tinh thần cách mạng. Theo tôi thấy th́ quần chúng

dùng hai phương pháp sau này :

- Phương pháp thứ nhứt : Tranh đấu về tinh thần như biểu t́nh

phản động, hoặc ngoại giao tranh đấu, hoặc bất hợp tác hay dùng

kinh tế để mà bóp chặt đánh đổ một chế độ.

_ Phương Pháp thứ nh́ : Tranh đấu về phương pháp trên bị đàn áp,

th́ quần chúng họp lại thành khối, tạo nên một lực lượng binh bị

tương đương làm hậu thuẩn đối phó lại, để yểm trợ cái chủ nghĩa

 

- Chánh Phủ Ngô Đ́nh Diệm đă quốc gia hóa Quân Đội Cao Đài vào ngày

02.05.1955.

 

(1) Đền thờ Phật Mẫu chính chưa thiết lập, định xây trên lộ B́nh

Dương, ngoài cửa Ḥa Viện.