KHỔNG TỬ

 

* Biên khảo Huỳnh Tâm

 

Khổng Tử vốn là con cháu đời sau của nước Tống (Hà Nam),

 ḍng dơi nhà Ân.  Trong bộ Sử Kư, một bộ sử đáng tin cậy nhất của Trung Quốc

 chép rằng : Trong bộ Sử Kư, một bộ sử đáng tin cậy nhất của Trung Quốc chép rằng :

 

Tổ tiên Ngài là người nước Tống, tên là Khổng pḥng Thúc.

       Khổng Pḥng Thúc sinh ra Bá Hạ hạ sinh ra Thúc Lương Ngột ".

        Thúc Lương Ngột tức là thân sinh của Khổng Tử, làm quan vơ,

 lấy người vợ thứ nhất sinh hạ được 9 người con gái.

         Không có nam tử để nối ḍng, ông lại lấy thêm người vợ thứ

 hai và người vợ lẽ nầy sinh được một người con trai tên là Mạnh B́

 nhưng chẳng may mang tật què chân.

        Măi về già người vợ lẽ không sinh thêm được người nào nữa

 nên ông mới lấy bà Nhan tên là Trưng Tại ( thường gọi bà thứ 3 nầy

 là Nhan Thị ) và là người đă đúc nắn nên vị Vạn thế Sư biểu, thầy

 học muôn đời của loài ngoài.

         Vào khoảng thế kỷ thứ V trước Thiên Chúa, về phía Đông nước

 Lỗ ( nay thuộc tỉnh Sơn Đông nước Trung Hoa ) xuất hiện một nhân vật

 xuất chúng, ấy là Đức Khổng Phu Tử.

         Khổng Phu Tử người làng Xương B́nh, huyện Khúc Phụ, nay

 thuộc phủ Duyên Châu, tỉnh Sơn Đông nước Trung Hoa.

        Tuy Ngài ḍng dơi người nước Tống ( Hà Nam ) nhưng sinh

 quán tại Sơn Đông là v́ ông tổ ba đời của Ngài dời sang nước Lỗ

 ( Sơn Đông ).

        Ngài sinh vào mùa đông, ngày Canh Tư tháng 10 năm thứ 21

 đời vua Tương Công nước Lỗ, một nước chư hầu nhà Chu, tức năm

 Canh Tuất, niên hiệu thứ 21 đời vua Linh Vương nhà Chu (551 trước

 Tây Lịch kỷ nguyên ).

        Theo các nhà làm lịch và theo sự khảo cứu th́ ngày Canh

 Tư tháng 10 Âm Lịch nhà Chu, tức là ngày 28 tháng 9 bây giờ.

         Truyện kể rằng :

        Bà Nhan Thị thường lên núi Ni Khâu cầu tự, cho nên nhân

 điểm ấy được mang thai và sau khi sinh hạ lại đặt tên Ngài là

 Khâu tên tự là Trọng Ni.

         Lại cũng có nhiều giả thuyết ở sách khác chép rằng v́ khi

 sanh ra thấy tráng Ngài cao và gồ lên, cho nên mới đặt tên Ngài là

 Khâu.

         Khâu nghĩa là cái g̣.

         Khổng Phu Tử sinh trưởng theo lẽ tự nhiên cũng như mọi

 người nhưng v́ sau nầy Ngài là một bậc Giáo Tổ có công lớn với hậu

 thế nên người Trung Hoa (một dân tộc thích sống một cuộc đời lư

 tưởng tuyệt đối và vĩ đại) đă phóng đại nhân vật cao cả Khổng Tử

 bằng những thần thoại huyền bí. Tương truyền trước khi có mang

 Khổng Tử, bà Nhan Thị thấy con Kỳ Lân nhả tờ ngọc thư có chử đề

 rằng : " Thủy tinh chi tử, kế suy Chu vị tố vương ", nghĩa là :

 Con của Thủy tinh, nồi nhà Chu đă suy mà làm vua không ngôi.

 Thấy vậy, bà Nhan Thị bèn lấy dây lụa buộc vào sừng con Kỳ Lân.

 Nhưng được mấy hôm th́ con Kỳ Lân biến mất. Và từ đó bà Nhan Thị

 bắt đầu mang thai. Chừng sinh ra Ngài bổng dưng có hai con rồng

 hiện xuống quấn chung quanh nhà và có 5 ông lăo hiện thân của 5

 v́ sao từ trên trời bay xuống đứng trầm mặc giữa sân. Cùng lúc

 ấy, trong pḥng bà Nhan Thị nghe âm nhạc nổi lên vang rền cả

 không gian và có tiếng nói từ trong ấy vọng ra : " Thiên cảm

 sinh thánh tử " (Trời cảm ḷng cầu nguyện cho sinh ra con

 thánh). Bấy nhiêu đó cho ta thấy công nghiệp của Khổng Phu Tử

 đối với loài người không phải là nhỏ và việc sáng lập ra Nho

 giáo của Ngài đă được người sau sùng thượng, chiêm bái như một

 nhân vật siêu phàm.

 Chính sử Trung Quốc có chép rằng năm lên ba tuổi Khổng Phu Tử đă

 chịu tang cho thân phụ.

        C̣n về học hành không thấy sử chép thế nào cả.

        Chỉ thấy sử nói rằng lúc nhỏ Ngài thích chơi với lũ trẻ

 và thường hay bày đồ cúng tế. Căn cứ vào đó người đời chứng tỏ

 cốt tính của Ngài là Người lấy điều lễ nghĩa làm trọng.

        Tuy là con ḍng cháu giống của một nước lớn nhưng xuất thân

 trong một gia đ́nh hàn vi, Khổng Tử thường nói :

        " Tôi thuở nhỏ là con nhà nghèo nên làm được nhiều việc tầm

        thường ". Sách Luận Ngữ Chương Tử Hản ).

         Năm Ngài được 19 tuổi th́ lập gia đ́nh và xuất chính với

 chức nhỏ Ủy lại.

        Chức nầy chuyên coi việc gặt thóc ở kho.

        Sau đó lănh chức Tư Chức Lại, chuyên coi việc nuôi ḅ, dê

 để dùng làm cho việc cúng tế.

        Sách Mạnh Tử có nói khi Khổng Tử đang làm hai chức nầy :

        " Đức Khổng Tử từng giữ chức Ủy Lại, Ngài nói sổ sách tính

 đúng là được rồi.

        Khi giữ chức Thăng Điền ( Tư Chức Lại ), Ngài nói, trâu dê

 chóng lớn, béo là được rồi ".

        Thuở ấy, Tuy Ngài c̣n trẻ tuổi nhưng được tiếng là người

 giỏi nên quan nước Lỗ là Trọng Tôn Cồ cho hai con ḿnh là Hà Kị

 và Nam Cung Quát theo Ngài học lễ.

        Vốn là người học theo nho thuật, Ngài rất chú ư về

 lễ nghi và những phép tắc của cuộc sống đế vương đời trước.

         Lúc Ngài được 28, 29 tuổi, muốn được đến học ở Lạc Ấp là

 chổ Kinh sư nhà Chu nhưng v́ đường xa, nhà nghèo mà tiền lộ phí

 th́ quá tốn kém nên mộng không thành. Ngài thường để lộ sắc buồn

 ra bên ngoài, với những lời ước muốn cho ư định thành tựu là chờ

 dịp may sang Lạc Ấp học hỏi.

        Người học tṛ kề cận bên Ngài là Nam Cung Quát một hôm đem

 việc ấy bẩm với Lỗ Hầu, là vua nước Lỗ.

        Lỗ Hầu vội cho một cổ xe song mă và những người hầu hạ đưa

 Ngài đi du học.

         Ở Lạc Ấp có nhà Minh Đường của Chu Công lập ra để chứa

 những luật lệ và những bảo vật cùng những h́nh tượng của các vị

 thánh hiền đời trước.

        Ngài lấy việc lui tới nơi đây để khảo cứu tường tận và

 rất lấy làm thích thú, Ngài thường đi xem những chế độ nghi thức,

 nghi lễ nơi miếu đường hay những nơi tế Giao, tế Xă.

         Phàm ở đâu có việc ǵ quan hệ đến sư tế lễ không chổ và

 lúc nào Ngài không  đặt gót đến để xem tường tận

         V́ tính ưa thích học hỏi về Lễ, Ngài lại đến xin yết kiến

 Lăo Tử để hỏi lễ và cầu gặp Trành Hoằng để hỏi Nhạc. Tư Mă Thiên

 trong bộ Sử Kư có ghi cuộc vấn đáp giữa Lăo Tử và Khổng Tử như

 sau :

         _ " Khổng Tử đến hỏi Lăo Tử về Lễ. Lăo Tử đáp rằng :

         Người quân tử gặp thời th́ đi xe, không gặp thời th́ đội

 nón lá mà đi chân.

         Ta nghe :

        Người buôn bán giỏi, khéo chứa của, coi như người không

 có ǵ ; người quân tử có đức tốt, coi diện mạo như người ngu dại.

         Ông nên bỏ cái khí kiêu căng, cái ḷng ham muốn cùng cái

 sắc dục và dâm chí đi ; những cái ấy đều vô ích cho ông ".

         Khổng Tử sau khi nghe chuyện về bảo các đệ tử rằng :

         _ " Chim th́ ta biết nó bay được, cá th́ biết nó lội được,

 giống thú th́ ta biết nó chạy được, chạy, bay, lội, ta có thể giăng

 lưới mà bắt được. Đến như con rồng th́ ta không biết nó cưỡi

 gió, cưỡi mây bay lên trời lúc nào. Hôm nay ta thấy Lăo Tử như

 con rồng vậy :

         " Ngô Kim nhật kiến Lăo Tử, kỳ do long gia ".

         Ở Lạc Ấp ít lâu, Khổng Tử trở về nước Lỗ. Từ đó tiếng tăm

 của Ngài càng nổi dậy lừng lẩy và sự học của Ngài có cơ phát nhảy

 nhanh chóng, to rộng hơn trước. Học tṛ các nơi nghe danh theo

 học càng lúc càng nhiều.

         Nhưng về đường tiến thân vào quan trường Ngài vẩn không

 được vua Lỗ tín dụng.

        Đến năm 35 tuổi, v́ nước Lỗ có loạn, Ngài bỏ sang nước Tề.

        Tề Cảnh Công đóng Ngài đến để hỏi việc chính trị.

        Dịp nầy, Ngài trổ hết tài lực của ḿnh với vua Tề.

        Ngài bàn luận chuyện chi vua Tề đều khen là chí lư, đến

 nổi Tề Hầu toan đem đất Ni Khê mà phong cho Ngài.

        Nhưng chẳng may, quan đại phu nước Tề là Yến Anh can

 ngăn nên vua không cho. Thấy thế, Ngài bèn bỏ đi trở về nước Lỗ.

         Bấy giờ Ngài đă được 35, 36 tuổi. Ngài chú tâm vào việc mở

 trường thâu học tṛ dạy dỗ. Cũng từ đấy Ngài tĩnh tâm suy xét

 tinh tường cái đạo của Thánh hiền đời trước.

         Năm Ngài 43 tuổi, nước Lỗ có việc Họ Quí tiếm quyền vua, bồi

 thần Dương Hổ làm loạn, Ngài càng chán ngán cho thế sự và vững

 tâm ẩn cư.

        HON Lộ CỦA KHỔNG TỬ :

         Năm Ngài được 51 tuổi (501 trước Tây Lịch kỷ nguyên) nhằm

 năm thứ 19 đời vua Kinh Vương nhà Chu, vua nước Lỗ là Định Công bổ

 nhiệm Ngài làm quan Trung Đô Tể, như là quan kinh thành phủ doản

 ngày nay.

        Năm sau, Ngài được thăng lên chức Đại Tư Khấu ( Tư

 Không, Tư Đồ ) giống như chức quan H́nh bộ Thượng thư bây giờ.

 Trong thời gian nầy Ngài làm được những điều đáng ghi nhớ như :

 đặt ra luật lệ để cứu giúp kẻ nghèo, chế ra phép tắc, định rỏ

 việc tống táng người chết.

        Nhất là việc định tôn ty trật tự lớn nhỏ, trai gái phân

 biệt, người bỏ tính tham lam, những của rơi ngoài đường không

 không nhặt, v́ thế gian phi không có, h́nh pháp tuy đặt ra nhưng

 không hề áp dụng đến.

         Năm 56 tuổi, nghĩa là bốn năm sau ngày lĩnh chức Đại Từ

 Khấu, Ngài được vua nước Lỗ thăng lên chức Tướng sự. Từ đó với

 quyền Tể Tướng, Ngài quyền nhiếp việc chính trị trong nước.

         Sử Trung Quốc có chép rằng : Khổng Tử lên giữ chức Tể

 Tướng được bảy ngày th́ Ngài đem tên Thiếu Chính Măo, là quan

 Đại Phu xảo quyệt gian hiểm, ác độc thời bấy giờ ra hạch tội và

 giết đi.

        ( Khi ấy các quan đại phu nước Lỗ là Quư Tôn, Trọng Tôn

 và Mạnh Tôn cầm quyền chánh không vị nể và coi nhà vua ra ǵ, khiến

 nước Lỗ biến thành cục diện chia rẽ trong nội bộ. Trước t́nh thế

 nầy, Khổng Tử nhận thấy nền thống nhất đất nước bị hăm dọa, Ngài

 liền hạ lệnh triệt bỏ ba Đô " Phí, Hậu, Thành " đồng thời giết Thiếu

 Chính Măo là một quan Đại phu âm mưu gây cuộc phiến loạn. Trong

 ṿng ba tháng, sau nầy nhiếp chính, việc chánh trị trong nước do

 Ngài chỉnh trang rất hoàn tất :

        Trật tự, lề lối phân minh, trai gái đều lấy câu " Trai thời

 trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh là câu trau ḿnh " làm đạo

 sống.

        Những yếu tố căn bản đó là lư đương nhiên đưa nước Lỗ sớm

 trở lại thanh b́nh, thịnh trị nhanh chóng.

        Phải nói trong thời kỳ nầy Ngài luôn luôn biểu lộ chủ trương

 " Chính danh Chủ nghĩa " diệt trừ tận gốc những bọn loạn thần tặc

 tử và cương quyết bảo vệ nền thống nhất xứ sở.

         Nhận thức được sự hưng thịnh của người bạn láng giềng nước Lỗ,

 nước Tề t́m đủ mọi cách để làm giảm sút sự vươn lên của Lỗ.

         Trong cái kế an toàn và linh diệu nhất là dùng đến mỹ nhân kế.

 Biết ư các vua chúa thời xưa rất ưa thích gái đẹp, ngựa tốt, vua

 Tề sai sứ mang 80 người gái đẹp lộng lẩy biết múa hát giỏi và 30

 con ngựa khỏe, chạy giỏi dâng hiến cho Lỗ Hầu ở cửa Nam thành

 nước Lỗ. Thưở ấy quan Đại phu, một bậc quyền thần trong nước Lỗ,

 là Quư Tôn Tư hai ba lần ra tiếp diện có ưa ư thích nên tâu bẩm

 với Lỗ Hầu ra xem. C̣n ǵ bằng nữa ! Lỗ Hầu say mê, bỏ việc

 triều chính ba bốn ngày không ra ngự.

         TRÊN ĐƯỜNG CHU DU THIÊN H CỦA KHỔNG TỬ :

         Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược th́ c̣n ǵ hứng khởi nhịp

 nhàng nữa.

        Hơn nữa, việc ấy là việc nước.

        Quan quân sư dù giỏi đến đâu mà việc nước chấp chính phải

 một ông vua sắc dục đam mê th́ một sớm một chiều nước non nếu

 không chịu khuynh đảo th́ án rơi đầu cũng kề cổ chờ sẳn cho kẻ

 trung thần, bên cạnh là bọn nịnh thần, bè phái hả hê đắc chí mặc

 t́nh thêm bớt tâu rổi dèm pha và cười say nghiêng ngă.

         Bao nhiêu hành động bất minh của Lỗ Hầu đă cho Khổng Tử

 một cái nh́n viễn tượng đen tối, tang thương.

        Liệu không thể lấy sức người cô đơn chống nổi cuồng phong

 từm uôn phương vũ lộng tới, nhất là bảo táp, của đam mê, say đắm

 cả vua và bầy tôi nịnh thần, bất tài trong triều bấy giờ, cho nên

 nhân lúc nhà vua ŕnh rang yến ẩm làm lễ tế giao, không phân chia

 thịt cho các quan, Ngài liền bỏ đi sang nước Vệ.

         Hành động nầy có nhiều người không rơ tâm sự Ngài nên

 hỏi rằng :

         Ngài là bậc thánh nhân mẫu nghi thiên hạ sao lại v́ việc

 nhỏ mọn như thế mà lại bỏ việc nước ?

         Sự thắc mắc ấy có lẽ thầy Mạnh Tử sau nầy mới giải tỏ

 trong thiên Cáo Tử.

        Và nhờ cái ư kiến đó sau đây của Mạnh Tử, ta mới thấu hiểu

 được cái tính kính cẩn và sự chính chắn trong tư tưởng và việc

 làm của Đức Thánh Nhân ấy :

         _ Khổng Tử xuất chính với chủ đích nhờ dịp thuận tiện sẳn

 có để phổ biến cái đạo của ḿnh. Chủ tâm của Ngài khi hành đạo là

 đem việc lễ nghĩa làm đầu, lên trên tất cả mọi việc.

        Thế mà người được coi gương mẫu đứng đầu trong một quốc gia

 là vua, nhà vua không mảy may thiết ǵ đến lễ nghĩa của bậc phụ mẫu

 chi dân th́ chẳng đi làm sao được :

        " Vậy sự Ngài bỏ đi là v́ Ngài biết vua không muốn dùng ḿnh,

 chứ không phải v́ miếng thịt.

        Vă Ngài theo cái chủ nghĩa tôn quân, dẫu thế nào cũng phải giữ

 trọn cái đức của vua, cho nên Ngài mới nhân một điều lỗi nhỏ mà bỏ đi

 để không lộ cái điều dở của vua ".

         Sang nước Vệ được 10 tháng, Ngài thấy vua Vệ là người không

 biết để ư và chọn dùng người nên Ngài bỏ đi sang nước Trần.

        Nhưng dọc đường khi đến địa giới nước Khuông, dân quan ở đây

 nhận lầm Ngài là một tên tàn bạo bất nhân tên là Dương Hổ mà từ lâu

 mọi người ta thán oán ghét, nên đem quân ra chận đánh. Thầy Tử Lộ là

 học tṛ của Ngài thấy bọn người vô lễ đă xúc phạm đến Thầy ḿnh liền

 đứng ra chống cự nhưng Khổng Tử vội can ngăn và bảo Thầy Tử Lộ

 đem đàn ra gảy, hát để Ngài ung dung họa theo. Thấy hành động và

 nghe thấy được tiếng đàn câu hát của 2 thầy tṛ Ngài, người nước

 Khuông biết đă lầm liền xin lỗi và rút quân về.

        Bước đường đi gặp sự trắc trở khó khăn, Ngài không đi nữa và

 cùng Thầy Tử Lộ quay về nước Vệ một lần nữa.

        Lần nầy, nàng Nam Tử vợ của vua nước Vệ, một người đàn bà có

 nhan sắc quyến rủ và nổi tiếng về đường dâm đăng có ư muốn tiếp Ngài.

 Lúc đầu, Ngài nhận thấy sự tệ bạc của vua Vệ không tiếp Ngài mà lại

 để cho người đàn bà không đứng đắn tiếp Ngài nếu nhận lời th́ e thể

 diện của Ngài bị rẻ khinh.

        Ngài quyết từ chối.

        Nhưng sau nầy Ngài bất đắc dĩ vào yết kiến Nam Tử.

        Theo tục lệ nước Vệ lúc bấy giờ là ai đến nhận chức nước

 nào th́ phải vào yết kiến vợ ông vua nước đó.

        Thầy Tử Lộ thấy thế không hài ḷng và buồn bă.

        Ngài giải cho học tṛ ḿnh nghe và cuối cùng Ngài nói :

        " Dư sở phủ giả, thiên yếm chi ! Thiên yếm chi "

 ( Nếu ta có làm điều ǵ không phải, th́ Trời bỏ ta !

         Trời bỏ ta ! - Sách Luận ngữ ).

         Chiều Nam Tử, vua Vệ mời Ngài đi xe theo sau xe Vua và

 Nam Tử du ngoạn ngoài thành thị, có người thấy thế biếm nhẻ rằng :

 " Ḱa ! Đạo Đức chạy theo cái Đẹp !" Ngài nghe thấy và buồn bă than

 rằng :

        " Ngô vị kiến hiếu đức như hiếu sắc giả giả " :

         Ta chưa thấy ai yêu cái đức tốt như yêu cái sắc đẹp vậy "

         ( Sách Luận Ngữ : Tử Hản " )

         Ở nước Vệ, từ sự chán nản nầy đến sự chán nản khác càng

 ngày càng dồn dập, hiện đến trong tâm tư Ngài, nhất là thiện chí và

 niềm tin của Ngài bị thử thách quá nặng nề để cuối cùng gần như

 không kết quả ǵ cả.

        Buồn bă, ngài sang nước Tống may ra t́nh thế có thể khá hơn.

        Nhưng sự ước muốn của Ngài bị Hóa Công ghen ghét và cố tâm

 thử thách cho nên đến đây chẳng những hoàn toàn trái ngược lại ư

 tính mà tánh mạng Ngài suưt bị quan Tư Mă nước Tống là Hoàn Khôi

 hăm hại.

        Trước t́nh thế đau đớn ấy, Ngài cố vượt sang nước Trần.

        Ở đây, Ngài được vua Trần tôn kính và trọng đăi.

        Nhưng nước Trần lúc bấy giờ giặc giả nổi lên lung tung,

 cuộc sống luôn bị đe dọa, v́ thế nên sau ba năm trời cố gắng

 hành đạo vẫn bị lăng quên, Ngài quay gót trở về nước Vệ lần thứ

 ba.

        Lần nầy Ngài tưởng Vua Vệ sẽ giúp Ngài nhưng vua Vệ vẫn dửng

 dưng lạnh lùng.

         Trước thời gian vun vút đi nhanh mà thời vận th́ cứ lặng lờ

 chảy một cách yếu ớt gần như vô vọng.

        Ngài đâm ra hốt hoăng.

        Có lúc nghĩ đến việc đời " mục nát như cỏ cây " Ngài toan đem

 ḿnh ra thí nghiệm như một ván bài không ăn th́ thua.

        Đó là việc Ngài định sang giúp Phật Bật. Phật Bật là người bạn

 thân với Khổng Tử.

         Thầy Tử Lộ vội hỏi Ngài :

         - Ngày trước đệ tử được nghe Phu Tử dạy rằng : " Người quân

 tử không có nhập đảng với người nào đả làm điều bất thiện, nay Phật

 Bật lấy đất Trung Mâu làm phản mà Phu Tử lại định đến giúp là

 nghĩa làm sao ?

         - Ta có nói điều đó thật, nhưng cũng đă nói thêm rằng :

         " Vật ǵ đă cứng th́ dẫu có mài cũng khó ṃn được, vật ǵ đă

 trong sạch th́ dẫu có dấn vào chổ đen chổ bẩn cũng không đen không

 bẩn được. Ta đây há lại là quả dưa chỉ để treo mà không ăn được hay

 sao ? "

         Ư Ngài muốn nói :

        Khi Ngài là người có chính danh và biết lấy sự

 ngay thẳng, liêm khiết để theo giúp Phật Bật và dần dần cảm hóa

 được người lầm đường đó quay về nẻo chánh th́ dù việc theo giúp

 Phật Bật là không chính đáng, nhưng hành động có chủ đích tiến

 đến thành quà hợp lư như vậy th́ có phản lại cái đạo ngay đâu.

        Hơn nữa, làm người sinh ra trong cơi đời có tài trí th́

 phải biết ư thức được thiên chức của ḿnh để hoạt động xông xáo

 giúp đời, ứng dụng vào đời chớ chẳng lẽ để cho ngọc kia lu mờ vô

 dụng một cách vô nghĩa hay sao ?

         Thất chí Ngài " toan trở nghề cơ tắc " bằng ư nghĩ cho hả

 cơn đau tức chứ chắc ǵ Ngài đă quyết tâm hành sự ?

         Và rồi Ngài không nhắc đến việc đó và không đi nữa.

         Sau Ngài thêm ư định sang giúp cho quan Đại Phu nước Tấn là

 Triệu Ưởng. Nhưng khi đến sông Hoàng Hà lại có tin cho Ngài biết

 là Triệu Ưởng là kẻ vô đạo nhẫn tâm sát hại hai người hiền sĩ là

 Đậu Minh Độc và Thuấn Hoa nên Ngài vội vă quay bước về nước Vệ.

 Lần nầy Ngài quyết tỉnh tâm suy đạo và an phận được ba năm. Một

 hôm, vua Vệ vời Ngài đến bàn việc binh. Lúc Ngài cùng vua bàn

 bạc cơ sự bỗng vua thấy đàn chim nhạn bay và kêu trên trời, vua

 ngẩng đầu lên trông một cách say sưa và lơ đảng việc Ngài đang

 nói. Hành động đó đă tố cáo vua là người tầm thường không biết

 đặt việc trọng đại quốc gia lên hàng đầu quốc sách, không lịch

 sự với người mà ḿnh có thể nhờ vả sau nầy và chắc chắn vua

 không có ư trọng dụng Ngài, một lần nữa Ngài lại sang qua nước

 Trần. Cũng năm nầy, quan Đại quốc Đại Phu Quư Tôn Tư nước Lỗ mất

 dặn con là Ph́ nên đón Ngài về quán xuyến, trông nom việc binh

 tướng giúp nước. Ph́ không thực thi đúng lời dặn của cha, lại đi

 đón người học tṛ của Khổng Tử là Nhiễm Cầu.

         Đến nước Trần được ít lâu Ngài lại cảm thấy cuộc đời cũng

 vẩn lờ đờ trôi trong vắng vẽ, lạnh lùng nên Ngài lần bước hy vọng

 t́m sang nước Thái rồi lại cứ thế Ngài lại tiếp tục sang nước Diệp.

         Bấy giờ vua nước Sở đă nghe tiếng Ngài là một bậc quân tử

 biết nuôi chí để t́m lư tưởng, một lư tưởng nhân sinh cao cả, vua

 ngưỡng vọng và cho người t́m đón Ngài đến nước Sở trọng đăi.

        Nhà vua c̣n định đem 700 dặm đất kính dâng và phong cho

 Ngài tự trị, nhưng chẳng may thời Ngài chưa có nên bị quan Lệnh Doăn

 là Tử Tây dèm pha, ngăn cản quyết liệt. Một lần nửa Ngài ghi lên

 trang nhật kư chông chênh của đời ḿnh thêm một thất vọng chua cay.

         Ngài trở lại Vệ Quốc lần cuối cùng với mớ tâm sự ngổn ngang.

 Mối hy vọng ngày nào nay đă trở thành vô vọng. Có lẽ đâu đời bạc đăi

 Ngài một cách gần như tàn nhẫn đến thế ? Ngài đi đến đâu cũng

 gặp trắc trở và tất cả các nhà vua đều không một ai quyết tâm

 hay muốn dùng Ngài.

        Lư lẽ chính là v́ các quan Đại Phu sợ Ngài rồi sẽ chiếm mất

 địa vị của ḿnh nên họ quyết t́m đủ mọi cách ngăn trở bước đường

 tiến thân của Ngài.

         Vả lại, thời bấy giờ các vua chư hầu muốn lấn quyền Thiên

 Tử, các quan Đại Phu th́ lấn quyền các vua chư hầu mà đường hướng

 chủ nghĩa của Khổng Tử th́ cố tôn phù nhà Chu, giảm quyền thế các

 nước chư hầu và tôn quyền các vua chư hầu để giăm quyền các quan

 đại phu.

        Ngài muốn sắp đặt việc xă hội theo một hệ thống phân quyền.

        Ai phải ở vào địa vị ấy, từ lớn xuống nhỏ, từ dưới lần lượt

 tiến quyền lên trên theo thứ trật " tiệm tiến ".

        Trong Luận Ngữ, Ngài đă tŕnh bày :

         " Thiên hạ hữu đạo, tắc lễ nhạc chinh phạt tự Thiên Tử

 xuất ; thiên hạ vô đạo, tắc lễ nhạc chinh phạt tự chư xuất ",

 nghĩa là :

        Thiên hạ có đạo th́ việc lễ nhạc chinh phạt do ở Thiên Tử

 mà ra ; thiên hạ vô đạo th́ việc lễ nhạc chinh phạt ở các chư

 hầu mà ra.

        Và quan niệm chính nhân của Ngài về chiến trường như

 sau :

        " Thiên hạ hữu đạo, tắc chinh bất tại Đại Phu ",

        nghĩa là :

         Thiên hạ có đạo, việc chính trị không ở quan Đại Phu.

         V́ quan niệm như thế nên bảo sao Ngài đi đến đâu không

 bị từ khước đến đấy cho được ! Ngài đă phản đối và đi ngược lại

 quyền lợi của vua chư hầu và quan Đại Phu các nước. Người ta tiếp

 rước Ngài không phải v́ trung thực với ḷng họ, mà nói đúng hơn

 là v́ sự lịch sự xă giao trên danh nghĩa của một quốc gia đối cới

 người hiền sĩ.

         Ngài hành đạo theo một triết lư nhân sinh " Động ".

         Làm trai phải hoạt động giúp ít cho đời, trả nợ đời.

         Lư do đó giúp Ngài đeo đuổi măi nghiệp của người :

         Ra giúp đời, hành đạo.

         Hơn nữa, trước thời đại Xuân Thu (722-480 trước Tây Lịch

 Kỷ nguyên), nước Tàu rơi vào t́nh trạng bi đát rối ren, ḷng người

 hoang mang cho một viễn tượng xa mờ của quốc gia khuynh đảo.

        Nhân tâm ly tán, đạo lư suy đồi càng ngày càng rơ rệt bằng

 giặc giă, chiến tranh tàn khốc khắp nơi.

        Những người yếu thế, cô đơn, có học thức... đành bất lực,

 xuôi tay cho hoàn cảnh và cũng từ đấy chủ nghĩa yếm thế manh nha.

 Nhóm người nầy quan niệm đời đáng chán, con người muốn sống có

 ư nghĩa cần phải lấy sự nhàn lạc làm gốc.

        Lại có nhóm người háo thắng khác họ theo cuộc sống

 " động " quá khích, không cương thường, không đạo lư và có thể

 xếp loại hạng người nầy vào chủ nghĩa phá hoại.

        Đương trước t́nh thế gieo neo không lối thoát nầy, Khổng

 Tử đề xướng trái ngược lại phương châm yếm thế và chủ nghĩa tiêu

 cực bằng một triết lư hành động theo chủ nghĩa tích cực để cứu thế,

 giúp đời ra khỏi cơn khủng hoăng, lầm than. Muốn vậy, phải làm thế

 nào cho mọi người đều lấy đạo làm người làm kim chỉ phương hướng

 tiến.

        Riêng Ngài, Ngài lấy việc giáo hóa và sự canh cải chính trị

 đặt lên hàng đầu chương tŕnh hoạt động, làm lẽ thanh cao.

        V́ Ngài nghĩ rằng ai ai sinh ra ở đời đều phải có nghĩa

 vụ đối với đời.

        Do đó, ai trốn tránh việc đời là kẻ trái đạo. Nghĩ bao

 nhiêu Ngài càng muốn xông vào đời để cải trị bấy nhiêu.

         Nào ai có chịu nghĩ thế cho Ngài. Người ta chỉ căn cứ

 vào sự thất bại hiện hữu của Ngài để xét đoán và chê trách thậm

 tệ :

         " tri kỳ bất khả vi, nhi vi chi ",

        nghĩa là :

        biết không thể làm được mà cứ làm... ( Luận Ngữ : Hiến

 Vấn 14 ).

        Hoặc như :

        " Thao thao giă, thiên hạ giai thị giă, nhi thùy dĩ dịch

 chi ",

        nghĩa là :

        ùa ùa như nước chảy một chiều, thiên hạ đều thế cả, ai mà

 theo ḿnh để sửa đổi được loạn ra trị (Luận Ngữ : Vi tử).

         Xem thế, người đời đâu có hiểu rằng Ngài quan niệm rằng

 đối với việc thiên hạ kẻ có tài, có chính khí không lúc nào là

 không có thể làm việc để ích lợi cho đời. Ngài lẳng lặng để kiểm

 xét lại việc làm của ḿnh, và nếu có nói th́ Ngài đă nói với các

 đệ tử thân tín của Ngài :

        " Thiên hạ hữu đạo Khâu bật dữ dịch giă ",

        nghĩa là :

        Thiên hạ có đạo th́ Khâu nầy c̣n dự đến việc thay đổi làm

 ǵ. (Luận Ngữ : Vi Tử 18).

         Bấy nhiêu quan niệm, sự nhiệt tâm đối với đời, hành đạo

 giúp người, đă un đúc trong Ngài một hoài bảo cao cả, trọng đại lư

 chứ không ham muốn danh lợi " nổi " tầm thường. Ngài không làm

 một ông thầy an phận cao thượng mà chỉ muốn t́m dịp xuất chính

 hành đạo.

        V́ thời buổi quyết liệt chiến tranh muốn thay đổi

 thiên hạ tất phải lấy quyền thế để ăn to nói lớn mới may ra

 thành công chứ không thể dùng lời nói suông được. Ngài đă xác

 định một niềm tin : " Cẩu hữu dụng ngă giă, cơ nguyệt nhi dĩ khả

 giă, tam niên hữu thành ", nghĩa là : Nếu ai dùng ta th́ trong

 một năm đă khá, ba năm ắt thành (Luận Ngữ : Tử Lộ). Nhưng trong

 bao nhiêu lần luân lạc thế mà niềm tin của Ngài vẩn chỉ ở trong ước

 vọng mà thôi, v́ không ai giúp Ngài đi vào chính giới để Ngài có

 phương tiện thi hành đạo nghĩa của Ngài.

         Năm Ngài được 68 tuổi, sau lần cuối cùng kềm chân ở nước

 Vệ trong một khoảng thời gian dài đến 5, 6 năm, th́ Quí Tôn Ph́ bên

 nước Lỗ cho người đem xe bồ luân đón Ngài về.

        Tính lại thời gian Ngài xa nước Lỗ đến nay đă ngót 14 năm.

        Bấy giờ, Ngài đă già và Ngài không cầu làm quan nữa.

        Ngoài việc chăm sóc và dạy dỗ học tṛ, Ngài sang định Lễ Kư,

 Nhạc Kư, Kinh Thi, Kinh Thư, phê b́nh Kinh Dịch.

 Học tṛ theo học Ngài càng ngày càng đông, tính có tới 3.000 người.

        Nhưng trong số nầy được Ngài để ư và thương quư

 nhất chỉ có được 72 người tinh thông được lục nghệ.

        Năm 477 trước Tây Lịch Kỷ nguyên, Ngài soạn xong sách Xuân

 Thu là sử kư nước Lỗ để bày tỏ cái đạo của Ngài về đường chính trị.

         ĐƯỜNG VÀO THIÊN THU CỦA KHỔNG TỬ

        Những bước chót của cuộc đời Ngài tuy trên đường sĩ hoạn

 đă cho Ngài một ngán ngẩm ê chề song cũng từ đấy Ngài đă dừng chân

 an nghĩ để khổ tâm luyện khí tạo được những bước đi vững vàng bất

 tử trước thời gian.

        Kể từ khi Ngài được Quư Tôn Ph́ rước về nước Lỗ đến mùa

 xuân năm Canh Thân nhằm năm thứ 39 đời vua Kinh Vương nhà Chu,

 trong khoảng thời gian nầy Ngài chuyên tâm chỉnh lư sách củ,

 soạn sách và dạy học tṛ, tạo được một sự nghiệp lẩy lừng có

 ảnh hưởng sâu rộng măi măi với hậu thế.

         Phải nói rằng tại Trung Quốc, thời Trung Thu, hạng thường

 dân không có cơ hội được giáo dục, chính Khổng Tử làm một việc phá

 lệ trong lịch sử Trung Quốc.

        Ngài phổ biến giáo dục cho tất cả mọi người, không phân

 biệt sang hèn, giàu nghèo. Do đó, hạng người nào trong xă hội

 cũng có thể là đệ tử của Ngài.

        Tổng số môn đệ chính thức của Ngài lên tới 3.000 người,

 và trong số nầy có 72 người tinh thông lục nghệ, được mệnh danh là

 " thất thập nhị hiền " đều được người đời sùng bái và tôn lên chức

 thầy.

        Nhờ sự phá lệ và sáng kiến của Khổng Tử mà hạng thường dân

 trong nước được có cơ hội mở mang kiến thức, trau dồi đạo đức.

        Dạy học tṛ, Khổng Tử đều dùng sách vỡ đời xưa như :

 " Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ...

 " Ngoài việc mở mang trí hóa cho học tṛ bằng sách vở, Ngài c̣n

 chú trọng đến đức tính và phẩm cách của từng môn đệ.

 Trong sách Luận Ngữ có câu :

         " Tử dĩ tứ giáo : văn, hạnh, trung, tín " (Thầy dạy bằng

 4 điều : văn, hạnh, trung, tín). Trong 4 điều nầy có văn là thuộc

 về đọc sách, c̣n ba điều kia thuộc về sự hun đúc phẩm cách và đức

 tính của con người.

        Dù mỗi môn đệ đều phải " bác văn " (học rộng biết nhiều),

 nhưng cần phải " ước lễ " (giữ trong khuôn khổ lễ phép).

        V́ lẽ ấy trong sách dạy học của Khổng Tử như Luận Ngữ phần

 nhiều chú trọng về phẩm cách và đức tính của con người. Ngay đến

 sự " học thi " và " học lễ ", không những chỉ chú trọng việc nghiên

 cứu về văn học, lịch sử mà c̣n phải chú ư nhiều về cách lập thân và

 hành sự nửa.

        Ngài đă nói : " Bất học thi, vô dĩ ngôn " ( không học Thi

 th́ không biết cách ăn nói). Và Ngài lại nói : " Bất học lễ, vô

 dĩ lập " (không học lễ th́ không biết cách lập thân).

        Xem đó, ta thấy rằng sự giáo dục của Khổng Tử nhằm đưa con

 người có đầy đủ đức tính tốt trong xă hội, có một nhân cách hoàn hảo.

        Thế nên, ta có thể nghĩ rằng đường t́nh có trăm muôn ngh́n nẽo,

 Khổng Tử đă đi vào tâm hồn nhân thế bằng tất cả trăm muôn ngh́n

 nẽo đó thật thâm thúy, kỳ diệu và sung măn nhất.

        Bảo sao Ngài chẳng là vạn thế sư biểu cho được ?

         Người ta ngưỡng vọng công đức Ngài, tôn thờ Ngài như là

 một thánh sống ! Cho nên đối với Ngài thiên hạ đă gắn liền vào đó

 một đời sống nồng nhiệt hơn t́nh của các con đối với người cha

 gương mẫu.

         Nhân một hôm người nước Lỗ đi săn bỗng bắt gặp con Kỳ Lân

 què chân bên tả, chân trước, và ai nấy đều cảm thấy buồn bă v́ cho

 là điềm chẳng lành cho bá tánh.

        Nghĩ như vậy nên họ trịnh trọng van vái và đem Kỳ Lân ra

 thả ngoài đồng.

        Nghe tin đồn, Ngài đến nơi xem hư thực.

        Khi trông thấy Kỳ Lân Ngài hoăng hốt kêu lên :

         " Kỳ Lân làm ǵ thế ". Từ lúc đó Ngài bưng mặt khóc thảm

 thiết. Trên đường về Ngài uể oải, suy tư và than lên câu nói độc

 nhất :

        " Ngô đạo cùng hỉ " (Đạo ta cũng vậy !).

        Và trang sách cuối cùng của quyển Xuân Thu do Ngài biên

 soạn được kết thúc bằng câu chuyện Kỳ Lân nầy, với một câu nói

 buông thỏng vô vọng đó.

        Hai năm sau ngày gặp Kỳ Lân què chân, đến tháng tư ngày Kỷ

 Sửu, năm thứ 16 đời vua Ai Công nước Lỗ (tức năm 479 trước Tây Lịch

 Kỷ nguyên), Ngài từ giả cơi đời để đi vào đường Vĩnh Cửu.

        Chuyện Lễ Kư kể rằng : một hôm, Ngài thức sớm đi tiêu dao

 trước cửa thăm tất cả hoa kiển sân nhà, tay kéo lê cây gậy trúc mà

 hát lên rằng :

        " Thái sơn kỳ hồi hồ ? Lương mộc kỳ hoại hồ ? Triết nhân

 kỳ nuy hồ ? " (Núi Thái Sơn có lẽ đổ chăng ? Cây hương mộc có lẽ

 nát chăng ? Người triết nhân có lẽ nguy chăng ?).

        Hát xong, Ngài vào ngồi tĩnh tọa giữa cửa nhà. Nghe sư phụ

 hát những lời buồn thảm, thầy Tử Cống vội vàng đến bên Ngài cung

 kính hỏi thăm nguyên lư.

        Ngài đem chuyện nằm chiêm bao đoán điềm thấy rằng ḿnh sắp

 chết kể lại rành mạch cho người học tṛ quư nhất nghe.

         Và Ngài bắt đầu nhiễm bịnh đến 7 ngày sau th́ mất.

         Người ta chọn một nơi thanh khiết có cây cối, phong cảnh

 sầm uất, tôn nghiêm để xây mộ Ngài. Đó là một nơi an nghĩ cuối cùng

 của vị Vạn thế Sư biểu lấy tên là Khổng Lâm, cách huyện Khúc Phụ

 2 dậm, thuộc tỉnh Sơn Đông Trung Quốc.

         Ngài ra đi lần nầy là thiên thu vĩnh biệt, 72 người hiền

 mất đi người thầy yêu quí nhất đời và nhân thế mất đi một vị thánh

 gương mẫu độc nhất vô nhị. Học tṛ th́ thương khóc thảm thiết.

         Ai ai cũng tâm tang, là để tang ḷng chứ không mặc đồ tang

 sức bên ngoài, ba năm.

        Và bên mộ Ngài có hơn một trăm người làm nhà ở để quạt mồ

 cho đến hết tang. Trong số học tṛ thương quư nhất của Ngài,

 Thầy Tử Cống ngày đêm ở bên mồ đến hết sáu năm mới thôi !...

         CHÂN DUNG KHỔNG TỬ

         Vị Vạn thế Sử biểu của nhân loại chắc phải có một h́nh

 tượng phi phàm, một nhân cách đức độ, trang nhă hơn người.

        Nói về h́nh dáng Ngài sách Khuyết lư tả lại rất rơ :

         " Người cao lớn tầm thước, đặc điểm của tướng ấy là ngũ

 lộ : mắt lồi, lỗ mũi rộng, lộ hầu, tai bạt, hở răng.

        Mặt to và có những vạch như quả dưa chín, bàn tay hổ, ngực

 rùa, râu rậm, mồm rộng, miệng nói tươi, đi nhanh. "

         Nói về tính t́nh Ngài sách Luận Ngữ chép :

        " Tử ôn nhi lệ, uy nhi bất mănh, cung nhi an " :

         Phụ tử ḥa mă nghiêm, uy mà không dữ, kính cẩn mà an

 vui tự nhiên " (Thuật Nhi, VII).

        Nhất là tính t́nh Ngài bao giờ cũng ung dung, vui vẽ

 tự nhiên " Tử chi yến cư, thân thân như giă, yêu yêu như giă " :

         Phu tử lúc ở dưng th́ h́nh dáng khoan thai, mặt mày

 tươi tỉnh. "

         Nói về cử chỉ của Ngài trong sách Luận Ngữ, Thiên Hương

 Đảng đă nói rơ như sau :

        Lúc nào Ngài cũng tỏ ra đức độ của một người mực thước

 gương mẫu để hướng dẫn người khác.

        Trong gia đ́nh cách ăn, uống, nằm, ngồi hết sức chững

 chạc, ngay chính và khiêm tốn.

         Ra ngoài đường hoặc đến các nơi miếu đường, đối với vua

 quan, Ngài rất kính cẩn, cư xử đứng đắn theo khuôn phép lễ nghi.

        Bất kỳ đối với ai Ngài cũng cẩn thận, suy kỷ trước khi nói

 và hành động.

        Hành sự của người có chính khí là phải giữ chữ tín trong

 việc đối xử, giao tiếp với nhau không dám sai một phân một li.

         Có như thế mới bày tỏ được đạo người quân tử.

         V́ khi muốn kẻ khác theo ḿnh th́ bất cứ lúc nào,

 trường hợp nào cũng phải nghĩ rằng ḿnh là đối tượng, là mục

 tiêu gương mẫu cho kẻ khác.

         Bẩm sinh Khổng Tử vốn là người có tính cẩn thận.

         Hơn nữa, Ngài rất tha thiết đến việc Lễ Nhạc nên trong

 mọi trường hợp tế tự Ngài chọn ngày và giờ, chổ và lễ vật cũng

 như ngay cả chính người tế tự phải hết sức giữ cho tinh khiết và

 thành kính.

        Theo Ngài, có lễ được như thế th́ thần minh mới chứng giám.

        Đối với vận mệnh của quốc gia dân tộc lại càng hệ trọng hơn.

        Cho nên khi có việc chinh chiến can qua hay mỗi lần có bệnh

 tật gieo họa đến tính mệnh con người, Ngài hết ḷng dạ đem " quách

 cả sở tồn làm sở dụng " để ǵn giữ bảo vệ. Thuật Nhi Luận Ngữ có

 câu :

        " Tử chi sở thận : trai, chiến, tật : những điều mà Phu

 Tử ǵn giử cẩn thận là việc trai giới, việc chinh chiến, việc bệnh

 tật. "

        Tính t́nh Ngài rất nhân hậu. Đối với ai Ngài không phân

 giai cấp mà chỉ một ḷng tha thiết, lấy đức độ, lễ nghĩa làm đầu.

        Với tính t́nh ấy, phàm khi thấy ai sắc diện lộ ra nét buồn

 rầu là Ngài cố gắng t́m cách giúp đỡ với cả tấm ḷng trắc ẩn xót

 thương.

        Điều này, Thuật Nhi đă nói đến như :

        " Tử thực ư hữu, tang giả chi trắc, vị thường bảo giă.

        Tử ư thị nhật, khốc tắc bất ca :

         Phu tử ngồi ăn bên cạnh người có tang, th́ ăn không no.

         Ngày nào Ngài đă dự buổi phúng điếu về th́ suốt cả ngày

 không đàn hát ".

        Một hôm nhân lúc thấy Khổng Tử vui, Thầy Tử Lộ, người học

 tṛ quư Thầy nhất đó ân cần cung kính chấp tay vái hỏi Ngài rằng:

         " Đệ tử kính mong thầy cho biết cái chí của Thầy như thế

         nào ? " Ngài nh́n đứa học tṛ yêu quư bằng một tia mắt dịu

 hiền nhưng hết sức nghiêm trang, và ôn tồn dặn bảo đứa học tṛ cưng

 ấy :

        " Lăo giă an chi, bằng hữu tín chi, thiếu giă hoài chi " :

 Lấy sự yên vui mà đối với kẻ già cả, lấy sự tin (tín nhiệm) mà đối

 với bạn bè, lấy sự yêu mến mà đối xử với các trẻ thơ (Luận Ngữ :

 Công dă tràng).

         Có lẽ nhờ tính thích đàn hát và nhờ tiếng đàn tiếng hát mà

 ḷng Ngài đă hướng đến chổ thiện nhất, cao quư nhất ? Nói về tính

 ham mê đàn hát của Ngài để Ngài giữ được sự thư thái ôn ḥa vui vẽ

 và có được sự bền chí dẽo dai để làm việc đến nơi đến chốn,

 trong Thuật Nhi Luận Ngữ có chép :

        " Tử tại Tề, văn thiều tam nguyệt bất tri nhục vị.

        Viết :

        " bất đồ vi nhạc chi chí ư tư giă "

         Dịch rằng :

        Phu tử lúc ở nước Tề, học nhạc Thiều ba tháng, ăn

 không biết mùi thịt.

        Ngài nói rằng :

        Chẳng ngờ học nhạc vui đến được như thế.

        Và sách ấy chép thêm :

        " Tử dữ nhân ca nhi thiện, tất sử phản chi, nhi hậu họa chi ",

        nghĩa là :

        Phu tử đàn hát với ai, người ta hát câu nào hay th́ Ngài

 xin hát lại để Ngài họa theo.

         Việc học đối với Ngài thật to rộng như rừng như bể " Rừng

 nhu bể thánh ".

        Muốn cho ḿnh có được bộ óc uyên thâm để thực thi

 đạo hạnh, Ngài rất hiếu học và dốc tâm suy nghĩ những lời giáo hóa

 của cổ nhân, v́ Ngài nghĩ rằng cổ nhân là người đi trước ban bố

 cho ḿnh bài học kinh nghiệm mà ai là kẻ hậu sinh th́ phải lấy

 sự xứng đáng mà nhận lănh. Ngài đă nói :

        " Ngă phi sinh nhi tri chi giả giă, hiếu cổ, mẫn dĩ cầu chi

 giả giă " :

        Ta không phải là người sinh ra đă biết, chỉ là người thích

 đạo của thánh hiền đời trước, cố sức mà cầu lấy được.

        Và những điều ǵ Ngài học được ở cổ nhân hay ở người khác,

 Ngài cố tâm suy nghĩ để t́m hiểu cặn kẻ đến gốc rể, đến nguyên lư.

         Và sau khi đă t́m thấy được chân lư, Ngài quyết tâm đem điều

 ấy ra để huấn dạy người khác một cách tận t́nh.

         V́ theo Ngài phương châm chính đạo phải là

 suy nghĩ tận tường, học hỏi say mê, dạy người thích thú, ba điều

 đó không thể thiếu sót ở con người giữ đạo.

        Ngài đă nói :

        " Mặc nhi thức chi, học nhi bất yếm, hối nhân bất nguyện, hà

 hữu ư ngă lai ",

        nghĩa là :

        Thầm lặng nghĩ ngơi mà biết mọi lẽ, học mà không chán, dạy

 người không biết mỏi, ba điều ấy ta có điều ǵ là hơn người đâu.

        Sự học đối với Ngài ngoài ư nghĩa rộng răi của

 nó đă cho Ngài nguyên ư của sự khiêm nhượng, nhỏ bé để kiên tâm

 tŕ chí sáng tạo măi măi, sự học c̣n có hai tác dụng hết sức

 quan trọng đối với người theo sự học.

        Một là những điều hay,

 điều phải sẽ giúp cho tâm hồn, tư tưởng sáng suốt, kiến thức

 tăng trưởng.

        Hai là những điều dỡ, điều tối tăm, trái lẽ... cũng

 sẽ giúp ta sửa ḿnh và t́m một phương hướng khác hơn để đi cho

 đẹp đẽ.

        Do đó sự học của Ngài không quy về một tiêu điểm g̣ bó

 nhất loạt.

        Ngài quan niệm một cách hết sức tự do là bất cứ đâu

 đâu, trong nhà ngoài đường, ở lớp học nơi nào cũng có thể học

 hỏi lớn khôn được.

        V́ thế Ngài bất nhất không theo học nhất định

 một người nào, mà người nào, dù hay, dù dở cũng có thể là thầy

 học của Ngài được.

         Bởi vậy Thầy Tử Cống đă nói

        " Phu tử yên bất học, nhi diệc hà thường sư chi hữu " :

        Không có điều ǵ là Phu tử không học, nhưng Ngài không

 nhất định học một thầy nào (Luận Ngữ : Tử Trương).

        Ngài nói :

        " Tam nhân hành, tất hữu ngă sư yên, trạch kỳ thiện giă

 nhi ṭng chi, kỳ bất thiện giả nhi cải chi " :

 ba người đi với nhau, tất có một người là thầy ta,

 chọn người hay mà bắt chước, người dở mà sửa ḿnh. Hơn nữa đức

 chính của người quân tử là lúc nào cũng trau tâm sửa ḿnh.

        Không ǵ khổ sở cho bằng khi Ngài biết ḿnh dở mà không

 sửa được cái dở đó, cũng như thấy nghe điều hay muốn bắt chước

 mà không được Ngài bộc lộ điều đó như một người đang khổ tâm v́

 bệnh lo cứ ám ảnh măi khi tự nhận ḿnh chỉ có thể là một hạt nước

 nhỏ trong đại dương to lớn :

        " Đức chi bất tu, học chi bất giảng, văn

 nghĩa bất năng tỉ, bất thiện bất năng cải, thị ngô ưu giă " :

        Đức của ḿnh không sửa cho tốt, học của ḿnh không giảng

 cho rỏ, nghe điều nghĩa mà không theo được, nghe điều dở mà không

 đổi được, đó là cái lo của ta vậy. Muốn thực hiện được những điều

 trên, Ngài quyết tâm suy lư và học hành. Việc học hành Ngài xem

 nó như là một điều hệ trọng trong cuộc sống tinh thần của Ngài.

         Không bao giờ Ngài dám xao lăng. Học th́ phải học cho đến

 nơi đến chốn. Biết phải biết cho tận tường. Với vấn đề mới lạ, cao

 siêu nếu là người phàm mắt thịt đầy chán nản th́ họ sẽ lờ và

 viện lư do từ chối, không chịu suy lư. Nhưng Ngài th́ ngược lại,

 Ngài tự cho vấn đề nào cũng có thể biết được miễn là ḿnh cố

 công t́m ṭi, suy lư có phương pháp. Do đó, Ngài không bị mặc

 cảm chi phối, không bị con ma an phận lười biếng quấy rầy. Ngài

 đă từng bảo : " Cái hữu bất tri nhi tác chi giă, ngă vô thị giă.

 Đa văn, trạch kỳ thiện giă nhi ṭng chi, đa kiến nhi chí chi,

 tri chi thứ giă " : Có người chẳng biết rỏ nghĩa lư ǵ đă làm,

 chứ ta th́ không thế. Nghe nhiều, rồi chọn điều hay mà theo,

 thấy nhiều và nhớ lấy, để xét cho tận tường cái hay cái dở, th́

 cũng đă cho là biết vậy.

         Với bao nhiêu đức tính cần thiết đó, Ngài đă có được, đáng

 lẽ Ngài sẽ theo luật thường t́nh mà đâm ra kiêu hoạnh.

        Nhưng với bậc đáng ca tụng tôn sùng là chí thánh chí nhân

 như Khổng Tử, Ngài đă giữ lể khiêm tốn và không bao giờ dám nhận

 ḿnh là thánh, là nhân cả.

        V́ Ngài nghĩ rằng :

        " Nhược thánh dữ nhân, tắc ngô khởi cảm, ức vi chi bất yếm,

 hối nhân bất quyện, tắc khả vị vân nhĩ dĩ hỹ " :

        Nếu bảo ta là thánh là nhân th́ ta sao dám

 đương, nhưng ta làm việc thánh việc nhân không chán, dạy người

 không mỏi, có thể bảo ta được thế mà thôi.

         Việc dạy học tṛ của Ngài không quá khắt khe. Ngài đă từng

 phá lệ, san bằng giai cấp cho nên " sự giáo hối của Ngài có cái chủ

 ư làm cho sáng cái đức của người ta, chứ không những chỉ đem cái

 biết của ḿnh mà trao cho người ta.

        Ngài dùng cách làm cho người ta tự ḿnh hiểu lấy mọi lẽ phải

 trái.

        Có người hỏi Ngài về việc thâu nhận học tṛ.

        Ngài bảo :

        " Tự hành thúc tu dĩ thượng, ngô vị thường vô hối yên " :

        Từ người đem lễ bó nem trở lên, ta chưa từng không dạy ai

 bao giờ.

         Đối với người cùng đinh quê kệch khi hỏi Ngài có biết ǵ

 không, Ngài không tức bực, không lấy cái biết sâu rộng của ḿnh ḷe

 bịp, không bao giờ lấy lư của kẻ hiểu biết mà áp đảo để tỏ ra

 ḿnh sành sỏi, thông thạo mà Ngài khiêm nhường tỏ ra cố gắng

 giải thích làm thế nào cho người quê kệch đó hiểu được vấn đề

 muốn nói, muốn hỏi một cách thỏa mản mới thôi.

        Đó thật là một lối giáo hóa đắc nhân tâm không chạm đến

 ḷng tự ái hay gây sự mặc cảm cho kẻ khác mà mở rộng được cái

 biết cho kẻ khác vậy.

        Có lần Ngài vui vẽ kể lại cho các đệ tử Ngài nghe một câu

 chuyện mà Ngài cho là một sự thành công lư thú trong đời giáo dục

 của Ngài. Ngài kể :

         " Ngô hữu tri hồ tai ? Vô tri giă. Hữu bĩ phu

 vấn ư ngă, không không như giă, ngă khấu kỳ hưởng đoạn nhi kiệt

 yên " :

         Ta có biết ǵ không ? Không biết ǵ cả. Có đứa quê kệch

 hỏi đến ta, ta không không như không biết ǵ, đem đầu đuôi trước

 sau mà nói, làm cho người ấy biết hết mọi lẽ.

         Ngài tự xem ḿnh là người đi gieo giống để chờ giống tốt

 nẩy mầm thêm nhiều, thêm tốt hơn nữa. Muốn cho được kết quả, nếu

 người gieo giống th́ phải đúng phương pháp, nhưng Ngài là người

 truyền bá tư tưởng, đạo lư, Ngài phải tỏ ra gương mẫu để người

 được Ngài huấn dạy bắt chước noi theo. Việc ǵ của Ngài làm, Ngài

 muốn bao giờ cũng quan minh chính đại và quyết không làm điều ǵ

 mà không cho mọi người biết đến.

        Trong một lần giửa đông đủ các

 đệ tử của Ngài, Ngài thân mật nói với các học tṛ Ngài : "

        Nhị tam tử dĩ ngă vi ẩn hồ ? Ngô vô ẩn hồ nhĩ ; ngô vô

 hành nhi bất dữ nhị tam tử giă, thị Khâu giă " :

        Các anh tưởng ta có giấu ǵ các anh chăng ? Ta không giấu

 các anh điều ǵ cả, ta không làm điều ǵ mà không cho các anh biết.

        Ta thực thế đấy.

         Nét ôn ḥa, tâm hồn thành thực của con người gương mẫu đó

 đáng được mọi người tôn sùng là Vạn thế Sư biểu hẳn là điều không

 ai phủ nhận.

        Thời bấy giờ nhằm lúc Xuân Thu điên đảo thế mà đức

 chính của Ngài đă cảm hóa đa số thiên hạ, bằng chứng là hơn

 3.000 đệ tử của Ngài ai cũng đạt được tính nết, tư tưởng thành

 nhân và yêu kính ngài hơn cha đẻ.

         Sự có mặt của người hôm nay ai lại chẳng nghĩ thời đại

 đang sống nầy có khác ǵ thời đại Xuân Thu mà đức Vạn thế Sư biểu

 Ngài đă sống ? Nếu thời gian đă chứng thực sự có mặt của Khổng Tử

 với những lời khuôn vàng thước ngọc của Ngài là một liều thuốc ứng

 hiệu xoa diệu nhanh chóng được cơn bệnh xâu xé thấp hèn của nhân

 loại, th́ trước bàn thờ Kim Cổ danh nhân hẳn hậu sinh chúng ta

 không ngần ngại đốt nén hương ḷng hoài vọng h́nh ảnh và tư

 tưởng của vị tiền bối khả kính Khổng Tử như một vị thánh sống và

 trọng thể đặt người bất tử ngự lên tầng cao tâm linh của ḿnh mà

 tôn thờ Một Đạo Sống Thanh Cao.

         HọC THUYẾT KHỔNG TỬ

         B-I CẢNH LịCH SỬ

         Khổng Tử ra đời trong hoàn cảnh suy vi nhất : Giặc giă tứ

 tung, luân thường đảo lộn, đạo lư nát tan.

        Thời đại hoang mang nầy sử Tàu chép là Xuân Thu thời đại.

        Kể từ nhà Chu lên nắm ngôi thiên tử, nước Tàu có hơn 70

 chư hầu do chế độ phong kiến mà nhà vua áp dụng.

        Các nước nhỏ nầy vua phong cho các công thần và những

 người tron

g vương tộc.

        Mỗi chư hầu đều được tự chủ miễn là hàng năm phải theo lệ

 triều cống cho vua Chu.

        Và mỗi khi có binh biến, các chư hầu phải chịu dưới mệnh

 lệnh thiên tử để cùng đem quân họp mặt dẹp giặc.

        Theo sử liệu th́ nước Tàu lúc bấy giờ quanh quẩn trong

 phạm vi sông Hoàng Hà, diện tích vào khoảng chừng 5, 6 tỉnh

 về phía Bắc nước Trung Quốc ngày nay.

        C̣n các chư hầu lớn th́ bằng diện tích vài ba tỉnh nhỏ

 của nước Việt Nam ta, hoặc các chư hầu nhỏ th́ diện tích bằng

 một vài huyện ta thôi.

        Lúc mới và thịnh vượng th́ sự điều khiển được trơn bén,

 luật lệ được nghiêm minh, nhưng từ khi nhà Chu bắt đầu xuống dốc

 và Thiên Đô về phía Đông đất Lạc Ấp, mệnh lệnh của Thiên Tử

 không c̣n ai tuân theo nữa th́ các nước chư hầu lại xâu xé lẫn

 nhau, phân chia ra đến 160 nước. Bấy giờ, không c̣n ai nhắc đến

 đạo lư, cương thường.

        Người ta chỉ biết tranh sống bằng cách

 " Cá lớn nuốt cá bé ", mạnh thắng yếu. Các nước có uy thế nhất

 trong các nước chư hầu thời bấy giờ là : Tề, Tấn, Tống, Tần, Sở,

 Ngô, Việt v.v... Các nước nầy mặc t́nh thôn tính lẫn nhau để

 tranh giành ảnh hưởng, gây thành những cuộc tương tàn tương sát,

 thây phơi máu đổ, nhân dân đồ thán.

         Lúc nầy đạo nghĩa chỉ c̣n là một bóng mờ sau lớp mây mù

 dục vọng.

        Danh lợi, địa vị, tiền tài trong thời đại chiến tranh là

 một chất xăng bén nhạy nhất để tiêu hủy tất cả công tŕnh kiến

 tạo đạo lư ngàn xưa.

         Nhưng khi máu đổ, thây phơi chồng chất như sông như núi

 và dục vọng, ước mơ của con người đâu không thấy ánh sáng mà càng

 lúc sự điêu linh khốn khổ càng áp lực khó thở, chừng ấy con người

 mới rơi về ư thức nhân bản " Nhân chi sơ, tánh bản thiện ".

        Do đó các học thuyết mới có dịp mở mắt chào đời và có cơ

 hưng tịnh mănh liệt.

         May thay, trong lúc tranh sáng cho cuộc đời một vị thánh

 xuất hiện mang tin lành đến mọi người :

 đó là Đức Khổng Tử. Ngài cố tâm suy nghĩ, học hỏi qua kinh nghiệm

 bản thân và quyết tâm làm nhà cách mệnh tiền phong trong cuộc chiến

 tâm lư giúp quốc gia xă hội một đời sống trật tự, an lành.

        Người đem tất cả sự hiểu biết của ḿnh với một tấm ḷng sùng

 bái cổ nhân để phát huy lẽ đạo thánh hiền, lập nên một học thuyết

 có hệ thống mục đích lấy nhân, nghĩa, lễ, trí, tín giáo hóa người,

 lấy cương làm nền cho trật tự xă hội mà sau nầy người ta đặt tên cho

 học thuyết đó là Nho giáo.

         B-I CẢNH TÍN NGƯỠNG :

         Kể từ lúc khai thiên lập địa cho đến kỷ nguyên đầu, dân

 tộc Trung Hoa sống bằng nông nghiệp, sinh hoạt ở lưu vực sông

 Hoàng Hà.

        Đời sống tín ngưỡng đầu tiên mang trọn vẹn dấu vết thần

 thoại, hoang đường. Câu chuyện thần thoại được truyền tụng nói

 về việc khai thiên lập địa như sau :

         Trước khi vũ trụ chuyển ḿnh khai thiên lập địa, vũ trụ

 chỉ là một khoảng trống rỗng vô h́nh.

        Sau một thời gian dài, giửa khoảng không đó xuất hiện

 một cái h́nh vĩ đại trong có thai nghén một người to lớn, khỏa

 mạnh và sau khi người ấy chào đời không biết sống đến bao lâu,

 nhưng theo truyền thuyết th́ tên người ấy là Bàn Cổ. Lúc người

 ấy sắp chết, vũ trụ ảnh hưởng theo đó mà biến chuyển kỳ lạ.

         Chuyện kể rằng tiếng kêU cuối cùng của người sắp chết,

 Bàn Cổ, biến thành tiếng sấm, hơi thở cuối cùng th́ thành ra

 gió, băo, mắt trái trở thành mặt Trời (Thái Dương), mắt phải là

 mặt Trăng ; mạch máu biến thành sông ng̣i, tóc biến

 thành rừng cây và xương thịt biến ra đất, đá.

        Đó là ư niệm tín ngưỡng đầu tiên của dân tộc Trung Hoa.

         Tiếp theo đó th́ vũ trụ biến chuyển không ngừng. Con người

 xuất hiện dưới ánh mặt trời, tràn lan khắp mặt đất.

        Tùy theo phong thổ, địa thế mỗi dân tộc sống biệt lập,

 khác hẳn nhau.

        Họ bắt đầu xây dựng cuộc sống tập thể từng đoàn, nhóm và

 cùng nhau tranh đấu cho sự sống c̣n bằng cách khai thác những nơi

 màu mỡ hoang vu để cầy cấy.

        Nhất là các lưu vực của sông Hoàng Hà.

         Trước kỷ nguyên Tây Lịch, Trung Hoa cũng như hầu hết các

 dân tộc khác đều sùng bái thiên nhiên. Họ quan niệm rằng mỗi bộ phận

 của thiên nhiên đều có linh hồn, linh hồn đó không biết được lẽ sống

 của loài người nên trước cuộc sống quá chật vật, gian nan, họ

 tôn thờ cúng bái và đặt cho những linh thiên đó là thần linh như

 Thần Thái Dương, Thần Mặt Trăng, Thần Gió, Thần Lửa, Thần Sấm,

 Thần Chớp, Thần Núi, Thần Sông...

         Vị có quyền uy tối linh tối thượng, có quyền tạo sinh tạo

 sát cho vạn vật muôn loài là ông Thiên.

        Nếu ở Thiên Đ́nh gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế, ở hạ giới gọi

 là Hoàng Đế. Người ở chức vị Thượng Đế rất to lớn và công minh.

        Trong kinh thư có nói :

         " Duy Hoàng Thượng Đế giáng trung vu hạ dân " :

        Thượng Đế rất lớn ban sự công b́nh không thiên lệch xuống

 cho nhân dân ".

        Vị Thiên nầy rất trừu tượng nhưng là năo tủy cai quản cả các

 Thần, cai quản cả luật pháp của người và vật :

        " Thiên sinh chúng dân hữu vật hữu tắc dân chi bỉnh ghi,

 hiếu thị ư đức :

        Trời sinh ra dân chúng, hễ có vật là có phép tắc, dân giữ

 cái tính thường c̣n ; yêu báu cái đức tốt đẹp ".

         Ngoài sự tôn sùng thờ cúng linh thần trên, người Trung Hoa

 c̣n thờ phụng ông bà tổ tiên và các anh hồn của những anh hùng vị

 quốc vong thân một cách trang trọng nữa.

         Đó cũng là những nét cố hữu tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam.

         Nguồn gốc của giới NHO :

         Chữ Nho :

         Nh́n qua chữ Nho ta thấy sự cấu tạo chữ Nho gồm có hai phần :

         1.- Gồm : trước tiên là chữ Nhân, nghĩa là Người

         2.- Với : Đứng cạnh sau là chữ Nhu, nghĩa là Cần yếu.

         Nho sĩ :

         Sở dĩ có sự ghép nối như thế để làm danh hiệu cho giới Nho

 sĩ là v́ thành phần của giới nầy gồm những người ngày xưa xuất thân

 từ ḍng dơi quư tộc.

        Sau nhiều cuộC thay ngôi đổi vị, họ bị sa sút

 mất hết địa vị trong xă hội và phải tự lực tự tài để mưu sinh

 như thường dân.

        Bởi thế nên hạng Nho sĩ được đặt vào giai cấp

 Trung lưu, đứng giữa hai cấp đối cực :

        Giai cấp quư tộc (Thượng lưu) và giai cấp nông dân (Hạ lưu).

        Giới nầy do đó thông suốt lục nghệ và sinh nhai bằng nghề :

 Lễ, Nhạc, Sạ, Ngự, Thư, Số.

         Thời kỳ hưng thịnh nhất của giới nầy phải kể vào khoảng cuối

 thời phong kiến Tây Chu.

         Học phái Nho chào đời :

         Người khai sinh cho nền triết học Nho là Khổng Tử.

         Sự có mặt của nền triết học nầy bắt đầu từ năm 551-479

 trước Tây Lịch kỷ nguyên.

         Phải nói triết học Nho là hệ thống tư tưởng truyền thống

 được coi như tư tưởng chính thống gần 25 thế kỷ của dân tộc

 Trung Hoa.

        Đă có một quá tŕnh lịch sử lâu dài như thế bảo sao

 tư tưởng ấy chẳng thấm nhuần sâu sắc vào đời sống cá nhân cũng

 như đoàn thể nhân dân Trung Quốc cho được.

        Nh́n vào nền văn minh Trung Quốc ta phải nghĩ rằng tư

 tưởng Nho đă khuôn đúc dân tộc tính Trung Hoa về cả phương

 diện sinh hoạt kinh tế, chính trị và xă hội.

        Và ta có thể kết luận rằng triết học Nho là nền tảng

 triết học chính yếu ở Đông phương nầy vậy.

                TRIẾT HọC CỦA KHỔNG TỬ

         Nguồn gốc :

         Triết học của Khổng Tử không phải chỉ là kết quả sáng tạo

 mới mẽ toàn diện của Ngài mà thuộc về loại tư tưởng truyền thống.

        Không bao giờ Khổng Tử cho ḿnh là một nhà sáng tác phát minh.

        Ngài tự nhận cho chúng ta biết rằng Ngài chỉ thuật lại những

 tư tưởng của tiền nhân một cách mạch lạc, hệ thống mà thôi : "

 Thuật nhi bất tác tín nhi hiếu cổ ", nghĩa là : Thuật lại mà không

 sáng tác, tin mà yêu cổ xưa.

        Tư tưởng triết học :

         Tư tưởng triết học của Khổng Tử truyền lại đến ngày nay,

 có thể tra cứu trong những quyển sách mà dân Trung Quốc lấy làm

 điển tích cổ điển như hai bộ : Ngũ Kinh và Tứ Thư.

         a) Trong Ngũ Kinh có :

        1._ Kinh Thi

        2._ Kinh Dịch

        3._ Kinh Thư

        4._ Kinh Lễ Nhạc c̣n lại ở Lễ Kư

        5._ Kinh Xuân Thu

        b) Trong Tứ Thư có :

        1._ Đại Học

        2._ Trung Dung

        3._ Luận Ngữ

        4._ Mạnh Tử

         Tư tưởng của Khổng Tử ngày nay được dân tộc Trung Hoa

 cũng như Á Đông xem như là một phương châm gồm toàn khuôn vàng

 thước ngọc dẫn bước đo lường cho một cuộc sống lư tưởng tiến

 đến an toàn.

        Ngài đáng tiêu biểu một nhà giáo sư kiểu mẫu muôn đời.

        Và với danh hiệu " Vạn thế Sư biểu " mà người đời gán cho

 Ngài thật không ǵ xứng đáng hơn. Không phải đợi đến Bản nhân

 quyền 1789 của Pháp con người mới hiểu thế nào là b́nh đẳng mà

 trong thời đại sơ cổ, phong kiến của Ngài, trước đấy xa xôi, Khổng

 Tử là cha đẽ quan niệm b́nh đẳng nói riêng cho đầu tiên lịch sử

 Trung Hoa và chung cho nhân loại trên b́nh diện văn hóa, giáo dục.

         Ngài tuyên bố ở Luận Ngữ :

        " Hữu giáo vô loại " : giáo dục không

         phân biệt giai cấp, chủng tộc giữa người với người.

         ĐƯỜNG VÀO TƯ TƯỞNG :

         Căn cứ vào Thuyết Khải truyện, ta có thể hiểu rằng triết

 học của Khổng Tử bao quát cả Đạo Trời, trong đó bàn về lư hệ căn

 bản tương quan giữa Trời và Người.

        Nói đến Đạo Trời Đất là luận về tạo vật thiên nhiên.

        Thuyết về Đạo Người là bàn đến đường lối cư xử giữa người

 và người trong hành vi nhân sinh xă hội :

        Lập thiên chi đạo viết Âm Dương

        Lập địa chi đạo viết Nhu dữ Cương

        Lập nhân chi đạo viết Nhân dữ Nghĩa

        Kiêm tam tài nhi lưỡng chi

         Nghĩa là :

        Thiết dựng đạo trời có nguyên lư Âm và Dương

        Thiết dựng đạo đất có nguyên lư Nhu và Cương

        Thiết dựng đạo người có nguyên lư Nhân ái và Nghĩa lư

        Bao hàm ba tŕnh độ của một lư mà có hai phương diện

                                                   tương đối.

         Xem thế th́ quan niệm của Khổng Tử về vấn đề quan hệ giữa

 Nhân loại, vũ trụ, thiên nhiên với cá nhân con người là một hệ

 thống vũ trụ quan đầy đủ và nhất quán. Trong sách Luận Ngữ, Ngài

 bàn đến tam hệ :

        Trời, Đất, Người với các đệ tử Ngài :

        Trời có đạo Trời, vạn vật có đạo thiên nhiên và Người có

 đạo Người. Các đạo ấy cùng có một cái Đạo lư chi phối nhất quán

 mà Ngài cho đó là Đạo Nhân. Ngài nói :

         " Ngô đạo nhất quán dĩ quán chi " :

          ( Đạo của ta quan niệm có một đầu mối nhất quán ).

           Đầu mối ấy là Nhân.

                TRIẾT LƯ NHÂN

         _ Nhân là ǵ ?

         Nhân theo gốc chữ Hán gồm có chữ Nhân là người và chữ Nhị

 là hai.

        Người ở đây là người của tranh đấu, của xă hội trước cuộc

 sống sinh tồn nên phải là cuộc sống có từ 2 người trở lên.

        Do đó ư niệm của Ngài về cuộc sống có nghĩa là cô đơn,

 riêng rẽ như một người đại sĩ ở ẩn trong cùng cốc thâm sơn.

         Triết lư của Ngài là một triết lư " động ".

         V́ quan niệm như trên nên Ngài định nghĩa : "

         Nhân giă nhân dă ".

         Ư của Ngài muốn bảo rằng ; Kẻ nào có đức nhân là con người

 và ngược lại, cái đức căn bản của người là đức nhân. Trong đoàn

 thể cùng loại, 2 người cùng sống dĩ nhiên phải có những đức tính

 đối đăi cần thiết với nhau.

        Đó là ư niệm đấu tranh manh nha cho sự trường tồn, phát

 nẩy to lớn và đông đúc hơn để xác nhận ư nghĩa và sự có mặt

 của vũ trụ.

        Về điểm nầy, sách Trung Dung viết :

         " Quân tử chi đạo tạo đoan hồ phu phụ cậy kỳ chí dă sát

 hồ thiên địa " nghĩa là : đạo của người lư tưởng bắt đầu từ cái

 đạo vợ chồng để rồi mở rộng ra đến cùng cực th́ bao quát cả trời

 đất.

         Sự tác dụng của đức tính nhân quả đă quá to tát ! Mà to

 tát, lớn lao thật, v́ Ngài đă bảo đức tính ấy là t́nh yêu, là

 nguồn của sự bất diệt.

        Ngài nói :

         " Nhân giả ái nhân " :

         Đức nhân là yêu người.

         Như vậy, Khổng Tử khi nói đến đạo Trời, đạo Đất và đạo

 Người, Ngài đă xác nhận 3 đường đạo ấy tất phải đồng qui tại một

 điểm mục tiêu là t́nh yêu, như một lời xác nhận khẳng quyết :

         Mọi việc trên đời nầy đều bắt nguồn đi từ t́nh cảm yêu

 thương kể cả ư thức độc lập và cá biệt nhất ".

        Và nếu hướng về cá nhân th́ những tác dụng tâm lư căn bản

 như T́nh, Ư và Trí, Ngài đặt T́nh đứng ở hàng đầu.

         Nhưng Ngài lại phân biệt một người Nhân quân tử như trên

 chưa đủ mà phải gồm cả Trí và Dũng nửa. Đặt vấn đề, ta thấy T́nh

 thuộc về nhân, Dũng th́ đứng về bên Ư chí.

         Ngài thường lo âu :

        " Quân tử đạo giả tam, ngă vô năng yên. Nhân

 giả bất ưu, Trí giả bất hoặc, Dũng giả bất cụ " :

        Đạo quân tử có ba, ta không tới được, ấy là người nhân th́

 không lo âu, người Trí th́ không ngờ vực, người Dũng th́ hết sợ hải.

        Và :

         " Nhân giả tất hữu Dũng, Dũng giả bất tất hữu Nhân " :

         Người nhân ắt là có can đảm, người can đảm không tất

 nhiên là có ḷng Nhân.

         Bấy nhiêu đó ta đủ thấy rằng tuy Khổng Tử xác nhận ba đức

 tính căn bản quan hệ trong người quân tử không thể thiếu được là Trí,

 Nhân, Dũng, nhưng ở trên Ngài đă đặt cho T́nh đứng đầu, ở đây

 Ngài xếp cho Nhân ngôi thứ nhất, vậy là Ngài ngầm bảo rằng đức

 Nhân kiêm được hai đức Trí và Dũng.

        Vậy nên đức Nhân là danh từ

 đại diện toàn nhân cách : Trí, Nhân, Dũng của người quân tử.

         NHÂN trên b́nh diện VŨ TRụ .

         Nh́n vào vũ trụ nhân sinh với cặp mắt của một triết nhân, Khổng

 Tử đă gắn liền chữ Nhân vào tia nh́n. V́ thế vũ trụ dưới tia mắt

 được lọc qua dưới môi trường biến ảo không ngừng.

 Vũ trụ dưới

 tầm mắt Ngài bấy giờ như một ḍng nước không ngừng trôi chảy :

 " Thệ giả như tư phù bất xa trú dạ " :

        Trôi chảy măi thế thôi

 ngày đêm không ngừng. Suy lư, nội giới cũng là môi trường hiện

 tượng biến dịch theo luật định.

        Định luật chung cho sự biến dịch

 đều theo một hệ thống biến thái tuần tự nên có lớp lang và mỗi

 giao mùa đều được báo ứng bằng một hiện tượng thay đổi uyển

 chuyển, sắc màu chuyển tiếp nhẹ nhàng như sự thay đổi cung bậc

 của điệu đàn, nhạc lư.

        V́ lẽ đó, đối với sự biến dịch to lớn của

 vũ trụ ta có thể gọi là đại ḥa điệu hay là Thái Ḥa :

        " Kiền đạo biến hóa, các chính tính mệnh bảo hợp Thái Ḥa " :

         Đạo trời biến đổi, mọi vật theo đúng khuynh hướng tiến triển

 của tính, ǵn giữ các Đại Ḥa Điệu.

         Sự luân chuyển của vũ trụ thiên nhiên có điều lư trật tự

 th́ phải theo một đường lối rỏ ràng và trong nội tâm của con người

 sự biến thái của tâm lư theo đường lối đó là tất phải nhắm mục

 tiêu đạo lư và có chủ đích hẳn hoi.

         Sự luân lưu có hệ thống ấy là sinh trưởng hóa dục :

 Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu liễm, Đông tàn.

        Mục đích phải đạt ở đây là tiến đến việc ḥa điệu cho lư

 tưởng của sự sống " toại kỳ sinh ".

        Sống thi vị là sống được măn nguyện sức sống.

         Vậy nên ḍng sống với mục đích thỏa mản theo định luật vận

 hành có điều lư trật tự đă thông qua cả ngoại giới lẫn nội giới của

 sự vật.

        Đối với đời sống vật lư, sinh lư và tâm lư th́ ḍng sống

 ấy là một thực tại chung.

        Đặc tính tồn tại của ḍng sống động ấy

 trong vô h́nh qua những hiện tượng hiện rồi biến, biến rồi hiện,

 Khổng Tử gọi là Tính.

        Chiết tự chúng ta thấy chử Tính gồm có chử

 Tâm và chử Sinh nên có thể dịch là Ḍng Sông Tâm Linh và gọi tắt

 là Tâm Linh.

        Ư thức thực thể đại đồng nẩy mầm trong đó, thế nên

 nó luôn luôn tiến về thuần nhất trong khi các hiện tượng biến

 đổi không thể tồn tại :

        " Nhất Âm nhất Dương chi vị đạo, kế chi

 giă thiện dă, thành chi giă tính dă " :

        Một lần Âm một lần Dương

 (một đóng một mở, một hướng tâm một ly tâm) là đạo (định luật

 vận hành).

        Nối theo cái ấy là hành, làm cho nên cái ấy là tính,

 là Tâm Linh. Có người thắc mắc hỏi xuất xứ của tính ấy, sách

 Trung Dung chép là do thiên bẩm có từ khi khai thiên lập địa.

        Nó là tự nhiên tính : "

        Thiên mệnh chi vị tính, suất tính chi vị đạo " :

 Mệnh trời gọi là tính, noi theo tính gọi là đạo.

         Người ta c̣n gọi Tính ấy là Tâm Thiên Địa v́ nó là t́nh

 yêu của đại đồng và là bản thể của đức Nhân, cái mà Khổng Tử gọi

 là " Nhân giả ái nhân ".

        Để mọi người phân định được cái tâm thiên

 địa hay Thiên Mệnh, Khổng Tử bảo rằng : "

        Hoặc sinh nhi tri, hoặc học nhi tri, hoặc khốn nhi tri,

 cập kỳ tri chi nhất dă " :

 có kẻ sinh ra đă biết, có kẻ học tập rồi biết, có kẻ cố gắng mà

 biết, đến khi biết th́ đều như nhau, chỉ có một đạo lư (Luận

 Ngữ).

        Sự hiểu biết trong cuộc đời Khổng Tử, Ngài chia làm hai

 giai đoạn hưởng thụ :

         1) - Giai đoạn đầu là thời kỳ tín cổ : Nhờ tin vào kinh

 nghiệm của các bậc tiền bối truyền lại mà ham học để biết, Ngài

 nói :

        " Tín cổ nhi hiếu chi ".

          Ở thời kỳ nầy Ngài thực hành theo phương pháp " Nội

 tỉnh " để suy lư.

        Sách Trung Dung đă chép lời nói của Khổng Tử về khoa xét

 nghiệm nội tâm.

        Mục đích là để thấu triết được tiếng nói của lương tâm,

 chân xác Thiên Mệnh và định rơ khuynh hướng của Tính.

        Lời Ngài :

        " Đạo dă giả, bắt khả lu du

         li dă, khả li phi đạo dă. Thị cố quân tử giới thận hồ kỳ

 sở bất đổ, khủng cụ hồ kỳ sở bất văn.

        Mạc thiện hồ ẩn, mạc hiển hồ vi, cố quân tử thận kỳ độc

 dă " :

        Đạo lư không thể xa cách ḿnh một khắc nào.

         Nếu có thể xa cách được th́ đă không phải là đạo lư.

         Cho nên người quân tử thận trọng răn ḿnh từ chổ chưa nh́n

 thấy, lo sợ từ chổ chưa nghe thấy.

        Chẳng ǵ ẩn náu mấy lại không hiện ra, chẳng ǵ rơ mấy lại

 không rơ ra cho nên người quân tử phải thận trọng xét nét khi

 ngồi một ḿnh vậy.

         2) - Giai đoạn thứ nh́ là giai đoạn Ngài đă trưởng thành

nhờ tŕnh độ trí thức căn bản trong thời kỳ tín cổ : Ở giai đoạn

nầy Ngài nhờ cố gắng học tập cho tới già để tri được Thiên Mệnh :

 " Ngũ thập nhi tri Thiên Mệnh ".

         Và thầy Mạnh Tử khi bàn đến cái Tính và Thiên Mệnh ở trên,

 thầy nói rỏ thêm con đường luân lư mà đức Khổng Tử đă nói :

         " Tận kỳ tâm, tri kỳ tính, tắc tri thiên " :

 t́m tận tới đáy ḷng ḿnh th́ biết được Tính.

        Biết được tính ḿnh th́ biết tính Trời.

         Tính là niềm tin tuyệt đối của giáo lư Khổng Mạnh, v́ nó

 là nguồn sống của tâm linh, là thực thể chung cho nội giới lẫn

 ngoại vật ! Tính c̣n là điểm trọng tâm của hai đầu mút :

        Tính của bản tâm, và tính của người khác, của vạn vật.

         Tuy thế giới của hiện tượng biến chuyển không ngừng qua

 muôn h́nh vạn trạng song nó đều qui về điểm ly tâm là Tính để

 đồng biểu hiện cho một nguyên lư tâm linh.

        Tính đi từ nội tâm đến ngoại vật.

        Thế nên, sự đi t́m phải bắt đầu bằng tia nh́n của Chính

 tâm, soi từ biên giới không đổi của Tâm ḿnh và cứ thế lan tràn

 dần khắp cơi nội tâm đến ṿng biên giới to lớn nhất đó là Tính

 chung của thế giới nhân sinh và vũ trụ.

        Mạnh Tử viết :

        " Vạn vật bị ư ngă, phản thân nhi thành " :

        Nguyên lư muôn vật đầy đủ ở ta, quay về bản thân mà thực hiện

 ở nơi ḿnh.

        Xem thế, Thiên Mệnh không là một vấn đề siêu h́nh bất khả

 tri nếu con người biết tin vào khả năng trí thức của ḿnh.

         Cần nhất là phải cố gắng suy xét, t́m hiểu và tu chỉnh cho

 tâm ḿnh được chính về cả hai phương diện Tri lẫn Hành sao cho

 hợp nhất.

        Khổng Mạnh luận về tính : " Duy thiên hạ chí thành vi

 năng tận kỳ tính.

        Năng tận kỳ tính tắc năng tận nhân chi tính.

 Năng tận nhân chi tính tắc năng tận vật chi tính ",

        nghĩa là :

        chỉ có người hết sức thành thực trong thiên hạ mới có thể

 phát triển trọn vẹn tính ḿnh, có thể làm tṛn tính ḿnh th́ có

 thể làm trọn tính người.

        Làm trọn được tính người th́ có thể làm trọn được tính

 vật.

         Và cứ theo đà ấy ư thức tâm linh gọi là tính ḥa đồng

 vào thế giới nhân sinh đại đồng nối liền con người với tạo

 vật và cảm thông được Thiên tính.

         Muốn suy được mệnh th́ phải noi theo đường tin của Khổng

 Tử " Thành tắc minh, minh tắc thành " ( thành thật th́ sáng suốt,

 sáng suốt th́ thành thật). Như thế con người trước Thiêm Mệnh

 mới :

        " Dữ Thiên Địa tham " : ( tham gia mật thiết với Trời

 Đất, không trái mệnh ) vậy.

         NHÂN với Nhân Sinh, Đức Nhân

         Trong đạo sống của ḿnh và cho người, Khổng Tử luôn luôn

 lấy đức Nhân và t́nh yêu người làm tiêu chuẩn.

        Người đạt đến bậc Nhân là người hoàn toàn.

        Dù Ngài được hơn 3.000 đệ tử và muôn vạn người

 đương thời sùng bái nhưng Tính chân thành và Ḷng hướng thượng

 của Ngài không bao giờ cho phép Ngài tự măn, tự nhận.

        Ngài không dám ví ḿnh tới kẻ đạt Nhân, mà chỉ xem Nhân

 như là một đối tượng cao quư nhất phải đạt.

        Ngay cả thầy Nhan Hồi là một cao đệ bậc nhất của Khổng Tử,

 sau nầy thầy cũng chỉ dám nói như một tín đồ ngoan đạo sùng kính

 đức Nhân :

        " Tam nguyệt bất vi nhân " :

         ba tháng không trái với đức Nhân.

         Xem thế đức nhân là cái đức tính bẩm thụ của nhân loại từ

 cái Toàn Thiện mà Khổng Tử hằng nhắc nhở đến với cả ḷng tôn

 sùng là một lư tính tối thượng, một nhân cách quá vĩ đại !

        Con người và vạn vật đều chịu sự chi phối bởi Thiên

 Mệnh đồng nhất bất phân nhưng hai lối rẻ ấy :

        vạn vật th́ vật dục bế tắc, nhân loại th́ nhờ tâm linh mầu

 nhiệm nên vươn ḿnh chổi dậy đứng ở một tŕnh độ tư tưởng cao hơn

 tất cả.

        Trong Kinh Thư Chu thư chép :

         " Duy thiên địa vạn vật phụ mẫu duy nhân vạn vật chi linh ",

        nghĩa là : trời đất là cha mẹ chung nhưng chỉ nhân loại là

 linh hơn cả. Và Pascal đă xác nhận điều đó như một tấm ḷng hào

  phóng của triết nhân lư tưởng :

        L'homme n'est qu'un roseau le plus faible de la nature ;

        mais c'est un roseau pensant.

         Con người dù biết rằng trước nguyên lư của Vũ trụ thiên

 chức chưa có thể tự hào ḿnh là toàn năng, nhưng so với vạn thế

 muôn loài, theo Khổng Tử, nhân loại lúc nào cũng cố gắng tiến

 triển không ngừng để thể hiện xứng đáng với cái linh tính, một khả

 năng vô hạn của ḿnh hướng thiện nhân cách. Khi đạt đến chổ siêu

 thoát tinh vi của bậc Hiền Nhân quân tử th́ có thể tự hào đạt

 đến bậc Nhân. Đức nhân lấy t́nh yêu làm trọng tâm và từ đó người

 ta thấy một thế giới t́nh yêu mầu nhiệm rộng mở. Khổng Tử tha

 thiết kết luận :

        T́nh yêu ấy là lẽ sống thiên liêng của Ngài và

 là quan điểm nồng cốt trong chương tŕnh của Ngài đă, đang và sẽ

 xây dựng đạo thanh cao cho nhân loại.

         Tính chất đại đồng, kiêm ái của quan niệm t́nh yêu do

 Khổng Tử quàng lên bậc Nhân Đức như một ṿng hoa danh dự quàng

 lên vai người chiến thắng là thứ t́nh yêu thực chất đáng yêu chứ

 không chỉ là một ư nghĩ mơ hồ diệu vợi. Sự chứng minh thực nghiệm

 của nó phải đi từ bản chất cá thể chính ḿnh đối với địa hạt thân

 cận nhất đời ḿnh, ở đó phải có những người cùng một mối liên hệ

 to tát như :

        cha mẹ, anh em, rồi lan dần đến láng giềng, xóm,

 làng, quốc gia và thế giới nhân loại.

        Đó phải chăng là phương châm Tu, Tề, Trị, B́nh, nghĩa

 là bắt đầu từ bản thân phải tu sửa, đến gia đ́nh phải tề chỉnh,

 đến quốc gia phải chính trị, đến nhân loại thế giới phải được ḥa

 b́nh mà Khổng Tử thường nhắc đến ? Ngài cũng đă tŕnh bày trong

 Hữu Từ :

        Luận Ngữ về điểm căn bản của sự vun trồng tương lai :

        " Quân tử vụ bản, bản lập nhi đạo sinh ; Hiếu để dă giả kỳ

 vi nhân chi bản dư ? " :

         Người quân tử vun trồng nơi gốc, góc vun th́ đạo lư nẩy nở.

 Hiếu để ấy là gốc làm người nhân đức chăng ?)

         Thế nên có thể tóm kết rằng : " Đức ái của người Nhân là

 t́nh yêu thực hiện, có chỗ bắt đầu để đi tới cứu cánh.

         Và người ta ai cũng có sẵn khả năng để thành tựu người Nhân,

 nhưng phải đi từ bậc thấp đến bậc cao, từ gần đến xa không thể quên

 hẳn ḿnh măi măi cho tất cả ".

        Đó là phương pháp thực hiện quan niệm t́nh yêu của Đức Khổng

 Tử.

        Phương pháp này đặt trên căn bản thứ trật hết sức uyển chuyển

 theo từng đối tượng.

        Với người thân phương pháp ấy trở thành một t́nh yêu thương

 chân thật, đậm đà, nhưng với người hiền nhân quân tử th́ sự yêu

 thương biến thành ḷng tôn kính trang nghiêm được thể hiện qua

 phép cư xử có tôn ti lễ trật " Thân thân hữu thuật, tôn hiền hữu

 đẳng " :

         Yêu người thân có phương pháp.

         Tôn trọng người hiền có tŕnh độ thứ bậc.

         Và phương pháp thứ bậc trong việc thực hiện đức yêu của

 người Nhân là để xây dựng cuộc sống Nhân sinh đại đồng " Tứ hải

 giai huynh đệ ".

         Bao giờ t́nh yêu ấy cũng cố gắng tăng trưởng bằng tư tưởng

 sáng tạo, lớn dần và không định giới hạn.

        Cho nên có thể nói rằng quan niệm t́nh yêu của Khổng Tử,

 của bậc Nhân chưa bao giờ mỏi mệt, tự măn để dừng nghĩ trước

 thế giới mà người đời cho là vĩ đại như nhân loại t́nh yêu ấy

 khi tới biên giới đại đồng nhân loại lại chỗi ḿnh cất cánh bay

 bỗng đến một thế giới khác để chiếm hữu.

        Thế giới đó phải là thế giới của tâm linh siêu hóa,

 của vũ trụ ḥa điệu đại đồng.

        Sau đây là lịch tŕnh tu thân thực hiện Đạo lư của đức

 chính nhân Khổng Tử qua lời tự thuật của Ngài :

        Ngô thập hữu ngũ chí ư học

        Tam thập nhi lập

        Tứ thập nhi bất hoặc

        Ngũ thập nhi tri Thiên Mệnh

        Lục thập nhi nhĩ thuận

        Thất thập nhi ṭng tâm sở dục bất du củ

         Dịch là :

        Ta mười lăm tuổi chuyên tập học tập

        Ba mươi th́ chí lập đă vững

        Bốn mươi không ngờ vực

        Năm mươi thấu triệt được Mệnh Trời

        Sáu mươi tai nghe thuận với lẽ Trời

        Bảy mươi, theo ḷng mong muốn mà không vượt khỏi đạo lư.

         Ngày nay, hậu sinh đọc tư tưởng của Ngài và có tâm suy

 tưởng mong được hiểu rỏ Ngài mới thấy được đạo người của NgàI thật

 quá cao siêu.

        Sự cao siêu đó, không là một thế giới ảo ảnh trừu

 tượng như một tôn giáo thuần túy mà đạo lư ấy luôn luôn được

 Ngài đặt sát ḥa đồng với thực tế nên giữ được giá trị trường

 cửu trong ḷng nhân thế phi không, thời gian. Đạo và Đời gặp

 nhau để bổ sung nhau :

        " Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi đạo, nhi viễn nhân bất

 khả dĩ vi đạo " :

        Đạo lư không được xa người, Người lập đạo lư mà xa với

 người th́ không có thể lấy làm đạo lư được.

         Đạo đó là đạo làm người, tập cho con người sống cho ra

 con người, cái con người được tiếng là tinh khôn hơn cả muôn loài.

        Trước một thế giới điên loạn, " khi tỉnh rượu, lúc tàn

 canh " con người với bản tính " đầy dục vọng " đến lúc " giật ḿnh

 tỉnh lại thương ḿnh xót xa ", họ bắt đầu để tang cho vị quân sư BÁ

 ĐO của họ và muốn học làm người th́ h́nh ảnh VƯƠNG ĐO và học

 thuyết NHO GIÁO của Khổng Tử hiện đến tâm hồn họ như một nguồn

 sống bất tận, một ánh sáng vàng kim " Khuôn vàng thước ngọc "

 chói chang khi đêm về đen tối...

         GIÁ TRị TRƯỜNG CỬU CỦA TRIẾT LƯ NHÂN BẢN NHO GIÁO

         Để có một nhận định tổng quát về học thuyết Khổng Tử,

 chúng ta có thể căn cứ vào những nhận xét sau đây của :

         _ Thầy Mạnh Tử :

         " Khả dĩ sĩ tắc sĩ, khả dĩ chỉ tắc chỉ, khả dĩ cửu tắc

 cửu, khả dĩ tốc tắc tốc, Khổng Tử giă :

        Nên làm quan th́ làm quan, nên thôi th́ thôi, nên lấy làm

 lâu th́ lâu, nên lấy làm chóng th́ chóng, là Đức Khổng Tử vậy ".

                                        MNH TỬ

                                 Công Tôn Sửu Thượng.

         _ Thầy Tử Cống :

         Có người không hiểu cái đạo của Ngài, thường hay buông lời

 hủy báng Ngài.

        Thầy Tử Cống nói rằng :

        " Vô dĩ vi giă. Trọng Ni bất khả hủy giă.

         Tha nhân chi hiền giả, Khâu lăng giă, do khải du

 giă ; Trọng Ni nhật nguyệt giă, vô đắc nhi du yên.

         Nhân tuy dục tự tuyệt, kỳ hà thương ư nhật nguyệt hồ ?

 Đa kiến kỳ bất tri lượng giă " :

        Hủy báng sao được. Đức Trọng Ni không ai hủy báng

 được. Người khác có tài giỏi th́ cũng như cái gồ cái đống c̣n có

 thể trèo qua được.

        Đức Trọng Ni như mặt trời mặt trăng, không

 sao mà trèo qua được. Dẫu có người muốn lấy lời hủy báng mà tự

 tuyệt với mặt trời mặt trăng ; th́ hại ǵ đến mặt trời mặt trăng

 đâu ? Càng đủ rỏ là người không biết lượng vậy. Theo Thầy Tử

 Cống th́ :

        " Phu tử chi bất khả cập giă, do thiên chi bất khả

 giai nhi thăng giă. Phu tử chi đắc bang gia giă, sở vị lập chi

 tư lập, đạo chi tư hành, tuy chi tư lai, động chi tư ḥa, kỳ

 sinh giă vinh, kỳ tử giă ai. Như chi hà kỳ khả cập giă " :

         Phu tử không ai sánh kịp được như Trời kia không ai bắc

 thang lên được.

        Nếu Phu tử được có nước mà trị th́ có thể bảo là gây dựng

 cho dân th́ dân nên, dạy dân th́ dân theo, yêu dân th́ dân mến,

 khiến dân làm th́ dân được ḥa, sống được vẽ vang, chết người ta

 thương tiếc. Ai là người sánh kịp được.

         _ Học giả Trần Trọng Kim

         Khổng Tử là một người rất thông minh, rất nhân hậu, hết

 ḷng lo việc cứu đời.

        Ngài đem cái đạo của thánh hiền đời trước mà phát

 huy ra lập thành cái học thuyết, lưu truyền về sau để làm kỷ

 cương cho cái dân tộc ở Á Đông măi đến đời nay đă hơn 2.000 năm,

 kể có hàng năm trăm triệu người sùng bái làm thánh sư.

        Mỗi lời nói mỗi cử chỉ của Ngài là đời đời người ta lấy

 làm khuôn, làm phép mà theo.

        Một đôi khi, v́ thời cuộc biến đổi, thiên hạ náo

 loạn, ḷng người chán nản, đạo của Ngài cũng có lúc mờ tối đi,

 nhưng rồi lại sáng rơ hơn trước mà cái đức vọng của Ngài càng

 ngày càng tôn trọng thêm lên. Thiết tưởng nếu Ngài không phải là

 bậc chí thánh, chí nhân, th́ sao được như thế ! Ngài nói điều ǵ

 cũng ôn ḥa và hàm súc, làm việc ǵ cũng ngay chính và vừa phải,

 tiến thoái phân minh, động tĩnh hợp thời.

         Cái đức vọng của Khổng Tử to như thế, nhưng đến ngày nay

 cái văn hóa vật chất quật khởi lên, những dân tộc ở Á Đông này đều

 nô nức bỏ củ theo mới, có người cho đạo của Ngài làm ngăn trở sự

 cải cách, muốn trừ bỏ đi.

        Đó chẳng qua là v́ sự náo nhiệt trong cuộc hành động một

 thời, người đời c̣n đang say đắm về đường công lợi, chưa có

 th́ giờ mà suy xét cho kỷ, nên mới lấy cái lầm lỗi của bọn hủ nho

 mà bài bác cái đạo của Ngài.

         Nhưng thiết tưởng xă hội nào đă yên trị, th́ dầu chẳng

 theo đạo của Ngài, tất cũng phải theo một đạo khác tương tự như

 thế, để giữ lấy cương thường trật tự trong đám nhân quần.

         Đạo của Ngài là đạo chí công chí thính, khiến người ta

 phải theo thời mà biến đổi, tức là đạo phải tiến hóa luôn.

        Nhưng v́ người đời thường hay hiểu lầm, dần dần thiên về

 mặt hư văn.

        Đến nay khoa học thịnh hành lên, việc công nghệ mở mang ra,

 người ta bỏ được cái lối hư văn đi nhưng lại thiên về đường vật

 chất vị tất đă hay cho sự sinh hoạt của loài người. Xưa kia ta quá

 tin về đường hư văn cho nên thành ra suy nhược, sau này ta lại quá

 tin về đường vật chất, có lẽ lại dở hơn.

        Phàm cái ǵ thái quá cũng là dở cả, chỉ nên giữ thế nào cho

 tinh thần và vật chất hai bên cùng điều ḥa với nhau được th́ mới

 hoàn toàn.

        Nếu giữ được cái đạo điều ḥa như thế, tức là theo được cái

 đạo trung dung của Khổng Tử.

         _ Giáo sư Nguyễn Đăng Thục

         Công cuộc phục hưng văn hóa Á Châu đối với chúng ta ngày

 nay, một dân tộc nhược tiểu ở trung tâm châu Á là một vấn đề rất

 chính đáng tối trọng đại và khẩn thiết ! Bởi v́ chúng ta đang

 phải cấp tốc hiện đại hóa quốc gia chúng ta, mà hiện đại hóa

 ngày nay là thích ứng đời sống tập thể và cá nhân với thế giới

 và nhất là với Âu Mỹ.

        Chúng ta phải thâu hóa lấy cái hay cái đẹp

 của người để làm của ḿnh, cũng như trước kia tiền nhân ta đă thâu

 hóa tinh hoa của hai nền văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa để thực hiện ư

 chí quật cường của dân tộc vậy.

        Nhưng ngày nay muốn thẩm định giá trị chính đáng của

 người, chúng ta không thể không đối chiếu

 với ḿnh, không thể không xét qua tâm hồn ḿnh.

        Mà tâm hồn cá nhân cũng như đoàn thể dân tộc không phải

 một tờ giấy trắng.

        Cái tâm hồn Việt Nam đă in sâu thành tích của văn hóa cổ

 kính Á Châu, một văn hóa ở khu vực Ấn Độ hay Trung Hoa và rộng hơn

 toàn thể cơi Á Châu từ địa Trung Hải đến Thái B́

nh Dương có chung

 một đặc tính là truyền thống.

        Hai chữ truyền thống (tradition) có nhà xă hội văn hóa học

 hiểu nghĩa chính là văn hóa, v́ văn hóa đ̣i phải có sự lũy tích

 đời nọ truyền cho tới đời kia.

        Ở đây chúng tôi chỉ hiểu truyền thống theo nghĩa đen của

 nó là cái không gián đoạn, nối tiếp quá khứ với hiện tại và tương

 lai đúng như Khổng Tử xưa kia đă thực hiện :

        " Ôn cố tri tri tân " (xét lại việc đă qua để đoán hiểu

 điều sắp tới).

         Cái sợi dây thông suốt qua đời nọ sang đời kia ấy khác

 nào một ḍng sinh khí ngấm ngầm vận động và thúc đẩy trong cơ thể

 nhân loại, cái ấy là mạch sống tâm linh và chính đấy là đặc tính

 của truyền thống Á Châu, như nhà văn hóa Nhựt Okakura-Karuzo đă

 nói từ đầu thế kỷ 20 : " Asia is nothing but spiritual : Á Châu

 chỉ là tâm linh ".

         Trong cái giá trị vĩ đại của văn hóa Á Châu, th́ Khổng Mạnh

 đă có một địa vị quan trọng v́ ảnh hưởng sâu rộng và bền bỉ tất cả

 sinh hoạt cá nhân và tập thể vào số lớn nhân dân trong đó có dân

 tộc Việt.

        Ai đă từng vào ngắm ngôi đền Văn Miếu ở Hà Nội, hay ở

 Long Hồ đều nhận thấy cái bức hoành phi treo chính ở giửa bốn

 chữ đại tự :

                        VN THẾ SƯ BIỂU

         Ở bốn chữ suy tôn Khổng Phu Tử để kính thờ ấy, chúng ta

 ngày nay c̣n có thể thấy được tinh thần của tiền nhân chúng ta xưa

 đă đề cao sứ mệnh của giáo hóa là chừng nào, và tôn trọng nhân cách

 kiểu mẫu của ông Thầy, của nhà giáo là chừng nào ! Và cũng chính

 ở hoạt động giáo hóa mà Khổng Phu Tử đă tỏ ra một nhà Cách

 Mạng...

 

Giáo lư -

 ĐI-ĐO TAM-KỲ PHỔ-Độ

 T̉A-THÁNH TÂY-NINH

 

                 GIÁO  LƯ

 

            HIP THIÊN ĐÀI

 Tiếp pháp quân : Trương văn Tràng

                 LỜI  TỰA

   Của Ông Bảo-Thế Lê-Thiện-Phước

                             ------

    Học Đạo là t́m hiểu Chơn-lư và một khi thấu triệt rồi th́ không

c̣n vui thú nào ở thế-gian sánh kịp. Nhờ vậy, người hành đạo mới dám

hi-sinh những cái ǵ ràng buộc Thần-trí và Tâm-hồn, ngơ hầu giải thoát

cảnh trầm luân nơi bễ khổ đặng qui hồi nguyên bổn.

    Từ xưa đến nay đă có nhiều Tôn-giáo xướng xuất nhiều phương hướng

d́u dẫn nhơn-sanh trong trường xửsự tiếp vật theo đạo hóa-sanh của

Trời-Đất. Song le, văn minh vật chất càng ngày càng tiến triển, như

hiện giờ khoa-học gần như muốn chiếm đoạt cơ mầu-nhiệm của Tạo-Đoan,

th́ trái lại, tinh thần đạo đức của nhơn-sanh càng ngày càng lu lờ,

mặc dầu các Tôn-giáo kia đă tận lực giáo nhơn qui thiện.

    Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ xuất-thế với một yếu-lư qui Tam-giáo hiệp

Ngũ-Chi, thành-thử những Tu-Sĩ của nền tân Tôn-Giáo nầy không c̣n

phân-biệt giáo phái, tức là coi nhau như bạn thân đồng theo một khuynh

hướng "Cứu nhơn độ thế". Lẽ dĩ nhiên Đạo Cao-Đài phải có một Giáo-lư

phù hạp với Tŕnh độ của nhơn-sanh hiện tại đặng chuyển đọa vi-thăng,

tiêu trừ nghiệp chướng. Huynh Tiếp-pháp Trương-văn-Tràng đă dày công

soạn quyển Giáo-lư nầy cốt yếu giúp cho các bạn Tu-sĩ khỏi lầm lạc

trên đường học Đạo;

 

   Sách nầy đánh truyền bá các nơi, dầu nơi gia-đ́nh Đạo-giáo, hay

gia-thất bàng quan, đều nên đọc nó, bất luận là lúc nào, trong đồi

ḿnh, sẽ thấy nó là nguồn an-ủi để sửa ḿnh khi rủi lâm vấp tội t́nh,

hoặc nó sẽ là kim Chỉ-nam để vạch lối cho kẻ hành giả đem cái Ta

giả-hiệp trở về cái Chơn thật bổn-ngă.

 

   T̉A-THÁNH, ngày 28 tháhn 8 năm Kỷ-Hợi

                           (30-9-59 d.l.)

              Qu. Đầu-Sư Cửu-Trùng-Đài

                               Bảo-Thế

             Kư tên : LÊ-THIN-PHƯỚC

 

            T̉A-THÁNH, ngày 24 tháng 8 năm Kỷ-Hợi (26-9-1959)

   Tặng quyển  " ĐI - ĐO  GIÁO - LƯ "

                   của ông Tiếp-Pháp

              TRƯƠNG - VĂN - TRÀNG

                                    ***

                   "Giáo-Lư" Đạo Trời thất ức niên,

           Trương-Quân biên soạn để lưu truyền.

                    Tồn tâm chỉ rơ đường mê-giác,

               Dưỡng tánh phân rành nẻo tục-tiên.

                    Vẹt ngút mây mù nâng đuốc huệ,

                    Gắng công học hỏi đánh tài hiền.

            Noi theo chánh thuyết bền trau luyện,

                    Mới đạt chơn tu phép diệu huyền.

                          CAO-THƯỢNG-SANH

                                  *

       THỂ THEO CÂU PHƯƠNG NGÔN

      Cành hoa nở buổi rạng đông, chẳng phải muốn khoe sắc đẹp, hương

thơm mà tại thời tiết bắt nó phải nở, cho nên nó không thể không nở được.

      Mặc t́nh khách qua đường ai yêu hoa th́ dừng chơn mà thưởng thức.

                            THAY LỜI TỰA

                                 *

      Nay khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, Đức Chí-Tôn không dùng lối giáng

Trần như mấy lần trước, mà lại dùng Thần-Điển đặng truyền-giáo. Đức

Chí-Tôn cũng không xưng danh "NGỌC-HOÀNG THƯỢNG-ĐẾ" mà lại tá danh

"Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát", để cầm giềng nền Tân

Tôn-Giáo. Cái lẽ tại làm sao Đức Chí-Tôn dùng phương-pháp khác hơn

thời xưa thié xim xem bên trong quyển sách nầy sẽ rơ. Bây giờ, chúng

tôi xin kể sơ lược cách Truyền-giáo của Đức Chí-Tôn, để độc-giả hiểu

qua cái lẽ huyền-diệu của ông Thầy Trời. Như lúc ban đầu những người

Thiện-nam, Tín-nữ, thượng sớ cầu Đạo th́ Đức Ngài cho mỗi người một

bài thi : hoặc bát cú, hoặc tứ-tuyệt. Trogn bài thi, đức Ngài nói đời

tư, hay tâm-lư của đương-sự, để mỗi người tự xét ḿnh. Kịp đến sự dạy

Đạo cũng vậy. Đức Chí-Tôn tùy căn-cơ mỗi Môn-đệ, cảm-hóa lần hồi : từ

chỗ dễ đến chỗ khó, từ chỗ tối đến chỗ sáng, từ chỗ mê đến chỗ ngộ.

Lời dạy dỗ hấp dẫn kẻ học ham mà không chán, có đức-quả mà không biết.

Thật phép giáo-hóa của Đức Chí-Tôn vô cùng khéo léo.

 

      Th́ chúng tôi cũng ở trong trường hợp ấy. Trước kia,không hiểu

đạo-lư là chi, thậm chí đến đức-tin truyền thống của Tổ-phụ cũng chỉ

c̣n phưởng-phất trong tâm-địa mà thôi. Rồi th́nh-ĺnh đến năm Ất-Sửu

(1925) tại Sài-gon, có một phong-trào "Pḥ-cơ, Chấp-bút, Xây-bàn" nổi

lên. Ban đầu, v́ tánh háo-kỳ, chúng tôi theo để t́m hiểu sự thật. Thế

mà rồi v́ ham mộ văn-chương, chăm theo không chán, măi rồi lại ư-hội

được Chơn-lư và sau cùng th́ mộ Đạo. Nhờ sự khéo dạy dỗ của Đức

Chí-Tôn mà chúng tôi hiểu được chút ít Đạo-lư.

 

   Quyển sách nầy gồm có mười chương, mỗi chương gồm những bài học của

chúng tôi, hoặc do Đức Chí-Tôn giáng cơ dạy, hoặc khảo-cứu trong kinh

sách Tam-giáo, rồi sắp đặt thành thông-hệ mạch-lạc. Mặc dầu nghĩa lư

nông-sơ, nhưng chúng tôi cũng thành-thật cống-hiến cho Bổn-đạo, gọi là

làm công-quả.

 

    Để biết qua cái đại-cương của quyển sách,chúng tôi xin tŕnh bày

sơ-lược mười chương sách đă nói trên. C̣n như muốn biết tinh tường th́

xin xem chi-tiết bên trong.

 

Chương thứ      I    :   Tiểu-sử Đại-Đạo

Chương thứ     II    :   Nền tảng Đại-Đạo

Chương thứ    III    :   H́nh thể Đại-Đạo Chương thứ    IV    :   Lễ nghi Đạo-luật

Chương thứ     V    :   Vơ-Trụ-Quan

Chương thứ     VI   :  Nhơn-Sanh-Quan

Chương thứ   VII   :  Sự giáo-hóa của Đại-Đạo

Chương thứ   VIII    :   Hạ-thừa

Chương thứ     IX    :   Thượng-Thừa

Chương thứ      X    :   Tổng-luận.

 

    Trong mười chương sách vừa kể trên : từ chương I đến chương IV,

chúng tôi tŕnh bày Tiểu-sử Đại-Đạo và một Hội-Thánh gồm có Ba-đài,

đại-diện Đạo-Đức tại thế-gian, để độc-giả biết qua nền Tân Tôn-giáo do

phương thức nào xuất hiện và làm thế nào đặng nên gương đạo đức cho

người đời soi sáng. Từ chương V đến chương IX, chúng tôi nghị luận

Vơ-Trụ-Quan, Nhơn-Sanh-Quan, cách giáo-hóa của Đại-Đạo để Độc-giả thấy

chỗ thành lập đức tin của Tín-đồ Đại-Đạo. Thứ nữa, kẻ học sẽ nương

Hạ-thừa mà tiến lần đến Thượng-thừa.

    Hai lớp học nầy, (Hạ-thừa và Thượng-thừa), tuy khác tŕnh độ, song

cả hai đều lấy đạo Trời làm căn bản để sửa đạo Người ; nghĩa là kẻ

Tín-đồ Đại-Đạo lấy thiên-lư làm then chốt cho đời sống của ḿnh để

thực-hành cái thuyết "Thiên địa vạn-vật nhứt thể" của Tam-giáo đời

trước ; cứu cánh là giải-thoát kiếp Luân-hồi ra ngoài ṿng sanh-tử.

    Tài sơ, đức bạc, chúng tôi lấy làm ái-ngại mà cống-hiến quyển sách

nhỏ nầy. Dĩ nhiên, sự khuyết-điểm th́ chắc chắn không tránh khỏi. Mặc

dầu vậy, chúng tôi cũng mong rằng : nó sẽ giúp ích cho người mới nhập

môn một phần nào.

                    Tác-giả kỉnh đốn.

 CHƯƠNG THỨ NHỨT

                              -*-

           TIỂU-SỬ ĐI-ĐO

                              -*-

         HUẤN-LUYN Đ-NG-TỬ

      Ngày nay, ai cũng hiểu rằng nền Tôn-giáo Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ

do huyền-diệu cơ-bút thành-lập, mà Đồng-Tử là vấn-đề quan-trọng trong

phép "Thông-Thần-Lực" (médiumnité). Ấy vậy nên trước khi khai Đạo, Đức

CHÍ-TÔN ủy-quyền cho chư Tiên Phật chọn lựa và huấn-luyện Đồng-Tử.

Chúng tôi c̣n nhớ vào khoảng thượng tuần tháng 6, năm Ất-Sửu (1925)

tại Đô-Thành Sài-Gon th́nh-ĺnh phát-khởi một phong trào : Xây bàn,

Pḥ cơ, Chấp bút. Đầu nầy xây bàn tiếp chuyện với các Vong-linh, để

họa thi vịnh phú ; chỗ nó Pḥ-cơ, Chấp-bút cầu Tiên để xin Toa thuốc

chữa bịnh. Tại trung-tâm Sài-gon có một nhóm công-chức cũng bắt chước

xây-bàn cầu các Đấng Thiêng-Liêng để học hỏi văn-chương thi-phú. Ban

đầu, họ tính dùng dịp tiêu-khiển mà thôi ; nhưng về sau v́ ham mộ

văn-chương thi-phú, mà họ theo đuổi phép "Thông-Thần-lực" đến nơi

vi-diệu mà rồi chung cuộc họ trở nên những người Pḥ-Cơ đặc-sắc để Đức

CHÍ-TÔN dùnh làm môi giới cho sự mở Đại-Đạo. Những vị sau này được

CHÍ-TÔN phong vào hàng Chức-Sắc đại Thiên-phong trong Đài Hiệp-Thiên.

    Nhắc lại, nguyên chiếc bàn nhỏ có bốn chưn, kê hai chưn kia cao

hơn hai chưn nọ, chừng ba phân tây. Thế th́ chiếc bàn trở nên

gập-gh́nh, có thể dở lên đặt xuống dễ dàng. Sự xây bàn phải có ít hơn

hết là hai người, ngồi đối diện nhau và để hai bàn tay lên trên mặt

bàn. Trong chừng 10 phút th́ chiếc bàn bắt đầu chuyển động. Đó là

triệu chứng đă có một vị Thiêng-Liêng giáng-điển, chiếc bàn bắt đầu dở

lên và gỏ xuống.

    Vậy chiếc bàn chuyển động cách nào mà viết ra chữ ?

    Có một khẩu ước giữa Đấng Vô-h́nh và hai vị Đồng-Tử như vầy :

nhịp một lần là chữ "A" ; hai lần là chữ "Ă" ; ba lần là chữ "Â" bốn

lần là chữ "B" và cứ như thế tiếp diễn đến đủ 24 chữ cái. Trong khi

bàn nhịp, hễ ngừng chỗ nào th́ người ngồi ngoài phải biên chữ ấy ;

chung cuộc thành ra một danh-từ ; nhiều danh-từ hiệp thành một bài thi

"Bát-cú", hoặc một bài "Tản-văn"

   Cách "Xây bàn" ban đầu th́ khó khăn ; nhưng về sau, các vị

Đồng-Tử quen tay và thuần-điển th́ cũng được dễ dàng. Nhờ vậy nên sự

tiếp chuyện càng ngày càng được mau lẹ và rơ ràng.

   Chúng tôi c̣n nhớ, có lẽ hôm ấy nhằm ngày 10 tháng 6 năm Ất-Sửu

(1925) có một cô gái nhập bàn, tự xưng là Đoàn-ngọc-Quế và cho một bài thi Bát-cú như vầy :

                " Nỗi niềm tâm sự tỏ cùng ai ;

                " Mạng bạc c̣n xuân uổng sắc tài.

         " Những ngỡ trau duyên vào Ngọc-các,

        " Nào ngờ phủi nợ xuống Tuyền-Đài.

         " Dưỡng sanh cam lỗi t́nh sông núi,

         " Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai.

         " Dồn dập tương tư hoằng một gánh,

          " Nỗi niềm tâm sự tỏ cùng ai.

    Sau rơ lại th́ cô Đoàn-Ngọc-Quế là biệt hiệu của bà Thất-nương

Nữ-Phật Diêu-Tŕ-Cung dùng lối giáng Thần, và cho thi như trên là có ư

cảm hóa mấy vị Đồng-Tử tương lai. Từ đó về sau Cửu-vị Nữ-Phật

Diêu-Tŕ-Cung thường hay giáng Đàn và dùng lối văn vừa vui, vừa hay,

để huấn luyện Đồng-Tử. Đến một hôm nọ, th́nh ĺnh có một Đấng giáng

Đàn với một Thần-điển phi thường và tự xưng là A Ă Â. Về sau, biết ra

th́ chính Ông A Ă Â là Đức "Cao-Đài Thượng-Đế". Đức Ngài có nói rằng

:"Ta phải hạ ḿnh là một Chơn-Linh thường, để cảm hóa các con". Thật

quả vậy, nếu lúc đó Đức CHÍ-TÔN nói rơ : Ngài là Đức Thượng-Đế th́

chắc chúng ta chẳng hề dám lân la học hỏi.

     Cách dạy của Ông A Ă Â cũng như các vị Nữ-Phật nói trên ; nghĩa

là Ông cho bài vừa vui, vừa hay, làm cho kẻ học không chán. Măi đến

ngày 30 tháng 10 năm Ất-Sửu nhằm ngày 15 tháng 12 năm 1925, Đức

CHÍ-TÔN dạy phải lập bàn Vọng-Thiên cầu Đạo và phải dùng lối "Pḥ Cơ"

để tiếp xúc với Đức Ngài. Cách Pḥ-Cơ bây giờ hăy c̣n dùng ; có lẽ ai

cũng hiểu, khỏi phải mô tả nữa.

     Đến đêm 24 tháng 12 năm 1925, ngày Chúa giáng sanh bên Thái Tây,

đức CHÍ-TÔN giáng-cơ dạy rằng :

     "Ngọc-Hoàng Thượng-Đế viết Cao-Đài Tiên-Ông, Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát

giáo Đạo Nam-Phương".

                           Thi :

              " Muôn kiếp có ta nắm chủ quyền,

              " Vui ḷng tu niệm hưởng ân Thiên.

        " Đạo mầu rưới khắp nơi Trần-Thế,

      " Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn bền.

      Đến đây chúng tôi mới rơ ra rằng cái phong trào Xây bàn, Pḥ-Cơ,

Chấp-Bút trước kia là Tiên-triệu (Signes précurseurs) cho nền Tôn-giáo

Đại-Đạo vừa xuất thế và cũng là phương-pháp huấn luyện Đồng-Tử của Đức

CHÍ-TÔN để dùng truyền giáo.

      Lời Tiên-Tri.- Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế giáng cơ lập một nền

Tôn-giáo như thế nầy là một việc thế-gian hi-hữu, làm cho chúng tôi,

mặc dầu đă suy nghĩ nhiều, song vẫn bán-tín, bán-nghi. Thế nên chúng

tôi mới t́m hiểu thêm nữa th́ thấy trước kia đă có nhiều lời tiên tri

rằng sẽ có một nền Tân Tôn-giáo, xuất thế, mà chúng tôi lần lược kể

như sau :

      a) Sách "Phật Tông-Nguyên-Lư" chép rằng : Khi Đức Phật Thích-Ca

sắp tịch nhập, để tử Ngài là A-Nan-Đa rơi lụy mà hỏi rằng :

         "Khi Tôn-Sư viên tịch rồi, ai dạy bảo các con ?" Ngài đáp

:"Ta Chẳng phải là vị Phật đầu tiên, hay là cuối cùng giáng thế. Ngày

giờ đến, sẽ có vị Phật khác xuất hiện cứu đời, một vị Chí-Thánh, một

vị Đại-giác cực kỳ cao thượng, một vị dẫn Đạo vô song của Nhơn-loại,

một vị Chúa-tể cả Thánh Thần và loài người, Đấng ấy sẽ truyền lại cho

các con một mối Đạo vinh diệu buổi sơ khai. Vinh diệu buổi thạnh hành,

vinh diệu buổi kết cuộc. Đấng ấy sẽ xướng xuất một đời sống đạo-đức

hoàn toàn thuần khiết".

      b) Đạo Minh-Sư sáng lập hồi đời nhà Thanh bên Trung-Hoa, có hai

câu sấm, do các vị Tổ-Sư lưu lại như vầy :

             Cao như Bắc khuyết nhơn chiêm ngưỡng,

             Đài tại Nam-Phương đạo thống truyền.

      Nghĩa là : Đạo cao như Bắc-khuyết, người ta ngước mặt lên mà

kính mến. Nơi phát sanh ra Đạo là phương Nam (ám chỉ nước Việt-Nam) và

liên tục truyền bá không ngừng.

      c) Kinh Giác-thế có câu :

             Thánh Hiền Tiên Phật hi-hữu chi nhơn.

             Tam-Kỳ Phổ-Độ hi-hữu chi sự.

             Phi hi-hữu chi nhơn.

             Yên năng hành hi-hữu chi sự ?

       Nghĩa là : Thánh Hiền Tiên Phật là bậc có ít, cũng như Tam-Kỳ

Phổ-Độ là việc ít có. Không phải là bậc có ít, há làm được việc ít có

hay sao ?

      d) C̣n một bằng chứng hiển nhiên nữa là lúc bấy giờ, Ngài

Đốc-phủ Ngô-văn-Chiêu đă có thờ Đức CHÍ-TÔN và theo học Đạo từ năm

Giáp-Tư (1924).

      Nhờ những bằng chứng kể trên, chúng tôi lập được đức tin vững

vàng để theo học Đạo.

 

                   NỀN TÂN TÔN-GIÁO XUẤT HIN

 

      Sự truyền bá Đạo-lư, từ đó, đă bắt đầu xúc tiến ; Thiện-Nam

Tín-Nữ xin nhập môn càng ngày càng đông. Những người cầm giềng mối Đạo

muốn cho sự truyền giáo được dễ-dàng cho nên ngày 7 tháng 6 năm 1926,

có 28 vị gởi một tờ "Khai-Đạo" lên quan Thống-Đốc Nam-Kỳ (thời kỳ Pháp

thuộc), trong đó có chữ kư tên của tất cả 247 Đạo-hữu. Về mặc khác,

Đức CHÍ-TÔN dạy phải thiết Đại-lễ "Khai-Đạo" ; thành thử đến ngày 14

tháng 10 Bính-Dần, nhằm 18 tháng 11  1926, cuộc Đại-lễ khai đạo cử

hành tại Từ-Lâm-Tự, tỉnh Tây-Ninh. Nguyên lai ngôi chùa nầy do một vị

Ḥa-Thượng bên nhà Thiền đứng ra tạo tác mới vừa xong. Khi Ḥa-Thượng

nhập môn rồi, người bằng ḷng cho tạm ngôi chùa để làm lễ khai-đạo.

     Tại Từ-Lâm-Tự, trong ba tháng hành lễ, người xin nhập môn hằng

vạn. Đồng thời, Đức CHÍ-TÔN lập Pháp-Chánh-Truyền, phong thưởng

Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài, Cửu-Trùng-Đài tức lập Hội-Thánh và Đức Ngài

dạy nhóm Hội-Thánh lập luật Đạo. Ba tháng qua, Pháp-luật đă có th́

nghiểm nhiên Đạo thành một nền Tân Tôn-giáo chánh thức, danh gọi

Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ. Sau ba tháng hành-lễ tại Từ-Lâm-Tự, Ṭa-Thánh

được dời về chỗ bây giờ. Sự kiến thiết bắt đầu từ đó.

     Vậy đủ rơ Đại-Đạo do Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, tá danh Cao-Đài

Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát dùng huyền cơ, diệu bút mà lập thành ;

nhưng, người đời dựa vào Thánh-danh ấy mà gọi tắt là "Đạo Cao-Đài". Sự

thiệt, Thánh danh của Đức Giáo-Chủ Đại-Đạo có ư nghĩa là qui Tam-Giáo

(Thích, Đạo, Nho) thành một nền Đạo lớn, mục đích cứu rổi Chúng-sanh,

với một cách quảng đại. C̣n Đại-diện Đạo-đức tại thế-gian, để làm

gương lành cho người đời soi sáng th́ Đức CHÍ-TÔN lập ra một Hội-Thánh

gồm có ba Đài là : Bát-Quái-Đài, Hiệp-Thiên-Đài và Cửu-Trùng-Đài. Mỗi

Đài có phận sự đặc biệt, mà chúng tôi sẽ nói rơ trong quyển sách nầy.

      Có điều thần bí không thể nói rơ ra đượclà khi Đạo mới khai,

Đức CHÍ-TÔN ban huyền diệu cho người hành đạo nhiều lắm. Đại-để như

những bịnh điên, bịnh-tà, đến cầu th́ người hành-đạo cầu-nguyện và

thỉnh Âm-dương thủy (nước cúng trên bàn thờ)cho uống rồi bịnh nhơn

tỉnh liền ; măi đến ngày nay, những sự huyền diệu ấy c̣n truyền khẩu

trong Nhơn-gian.

 

                       CHƯƠNG THỨ HAI

                            ***

 

                      NỀN TẢNG ĐI-ĐO

                            ***

 

    Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là một nền Tôn-giáo, do Đức Thượng-Đế sáng

lập tại xứ Việt-nam. Nền tảng là qui nguyên Tam-giáo, hiệp-nhứt

Ngũ-Chi thành một Giáo-lư đại-đồng. Kế đấy, chúng tôi lần lượt giải

bày cho rơ nền "Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ", Đức Giáo-Chủ và sự qui hiệp

Tam-Giáo, Ngũ-Chi.

    Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là ǵ ?

    Theo lẽ thường, ai cũng biết rằng : hễ việc chi đă có lần thứ ba,

tất nhiên, trước kia đă có lần thứ nhứt và lần thứ nh́. Th́ Đại-Đạo

Tam-Kỳ Phổ-Độ là nền Đạo khai lần thứ ba, tất nhiên trước kia cũng đă có

hai lần rồi. Thế nên, chúng tôi xin kể sơ lược Đại-Đạo khai hai lần

trước, rồi sau sẽ giải đáp câu hỏi Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là ǵ

Đại-Đạo Nhứt-Kỳ Phổ-Độ (Thượng-cổ thời-đại)

 Đức Nhiên-Đăng Cổ-Phật khai Phật-giáo

 Đức Hồng-Quân Lăo-Tổ khai Tiên-giáo.

 Đức Văn-Tuyên Đế-Quân khai Nho-giáo.

  Đại-Đạo Nhị-Kỳ Phổ-Độ (Trung-cổ thời-đại)

        Đức Thích-Ca chấn hưng Phật-giáo.

        Đức Lăo-Tử chấn hưng Tiên-giáo.

        Đức Khổng-Tử chấn hưng Nho-giáo.

    Ngoài Tam-Giáo, lại có Đức Chúa Jésus Christ lập Thánh-Đạo bên

Thái-Tây, Đức Khương-Tử-Nha chủ trương Thần-Đạo tại Trung-Hoa. Thật là

Trung-Cổ thời-đại, là thời kỳ văn-minh Đạo-đức cực thạnh, Giáo-pháp

hoằng khai, cho nên cũng gọi đó là thời kỳ Ngũ-chi Đại-Đạo phổ biến.

Thế đă rơ Đại-Đạo khai hai kỳ trước. Bây giờ xin giải đáp câu hỏi :

Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là ǵ ?

    Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ nghĩa là một nền Đạo lớn khai lần thứ ba,

Phổ-Độ Chúng-sanh với một cách rộng răi, tức là phổ-độ tất cả

Nhơn-Sanh, không phân biệt màu da, sắc tóc ; không phân biệt Tôn-giáo.

Hoặc nói trắng ra là đứng trước Đức Thượng-Đế, cả Chúng-Sanh đều là

con một Cha, đồng được Đại-Từ-Phụ cứu rổi như nhau.

    Nhưng, có điều nên lưu tâm là Đại-Đạo khai kỳ ba có khác với hai

kỳ trước về mặt h́nh-thức. Đại khái như Đức Giáo-Chủ của Đại-Đạo kỳ ba

là Đấng Vô-h́nh ; chớ không phải Giáo-chủ hữu-thể, như thời xưa. Đức

Ngài dùng huyền-diệu cơ-bút để dạy đạo. Đó là những điểm mà chúng tôi

cứu xét kể đây.

 

        ĐỨC GIÁO-CHỦ ĐI-ĐO

 

    Ngày xưa, khai Tam-Giáo Đức CHÍ-TÔN phân tánh giáng trần mà lập

Đạo. Nay Đức Ngài không mượn phàm thể, mà lại dùng huyền-diệu Cơ-bút

để truyền Đạo. Ấy vậy nên Đức Giáo-Chủ Đại-Đạo là Đấng Vô-h́nh. Ngài

là Đấng Chủ-tể Càn-Khôn, Thế-Giái ; nhưng, không xưng danh "Ngọc-Hoàng

Thượng-đế", mà lại mượn tên "CAO-ĐÀI TIÊN-ÔNG ĐI B--TÁT MA-HA-TÁT".

Thánh-danh ấy có ư nghĩa qui nguyên Tam-Giáo ; đại để như sau :

    CAO-ĐÀI chỉ về Nho-giáo, có nghĩa là cái Đài cao rất mực

(Thái-cực) ngôi của Đấng Chúa-tể Càn-khôn mà Nho-giáo sùng bái dưới

nhăn hiệu "Thượng-Đế".

    TIÊN-ÔNG chỉ về một vị Đại-giác Kim-Tiên trong đạo-giáo.

    ĐI-B--TÁT MA-HA-TÁT chỉ về một vị Phật trong Thích-giáo.

    Vậy Thánh-Danh "Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát" là chỉ về

sự qui nguyên Tam-giáo thành một nền Đại-Đạo, nhưng người ta thường

gọi vắn tắt là "Đạo Cao-Đài".

    Vả lại, các v́ Giáo-chủ Tam-giáo ngày xưa vốn là người có

thân-thể, tu-hành đắc Đạo, rồi đem cái sở-đắc của ḿnh mà dạy Đời, cho

nên người đời tôn lên ngôi Giáo-Chủ. Mà hễ có thân-thể th́ tự-nhiên

biết một thứ tiếng bổn xứ mà thôi. Như thế, nếu đem tư tưởng của ḿnh

mà truyền-thọ cho người ngoại-quốc th́ có sự trở ngại về ngôn-ngữ bất

đồng. Có lẽ v́ lư-do ấy nên Tam-giáo ngày xưa không phổ-truyền rỗng

lớn chăng ! C̣n nay, Đức Giáo-Chủ Đại-Đạo là Đấng Vô-H́nh, dùng

huyền-diệu Cơ-bút để dạy dỗ th́ Dân-tộc nào cũng có thể học trực-tiếp

với Ông Thầy Trời, nếu họ biết dùng phép "Thông-Thần-lực" (Médiumnité)

để thông công. Thế th́ sự bất đồng ngôn-ngữ chẳng c̣n là một vấn-đề

thắc mắc nữa.

 

              TAM-GIÁO QUI-NGUYÊN NGŨ-CHI PHỤC-NHỨT

 

     Ngày 24 tháng 4 năm 1926 (Dương-lịch) Đức Chí-Tôn giáng cơ dạy

rằng :

 "Vốn từ trước, Thầy lập Ngũ-Chi Đại-Đạo là :

                      Nhơn-Đạo

                      Thần-Đạo

                      Thánh-Đạo

                      Tiên-Đạo

                      Phật-Đạo

     "Thầy tùy phong-hóa của Nhơn-Sanh mà gầy Thánh-Giáo, v́ khi trước

"Thế-giái chưa thông đồng. Nhơn-Sanh chỉ hành-đạo nơi tư-phương ḿnh mà

"thôi. C̣n nay, Thế-giái tận thức, Nhơn-loại hiệp đồng th́ Nhơn-Sanh

"lại bị nhiều Tôn-giáo mà sanh nghịch lẫn. Vậy nên Thầy nhứt định qui

"nguyên phục-nhứt.

      Theo Thánh-ngôn trên đây, Đức Chí-Tôn qui Tam-giáo, hiệp

Ngũ-Chi, là có ư muốn các Tôn-giáo liên-hiệp, để tận độ Chúng-Sanh và

đó cũng tỏ cho người đời hiểu rằng : Tôn-Giáo mặc dầu ở Phương-đông

hay Phương-tây, mặc dầu chẳng giống nhau về h́nh thức, về danh-từ ;

song tựu trung Tôn-giáo nào cũng sùng bái một Đấng Cao-cả, Đấng

Chúa-tể Càn-khôn Vơ-trụ, hóa sanh muôn loài, tức Ông Cha chung của

vạn-vật và các Tôn-giáo đều có một tôn-chỉ chung :"Dạy người làm lành

lánh dữ" mà thôi.

     Thiết tưởng, ngày nào Nhơn-loại nh́n nhau là anh em một Cha, bạn

học một Thầy, th́ ngày ấy Nhơn-loại sẽ ḥa-hiệp nhau để chung hưởng

hạnh-phúc của Đại-Từ-Phụ dành cho. Thiên-hạ thái-b́nh là một điều mà

Tín-Đồ Đại-Đạo cầu nguyện hằng ngày.

     Nói về giáo-thuyết Đức CHÍ-TÔN đă lập ra Qui-luật, Lễ-nghi thờ

cúng và Giáo-lư của một nền Tôn-giáo rồi Đức-Ngài c̣n dạy chúng ta

phải tham-khảo Tam-giáo và trích học những điểm có thể đồng hóa với

Giáo-lưcủa Đại-Đạo. Thế đủ hiểu nền tảng Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là

Tam-giáo qui-nguyên, Ngũ-chi Hiệp-nhứt. Nghi tiết thờ phượng nơi

Bát-Quái-Đài đủ chứng-minh điều ấy. C̣n Giáo-thuyết th́ tham bát cả

Tam-giáo, Ngũ-chi và chiết lấy những phần nào thích ứngvới tŕnh độ

tấn-hóa của Nhơn-Sanh để học-hành.

 

                       CHƯƠNG THỨ BA

                           ----

 

                      H̀NH THỂ ĐI-ĐO

                            ***

 

    Đức Giáo-Chủ Đại-Đạo là Đấng Vô-H́nh, để đại-diện cho Đại-Đạo tại

Thế-gian, Đức Ngài lập một Hội-Thánh, gồm có ba đài kể như sau :

 

                      I.- BÁT-QUÁI-ĐÀI

 

     Một ṭa Bửu-Điện kiến-trúc theo h́nh "Bát-Quái" để thờ Đức

Thượng-Đế và chư Phật, Tiên, Thánh, Thần, danh gọi Bát-Quái-Đài. Chúng

tôi xin kể nghi-tiết thờ phượng nơi Đài Bát-Quái.

 

     1/ Thánh-tượng thờ Đức CHÍ-TÔN.

     Trên ngôi cao ngất kia, thờ Thiên-Nhăn, vẽ lên trên quả Càn-Khôn

; chính giữa quả Càn-Khôn, thường đốt một ngọn đèn sáng. Đó là

tượng-trưng thờ Đức Thượng-Đế, ngự trên ngôi Thái-Cực. Đức Ngài là

Chúa-Tể Càn-Khôn, thống trị vạn-vật, nay chưởng-giáo Đại-Đạo Tam-Kỳ

Phổ-Độ, Đức Ngài tá danh "CAO-ĐÀI TIÊN-ÔNG ĐI-B--TÁT MA-HA-TÁT", mà

chúng tôi đă giải bày nơi trang trước.

        a) Quả Càn-Khôn. Thánh-Ngôn.- "Quả Càn-Khôn h́nh tṛn như trái

"đất, bề kính tâm ba thước, ba tấc ; lớn quá ; song, phải vậy mới hạp

"với cơ mầu-nhiệm Tạo-Hóa.

     "Màu xanh da Trời, cung Bắc-Đẩu và các v́ Tinh-tú phải có đủ trên

"quả Càn-Khôn. Các con thể theo sách Thiên-văn, vẽ ngôi Bắc-Đẩu tỏ rơ,

"bên cạnh có hai bánh lái, trên ngôi Bắc-Đẩu vẽ Thiên-Nhăn mà thờ.

     "Đáng lẽ quả Càn-Khôn phải làm bằng pha-ly, chính giữa thường đốt

"một ngọn ThÁi-Cực đăng. Ấy là phép cầu nguyện chung cho cả Nhơn-loại

"nhưng, chưa kịp th́ các con tùy tiện mà làm. C̣n chư Thần, Thánh,

"Tiên, Phật lên cốt rồi cứ để dài theo phía dưới".

         b) Thiên-Nhăn

      Nay như hỏi tại sao thờ Thiên-Nhăn lài gọi là thờ Trời, th́

Thánh-Ngôn nói rằng :

                       "Nhăn thị chủ Tâm ;

                       "Lưỡng quang chủ-tể ;

                       "Quang thị thần ;

                       "Thần thị Thiên ;

                       "Thiên giă ngă dă.

      Nghĩa là : Mắt là chủ Tâm ; hai yếng-sáng trong mắt là Chủ-tể ;

yếng-sáng là Thần ; Thần là Trời ; Trời là Ta vậy.

     C̣n một lẽ nữa : cơ mầu nhiệm của sự đắc Đạo là Thần hiệp với

Khí-Tinh, tức Tam-bửu huờn nguyên th́ mới siêu phàm, nhập Thánh. Trái

lại, nếu có Tinh-Khí mà chẳng có Thần th́ không thể nhập cảnh

Hằng-sống. Thờ Thiên-Nhăn cũng là tiết lậu cơ đắc Đạo : bởi Thần là

món báu thứ nhứt phải có và phải hiệp với Tinh-Khí th́ người mới tạo

được Nhị-xác-thân mà vào cơi An-nhàn tự tại;

     Lại có Thánh-Ngôn của Đức CHÍ-TÔN dạy rằng :

     "Từ ngày Đạo bế, tu th́ nhiều mà người đắc Đạo vốn ít, v́ Thần là

"cơ mầu-nhiệm mà lại bị khiếm. Nay Thầy đến huờn nguyên Tam-bửu cho

"các con đắc Đạo. Các con hiểu Thần cư tại Nhăn th́ nên bố-trí cho

"Đạo-hữu các con hiểu với. Nguồn Tiên Phật yếu nhiệm tại đó".

     Vả lại, Đại-Đạo Nhứt-Kỳ và Nhị-Kỳ Phổ-Độ Đức Giáo-Chủ có phàm

thể, cho nên người ta dùng cốt tượng để thờ. C̣n nay khai Đại-Đạo

Tam-Kỳ, Đức CHÍ-TÔN không giáng trần, lại dùng phép huyền-diệu Cơ-bút

mà lập giáo. Ấy vậy sự thờ Thiên-Nhăn cũng chỉ về thờ Thần, mà Thần là

Trời vậy.

     2/ Tam-Giáo và Ngũ-Chi

     Nghi tiết thờ Tam-giáo, Ngũ-chi kể như vầy :

         a) Tam-giáo :

      Kế cận quả Càn-Khôn, thờ Đức Thích-Ca.

            Tả có Đức Lăo-Tử.

            Hữu có Đức Khổng-Phu-Tử.

         Đó là thờ ba vị Giáo-chủ Thích, Đạo, Nho.

Đức Lư-Thái-Bạch là Nhứt-Trấn Oai-Nghiêm.

  Đức Quan-Âm là Nhị-Trấn Oai-Nghiêm.

 Đức Quan-Thánh Đế-Quân là Tam-Trấn Oai-Nghiêm.

         Ba vị nầy đại diện cho Tam-giáo trong cơ Phổ-Độ kỳ ba.

         b) Ngũ-Chi :

 Ngôi Giáo-Tông, Chưởng-Pháp, Đầu-Sư tượng-trưng Nhơn-Đạo

  Đức Khương-Thương tượng-trưng Thần-Đạo

Đức Chúa Jésus-Christ tượng-trưng Thánh-Đạo.

    Đức Lư-Thái-Bạch tượng trưng Tiên-Đạo.

            Đức Thích-Ca tương trưng Phật-Đạo.

         Tóm lại, Bát-Quái-Đài là nơi hội Công-Đồng Tam-Giáo, Ngũ-Chi,

Đức Chí-Tôn vi chủ, cũng như Hồn-Đạo ; cả Giáo-pháp do Đài nầy truyền ra.

 

                               *

 

                      II.- HIP-THIÊN-ĐÀI

 

     Theo danh từ mà cắt nghĩa : Hiệp-Thiên-Đài là cái đài hiệpvới

Trời, có phận sự làm trung gian, kết liên Bát-Quái-Đài và

Cửu-Trùng-Đài thành một Hội-Thánh. Có phận sự làm môi giới cho

Bát-Quái-Đài vô-vi và Cửu-Trùng-Đài hữu h́nh, thành thử Hiệp-Thiên-Đài

có hai nhiệm vụ là :

                1) Thiêng-liêng

                2) Phàm-trần

     1- Nhiệm vụ Thiêng-liêng.

     Hiệp-Thiên-Đài là nơi Đức CHÍ-TÔN ngự, tiếp xúc với Hội-Thánh

Cửu-Trùng-Đài, tức là nơi Đức CHÍ-TÔN và các Đấng Tiêng-Liêng giáng cơ

truyền-giáo. Điều quan trọng là nếu chẳng có Hiệp-Thiên-Đài th́

Cửu-Trùng-Đài không thông công với Bát-Quái-Đài hoặc nói rơ ra là :

nếu chẳng có Hiệp-Thiên-Đài th́ người chẳng có phương tiện thông công

với Trời. Thế nên Đức CHÍ-TÔN dạy :

     "Hiệp-Thiên-Đài là nơi Thầy ngự, cầm quyền Thiêng-Liêng mối Đạo.

"Hễ Đạo c̣n th́ Hiệp-Thiên-Đài c̣n. Lại nữa, Hiệp-Thiên-Đài là nơi

"Giáo-Tông đến tiếp xúc với Tam-thập-lục-thiên, Tam-Thiên-Thế-Giái,

"Lục-Thập-Bát-Địa-cầu, Thập-Điện-Diêm-Cung, đặng cầu siêu cho

"Nhơn-loại.

    2- Nhiệm vụ Phàm-trần.

    Hiệp-Thiên-Đài có ba chi :"Pháp-, Đạo, Thế". Đức CHÍ-TÔN dạy :

    "Hiệp-Thiên-Đài dưới quyền Hộ-Pháp chưởng quản. Tả có Thượng-Sanh,

"hữu có Thượng-Phẩm. Thầy lại chọn Thập-Nhị-Thời-Quân chia ra làm ba

"chi :

    "Hộ-Pháp chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài, kiêm chi Pháp dưới có :

                   Bảo-Pháp

                   Hiến-Pháp

                   Khai-Pháp

                   Tiếp-Pháp

     "Chi-Pháp lo bảo hộ luật Đời và luật Đạo, chẳng ai hành-động

"sai luật mà Hiệp-THiên-Đài không biết

     "Thượng-Phẩm chỉ-huy phần Đạo, dưới có :

                  Bảo-Đạo

                  Hiến-Đạo

                  Khai-Đạo

                  Tiếp-Đạo

     "Chi Đạo lo phần Đạo, nơi các Tịnh-thất, và các Thánh-thất, xem

"xét chư Môn-đệ Thầy, binh vực chẳng ai phạm luật, đến khổ khắc đặng.

     "Thượng-Sanh chỉ huy phần Thế, dưới có :

                  Bảo-Thế

                  Hiến-Thế

                  Tiếp-Thế

                  Khai-Thế

                  Tiếp-Thế

     "Thầy khuyên các con lấy tánh vô-tư mà hành-đạo. Thầy cho biết

"trước rằng : Có trọng quyền ắt có trọng phạt".

     Tóm lại, cả Giáo-Pháp của Đại-Đạo do Bát-Quái-Đài truyền ra.

Hiệp-Thiên-Đài có phận sự truyền-bá Giáo-Pháp cho Cửu-Trùng-Đài và

giữ-ǵn Giáo-Pháp ấy cho khỏi bị canh cải.

 

                               *

 

                     III- CỬU-TRÙNG-ĐÀI

 

     Bát-Quái-Đài tỷ như Hồn-Đạo, cả Giáo-Pháp do Đài nầy truyền dạy.

     Cửu-Trùng-Đài tỷ như Thể-Đạo, cả Giáo-Pháp nương Đài nầy mà h́nh

dung Đạo-Đức ra Thế-gian để Đời soi sáng.

     Theo chữ mà cắt nghĩa : Cửu-Trùng-Đài là cái Đài thể theo

Cửu-Trùng-Thiên mà kiến trúc, có chín nấc : cao thấp khác nhau,

Cửu-Phẩm Thần-Tiên vâng lịnh Ngọc-Hư-Cung trị Thế-Giới vô h́nh, cũng

như Cửu-Trùng-Đài vâng lịnh Bát-Quái-Đài mà chưởng quản mối Đại-Đạo

tại Thế-gian, về mặt hữu vi. Vậy tất cả Chơn-linh trong Càn-Khôn,

Vơ-Trụ đều phải vào Cửu-Trùng-Đài và tuần tự theo đẳng cấp thấp cao để

đoạt vị Thiêng-Liêng của ḿnh;

     Cửu-Trùng-Đài do một Hội-Thánh quản trị, mạng danh là Hội-Thánh

Cửu-Trùng-Đài gồm có một phÁi Nam và một phái Nữ.

     Đức CHÍ-TÔN lập Pháp-Chánh-Truyền cho cả hai phái như vầy :

     1) Chức-sắc Nam-Phái.

        "GIÁO-TÔNG.- Là anh cả của các con, có quyền thay mặt cho Thầy

"d́u dắt các con, trong đường Đạo và đường đời. Có quyền về phần xác

"mà chẳng có quyền về phần Hồn. Giáo-Tông đặng phép thông-công cùng

Tam-Thập-Lục-Thiên và Thất-Thập-Nhị-Địa-Cầu rổi cho các con.

        "CHƯỞNG-PHÁP.- Ba vị Chưởng-Pháp của Tam-Giáo, tuy phân biệt,

"song trước mặt Thầy, coi như một, có quyền xem xét luật lệ, trước khi

"ban hành, hoặc nơi Giáo-Tông truyền xuống, hoặc dưới Đầu-Sư dâng lên.

"Nếu cả hai chẳng thuận, Chưởng-Pháp phải dâng lên Hộ-Pháp, đến

"Hiệp-Thiên-Đài, cầu Thầy sửa chữa, hay tùy ư lập luật khác.

"Chưởng-Pháp có quyền xem xét kinh điển trước khi phổ thông. Nếu có

"kinh điển nào làm tồi bại phong-hóa, Chưởng-Pháp có quyền trừ bỏ.

"Buộc cả Tín-Đồ phải giúp Chưởng-Pháp hành-sự. Trước luật Đời, Thầy

"khuyên các con rán giúp đỡ lẫn nhau. Chưởng-Pháp, mỗi vị có ấn riêng.

"Ba ấn phải đủ trên mặt luật, mới đặng thi hành.

        "ĐẦU-SƯ.- Ba vị Đầu-Sư có quyền cai-trị phần Đạo và phần Đời

"của chư Môn-Đệ. Đầu-Sư có quyền lập luật, song phải dâng lên cho

"Giáo-Tông phê-chuẩn. Muốn phê-chuẩn luật-lệ, Giáo-Tông phải giao cho

"Chưởng-Pháp xem xét trước, coi luật-lệ ấy quả thật có ích cho

"Nhơn-Sanh chăng ! Ba vị Đầu-Sư phải tuân lịnh Giáo-Tông truyền dạy.

"Thoảng có luật lệ nào quá hà khắc Tín-đồ, Đầu-Sư có quyền xin hủy

"bỏ. Thầy khuyên các con rán giúp Đầu-Sư trong khi hành-sự. ThẦy lại

"dặn các con, nếu có điều cần, nên nài xin nơi Đầu-Sư.

        "Ba chi tuy khác, song quyền hành như một. Luật lệ nào của

"Giáo-Tông truyền dạy, mà cả ba đồng bất tuân, th́ luật-lệ ấy phải

"trả lại Giáo-Tông, truyền lịnh cho Chưởng-pháp xem xét. Ba vị

"Đầu-Sư có ba ấn khác nhau. Mỗi giấy tờ phải có đủ ba ấn mới đặng thi

"hành.

       "PH-I-SƯ.- Mỗi phái có mười hai người, ba phái cộng lại thành

"36 vị. Trong số 36, tuyển ra ba vị Chánh Phối-Sư để thế quyền Đầu-Sư

"mà hành sự, song chẳng có quyền phá luật-lệ.

       "GIÁO-SƯ.- Giáo-Sư có 72 người, mỗi phái có 24 vị. Giáo-Sư là

"người dạy dỗ Tín-đồ trong đường Đạo và đường Đời. Buộc Giáo-Sư phải

"lo lắng cho Tín-đồ, cũng như anh lo cho em. Giáo-Sư cầm sổ bộ Tín-đồ,

"chăm nom việc tang hôn. Tại châu-thành lớn, Giáo-Sư có quyền cai quản

"Thánh-Thất, cúng tế Thầy, như Đầu-Sư và Phối-Sư. Giáo-Sư có quyền

"dâng sớ, kêu nài sửa đổi, hoặc chế giảm luật lệ nào quá hà khắc

"Nhơn-sanh. Giáo-Sư thân mật với mỗi đứa môn-đệ, như anh em một nhà,

"cần phải giúp đỡ.

       "GIÁO-HU.- Giáo-Hữu là người phổ thông nhơn Đạo, có quyền cầu

"xin chế giảm luật lệ. Ba ngàn Giáo-Hữu chia đều mỗi phái một ngàn,

"chẳng đặng tăng thêm, hay giảm bớt. Giáo-Hữu đặng phép hành lễ, khi

"làm chủ một ngôi Chùa trong mấy tỉnh nhỏ.

       "LỄ-SANH.- Lễ-Sanh là người có hạnh, lựa chọn trong hàng chư

"môn-đệ, để hành lễ, có quyền khai đàn cho Tín-đồ. Thầy dặn các con :

"Lễ-Sanh là người Thầy yên mến, chẳng nên hiếp đáp. Vào hàng Lễ-sanh

"mới mong bước qua Chức-Sắc ; trừ ra, Thầy phong thưởng riêng mới qua

"khỏi luật lệ ấy.

       CHÁNH PHÓ TR-SỰ và THÔNG-SỰ.- Pháp-Chánh-Truyền trên đây,

"thoạt tiên, dự định đến phẩm Lễ-Sanh thôi ; nhưng, về sau, Đại-Đạo

"ngày một phổ-thông, người nhập môn ngày một nhiều. Hội-Thánh thiếu

"người chăm nom phổ hóa, Đức Lư Giáo-Tông bèn đặt thêm hai phẩm

"Chức-việc nữa, là Chánh Phó Trị-Sự và Đức Hộ-Pháp đặt thêm phẩm

"Thông-Sự. Ba phẩm Chức-việc nầy có phận sự săn sóc Đạo-hữu ở rải rác

"khắp nơi, từ thôn-quê đến thành-thị và ḥa giải những tư-tưởng bất

"đồng giữa Tín-đồ.

 

                           LỄ-PHỤC

 

      Lễ-phục hay y-quan mặc hành-lễ trong giờ cúng tế. Lễ phục của

Chức-sắc khác nhau, từ màu sắc đến kiểu mẫu.

      Màu-sắc.- Thích-giáo màu vàng ; Đạo-giáo màu xanh da trời ;

Nho-giáo màu đỏ điều. Người bàng-quan trông vào màu áo có thể biết vị

Chức-sắc kia thuộc phái nào.

      Kiểu mẫu.- Người bàng quan trông vào kiểu áo măo cũng có thể

biết vị Chức-sắc ấy lănh phận sự chi.

 

                               *

 

                    II.- CHỨC-SẮC N-PHÁI

 

      "ĐẦU-SƯ N-PHÁI.- Nữ-phái có một vị Đầu-Sư d́u dắt. Đầu-Sư

"Nữ-phái đồng quyền với Nam-phái, tuân lịnh một Giáo-Tông và ba

"Chưởng-Pháp. Đầu-Sư Nữ-Phái cũng tùng chung một luật phân xử, trong

"đường Đạo và đường Đời và luật công-cử của Hội-Thánh ban hành.

      "Đầu-Sư Nữ-phái dùng lễ-phục như Đầu-Sư Nam-phái, song có đội

"măo Phương-Thiên và Ni-Kim-Cô, như các văi ở chùa ; trên chót có

"Thiên-Nhăn, bao quanh một ṿng Minh-Khí, choàng một đoạn lụa màu

"trắng, từ Kim-Cô thả xuống tới gót chân. Áo may bằng hàng trắng, chín

"vải, có thêu bông-sen, chưn đi giày vô-ưu, trên mũi có thêu chữ

"Hương".

       "PH-I-SƯ.- Phối-Sư mặc lễ-phục y như Đầu-Sư, song chẳng đội

"măo Phương-Thiên. Áo ba vải, trước ngực có Thiên-Nhăn bao quanh một

"ṿng Minh-Khí.

       "GIÁO-SƯ.- Giáo-Sư mặc áo ba vải, đội Kim-Cô hằng hàng trắng,

"chơn chẳng đi giày.

       "GIÁO-HU.- Giáo-Hữu mặc lễ-phục như Giáo-Sư, đầu không đội

"măo, nhưng có giắt bông sen, có thêu Thiên-Nhăn.

       "LỄ-SANH.- Lễ-Sanh mặc áo như Giáo-hữu, choàng ngang trên đầu

một đoạn vải mỏng, cột ra sau ót, thả một mí vắn, một mí dài, trên đầu

giắt bông sen.

       CHÁNH PHÓ TRI-SỰ và THÔNG-SỰ.- Hội-thánh Nữ-phái cũng có ba

phẩm và ba phẩm nầy có phận sự cũng như Nam-phái.

 

                            *

 

 LUT CÔNG-CỬ CHUNG CHO CHỨC-SẮC

                      NAM VÀ N-PHÁI

 

     Thánh-Ngôn.- "Đầu-Sư muốn lên Chưởng-Pháp, nhờ ba vị Đầu-Sư

"công-cử ; Phối-Sư muốn lên Đầu-Sư, nhờ 36 vị Phối-Sư công cử ;

"Giáo-sư muốn lên Phối-Sư, nhờ 72 vị công-cử ; Giáo-hữu muốn lên

"Giáo-sư, nhờ 3000 vị Giáo-Hữu công-cử ; Lễ-Sanh muốn lên Giáo-Hữu,

"nhờ cả Lễ-Sanh công-cử, trừ ra Thầy giáng cơ phong thưởng riêng

"người nào th́ người ấy mới ra ngoài luật lệ ấy.

      "Giáo-tông có hai phẩm đặng phép dự cử là : Chưởng-pháp và

"Đầu-sư, song phải chịu toàn Đạo công-cử. Trừ ra, Thầy giáng cơ

"phong thưởng riêng, mới ra ngoài luật lệ ấy.

       "Hiện nay, Chức-sắc chưa đủ số đă định, thành ra luật công-cử

"nầy chưa thi hành được. Hôm ngày 9 tháng 4 năm 1958 nhằm 21 tháng 2

"Mậu-Tuất, Đức Lư-Đại-Tiên, Nhứt-Trấn Oai-Nghiêm cho một điều luật, để

"thi hành tạm như sau :

        "Về việc ban thưởng Chức-Sắc, không phải có đủ 5 năm thâm-niên

"sắp lên là đủ điều-kiện cầu thăng và được thăng mà cần phải có những

điều kiện cần yếu khác nữa là :

                "Thứ nhứt : Phương-diện hạnh-đức.

                "Thứ nh́ : Tŕnh-độ học-thức.

                "Thứ ba : Tinh-thần phục-vụ

                "Thứ tư : Khả-năng giáo-hóa Nhơn-sanh.

         "Là v́, hễ đến bực Giáo-Hữu là thay mặt CHÍ-TÔN phổ-thông

"chơn Đạo, thành thử, chẳng phải người thường t́nh đặng, mà phải

"đáng mặt phi thường mới xứng. Kỳ nầy Lăo châm chế, chớ những kỳ

"cầu thăng sau, Chức-sắc mỗi cấp bực đủ 5 năm thâm-niên, hay hơn nữa

"chỉ được đem vào sổ cầu thăng với tỷ lệ bốn phần năm mà thôi,

"Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài phải cân phân phận sự xứng đáng của Chức-sắc

"do theo điều kiện của Lăo vừa chỉ và sau khi chọn lọc kỹ-lưỡng số tỷ

"lệ quy-định, giao qua cho Hiệp-Thiên-Đài kiểm soát lại, rồi mới dâng

"lên cho Lăo, Hiền-hữu Thượng-Sanh và chư vị Thời-quân nên lưu-tâm

"nghe !

        "Sự cầu-thăng của Nữ-phái cũng do theo nguyên tắc đó và Thánh

"Giáo nầy có hiệu lực cho đến ngày Cửu-Trùng-Đài thực hiện luật

"công-cử của Đạo.

    Nói tóm lại, Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài gồm có Chức-sắc Nam và Nữ,

như vừa kể qua, có phận chung là bảo tồn Giáo-pháp, Đạo-luật, và

phổ-thông quần-linh. Đức CHÍ-TÔN nói rằng : Khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ

Ngài chọn Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam-Thập-Lục Thánh, Thất-Thập Nhị-Hiền

và Tam-Thiên Đồ-đệ. Ấy là chỉ vào:

             Một Giáo-Tông

             Ba Đầu-Sư

             Ba mươi sáu Phối-Sư

             Bảy mươi hai Giáo-Sư

             Ba ngàn Giáo-Hữu

   Theo Đạo-học, hễ muốn độ người, trước phải độ ḿnh như nhà Phật

thường nói :"Tiên tự giác nhi hậu giác tha". Đây là một điểm khác nhau

ở giữa nhà Đạo-đức và Văn-sĩ. Nhà Đạo-đức, chẳng những phải học Đạo-lư

mà phải thi hành thế nào cho Đạo-lư biến thành Tâm đức của ḿnh nữa,

để rồi áp dụng vào đời sống thực tế. Người bàng quan xem vào cử chỉ

của người đạo-đức mà bắt chước. Trái lại, người văn-sĩ chỉ học cho

biết văn-chương và chơn-lư mà thôi.

    Ấy vậy, Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài phải học hành, tu luyện thế nào,

hầu đặng ḿnh có đủ tài đức, để nêu gương lành cho Đời soi sáng. Đó là

một lẽ, c̣n như thể theo danh-từ mà luận : Chức-sắc Hội-Thánh, tức một

vị Thánh-nhơn ở trong nhiều vị Thánh-Nhơn khác. Theo hai lẽ đó mà suy

rộng ra : một vị Chức-sắc, nếu chưa phải hoàn toàn là vị Thánh-nhơn,

th́ ít ra cũng phải có đủ tài-đức d́u dắt Nhơn-sanh trên đường Đạo-lư,

Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, sau nầy, hoặc thành, hoặc bại, đều tùy cử chỉ

và hành-vi của Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài mà ra cả ; v́ Đài nầy là h́nh

thể của Đại-Đạo.

 

                        CHƯƠNG THỨ TƯ

                            ----

 

                      LỄ-NGHI VÀ ĐO-LUT

                            ----

 

     a)-LỄ-NGHI

 

LỄ-NGHI THỜ CÚNG NƠI ĐỀN-THÁNH

 

    Trong Bát-Quái-Đài có quả Càn-Khôn ; trên quả Càn-Khôn có

Thiên-Nhăn ; giữa quả Càn-Khôn thường đốt một ngọn đèn, tượng trưng

ngôi Thái-Cực. Tóm lại đó là tượng trưng thờ Đức Thượng-Đế ngự trên

ngôi Thái-cực.

    Khi cúng-tế, đốt hai ngọn đèn hai bên, danh gọi lưỡng nghi quang,

tượng trưng Âm và Dương.

    Giữa bàn thờ đốt năm cây hương, tượng trưng Ngũ-hành.

    Nghi lễ thờ phượng cúng tế nơi Bát-Quái-Đài, miêu tả được lư Đại

vô-vi ; vốn có Thái-cực biến sanh Âm-Dương, Ngũ-hành và Âm-Dương,

Ngũ-hành thuận-hành, nghịch chuyển mà định vị Trời đất, hoá sanh muôn

loài. Kẻ học, nếu biết quan sát th́ có thể ư hội được một bài học

Đạo-lư.

    Lễ-Nhạc.- Đức CHÍ-TÔN dạy chúng ta dùng lễ-nhạc để cúng tế như

xưa. Vậy sự hữu-ích của Lễ-Nhạc là làm sao, chúng ta cũng nên xét qua

cho rơ.

    Lễ.- Khi cúng tế, anh Lễ-sĩ áo măo chỉnh tề, hai tay nâng tế-phẨm

lên ngang mày, rồi từ từ theo nhịp nhàng của Âm-nhạc điện lễ đi lên.

Cái vẻ tề-chỉnh trang nghiêm ấy khiến người trông thấy phải sanh ḷng

kính. Thế th́ tinh-thần của LỄ là Kính.

   Nhạc.- Tiếng trống, chuông, đờn, kèn, tiêu, thiều, nhiều thứ âm

thinh khác nhau, đồng thời phát khởi một lượt. Đáng lẽ, chúng ta nghe

hổn loạn lắm ; nhưng sự thiệt lại khác hẳn. Tiếng lớn nhỏ, giọng phù

trầm, dường như nhịn nhường lẫn nhau, để cho mỗi nhạc cụ được thung

dung bày tỏ sở-năng của nó. Thế nên, người ta nh́n nhận tinh-thần của

Nhạc là ḥa. Sách Lễ-kư chép rằng : Lễ là trật-tự của Trời-Đất, Nhạc

là cái điều-ḥa của Trời-Đất (Lễ giă Thiên Địa chi tự, Nhạc giă Thiên

Địa chi ḥa). Sở dĩ nói như thế là v́ Thánh-Nhơn ngày xưa, quan sát

cảnh tượng Vơ-trụ, nhận ra luật trật-tự và thái-ḥa của Trời-Đất, rồi

theo đó mà chế thành Lễ-Nhạc, để cúng tế, làm cho đàn-tế trở nên

tôn-nghiêm và tạo ra một bầu không khí kỉnh ḥa, để cho mọi người

triêm-nhiểm cái tập-quán đạo-đức. Đó là một phương-pháp hàm-dưỡng tâm

tánh vậy.

     Thật Thánh-nhơn chế ra Lễ-Nhạc tế tự, có sức mạnh cảm hóa ḷng

người rất sâu xa. Tỉ như : khi vào chùa miễu th́ ḷng ta kính tín ;

c̣n khi thấy đám tang th́ ḷng ta bùi ngùi thương xót. Nay Đại-Đạo

Tam-Kỳ Phổ-Độ dùng Lễ-Nhạc cũng không ngoài ư cảm hóa ḷng người

khuynh hướng về đạo đức vậy.

 

                        Lễ Dâng Tam-Bửu

 

     Mỗi khi cúng đàn, chúng ta dâng Hoa-Rượu-Trà gọi là "Dâng

Tam-Bửu", có ư nghĩa thế nào ? Xin xem kế đây :

                HOA  : -  Tượng trưng TINH

                RƯỢU : -  Tượng trưng KHÍ

                TRÀ  : -  Tượng trưng THẦN

     Lễ dâng Tam-Bửu là một cách tiết lậu cho người hiểu rằng : trogn

châu thân người vốn có TINH-KHÍ-THẦN. Ba món báu ấy phải huờn nguyên

hiệp nhứt th́ mới đắc Đạo.

    Lạy là ǵ ?

    Thánh ngôn nói :

    "Lạy là tỏ ra bề ngoài lễ kỉnh trong ḷng.

    "Chắp tay lạy là tại sao ?

    "Tả là Nhựt, hữu là Nguyệt, vị chi Âm-Dương ; Âm-Dương hiệp nhứt

"phát khởi Càn-Khôn, sanh sanh hóa hóa. Ấy là Đạo.

    "Lạy kẻ sống hai lạy là tại sao ?

    "Là nguồn gốc của Nhơn-sanh lưỡng-hiệp mà ra.

    "Vong phàm lạy bốn lạy là tại sao ?

    "Hai lạy phần người, một lạy Trời và một lạy Đất.

    "Lạy Thần Thánh ba lạy là tại sao ?

    "Là lạy Đấng ở vào thứ ba của Trời, và cũng chỉ về Tinh-Khí-Thần

"hiệp-nhứt. Ấy là Đạo.

    "Lạy Tiên Phật chín lạy là tại sao ?

    "Là lạy chín Đấng Cửu-Thiên Khai-hóa.

    "C̣n lạy Thầy 12 lạy là tại sao ?

    "Các con không hiểu đâu : Thập-Nhị Khai-Thiên là Thầy, Chúa-tể

"Càn-Khôn Thế-Giái, nắm trọn Thập-Nhị Thời-Thần vào tay. Số 12 là số

"riêng của Thầy;

 

                      Cúng Tứ-Thời

     Mỗi ngày, người Tín-đồ Đại-Đạo phải có bốn lần hầu lễ, gọi là

cúng Tứ-Thời (Tư, Ngọ, Mẹo, Dậu). Vừa xem qua th́ người bàng-quan lầm

tưởng : sự cúng tế là tại có tánh ỷ iại nơi Thần-quyền ; nhưng, sự

thiệt, đó là một phương pháp hàm-dưỡng Tâm-tánh rất nhiệm mầu.

     Xem như trước khi vào Đền-Thánh đặng chầu lễ CHÍ-TÔN th́ chúng ta

đă gạt bỏ những sự ưu tư, trần-tục ra ngoài. Đến khi nhập đàn, lần

lượt Nhạc Lễ phát khởi. Đồng-Nhi tụng kinh. Hoàn cảnh trang nghiêm

nầy khiến ḷng chúng yên lặng và chỉ có một ư niệm thành kính Trời

Phật mà thôi. Giá như chúng ta cứ giữ măi cái Tâm-trạng "Thành kính"

nầy th́ chúng ta sẽ giữ trọn vẹn nguồn Thiên-lư ở trong Tâm-gian của

ḿnh ; tức cũng như câu sách nói rằng :"Nhơn-dục tận tịnh Thiên-lư lưu

hành". Nghĩa là ḷng Nhơn-dục yên tịnh th́ Thiên-lư làm chủ Tâm-gian.

    C̣n một lẽ nữa là theo Đạo tự nhiên, Ngươn-khí Trời Đất, mỗi ngày

vượng bốn thời : Tư, Ngọ, Mẹo, Dậu. Thời nầy kẻ học đạo nên tịnh

tâm, tịnh thân của ḿnh, để hàm dưỡng khí riêng của Trời Đất.

   C̣n khi đến trước Thiên-bàn, chúng ta bắt ấn Tư và niệm Nam-mô

Phật, Nam-mô Pháp, Nam-mô Tăng ; ấy là ư nghĩa làm sao ?

      Nam-Mô Phật .- Miệng nói, tâm niệm th́ chúng ta nhớ rằng :

Bổn-phận chúng ta chẳng khá quên Đấng "Toàn-Tri". Ḷng ghi nhớ Đức

Ngài để rồi noi theo chơn đức Ngài mà tiến bước trên đường tu tỉnh.

      Nam-Mô Pháp. - Ấy là nhắc chúng ta nhớ lại rằng : Đạo-pháp

huyền-vi, nhưng quí báu vô ngằn, mặc dầu khổ hạnh, chúng ta phải gắng

sức làm theo ; chớ chẳng khá thối chí.

      Nam-Mô Tăng.- Hội-Thánh là một nhóm Lương-sanh đại-diện cho Đức

CHÍ-TÔN, để d́u dắt chúng ta. Vậy chúng ta phải tuân lời dạy dỗ của

Hội-Thánh, để tiến bước trên đường học Đạo.

     Tóm lại, trong sự cúng tế Trời Phật, tuy là h́nh thức mặc dầu,

song h́nh thức ấy đem lại nhiều kết quả tinh-thần như :

     a)- Trong lúc cúng tế th́ tinh-thần và vật thể của chúng ta đều

tịnh định ; mà hễ tịnh định   th́ chúng ta hàm-dưỡng được khí-thiêng

của Trời-Đất.

     b)- Trau rửa tâm hồn, về phương diện nầy đức CHÍ-TÔN dạy rằng

:"Trước khi vào lạy Thầy buổi tối, phải tự hỏi ḿnh coi phn sự ngÀy

ấy xong hay chưa và Lương-tâm có cắn rứt điều chi chăng ? Nếu phn sự

c̣n nét chưa rồi ; Lương-tâm chưa an-tịnh th́ phải biết cải quá, rán

chuộc lấy cái lỗi của ḿnh đă lầm th́ các con chẳng lo chi không b́

bực Chí-Thánh. Thầy mong rằng mỗi đức đều lưu ư về sự sửa ḿnh. Đặng

vậy th́ may mắn cho Đạo và các con sẽ đặng thung-dung mà nêu gương cho

kẻ khác".

      Vậy đủ rơ, cúng tế là một phương pháp tu tâm rất nhiệm mầu, cho

nên Thất-nương Diêu-Tŕ-Cung nói :

      "Lễ bái thường hành, Tâm Đạo khởi".

 

 

                     Thờ cúng Ông Bà nơi Tư-gia

 

    Thờ cúng Tổ-Tiên là lễ tỏ ḷng tôn kính nguồn gốc sanh thành

dưỡng-dục. Ḷng tôn kính ấy nơi người Việt-Nam, theo Nho-giáo thườgn

phát biểu với một phương-thức rẤt tôn trọng.

    Người Việt-Nam ấy giàu, cũng như nghèo, khi cất nhà xong th́ chọn

một chỗ tôn-nghiêm hơn hết, để lập bàn thờ Ông Bà.

    Ngày tế-tự, cả gia-tộc đều họp về nhà thờ, lo việc tế lễ. Hai ngày

Tiên-thường và Chánh-giỗ, những người họ hàng vui vầy có khi nhắc lại

sự tích Tổ-tiên, có lúc hỏi việc hàn huyên gia-tộc.

    Giờ cúng tế, mỗi người đều có ḷng thành kính rất mực. Khi ra vào,

lúc qua lại, trước bàn thờ, họ cúi đầu tỏ vẻ sợ sệt, dường như Ông Bà

đương ngự trên chỗ sở tôn. Giờ cúng tế ấy, hoàn cảnh im phăng-phắc,

người Trưởng-tộc hành lễ rồi con cháu theo thứ tự vái lạy nghiêm

trang.

     Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-độ giữ nguyên vẹn sự thờ cúng Ông Bà, như đă

nói trên. Vả chăng, đạo hữu đă có sẵn ḷng đạo-đức rồi ; nay đem ḷng

nhân đức ấy để thờ cúng Ông Bà th́ có lẽ cái phong tục xưa sẽ được

thêm phần thuần mỹ hơn nữa.

 

                            *

 

    Tóm lại, lễ-nghi, tế-tự đă kể qua : từ Đền-Thánh đến Tư-gia, thật

là một bài học thực hành giản-dị mà đem lại nhiều kết quả. Tỷ như việc

cúng tế đă đ̣i hỏi một ḷng thành kính rồi, lễ-nhạc và nghi-tiết bên

ngoài lại giúp cho ḷng thành kính được quảng-đại thêm lên. Đó là tạo

một không khí đạo-đức cho gia-đ́nh xă-hội, c̣n riêng về cá nhân th́ đó

là một phép hàm dưỡng Tâm-tánh rất đắc lực.

 

   b)- Đạo-Luật.

 

       Nhà nước có Quốc-pháp, cả Công-dân phải tuân hành đặng bảo-an

xă-hội. Tôn-giáo có Đạo-Luật, cả Tín-đồ phải tùng đặng vững bước trên

đườgn tu tỉnh. Quốc-pháp và Đạo-Luật, h́nh thức tương-đồng mà kết-quả

tương-dị. Nhà cầm quyền phạt kẻ phạm Quốc-pháp. Đạo-luật chẳng có

h́nh phạt, làm hậu thuẩn, song cách thưởng phạt rất công b́nh và

chặt-chẽ, bởi v́ Đạo-luật vốn là biến tướng Thiên-điều, nghĩa là

Đạo-luật do luật Trời mà làm ra, người làn lành tự nhiên có phước đức

trả lại, kẻ làm dữ tự nhiên có tai họa trả lại. Cách thưởng phạt lành

dữ một măy không sai chạy. Lưới Trời dường như thưa mà chẳng lọt một

mảy lành dữ. Ấy vậy nên kẻ học Đạo cần phải có đức-tin luật công-b́nh

Trời Đất th́ mới có dạ tuân-hành Đạo-luật.

     Tất cả Linh-hồn đều phải chịu dưới quyền thưởng phạt của Đấng cầm

cân Thiêng-Liêng là Thượng-Đế. Luật thưởng phạt, về nguyên tắc rất

đơn-giản, không có Ṭa-án, không có tra-vấn, thế mà kết-quả rất kỳ-diệu

; mỗi việc lành dữ đều có báo ứng phân minh,cho nên có câu nói :"Dối

người c̣n dễ, đối Trời được đâu".

    Có người sánh luật Trời như luật Hấp-dẫn (La Loi d'attraction) hay

luật Trọng-lực (La Loi de pesanteur). Linh hồn có tội lỗi, tự nhiên bị

hấp-lực của vật-chất mà phải giam hăm vào bánh xe luân-hồi sanh-tử.

C̣n Linh-hồn Thiện-mỹ, nhẹ nhàng tự-nhiên siêu thoát rangoài ṿng

Càn-khôn, một cách dễ dàng mau lẹ, cũng như lằn tư-tưởng xẹt đi kia

vậy.

    Mỗi tư-tưởng, mỗi lời nói và mỗi việc làm trong đời hiện tại đều

lưu-tồn phần tinh-anh ở trong Thể-phách, măi đến khi tử hậu. Thể-phách

bày ra một bản thống-kê, có đủ việc hay, việc dỡ, điều-lành, điều-dữ.

Trước bản thống-kê nầy, Linh-Hồn lặng lẽ ngắm xem tội-t́nh, phước-đức

của ḿnh và phán-đoán lẽ siêu-đọa cho kiếp vị-lai. Sự phán đoán đó do

Thần Lương-tâm của người mà cũng là Trời nữa ! Giờ nầy người mới hiểu

Trời ở bên cạnh Người. Pháp-luật của Đại-Đạo là biến-thể luật Trời ;

thành thử kẻ học, ngoài sự châm theo luật-pháp, c̣n phải kiên sợ luật

Nhơn-quả nữa.

    Đạo-luật của Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-độ kể như sau :

              Lập Họ-Đạo.

              Nhập Môn.

              Ngũ-giới-cấm.

              Tứ-Đại Điều-qui.

              Luật xử-thế

              Luật xuất-thế.

                            *

 

                        Lập Họ-Đạo

 

    Địa-phương nào có hơn năm trăm Tín-đồ, đặng phép lập riêng một

Họ-Đạo, đặt riêng một Thánh-Thất và Hội-Tháhn sẽ phái Chức-sắc đến

cai-quản.

    Muốn lập Học-Đạo phải xin phép Giáo-Tông. Chức-sắc cai-quản Họ-Đạo

và Thánh-Thất phải tuân mạng lịnh Giáo-Tông. Tín-đồ trong Họ-Đạo phải

tùng quyền vị Chức-sắc cai-quản Thánh-Thất ; chẳng aicó quyền canh cải

luật Đạo.

   Mỗi thánh có hai ngày Đại-lễ : Sóc và Vọng. Ngày Đại-lễ cả Tín-đồ

phải tựu về Thánh-Thất hầu lễ và nghe lời giảng giải Đạo-đức ; trừ ra,

người vắng mặt, với một việc đáng kể th́ mới đặng châm chế mà thôi.

   Chức-sắc cai-quản Thánh-Thất, mỗi ngày phải cúng bốn lần, gọi là

cúng Tứ-thời (Tư, Ngọ, Mẹo, Dậu). Bổn-Đạo ở gần Thánh-Thất, nếu tiện

th́ nên đến hầu lễ mỗi thời cúng nơi Thánh-thất sở tại.

 

                             *

 

                          Nhập-Môn

 

   Nhập-môn cầu Đạo chẳng có tốn kém lễ-lộc chi cả, nhưng phẢi có hai

người tiến dẫn. Người tiến dẫn có phận sự d́u dắt kẻ mới nhập môn trên

đường Đạo.

   Chức-sắc cai-quản Thánh-Thất, phải tự ḿnh, hoặc phải người thay

mặt, đến tận nhà người mới nhập môn, hành lễ thượng tượng và chỉ vẻ

cách thờ phượng cúng lạy, cách áp-dụng Đạo-luật, đặng sửa ḿnh theo

Đạo-Đức, nhứt nhứt cần giảng-giải cho minh bạch. Người nhập-môn rồi

gọi là Môn-đệ của Đức CHÍ-TÔN và là anh em với tất cả mọi người. Mà đă

là anh em th́ phải hết ḷng d́u-dắt, giúp đỡ lẫn nhau.

 

                              *

 

                       NGŨ - GIỚi - CẤM

 

    Kẻ tu-hành phải trai-giới. Vậy trai-giới là ǵ ?

    Trai tức là ăn chay, Giới tức là giữ giới cấm, đại để có năm

diều :

                       1 - Bất sát-sanh

                       2 - Bất du-đạo

                       3 - Bất tà-dâm

                       4 - Bất tửu-nhục

                       5 - Bất vọng-ngữ

 

                               *

 

                        TỨ-ĐI ĐIỀU-QUI

 

    Ngũ-giới-cấm và Tứ-đại Điều-qui là khuôn thước của người học Đạo ;

chúng ta nương theo đó mà sửa ḿnh.

    a)- Vâng lời dạy bảo của người trên, không hở nghe lời khuyên của

kẻ dưới. Nếu có lầm lỗi phải thiệt ḷng cải quá lấy lễ ḥa người, lấy

lễ đăi người. Không yễm tài người hay, không che lấp lỗi ḿnh. Giữ-ǵn

lời nói, tư-tưởng và hành-vi luôn luôn ở trong khuôn viên Đạo-đức,

nhứt là nơi vắng vẻ lại càng phải cẩn mật hơn nữa.

    b)- Không khoe tài giỏi của ḿnh, không kiêu ngạo kẻ khác, phải

giữ dạ khiêm cung, dầu ở nơi nào cũng vậy. Thường quên ḿnh để làm nên

cho người, nhứt là giúp người thành Đạo.

    c)- Xử-sự tiếp-vật, nên lấy hạnh khiêm-cung làm đầu. Tinh-thần của

lễ là kính. Phàm kính người th́ luôn luôn hết dạ kính tin, dầu có mặt

hay không cũng vậy. Đừng thấy giàu mà trọng, chẳng thấy khó mà khinh.

Thường lấy lời nhỏ-nhẹ khuyên bạn làm lành. Phép nước luật Đạo, hết

ḷng kính giữ. Đó là phương pháp giữ ḿnh theo Đạo vậy.

 

                             *

 

                        LUT XỬ-THẾ

 

    Cùng theo học một Thầy, tức thị anh em bạn đồng-môn, mà hễ anh em

th́ phải thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau trên đường Đạo và đường Đời.

T́nh đồng Đạo, nếu ngày trước có hờn giận nhau, ngày nay nên hỉ-xả.

Quên lỗi cũ đặng cùng nhau tạo một nền hạnh-phúc chung. Phải tránh

việc cải-cọ hiện tiền, lấy đức nhẫn-nhục đăi nhau. Trên dưới thương

nhau trên đường Đạo và đường Đời. Ấy là hiến lễ trân trọng cho

ĐI-TỪ-PHỤ vậy.

    Nhơn-đạo vốn có Tam-cang, Ngũ-thường, Tam-tùng, Tứ-đức là trọng.

Kẻ học Đạo lấy đó làm nền tảng cho cuộc đời ḿnh. Gốc đă thành lập

tự-nhiên ngọn nương theo mà sanh.

    Người Tín-đồ Đại-đạo không đặng có hầu thiếp,trừ khi đă bị chích

lẻ giữa đường, cần phải chấp nối. Ho

ặc giả, vợ chánh không con nối

hậu, th́ đặng phép cưới thiếp, song phải có vợ chánh ưng thuận mới

đặng. Vợ chồng chẳng đặng để bỏ, trừ ra, tội nặng như : ngoại t́nh,

thất hiếu, vân vân...

    Con nít phải có cha đỡ đầu, pḥng khi rủi bị thân côi. Con nít lên

bảy tuổi phải cho học Đạo, học chữ. Việc quan, hôn, tang, tế, anh em

chung lo với nhau như anh em ruột một nhà. Tang lễ không nên xa-xí,

không nên quàn Linh-cửu lâu ngày, không nên dùng đồ màu sắc, không nên

yến-ẫm. Việc cúng tế nên dùng đồ chay. Nhạc lễ theo Tân-luật,

tang-phục y như xưa.

    Quân-tử chi Đạo tạo-đoan hồ phu phụ, Đạo làm người khởi đầu tại

việc lập vợ chồng ; gốc nếu rủi lầm lỗi th́ sau ắt khó sửa chữa. Vậy

nên người Tín-đồ phải kết hôn với người đồng Đạo ; trừ ra, khi người

ngoại Đạo ưng thuận nhập môn trước, rồi sau mới kết thành vợ chồng.

    Trước lễ thành hôn tám ngày, chủ hôn trai phải dán bố cáo tại

Thánh-thất sở tại. Ấy là ngừa trắc trở về sau. Lễ sánh duyên phải cầu

chứng nơi Thánh-thất sở tại.

    Việc sanh nhai, phải chọn một nghề nghiệp nào không có ư sát sanh

hại vật, không bại tục tồi phong.

 

                             *

 

                         RĂN PHT

 

    Có luật tự nhiên có răn phạt ; nhưng cách răn phạt của Tôn-giáo

chẳng giống luật Đời, mà thật cốt-yếu là răn dạy. Đại-khái như :

    Kẻ nào phạm giới-luật, nếu có bạn khuyên can th́ phải vui ḷng

nghe theo mà cải quá. Nếu kẻ phạm đă có một hai lầm bị khuyên can rồi,

mà c̣n tái phạm nữa, th́ chúng bạn được đem việc ấy tŕnh bày với vị

Chức-sắc cai quản Thánh-thất sở tại. Nếu vị Đầu-họ-Đạo đă dứt bẩn rồi

mà kẻ ấy c̣n phạm tội nữa th́ việc lầm lỗi ấy, có thể đem đến

Hội-Thánh xem xét. Kẻ phạm luật Đạo, có thể bị trục-xuất, nếu tội lỗi

không thể tha thứ được.

 

                              *

 

                        LUT XUẤT-THẾ

 

   Tịnh-thất là một giáo-đường thâm nghiêm. Tín-đồ vào đó đặng

an-thần, dưỡng-trí, tu luyện đến công-viên quả-măn. Nơi đây, mỗi người

đặng thọ Bí-quyết của Đức CHÍ-TÔN truyền dạy và được d́u-dắt cho đến

siêu-thoát ra ngoài ṿng Càn-khôn.

   Hạng Tín-đồ nầy là bực Tối Thượng-Thừa, xong xuôi tất cả bổn-phận

làm người ; nghĩa là chẳng c̣n dính dấp với gia-đ́nh, xă-hội nữa, mới

đặng nhập Tịnh-thất. Hội-thánh sẽ xem xét kỹ-càng, trước khi thâu

nhận.

   Tịnh-thất có kỷ-luật riêng, ngày giờ công-phu, hoặc ă nghỉ, mỗi mỗi

đều nhứt định. Cấm người trong Tịnh-thất giao-tiếp với kẻ ngoài, hoặc

thơ-tín, hay bàn chuyện cũng vậy.

   Trong Tịnh-thất có luật riêng, kẻ ở Tịnh-thất nhứt nhứt phải tuân

theo kỷ-luật ấy. Đó gọi là luật Xuất-thế.

 

                              *

 

    Tóm lại : Lễ-nghi và Đạo-luật tuy h́nh thức khác nhau, nhưng đồng

đem lại một kết quả. Nghi lễ để trau giồi Tâm-lư, Đạo-luật để cầm vững

hành-vi. Cả hai đều giúp cho người vững bước trên đường tu-tĩnh.

    Ấy vậy nên kẻ học phải biết quan sát, phải biết áp-dụng, hầu cho

ḿnh có một tinh-thần Kỷ-luật.

 

                        CHƯƠNG THỨ NĂM

                             ----

 

                          VƠ-TRỤ-QUAN

                              ---

 

                              ĐO

 

    Muốn bàn giải cái quan-niệm Vơ-Trụ, lẽ tất-nhiên, chúng ta phải

nói đến chữ "Đạo" ; bởi v́ Trời-Đất vạn-vật đều do Đạo mà sanh sống và

cũng do Đạo mà tấn-hóa đến chỗ Chí-thiện, Chí-mỹ, Chí-nhơn.

   Thế mà Đạo ra sao ?

   Đức CHÍ-TÔN có dạy rằng :

   "Khi chưa có Trời-Đất th́ khí Hư-vô sanh có một Thầy, và ngôi của

"Thầy là Thái-cực ; Thầy phân Thái-cực ra Lưỡng-nghi ; Lưỡng-nghi sanh

"Tứ-Tượng ; Tứ-Tượng biến ra Bát-quái ; Bát-quái biến hóa vô cùng mà

"lập thành Càn-khôn Thế-giái, rồi Thầy phân tánh Thầy mà sanh ra

"vạn-vật là : Vật-chất, Thảo-mộc, Côn-trùng, Thú-cầm và Người, gọi là

"Chúng-sanh" (Xem h́nh Bát-quái nơi trương 49)

   Bài Thánh-ngôn trên đủ khái-niệm cái "Đạo" xây-dựng Vơ-Trụ và sanh

hóa muôn loài ; nhưng, rất vắn tắt thành ra khó hiểu cho người ít đọc

Đạo-thơ. Thừa dịp nầy, chúng tôi xin phân tách và thuyết-minh cho rơ

thêm hơn như sau :

   a)- "Khí Hư-vô" mà Đức CHÍ-TÔN nói trên đây vốn vô-danh, vô-sắc.

Đức LĂO-TỬ tạm gọi là Đạo, rồi ngài giảng rằng :

   "Hữu nhứt vật hổn thành, Tiên Thiên địa sanh, tịch hề liêu hề, độc

lập nhi bất cải, châu hành nhi bất đải, khả dĩ vi Thiên-địa mẫu, Ngô

bất tri kỳ danh, tự chi vi Đạo". Có một Đấng tự sanh, chớ chẳng phải

giống chi sanh được, có trước Trời Đất, lặng yên một ḿnh ở trong cơi

Thái-hư mà không nghiêng đổ, lưu-hành khắp nơi mà không mệt mỏi ; Đấng

ấy khá gọi là nguồn sanh hóa Trời Đất ; Ta chẳng biết tên chi, song

mượn chữ gọi là Đạo.

   Vậy Đức Lăo-Tử quan niệm Đạo là Đấng Tạo Hóa, rồi Ngài mô tả chữ

Đạo đại lược như vầy : "Ta suy diễn th́ thấy Đạo lúc nào cũng có một,

không biết đâu là đầu đuôi, manh mối ; thế mà nơi nào cũng có Đạo. Ta

trông lên phía trên th́ không thấy phản-chiếu ánh-sáng, xem xuống phía

dưới th́ không thấy ẩn-khuất bóng tối, lâng lâng trong sạch, hồn nhiên

giản-dị mà chính Đạo là bản thể của Vơ-Trụ, Chúa-Tể của muôn loài.

    Cái Bản-thể của Vơ-Trụ nói đây, kinh Phật gọi là Chơn như và nói

rằng :"Chơn-như giă Vơ-Trụ chi bổn thể ; nải bất sanh, bất diệt, bất

tăng, bất giảm, vô thỉ, vô chung. Vơ-Trụ chi hiện tượng, hữu

sanh-diệt, hữu tăng-giảm, hữu thỉ chung, vị chi vạn pháp. Vạn-pháp tức

Chơn-như, Chơn-như tức Vạn-pháp". Nghĩa là Chơn-như là bổn-thể của

Vơ-Trụ, không sanh, không diệt, không tăng , không giảm, không thỉ,

không chung. C̣n Vơ-Trụ là hiện tượng của Chơn-như ; Vơ-Trụ có sanh

tử, có tăng giảm, có thỉ chung, nên kêu là Vạn-pháp. Vậy Vạn-pháp là

Chơn-như ; Chơn-như là Vạn-pháp.

    Muốn rơ thêm, chúng ta hăy xem lời của ông Chu-Liêm-Khê là một

Danh-nho đời Tống bên Tàu nói rằng :"Vô-Cự nhi Thái-Cực" ; nghĩa là

Vô-Cực là Thái-Cực. Tại sao ? Bởi v́ Vô-Cực là Tịnh-thể ; Thái-Cực là

Động-thể. Cái động-thể vốn do nơi tịnh-thể mà ra, cho nên nói Vô-Cực

với Thái-Cực là một. Ông lại nói rằng Vô-Cực, nguồn gốc của Vơ-Trụ ;

nó là không không và ở ngoài những cái mà loài ư hội được. Nhưng, tuy

nói là "Không" mà chẳng phẢi là Không hẳn, v́ Vô-Cực vốn tự tại, bất

sanh, bất diệt. Cái tự tại ấy chưa phát động th́ gọi là Vô-Cực ; c̣n

khi đă phát động rồi th́ gọi là Thái-Cực. Vậy Vô-Cực với Thái-Cực là

một gốc ; nhưng Vô-Cực th́ yên lặng mà Thái-Cực th́ phát động và

Hóa-sanh ra Thế-giái vạn-hữu.

    Tóm lại Tam-giáo đều quan niệm cái lẽ "Đạo" như nhau, nhưng cách

lập ngôn và dùng danh từ để giảng-giải th́ bất đồng. Đại để như nói

Vô-Cực hay khí Hư-vô vốn một thể với Thái-cực. Nhưng, Vô-Cực hay khí

Hư-vô th́ siêu-việt quá người ta không thể khái-niệm được mà chỉ

khảo-sát được Thái-Cực là cơ biến dịch hóa sanh Trời Đất vạn-vật mà

thôi. Lẽ nầy chẳng khác nào Kinh Phật nói : Chơn-như là Vạn-pháp ;

Vạn-pháp là Chơn-như. Nhờ tham khảo cơ biến hóa ấy mà người ta hiểu

được Đạo là khí Hư-vô, Vô-cực hay Chơn-như.

    b)- Câu thứ hai trong bài Thánh-nhôn trên kia nói rằng :"Thầy phân

"Thái-cực ra Lưỡng-nghi, Lưỡng-nghi sanh Tứ-Tượng, Tứ-tượng biến ra

"Bát-quái, Bát-Quát biến hóa vô cùng mà lập thành Càn-Khôn Thế-giái ;

"rồi Thầy phân tánh Thầy ra mà sanh ra vạn-vật là : Vật-chất, Thảo-mộc

"Côn-trùng, Thú-cầm và Người gọi là Chúng-sanh".

   Chỗ nầy, Ông Chu-Liêm-Khê nói rằng : Thái-cực có hai thể : Động và

Tịnh. Động th́ sanh Dương ; Tịnh th́ sanh Âm. Thái-cực chỉ có một Động

một Tịnh mà phân ra Lưỡng-nghi, tức Thái-cực sanh Âm-Dương nhị khí.

   Âm-dương có tánh tương-khắc mà lại tương-ḥa. Bởi tương-khác cho

nên Âm-Dương gặp nhau th́ xô-xát ; chính sự xô-xác ấy thành cơ biến

hóa. Mà xô-xác cùng cực rồi lại điều-ḥa ; chính sự điều-ḥa ấy là cơ

định vị Trời Đất. Thử hỏi Âm-Dương nhị khí xô-xát, điều-ḥa, cách nào

mà định vị Trời Đất ? Th́ sách chép rằng : Trong lúc Âm-Dương hỗn-độn,

khí nhẹ bay lên thành Trời ; khí nặng ch́m xuống thành Đất. Khi Trời

Đất định vị cao thấp rồi trong khoảng không gian ở giữa Trời Đất, khí

Âm khí Dương lại xô-xát điều ḥa nữa mà sanh hóa muôn loài. Vạn-vật

đến lượt chúng nó, khi đă trưởng thành th́ giống đực, giống cái

giao-cấu mà sản xuất thêm măi ; chỗ nầy, Kinh Dịch nói :"Thiên-Địa

nhơn huân vạn-vật hóa thuần ; Nam Nữ cầu tinh vạn-vật hóa sanh".

   Ông Chu-Chu-Liêm giải một cách khác hơn nữa rằng : Dương độn th́

biến hóa ra, Âm tịnh th́ tập hợp lại ; bởi sự biến-hóa ra và sự

tập-hợp lại mà Âm-Dương sanh ra Ngũ-hành là : Thủy, Hỏa, Kim, Mộc và

Thổ. Cái chơn của Vô-cực là Lư, cái Tánh của Âm-dương Ngũ-hành là khí.

Lư Khí diệu hợp mà quẻ Kiền sanh con trai, quẻ Khôn sanh con gái. Rồi

Âm-Dương giao cảm (Khí ḥa) mà hóa sanh vạn-vật ; Nam Nữ giao cảm

(h́nh ḥa) mà sanh sản vô cùng tậm. Cơ tạo hóa vạn vật giảng giải như

thế cũng khá rơ rồi. Bây giờ thử so sánh Đạo-học với Khoa-học.

   Khoa-học ngày nay cũng nh́n nhận cái thuyết Âm-Dương do Đạo-học

phát minh là đúng sự thật ; song, Khoa-học dùng danh từ khác. Đại-để

như nói rằng : Trong Vơ-Trụ bao-la, có những điện-tử vận hành măi măi,

không lúc nào ngừng, mà sự vận-hành của điện-tử luôn luôn điều-khiển

bởi một "Sức mạnh phi thường" (tức ám chỉ về Thượng-Đế). Trong

điện-tử, Khoa-học lại nhận thấy có hai thứ khác nhau là : Điện-tử Âm

và điện-tử Dương. Hai thứ điện-tử nầy dung hiệp làm một Nguyên-tử (1)

(Điện-tử-hệ). Nhiều Nguyên-tử dung hiệp thành một Tế-bào laé

nguyên-liệu sanh thành vạn-vật. So sánh hai thuyết nầy th́ chúng ta

thấy Khoa-học nói : Điện-Tử Âm và Điện-tử Dương hiệp thành nguyên-tử,

c̣n Đạo-học lại nói : Khí Âm và khí Dương diệu hiệp thành một

"Khí-cơ". Hai danh-từ tuy khác mà tựu-trung chỉ là một vật thôi.

   Thật khoa-học tiến một bước rất dài. Ước ǵ một ngày kia Khoa-học

và Đạo-học hiệp nhau thành một Học-thuật vừa tinh-thần, vừa vật-chất,

để đưa nhơn-loại tiến lên đường tiến hóa.

 

-----------

 

(1) Nguyên-tử.- Chất hơi, chất đặc, chất lỏng, vân vân... đều là

Vi-tế-bào (cellule) cấu thành. Trong mỗi Vi-tế-bào co& nhiều Nguyên-tử

(Atomes). Người ta phân tách nguyên-tử ra th́ có Điện-tử Âm và Điện-tử

Dương.

  Một hột Điện-tử Dương có nhiều hột Điện-tử Âm chạy chung quanh,

cũng như nhiều quả địa-cầu xoay chung quanh mặt Nhựt vậy.

 

   c)- Đó là bàn chung Vơ-Trụ Vạn-vật. Bây giờ, chúng ta xét trở lại

người ta đối với Đạo là thế nào ?

   Mặc dầu chúng ta nhờ Cha Mẹ (h́nh ḥa) mà sanh ra Nhục-thể ; sohn

phần Hồn (Lư) và Khí cũng vẫn c̣n liên đới với Đạo, rất chặt-chẽ.Đó là

chỗ mà Đơn-kinh nói rằng : Người là Tiểu-Thiên-Địa, tức người có đủ

Âm-Dương và Ngũ-Hành, y như Vơ-Trụ là Đại-Thiên-Địa vậy. Thế đủ hiểu

người ta nhờ Cha Mẹ mà có Nhục-thân, nhờ Vơ-Trụ mà có phần Khí và nhờ

CHÍ-TÔN ban cho một điểm Tánh-linh để làm Hồn ; gọi tóm tắt là

Tinh-Khí-Thần (Tam-bửu).

   Th́ đây, sự phản bổn hườn nguyên của người đời cũng chỉ có theo Đạo

mà trở về với Cội-Sanh ḿnh là Trời mà thôi ; chớ chẳng có con đường

nào khác. Hoặc nói trắng ra là một Chơn-linh đă đến cơi Trần rồi ; nay

muốn trở về với Thái-cực th́ phải nương theo sự vận-hành của cái máy

Âm-Dương mà trở về, chớ không có phép nào khác nữa. Đạo thơ nói đó là

phép "Luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hiệp Thần, luyện Thần hườn Hư"

vậy.

   Đại để như thế ; nhưng muốn công-phu có kết-quả mỹ-măn th́ phẢi dày

công khó nhọc lắm. Trưoéc nhứt phải có đức tin chơn chánh, để làm đuốc

dẫn đường và Trờ Phật d́u dắt, rồi c̣n phải tạo dựng Phước-đức vaé

Trí-huệ viên-măn th́ mới mong siêu-thoát được.

 

                   Quan niệm về Thiên-Triều

 

    Chúng ta trông thấy Vơ-Trụ bao-la ; trên có Trời, dưới có Đất, ở

giữa có Sơn-hà, Thảo-mộc, Thú-cầm và Người ta. Nếu suy-diễn ra nữa th́

trong cái Thế-giới Vạn-hữu nầy, c̣n có một Thế-giới Tinh-thần nữa.

Phần Thiêng-Liêng ấy do đức CHÍ-TÔN vi chủ và Thần, Thánh, Tiên, Phật,

hộ tŕ. Cái cơ-quan nầy chúng tôi tạm gọi là Thiên-Triều, tức

Triều-Thượng-Đế. Bà Bát-Nương Diêu-Tŕ-Cung giáng cơ dạy về

Thiên-Triều như vầy :

   Trong Vơ-Trụ bao-la, Không-gian ở trên là Thượng-từng Bí-pháp của

mọi quyền năng Thiêng-liêng, Đấng CHÍ-TÔN vi chủ. Thần, Thánh, Tiên,

Phật hộ tŕ. Thời gian ở dưới có đủ Khí-chất, để tạo dựng Vơ-trụ

hữu-vi và vật-chất hữu-h́nh. Phép nhiệm mầu vô biên ấy do quyền năng

tuyệt-đối của Đức CHÍ-TÔN vận chuyển, trụ lập Thiên-thơ, định thàhn

Thiên-Điều, khiến cho Không-gian phối hợp với Thời-gian mà xây dựng

Thế-giới vạn-hữu. Đó gọi là Thiên-Triều thống-trị cơ sanh hóa và đoạt

vị của Bát-hồn. Chúng tôi thể theo Thánh-ngôn trên đây mà kể sơ lược

như sau :

                               *

  a)- Cửu-Thiên.

      1- Hư-Vô Cao-Thiên là từng Trời phán ngự Càn-Khôn, do Đức

            CHÍ-TÔN vi chủ.

      2- Hạo-Nhiên Huyền-Thiên là nơi định pháp, do

            Đức Thái-Thượng Đạo-Tổ vi chủ.

      3- Phổ-Hóa Huyền-Thiên hay Phi-Tưởng Diệu-Thiên là nơi hóa

            độ quần linh, do Đức Nhiên-Đăng Cổ-Phật vi chủ.

      4- Tạo-Định Cao-Thiên hay Thượng-Thiên Hổn-Ngươn là nơi

             phân định Càn-Khôn, do Đức Hồng-Quân Lăo-Tổ vi chủ.

      5- Tạo-Hóa Huyền-Thiên là nơi sanh hóa Bát-Hồn, do

             Đức Phật-Mẫu vi chủ.

      6- Kim-Thiên là nơi phát sanh bổn chất của Chơn-thần, dưới

             sự điều-khiển của Tạo-Hóa Huyền-Thiên.

      7- Huỳnh-Thiên.

      8- Xích-Thiên.

      9- Thanh-Thiên là ba từng Trời lập định thứ bậc Tấn-Hóa của các

              Nguyên-Nhân, do Hiệp-Thiên-Cung vô-vi hành-hóa.

  b)- Thiên-Cung.

      Ngọc-Hư-Cung là ngôi của Đấng Chủ-tể Càn-Khôn Vơ-trụ, có sẵn

Thiên-Điều là luật thưởng phạt Bát-Hồn. Ngôi hành pháp là

Linh-Tiêu-Điện có đủ oai-linh của Thái-cực Thánh-Hoàng ban bố, để giữ

máy hành-tàng hư thiệt.

      Cực-Lạc Thế-Giái là ngôi chấp-chưởng luật Nhơn-quả, Luân-hồi,

định-vị cho Bát-Hồn, tức định phẩm trật cho cả Vạn-linh trên đường lập

vị Thiêng-Liêng.

      Luật "Tấn-Hóa" của Bát-Hồn do quyền năng vô đối của Đức CHÍ-TÔN

phán định. Chơn-pháp ấy vận hành từ vô-vi ra hữu tướng ; từ hữu-tướng

trở lại vô-vi, mỗi mỗi đều căn cứ vào :

         Hư-không là chuẩn-đích ;

         Vận-chuyển là hành-tàng ;

         Điều-ḥa là phương-pháp ;

         Chơn-chánh là phương-định.

                            *

  c)- Thiên-Thơ và Thiên-Điều.

      Thiên-thơ là hiến-pháp bất di, bất dịch, của cơ Tạo-đoan. Nguyên

khi định thành Càn-khôn rồi, Đức CHÍ-TÔN vi chủ ; chư Thần, Thánh,

Tiên, Phật ngự-trị th́ cả quyền năng hiệp lập Thiên-thơ, là nền tảng

cơ Tạo-thế.

      Thiên-điều là luật Trời, do Thiên-thơ mà lập thành, để giữ vững

giếng mối vận chuyển :"Không ra Sắc, Sắc trở lại Không". Luật

"Công-b́nh và Bác-ái" tại Thế-gian vốn là biến thể của Thiên-điều,

nhứt là luật Luân-Hồi và Nhơn-Quả mà Tam-giáo đă phổ biến từ ngàn xưa.

                             *

   d)- Luật Luân-hồi.

       Luân-hồi nghĩa là xoay vần măi, cũng như bánh xe lăn qua rồi

lăn qua nữa, không lúc nào ngừng. Về Đạo-pháp, chữ

 

 

            thiếu trang 46,47

 

 

    Muốn lập đức-tin chơn-chánh, chúng ta chớ vội tin những lời của

người nói, mặc dầu người ấy là một vị truyền-giáo, mặc dầu lời ấy đă

chép trong kinh sách của ai. Phải dùng lư-trí mà suy-nghĩ, với một

cách vô-tư, cho biết rằng : Việc ấy có đem lại hạnh-phúc cho cá-nhơn,

cho gia-đ́nh, cho xă-hội và tất cả loài Người chăng ? Nếu quả như vậy,

rồi chúng ta sẽ tin. Một khi đă có đức tin th́ cứ giữ một ḷng

tinh-tấn làm theo cho đến kết-quả. Tâm thần chúng ta luôn luôn phải

được lọc-lược thanh-khiết, cầu cho ḿnh có đủ sáng suốt, phân-biệt,

với một cách vô-tư, những lẽ chánh tà, phải quấy ; phải tránh nhứt là

sự làm nô-lệ cho kiến-văn, thành-kiến, do t́nh cảm gây ra. Đức-tin

phải có lư-trí xét đoán. Cái biết phải nhờ cái làm hoàn thành. Cả tri

hành hiệp nhứt mới có thể đưa người ta đến cảnh Quang-minh chánh-đại.

    Đức tin chơn-chánh rất hữu-dụng cho người đời, như đối với

gia-đ́nh, nếu người ta tin có Trời soi xét việc làm của người, để

thưởng phạt th́ ắt có người con làm tṛn đạo-hiếu, người anh em laém

tṛn nghĩa đệ huynh, c̣n đối với làng nước nếu người ta có đức tin

chơn-chánh th́, ngoài sự kiêng phép nước, người ta c̣n sợ luật Trời

nữa. Thiết tưởng mỗi người ăn ở như thế th́ ắt Gia-đ́nh, Xă-hội sẽ

được thái-b́nh. C̣n đối với hạng người Xuất-thế th́ đức-tin chơn-chánh

là ngọn đuốc rọi đường tu-tỉnh và đưa ḿnh đến Chơn-Thiện-Mỹ.

 

                        TIÊN THIÊN BÁT-QUÁI

 

                                Càn

                           Đoài      Tốn

                        Ly                Khảm

                           Chấn       Cấn

                                 Khôn

 

                           HU THIÊN BÁT-QUÁI

 

                                   Ly

                             Tốn        Khôn

                         Chấn               ĐOài

                             Cấn         Càn

                                   Khảm

 

          Sự tích Bát-Quái (Xem trương 39)

 

     Trong trương 39 có bài Thánh-giáo nói về Bát-Quái, chúng tôi theo

kinh Dịch kể sơ lược sự tích của Bát-Quái như sau, đỂ cho độc-giả biết

qua.

     Vua Phục-Hi sanh về đời tối cổ bên Tàu, là thời kỳ Thần-linh-học

phát triển đến cực-độ ở Á-Đông. Ngài là một ông vua Minh-quân : tài

cao, đức trọng,tinh-thần minh-mẫn, hàm dưỡng được Trí-Huệ của

Thượng-Đế ban cho ; thành thử, Ngài xem suốt cơi Vô-h́nh. Khi dạo chơi

nơi bờ sông Hà (ngày nay gọi là sông "Huỳnh-Hà", v́ sông ấy có cát

vàng). Ngài trông thấy một con vật ḿnh ngựa, đầu Rồng, danh gọi là

Long-Mă, trên lưng có 55 nút chấm. Vua Phục-Hi do đó mà lập ra

Bát-Quái (Tám quẻ) gọi là Tiên-Thiên Bát-Quái, hay Phục-Hi Bát-Quái.

 

    Long-Mă

    Theo sách Nho th́ Long-Mă có thân h́nh cao 8 thước, 5 tấc (thước

Tàu), xương cổ dài, chưn Ngựa, đầu Rồng và trên ḿnh có vảy như vảy

Rồng.

    Rồng là một vật trong số Tứ-Linh ; có đủ nơi ḿnh những cái tinh

túy của Vơ-trụ. Ngựa là vật chở người, chở đồ vật, đi mau lẹ. Tóm lại,

Long-Mă tượng trưng "Thời gian trôi qua mau lẹvà mang theo tất cA" sự

vật của Vơ-trụ", tức là chỉ vào "Thời gian lúc nÀo cũng luân chuyển ;

mang theo tất cả sự vật với một cách Thiêng-Liêng". Long-Mă gốm cả Thể

đức của hai vật Rồng-Ngựa (Âm-Dương) là vật linh mang chở cả cái

Thần-bí, tinh-túy của Trời đất để chan rưới khắp cơi đời sanh tồn.

    Kinh Dịch nói : Long-Mă là vật linh kết hợp bởi 8 cái tinh-túy

ở trong Thái-dương-hệ, hiển hiện dưới con mắt Thần của Vua Phục-Hi là

một Thánh-Vương coi được các Vật trong cơi Vô-h́nh, thấy rơ vật linh

của Trời Đất, mang chở những cái tinh-anh của Thái-dương-hệ.

    Lạc-thơ - Laé sách do sông Lạc mà lập thành. Nguyên vua Vơ, Thỉ-tổ

của nhà Hạ, khi nước lụt ra trấn nước ở sông Lạc. Khi nước cạn, Vua Vơ

thấy một con Linh-Qui đội cầu, trên lưng có số 9, Vua Vơ theo đó mà

sắp thứ tự thành ra Lạc-thơ hay Hậu-thiên Bát-Quái.

 

                           CHƯƠNG THỨ SÁU

                           NHƠN SANH QUAN

                              

    Tâm :

    Ngư(c)i ta có một cái "Tâm". Cái cớ sở dĩ Nhơn-sanh tối linh ư

vạn-vật cũng chỉ v́ cái "Tâm" đó. Nếu có ngư(c)i hỏi Tâm do đâu mà có và

nó ra sao, th́ chúng ta trả l(c)i rằng :"Tâm" ngư(c)i ta là điểm tánh linh

của Thư(r)ng-Đế ban cho, và Tâm ngư(c)i cùng Tâm của Vơ-trụ đồng nhứt lư.

Muốn xác nhận điều nầy, xin xem kế đây :

   a)- Bài Thánh-Ngôn của Đức CHÍ-TÔN mà chúng ta đă khép trong trang

trước có một đoạn như vầy :"Khi tạo dựng Càn-Khôn Thế-giái rồi, Thầy

phân tánh Thầy mà sanh ra vạn-vật là :"Vật chất, Thảo-mộc, Côn-Trùng,

Thú-cầm gọi là Chúng-sanh".

   b)- ông Vương-Dương-Minh nói :

       "Tự kỳ h́nh giả vị chi Thiên ; chủ tể giả vị chi Đế, lưu hành

giả vị chi mạng ; phú quí nhơn giả vị chi tánh ; chủ ư Thân giả vị chi

Tâm". Nghĩa là nhắm vào h́nh tư(r)ng th́ gọi là Tr(c)i, nhắm vào Chúa-Tể

Vơ-Trụ th́ gọi là Đế, tức Thư(r)ng-Đế ; nhắm vào sự lưu-hành trong

Vơ-trụ th́ gọi là mạng, phú cho ngư(c)i th́ gọi là Tánh, làm chủ của

Thân phàm th́ gọi là Tâm.

   c)- Sách xưa có câu nói rằng :"Nơi Tr(c)i th́ gọi là Mạng, nói ngư(c)i

th́ gọi là Tánh, nơi sự th́ gọi là Lư, làm chủ Thân-phàm th́ gọi là

Tâm. Tuy Mạng, Tánh, Lư, Tâm khác danh từ song cả thảy là một mà thôi

(Tại Thiên vi Mạng, tại Nhơn vi Tánh, tại Sự vi Lư, chủ ư Thân vi Tâm,

kỳ thật nhứt giă). Thế đủ rơ Tr(c)i với Ngư(c)i tương-liên mật-thiết là

dư(c)ng nào ! Và cũng v́ cái lẽ tương-liên ấy, cho nên ngư(c)i phải theo

Đạo mà sanh sống và tấn-hóa. Trái lại, ngư(c)i nào càng xa Đạo bao

nhiêu, th́ càng phải chịu thống khổ bấy nhiêu, cho nên Đạo-đức-Kinh

nói :

      "Thiên đắc nhứt dĩ thanh ; Địa đắc nhứt dĩ ninh ; Thần đắc dĩ

"linh ; vạn-vật đắc nhứt dĩ sinh. Kỳ trí chi nhứt giă, Thiên vô dĩ

"vi thanh ; tương khủng liệt ; Địa vô dĩ vi ninh, tương khủng phiệt ;

"Thần vô dĩ vi linh, tương khủng kiệt, vạn vật vô dĩ vi sinh, tương

khủng diệt".

     Nghĩa là Tr(c)i đặng Một (Đạo) th́ trong sáng ; Đất đặng Một th́

bền-v"ng ; Thần đặng Một th́ linh-thiêng ; muôn loài đặng Một th́ sanh

sống và tấn-hóa. Đến như số Một nói đây, tức Đạo, nếu Tr(c)i chẳng đặng

nó, để làm cơ-sở trong sáng th́ e Tr(c)i phải tối ; Đất chẳng đặng nó,

để làm cơ-sở bền-v"ng th́ e Đất phải sụp đổ ; Thần chẳng đặng nó, để

làm cơ-sở linh-thiêng th́ e Thần phải kiệt ; muôn loài chẳng đặng nó,

để làm cơ-sở sinh-tồn th́ e muôn loài phải tiêu diệt.

    Theo lẽ nầy mà suy ra th́ thấy rằng Chúng-sanh nếu không lấy Đạo

làm cơ-sở cho đ(c)i sống th́ phải chịu thống-khổ và đi làm đến chỗ diệt

vong.

    Bây gi(c) th́ thử hỏi tại sao mà Chúng-sanh không theo đư(r)c Đạo ?

    Vả lại, Đạo vốn vô-vi ; Tâm ngư(c)i ta lúc ban đầu cũng vô-vi như

Đạo ; cho nên nói : Tâm tức Đạo, Đạo tức Tâm. Nhưng khi làm chủ

Phàm-thân, Tâm bị Phàm-thân kích-thích mà Tâm biến-sanh một trạng-thái

thứ nh́ n"a, mạng danh là Thức-tâm hay Thức-tánh. Chính cái Thức nầy

là một động-lực làm cho Tâm mất cái lư Vô-vi, thành ra con ngư(c)i phải

xa Đạo.

    Giảng-giải sự biến thiên của Tâm, Ông Vương-Dương-Minh nói rằng

:"Thân chi Chủ-tể tiện thị Tâm ; Tâm chi sở phát tiện thị Ư ; Ư chi

bổn-thể tiện thị Trí ; Ư chi sở tại tiện thị Vật". Làm chủ của Thân

thiệt gọi là Tâm ; phát động của Tâm thiệt gọi là Ư ; bổn thể của Ư

thiệt gọi là Trí ; Ư để chỗ nào th́ chỗ ấy là Vật (việc). Ví-dụ : như

hiếu với Cha Mẹ. Vậy Ư ngưng chỗ ch" hiếu ; cho nên hiếu là một việc.

    Theo đó, chúng ta có thể tóm tắt như vầy :

                        Tâm

                        Tánh

                        Ư

                        Trí

                        Vật hay việc

   Tâm là cái Thông-danh, hổn-hàm cả Tánh bổn-nhiên và Thức-tánh, tức

là Ư, Trí, Vật như đă nói trên.

   Phật-giáo cũng mô-tả Thức-tánh rất rơ ràng lắm. Chúng tôi xin chép

bài "Bát-thức" kế đây để mở rộng tầm suy nghĩ của ḿnh.

 

                         Bát-thức

   Nói về Thức-tánh biến-thiên muôn vạn t́nh-thức khác ; nhưng Phật

gọi tóm tắt là Bát-thức kể như sau :

   Giai đoạn thứ nhứt.- Nói về sáu thức bên ngoài.

   Khi Phàm-thân khôn lớn th́ khuynh hướng về vật-chất cầu sự nuôi

sống và giúp vui ; v́ nó thuộc vật-chất phải nh(c)-vă nơi vật-chất. Nhơn

đó mà Lục-căn của Phàm-thân tiếp xúc Lục-trần mà sanh ra Lục-thức.

Xem bản thống-kê Lục-thức kể đây :

 

                       Bản thống-kê Lục-thức

 

         Lục-Căn              Lục-Trần            Lục-thức

 

          Nhăn                  Sắc               Nhăn-thức

          Nhĩ                   Thinh             Nhĩ-thức

          Tỉ                    Hương             Tỉ-thức

          Thiệt                 Vị                Thiệt-thức

          Thân                  Xúc               Thân-thức

          Ư                     Pháp (tức sự      Ư-thức

                                    vật ở đ(c)i)

 

     Năm thức trên do Ngũ-quan tiếp xúc với ngoại-vật mà sanh. Tuy mỗi

thức có cái biết riêng của nó. Mắt biết sắc ; tai biết tiếng ; Mũi

biết mùi ; Lư"i biết vị ; Thân biết cảm xúc ; nhưng năm thức ấy biết

mà không có tư-lương, suy-nghĩ ; đến chừng chúng nó truyền cái biết

vào Ư-thức th́ cái Thức thứ sáu nầy mới phân-biệt tốt xấu, hơn kém.

Ḷng ham muốn vật-chất do đó mà sanh. Từ đó về sau t́nh-dục đua nhau

mà làm loạn Bổn-tâm.

    Ví dụ : Anh X muốn có một chiếc xe du lịch.

    Ḷng ham muốn giục thúc anh ta phải lo liệu, làm lụng, thế nào cho

có tiền để mua xe. Nếu mua đư(r)c chiếc xe th́ vui mừng, thỏa thích, rồi

lại đâm ra s(r) mất, s(r) hư, mà phải lo ǵn gi" chăm nom. Trái lại, nếu

thất vọng th́ anh X buồn rầu phiền năo, rồi âm mưu, tính kế, làm ra

tiền, có khi anh ta dám làm việc ích-kỹ hại nhơn n"a.

    Nh"ng t́nh-dục ở trong Thức thứ sáu (Ư-thức) cứ theo Nhơn-duyên

bên ngoài mà hoạt động. Ngư(c)i ta, sở dĩ, khổ năo lắm, chỉ v́ T́nh-dục

ấy.

 

   Giai đoạn thứ hai.- Thức thứ bảy và thứ tám.

   T́nh dục ở nơi Ư-thức, hoạt động măi hoạt động măi đến khi hết cơ

duyên rồi nó lại ngấm theo Thức thứ bảy, mạng danh là Truyền-Tống-Thức

(Manas) mà vào Thức thứ tám, mạng danh là Hàm-Tàng-Thức (Alaya). T́nh

dục ẩn núp trong Hàm-Tàng-Thức để ch(c) cơ duyên thuận tiện khác mà hoạt

động lại n"a : T́nh dục ấy, về sau, thành ra tánh tự nhiên của ngư(c)i.

Lúc vô sự, nó yên lặng như không, nhưng khi gặp cơ hội th́ nó dấy động

mau lẹ, cũng như Lương-tri, hay Lương-năng. Ngư(c)i ta, nếu không nghĩ

lại th́ nhận lầm nó là Bản ngă của ḿnh, rồi lấy đó mà làm then chốt

cho đ(c)i sống. Chúng ta thấy có ngư(c)i đương vui mà bỗng nhiên buồn,

đương giận mà bỗng nhiên lại thương, vân vân... Ấy là tại ngư(c)i ta

sống theo Bản ngă giả hiệp đó vậy.

    Nói tóm lại Bát-thức là :

                   Nhăn-thức

                   Nhĩ-thức

                   Tĩ-thức

                   Thiệt-thức

                   Thân-thức

                   Ư-thức

                   Manas thức (Truyền-Thống-Thức)

                   Alaya-thức (Hàm-Tàng-Thức).

   Sáu thức trên đă giải đư(r)c rồi, bây gi(c) xin giải rơ hai Thức sau.

   Thức thứ bảy, theo danh từ Truyền-Thống-Thức mà định-nghĩa, th́ nó

là cái Thức truyền các cái Thức bên ngoài vào trong Hàm-Tàng-Thức.

Trái lại, nó cũng truyền tống nh"ng ư niệm của Hàm-Tàng-Thức ra ngoài

Thức thứ sáu kia n"a. Thức thứ tám (Hàm-Tàng-Thức) nghĩa là nó ngậm

chứa cả các Thức. Nó cũng có tên khác là "Chủng-Tử-Tạng", nghĩa là cái

Tạng chứa đủ cả các hột giống. Chúng sanh, sở dĩ, làm Chúng sanh hay

làm Phật, cũng do nó mà ra, cho nên gọi nó là hột giống Luân-hồi.

Nghĩa là cái Bản-ngă giả-hiệp nầy, khi sanh tiền, th́ lưu ẩn trong

Hàm-Tàng-Thức mà hoạt động theo vật-chất, để cầu l(r)i cho Nhục-thân ;

măi đến khi tử-hậu th́ nó trở về "Bạch-Tịnh-Tạng" để di chuyển sanh

kiếp khác n"a. Thế nên trong lúc Nhục-thân nầy đương tiêu tan dưới mồ

th́ nó lo sửa soạn kết tạo Thể-thân khác cho kiếp vị-lai. Và cứ thế mà

sanh-tử tử-sanh măi, không bao gi(c) ra đư(r)c, nếu ngư(c)i ta không tự giác

ngộ.

   Ngư(c)i trí-giả đă rơ cái lư do thống-khổ, rồi ngư(c)i ta t́m phương

giải khổ. Phương pháp ấy th́ nhiều, mỗi ngư(c)i quan niệm một lối. Th́

đây, cái lối của chúng ta, là "Minh-tâm Kiến-tánh", có sáng suốt đư(r)c

Tâm của ḿnh để phân biệt đâu là Vọng, đâu là Chơn ; rồi sau mới đi

lần đến sự thông sáng hoàn toàn là cái năng-lực đưa ngư(c)i siêu thoát

ra ngoài ṿng sanh-tử.

 

                      CHƯƠNG THỨ BẢY

                           ---

 

                   SỰ GIÁO-HÓA CỦA ĐI-ĐO

 

   Đức Chí-Tôn giáng cơ dạy rằng :

   "Ta v́ ḷng Đại-từ, Đại-bi, lấy đức háo-sanh dựng nên mối Đại-Đạo

"Tam-Kỳ Phổ-Độ, tôn chỉ là : vớt kẻ h"u phần vào nơi địa vị cao thư(r)ng

"để tránh khỏi số mạng Luân-hồi, và nâng đở kẻ có tánh-đức, bước vÀo

"cơi nhàn, cao hơn phẩm hèn khó ở cơi Trần-thế nầy".

    Thể theo Thánh-ngôn trên đây, Tân-luật Đại-đạo ấn định Tín-đồ của

Đại-Đạo chia ra hai bậc :

                      Thư(r)ng-thừa

                      Hạ-thừa

    Thư(r)ng-thừa là ngư(c)i xuất Thế-gian, nghĩa là ngư(c)i đă phế Đ(c)i,

theo Đạo, họ chẳng c̣n bận rộn về thế sự, mà chỉ lo tự-giác để rồi đem

cái sở-đắc của ḿnh mà giúp cho ngư(c)i khác cùng đư(r)c khai sAng như

ḿnh, tức Tự-giác giác tha. Tân-luật lại định rằng Chức-sắc của

Hội-thánh từ Giáo-h"u dẫn lên, phải chọn trong hàng Thư(r)ng-thừa.

   Hạ-thừa là ngư(c)i c̣n ở Thế, vừa làm Nhơn-sự, vừa học Thiên-đạo.

Tân-luật qui định cho lớp nầy phải làm tṛn bổn phận ngư(c)i, như bổn

phận đối với xă-hội, gia-đ́nh, bổn-thân, Hội-thánh, ngư(c)i đồng-đạo vân

vân...

    Phương pháp học hành của hai bậc nầy sẽ giảng rộng nơi chương

Tám và chương Chín sau đây ; bây gi(c) xin bàn trước cách học-đạo và

hành-đạo.

    Hai ch" "Học-Hành" chúng ta phải phân

tách cho rành mạch châu đáo,

hầu tránh sự nông nỗi của ḿnh, bởi v́ học là một việc, hành là một

việc khác n"a. Hai phép "Học-Hành" hiệp lại th́ nó mới có thể đem lại

cho ngư(c)i học cái kết quả mỹ-măn. Ấy vậy nên chúng ta chia học-hành ra

làm hai giai-đoạn để giải thích cho rơ :

                       Lư-thuyết

                       Thực-hành

                           *

 

                        Lư-thuyết

 

    Phần Lư-thuyết, ai cũng biết rằng : khi mới khai Đạo, Đức CHÍ-TÔN

giáng cơ lập Pháp-luật, Qui-điều, Lễ-nghi, Phư(r)ng-th(c), Tế-tự và dạy

chúng ta học : từ Nhơn-đạo đến Thiên-lư. Và trước khi ngưng cơ bút,

Đức CHÍ-TÔN c̣n dặn rằng :"Kinh-điển của Tam-giáo vẫn c̣n ẩn-tàng một

phần Chơn-truyền yếu-lư, mà chúng ta cần phải tham-khảo tinh tư(c)ng, để

làm sáng thêm Giáo-lư của ḿnh ; bởi v́ nền tảng của Đại-Đạo Tam-kỳ

Phổ-Độ qui nguyên Tam-giáo.

    Xem đó th́ biết Giáo-lư của Đại-Đạo cao thâm, hoằng-viễn là ngần

nào ; nhưng, chúng ta nên biết rằng học lư thuyết chưa đem lại kết quả

nào đáng kể cho kẻ tu hành. Tỉ như, mỗi ngày, chúng ta đều tụng kinh

"Huỳnh-Đ́nh", tụng không vấp một ch", tụng đến thuộc ḷng mà không

thực hành th́ sự thuộc ḷng ấy chưa đem lại cho chúng ta đức hạnh chói

rạng. Ấy vậy nên hễ muốn thành Đạo th́ chúng ta phải thực hành giáo-lư

n"a. Tức là  chúng ta phải học và phải làm thế nào cho giáo-lư nhập

tâm và biến thành đức-tánh, để rồi áp dụng vào đ(c)i sống thực tế của

ḿnh. Đó là phương tu tâm luyện tánh vậy. Về phương diện thực hành

Giáo-lư, Đức CHÍ-TÔN có lập tại Thế-gian một trư(c)ng Công-quả ; cả

Môn-đệ của Ngư(c)i phải theo đó mà tập luyện.

    Vậy Công-quả là ǵ ?

    Ngư(c)i Nông-phu cày cấy là làm công, tới mùa anh ta gặt lúa, là hái

quả. Hễ cày cấy nhiều th́ lúa thóc nhiều, cày cấy ít th́ lúa thóc ít.

Đó gọi là công-quả của ngư(c)i Nông-phu. Kẻ tu-hành cũng vậy. Nghĩa là

kẻ tu-hành cũng phải làm công rồi sau mới hưởng quả.

    Nay muốn cho hiểu rơ thế nào là công-quả của kẻ tu-hành, chúng tôi

tạm chia công-quả ra hai mặt là : Công-quả nội và Công-quả ngoại.

    Công-Quả nội.- Cũng gọi là công đức ; phương-pháp thực hành

Công-đức là Học-giả phải gia công học hỏi cho thấu triệt Chơn-lư, cố

gắng thực-hành thế nào cho chơn-lư biến thành đức hạnh, để rồi áp dụng

vào đ(c)i sống thực tế của ḿnh, như đă nói trên.

    Tại sao kẻ học phải thực hành công-đức ?

    Vả chăng, tâm tánh chúng ta từ khi nhập Thể-cuộc đến bây gi(c), đă

trước nhiễm nhiều vọng-chấp : nào là chánh-kiến, nào là tật xấu, nào

là nết hư ; nhứt là thói ích-kỷ là một trở ngại lớn trong công cuộc

cảm-ứng ở gi"a Tr(c)i và Ngư(c)i. Như vậy, nếu chúng ta chẳng dụng công

tinh-luyện, đả phá thật sạch cái màn vô-minh ấy, th́ làm thế nào mà đi

đến cảnh Toàn-giác. Đó là nói về thực-hành công-đức. C̣n như hỏi phải

làm thế nào cho ḿnh trở nên ngư(c)i có đức ? Th́ chúng ta phải học cho

hiểu đạo-lư ; hỏi cho rơ điều ng(c) vực, suy nghĩ cho thông tỏ cái lư đă

học ; biện-bạch cho tinh-tư(c)ng và cố gắng làm cho tật xấu biến thành

tánh tốt. Nói tóm lại là học, vấn, tư, biện và hành. Làm năm phương

pháp nầy, để lập đức của ḿnh.

    Nói rút lại : về công-phu lập đức kẻ học phải làm cho thành, phải

nói cho Thánh. Công-thành, Ngôn-thánh th́ đức mới rạng. Trái lại, nếu

công chẳng thành th́ l(c)i nói không đư(r)c bảo đảm ; mà l(c)i nói không

đư(r)c bảo đảm th́ Đức chẳng có chỗ nương, để chói rạng. Làm đư(r)c điều

ấy tức là lập Công, lập Ngôn và lập Đức vậy.

    Công-Quả Ngoại.- Là phụng-sự cho Chúng-sanh. Chúng ta nh(c) tu

công-đức mà tâm-tánh trở nên thuần-nhiên Thiên-lư ; lúc bấy gi(c), ḷng

Bác-ái của chúng ta đư(r)c mở rộng. Chúng ta biết thương ngư(c)i, biết mến

vật. Rồi chúng ta nương theo cái ḷng vị-tha ấy, mà giúp ngư(c)i, giúp

vật, đư(r)c an vui theo lẽ Đạo ; nhứt là độ dẫn ngư(c)i đồng chủng đư(r)c

mau tiến bước trên đư(c)ng tấn-hóa thiên-nhiên là một việc lành lớn, mà

chúng ta nên chú ư cho lắm.

    Tại sao chúng ta phải phụng sự cho Chúng-sanh ?

    Vả lại, cả Chúng-sanh đều thọ sanh nơi một nguồn, học chung một

Thầy và cùng nhau đồng đi trên một đư(c)ng về Cội-sanh ḿnh là Tạo-hóa,

thành thử trên đư(c)ng sanh-tồn, học-vấn cả Chúng-sanh đều có thiếu n(r)

lẫn nhau. Ngư(c)i ta cũng vậy, nghĩa là, ngư(c)i ta cũng phải chịu sự vay

trả, trả vay, như các Chơn-hồn khác. Đại để như : từ buổi đă đư(r)c kết

tạo trong Thai-bào, mỗi Chơn-linh đă phải chịu n(r) tiền-khiên rồi, tức

là n(r) kiếp trước, đến lúc chào đ(c)i và trưởng thành, th́ lại nặng n(r)

Xă-hội, Nhơn-quần, như : ơn cấp-dư"ng thức-ăn, chỗ ở, đồ mặc. Đó là sự

nh(c) vă lẫn nhau trên đư(c)ng sanh nghiệp. Ấy vậy, nên mảnh thân phàm của

ngư(c)i đến Thế-gian nầy, chẳng phải để làm việc riêng cho ḿnh, mà v́

sự liên-đới với vạn-vật ; thành thử, chẳng có một cá nhân nào có quyền

sống riêng, mà trái lại, phải đem kiếp sống mà phụng sự cho Chúng-sanh

toàn thể, hoặc với cách nầy, hoặc với phương khác.

    Nghiệp quả ấy, nếu biết, th́ có thể trả xong trong ṿng một kiếp ;

c̣n như chẳng biết, th́ con ngư(c)i ấy phải chịu luân chuyển trong biển

tử-sanh, cùng đà sanh hóa, mà cũng chưa ắt kham.

    Nói rút lại : hai phần công quả kể trên th́ nhiều, nhưng Kinh Phật

tóm tắt như vầy :

               Chư ác mạc tác ;

               Chúng thiện phụng hành ;

               Tự tịnh kỳ ư ;

               Thị chư Phật giáo ;

    Nghĩa là mọi việc ác chẳng khá làm ; nhiều việc lành cũng phải

vâng theo. Tự ḿnh trừng ư cho đư(r)c thanh-tịnh. Đó thiệt là giáo-luật

của Phật vậy.

    Công-quả đối với kẻ tu-hành rất quan-trọng. Bài Thánh-ngôn của Đức

CHÍ-TÔN kế đây đủ chứng minh sự quan-trọng ấy.

    Thánh-ngôn.

    "Ngư(c)i ở Thế-gian muốn giàu phải t́m phương thế mà làm ra của. Ấy

"là về phần vật-chất ; c̣n Thánh, Tiên, Phật muốn đắc Đạo th́ phải

"công-quả. Thầy đến độ rỗi các con, Thầy lập thành một trư(c)ng công-đức

"to cho các con nên Đạo. Vậy đắc Đạo cùng chăng, là tại các con muốn,

"cùng chẳng muốn. Thầy nói cho các con nghe : nếu chẳng đến trư(c)ng Thầy

"mà đoạt thủ địa-vị th́ chẳng đắc Đạo bao gi(c)."

    C̣n một lẽ n"a là theo lư đương nhiên : hễ có học th́ phải có thi

để rơ tài đức của Học-sinh. Th́ sự tu-hành cũng không ngoài công-lệ

ấy ; nghĩa là : kẻ học phải chịu thử thách, coi phải ḿnh là kẻ đạo

đức chơn thật chăng. "Vàng có lửa trui th́ mới rơ vàng mư(c)i."

    Trong sự thực-hành đạo-đức, từ trước đến gi(c) : từ một vị

Đại-Thiên-Phong đến một em Đồng-nhi, ai cũng biết qua một phần nào rồi

vậy. Hơn n"a, điều ấy Cổ-nhơn đă trải qua và c̣n lưu l(c)i nói trong

kinh-điển như vầy :

    "Vô Ma-khảo bất thành Đạo-Đạo." Không Ma-khảo th́ Đại-Đạo không

thành. Lại nói :"Đạo cao nhứt xích, Ma cao nhứt trư(r)ng, Đạo cao nhứt

trư(r)ng, Ma thư(r)ng đầu nhơn." Đạo cao một thước th́ Ma cao một trư(r)ng,

Đạo cao một trư(r)ng th́ Ma lên khỏi đầu ngư(c)i.

    Có ngư(c)i nói : sự tu-hành để giải thoát kiếp luân-hồi thật khó

khăn lắm vậy. Tuy thế mặc dầu, mà từ xưa đă có biết bao nhiêu ngư(c)i đă

thành công đắc quả. Mà hễ một việc nào đă có ngư(c)i làm đư(r)c th́ việcấy

dễ ; chớ chẳng khó.

    Than ôi ! việc tu-hành kẻ nói khó, ngư(c)i nói dễ, không biếtđâu mà

lư(c)ng ; nhưng theo kinh nghiệm, chúng tôi hiểu rằng : khó hay dễ đều

do ḿnh cả. Nếu chí tâm hành đạo th́ việc khó hóa ra dễ ; c̣n như chán

nản th́ việc dễ cũng thành khó.

    Tóm lại :

    1)- Giáo-lư về mặt lư-thuyết, tức là đọc sách tụng kinh, mà không

áp dụng vào đ(c)i sống thực tế th́ không có kết quả đáng kể.

    2)- Nhắc lại sự thực hành Giáo-lư, tức làm công-quả-nội vaé

công-quả-ngoại đă nói trên. Mục-đích làm cho học-viên biết sự "Tri

hành hiệp nhứt" mà phải áp dụng ngay, khi học bài.

    Thêm n"a, chúng ta đă hiểu rằng Chúng-sanh có can hệ mật-thiết với

Đạo, như đă nói trong trương trước ; nghĩa là Chúng-sanh phải nương

theo Đạo mà sanh sống và tấn-hóa ; cho nên, khi hóa sanh vạn-vật rồi ;

Đức CHÍ-TÔN : hoặc phân tánh giáng sanh, hoặc phái một vị Tiên, Phật

giáng Trần lập Đạo, giáo-hóa, làm cho Chúng-sanh biết phương pháp sửa

ḿnh theo Đạo ; v́ thế mà chúng ta thấy hiện gi(c) có nhiều Tôn-giáo và

mỗi Tôn-giáo có một h́nh-thức khác thật ; nhưng tựu trung Tôn-giáo nào

cũng dạy Chu&ng-sanh tu hành theo Chánh-Đạo hầu trở về với Cội-sanh

ḿnh là Tr(c)i. Nay Đức CHÍ-TÔN, dùng huyền-diệu cơ-bút lập Đại-Đạo ba

kỳ, Tôn-chỉ cũng không ngoài sự giáo-hóa Chúng-sanh : một là biết

bổn-phận làm ngư(c)i, hai là biết phương phÁp tu-hành đặng giải-thoát

kiếp luân-hồi sanh-tử. Cách học-hành sẽ nói sau ; bây gi(c) chúng tôi

xin nhắc sự ăn chay và kiêng rư(r)u ; đó là th(c)i kỳ chuẩn bị nhập môn

hành-đạo.

 

 

 

 

                          ĂN CHAY

 

    Ăn chay nghĩa là chúng ta dùng lê-hoắc và ngũ-cốc mà thôi. Tại sao

kẻ học-đạo phải ăn chay ? Xin xem kế đây :

    Khoa-học lấy trí-thức làm căn-bổn : suy nghĩ, khảo-cứu vật-chất

bên ngoài. Chung cuộc khoa-học thâu hoạch kết quả, để bồi bổ vào cuộc

đ(c)i sống thực-tế. C̣n Đạo-học có mục-đích thâm-viễn hơn, là cầu

giải-thoát kiếp luân-hồi, đặng vào cơi chẳng sanh chẳng già. Muốn đạt

mục-đích ấy, học-giả phải thâu thập cả tánh mạng luyện thành một khối

tinh thần khương-kiện sáng-suốt, tên gọi là Chơn-thần ; nó phải nhẹ

nhàng hơn Không-khí mới vư(r)t ra khỏi ṿng Càn-khôn. Tại sao ? Bởi v́

trong Không-khí có điển-lực ; nếu kẻ ăn mặn mà luyện Đạo, khi xuất

Thần th́ Chơn-thần ấy vẫn c̣n trư(r)c khí lẫn-lộn, mà trư(r)c-khi& vốn là

vật-chất, hay tiếp điển (bon conducteur d'électricité). Khi ấy, nó

chưa ra khỏi lằn Không-khí th́ đă bị sét đánh tiêu diệt rồi. Ấy là một

lẽ mà kẻ học đạo phải ăn chay.

   Lẽ thứ hai : theo luật hấp dẫn, nếu Chơn-thần c̣n trư(r)c khí khi

xuất ngoại phải bị hấp-lực của cơi Trần vật-chất giam-hăm trong ṿng

sanh-tử. Như thế nếu kẻ tu-hành không ăn chay th́ làm thế nào mà

giải-thoát kiếp luân-hồi.

   Lẽ thứ ba : Phép vệ-sinh dạy chúng ta phải ăn ở sạch-sẽ. Sạch-sẽ

nói đây, chúng ta phải hiểu rộng hơn là : chẳng nh"ng gi" ǵn sạch-sẽ

bên ngoài, mà c̣n phải sạch sẽ bên trong n"a. Ăn chay dễ tiêu hóa, tức

là ǵn gi" sạch sẽ bên trong tạng phủ.

   Thêm một lẽ thứ tư n"a là thực-hành ḷng "Bác ái". Theo cái lư

"Thiên địa vạn-vật nhứt thể", chúng ta cùng các loài sinh-vật là anh

em với nhau ; nghĩa là cả Chúng-sanh đều do một nguồn Tạo-hóa sanh

thành. Quan niệm ấy không cho phép chúng ta giết mạng để ăn thịt.

   Vả lại, ngư(c)i ta có hai thức ăn để bồi-dư"ng thân thể là :

Vật-chất-thực và Huyền-vi-thực. Vật-chất-thực là : Ngũ-cốc và các món

ăn mư(c)ng tư(r)ng như thế, do miệng vào t́ vị. Huyền-vi-thực là thanh-khí

ở trong Vơ-trụ ; ngư(c)i ta nh(c) hô-hấp tiếp nạp thanh-khí vào thân-thể,

để bồi-dư"ng sức khỏe. Nói tỷ : mỗi ngày chúng ta phải cần sáu cân đồ

ăn, để bổ-dư"ng thân thể. Trong sáu cân đồ ăn đó ; chia ra ba cân

Huyeến-vi-thực và ba cân Vật-chất-thực. Ấy vậy, nếu chúng ta thêm

Huyền-vi-thực và bớt Vật-chất-thực, càng bớt bên kia, càng thêm bên

nọ ; chung cuộc, mỗi ngày chúng ta cũng có đủ sáu cân đồ ăn, để bồi

dư"ng thân thể. Công phu ấy tiến lên n"a th́, về sau quen rồi, chúng

ta có thể sanh sống với Huyền-vi-thực đư(r)c. Đó là cứu cánh phép

tu-hành ; nhưng, chúng ta là kẻ ở Thế-gian, đă quen dùng vật-chất để

nuôi sống ; nay thoạt nhiên, đổi món ăn cấp kỳ, e tạng phủ chưa quen

mà phải sanh rối loạn. Bởi thế, nên ngư(c)i tu-hành phải tập lần. Ban

đầu, mỗi tháng ăn chay sáu lần, rồi mư(c)i ngày, rồi mư(c)i lăm ngày,

trư(c)ng trai, rồi sau sẽ tập n"a cho quen dùng Huyền-vi-thực. Nhưng,

phải hiểu rằng tuyệt-thực là một ư nghĩa cứu cánh, ngư(c)i thư(c)ng như

chúng ta chưa có thể làm được. Khuyên ai chớ nên dục tốc mà phải lâm

hại.

 

                         KIÊNG RƯợU

    Vấn đề kiêng rư(r)u sẽ theo vấn-đề ăn chay mà giải quyết ; mặc dầu

vậy, chúng tôi cũng chép bài Thánh-ngôn của Đức CHÍ-TÔN dạy về sự

kiêng rư(r)u, để cho rơ đại-ư.

    Thánh-ngôn.- V́ sao phải giới tửu ?

    "Thân-thể con ngư(c)i là một khối Chơn-linh hiệp thành ; Chơn-linh

"ấy hằng sống. Ngũ-tạng, Lục-phủ cũng là khối sanh vật tạo nên. Phận

"sự của chúng nó : Hoặc hiểu biết, hoặc không, đều tùy lịnh Thầy phán

"đoán. Vậy Thầy lấy h́nh chất xác phàm để giảng dạy.

     "H́nh chất con ngư(c)i cũng như h́nh chất thú, phải ăn uống mới

"sống đư(r)c. Rư(r)u vào t́ vị ; chạy khắp ngũ-tạng, lục-phủ. Trái tim là

"chủ động của bộ máy sanh sống ; mà trái tim bị rư(r)u thâm nhập, khiến

"cho nó rung động quá mực thiên nhiên đă định ; thôi thúc huyết mạch

"vận hành một cách quá mau lẹ. Sanh-khí nơi phổi không có đủ ngày gi(c)

"nhuận huyết ; rồi trư(r)c khí thối nhập trong thân thể, truyền thống

"chất độc vào trong nh"ng sanh vật. Mỗi khối sanh vật ăn rồi phải bịnh,

"càng ngày càng tăng thêm lên, rốt cuộc hết sanh lực, cốt tủy lần lần

"phải chết, thân thể tự nhiên chết theo. Nhiều kẻ bị liệt hết nửa thân

"h́nh, cũng v́ rư(r)u.

     "Thầy nói sự hại cho phần Hồn : Thầy nói Chơn-thần là khí chất

"bao bọc thân thể của các con. Trung tim nó là óc, cửa xuất nhập là

"mỏ ác, ch" gọi là Vi-hộ, Hộ-pháp hằng đứng gi" ǵn các con, khi luyện

"đạo, đặng giúp cho Tinh hiệp với Khí, rồi đưa Khí đến Chơn-thần.

"Tinh-Khí-Thần hiệp nhứt mới siêu phàm nhập thánh. Óc là nguồn cội của

"sanh-khí, mà óc cũng v́ huyết mạch vận chuyển vô chừng, đến đỗi tán

"loạn. Thế rồi Chơn-thần an tịnh thế nào đặng. Thân thể phải chịu ngây

"dại, trở lại thú tánh, thú chất. Như vậy th́ mất hết nhơn-phẩm rồi,

"c̣n mong chi đến địa vị Thần-Tiên. Lại n"a, trong buổi loạn Thần, cửa

"để trống, tà-mị thừa cơ xung-nhập, giục các con làm quấy gây nên tội

"t́nh mà phải chịu nhơn quả luân hồi muôn kiếp.

      "Vậy Thầy cấm các con uống rư(r)u".

      Vấn đề kiêng rư(r)u nầy, có lẽ trong hàng anh em chúng ta, ngư(c)i

nào cũng có bị một lần say rư(r)u. Vậy sự kinh nghiệm ấy đă dạy chúng ta

biết với một cách rơ ràng, rằng say rư(r)u chẳng phải loạn trí năo, mà

ngũ-quan cũng không c̣n gi" đư(r)c chơn lực n"a. Thế th́ giới tửu là một

điều cấm quan trọng vậy.

 

                         CHƯƠNG THỨ TÁM

                               ---

 

                             H THỪA

 

   Dẫn giải.- Tân-luật Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ định rằng : Hạ-thừalà

hạng ngư(c)i gi" đạo, c̣n ở Thế, có v(r) chồng, làm ăn như thư(c)ng ; song,

phải gi" trai kỳ, hoặc sáu hoặc mư(c)i ngày trong mỗi tháng, phải gi"

Ngũ-giới-cấm, Tứ-đại điều-qui và tuân theo "Thế luật" của Đại-Đạo.

Chúng tôi theo thứ tự trên đây mà giảng giải, để làm phương châm cho

sự học tập.

 

                              *

 

                         NGŨ-GIỚI-CẤM

 

   Cấm "sát sanh" là không đư(r)c giết hại mạng sống.

   Cấm "trộm cướp" là không đư(r)c trộm cắp của ngư(c)i.

   Cấm "tà dâm" là không đư(r)c thông gian.

   Cấm "uống rư(r)u" là không đư(r)c uống rư(r)u say sưa

   Cấm "nói dối" là không đư(r)c nói láo xư(r)c, hoặc nói mà chẳng gi" l(c)i

(xem năm bài giới cấm).

 

                         TỨ ĐI ĐI"U QUI

 

   1)- Phải tuân l(c)i dạy dỗ của ngư(c)i trên ; chẳng hổ chịu cho kẻ thấp

hơn điều độ. Lấy lễ ḥa ngư(c)i ; l" lầm lỗi phải ăn năn chịu thiệt.

   2)- Chớ khoe tài, đừng cao ngạo, quên ḿnh để làm nên cho ngư(c)i ;

giúp ngư(c)i nên Đạo ; đừng cừu riêng ; chớ che lấp ngư(c)i hiền.

   3)- Bạc tiền xuất nhập phân minh, đừng mư(r)n vay không trả. Đối với

ngư(c)i trên, kẻ dưới đừng l(c)n dễ ; đối vớ kẻ dưới, ngư(c)i trên chẳng khá

khinh khi ; trên dạy dưới lấy lễ ; dưới gián trên chớ thất khiêm cung.

   4)- Trước mặt sau lưng đều xử một mực, đừng kính trọng trước mặt mà

khinh l(c)n sau lưng.

 

                             SANH KẾ

 

   Ngư(c)i trong đạo chẳng đư(r)c làm nghề nghiệp có sát hại sanh mạng ;

chẳng đư(r)c làm nghề nghiệp có phạm đến sự tồi phong bại tục ; chẳng

đư(r)c soạn hay ấn hành nh"ng truyện sách ái-t́nh, hoa nguyệt, chẳng

đặng buôn bán các thứ rư(r)u mạnh và á-phiện, là nh"ng vật độc, làm giảm

sức con ngư(c)i.

   Chương "Thế-luật" Đại-Đạo gồm có hai mươi bốn điều, kể đủ nh"ng cự

quan, hôn, tang, tế, mà ngư(c)i bổn đạo phải thù-tạc văng-lai, để giúp

đ" nhau khi h"u sự ; nhứt là câu : Trai phải Tam-cang, Ngũ-thư(c)ng ;

Gái phải ǵn Tam-tùng, Tứ-đức ; đó là căn-bản đạo ngư(c)i ; chúng tôi sẽ

giảng rộng sau đây :

 

                             PHN TRAI

                                ---

 

                       Tam-cang - Ngũ-thư(c)ng

 

   Tam-cang.- Tam-cang là ba giềng mối chánh trong đạo làm ngư(c)i :

              Quân-thần cang tức bổn phận làm vua và làm tôi

              Phụ-tử cang tức bổn phận làm cha và làm con

              Phu thê cang tức bổn phận làm chồng và làm v(r)

 

                             Quân-thần-cang

 

  Giềng mối Vua-tôi.

  Quốc-trưởng là bậc Đế-vương, đứng đầu trong nước, khôn ngoan hơn

thần dân, chúng ta không nghị luận đến, mà chỉ nên nhắc nhở nhau,

nh"ng bổn phận làm quan và làm dân thôi ; bởi v́ trong hàng anh em

chu&ng ta, có ngư(c)i làm quan mà cũng có kẻ làm dân.

 

                            Bổn phận làm quan

 

  Quan là ngư(c)i thay mặt cho Vua, thay quyền cho chánh-phủ, cai-trị

dân. Trị-dân : nghĩa là : dạy dân, gi" dân đư(r)c an-cư lạc-nghiệp. V́

vậy nên ngư(c)i làm quan phải thương dân, như cha mẹ thương con, thế mới

h(r)p với câu "Dân chi phụ mẫu".

  Ngư(c)i làm quan, trên gi" dạ ngay th(c) chúa, dưới lấy đức chăn dân lo

tṛn phận sự để nêu danh tốt về sau ; chớ chẳng khá bắt chước nh"ng

con giặc, tôi-loàn, trên dối Vua, dưới gạt dân ; mà mang điều nhục-tổ

hổ-tông.

  Làm quan nên lập đức :"Thanh-liêm, Cần-mẫn, Chánh-trực".

  Thanh-liêm : th́ không tham của hối-lộ mà hại dân lành. Nên nhớ rằng

nhà nước tin-cậy, giao mạng sống của dân trong tay ta ; nếu ta v́ của

bất chánh mà làm việc bất công : chuyện phải làm quấy, việc quấy làm

phải, điều ấy có thể dấu đư(r)c lịnh Vua, chớ luật Tr(c)i đâu dễ che lấp.

Thế nên làm quan phải gi" đức thanh liêm.

  Cần mẫn : là siêng năng. Thi hành bổn phận nhà quan, ta nên siêng

năng : một là ngừa kẻ gian-manh trộm cướp, hai là ngăn kẻ ỷ chúng,

hiếp cô, để cho lương dân đư(r)c sống yên dưới bầu Tr(c)i an-tịnh.

  Chánh-trực : là một đức lớn của nhà quan. Kẻ bất chánh,th́ không hay

làm đư(r)c việc công-b́nh ; mà bất công th́ làm sao trị dân.

 

                         BỔN PHN LÀM DÂN

 

    Làm dân th́ phải lo tṛn bổn phận Công-dân. Trên phải tuân l(c)i

quan, dưới thuận cùng đồng loại. Quan là ngư(c)i thay mặt cho Vua ; tuân

lịnh quan tức trung với Vua. Thuế sưu lo tṛn, không nên lập đoàn,

hiệp-lũ mà gây ra trộm cướp, phá xóm, phá làng ; ấy là thương yêu ṇi

giống.

 

                          PHỤ TỬ CANG

 

      Giềng mối cha con.

      Làm cha phải lành (Từ) ; làm con phải thảo (Hiếu).

      Vi nhơn phụ chỉ ư từ. Ch" Từ (Lành) chỉ về nghĩa vụ làm cha mẹ,

phải nuôi con cho nên vai, nên vóc, dạy dỗ con cho nên ngư(c)i h"u dụng.

      Ngư(c)i cha mẹ lành cũng có khuyên con, răn con, nghĩa là cũng có

la rầy, đánh mắng, làm thế nào cho con bỏ cái dở, theo cái hay ; chớ

chẳng phải lành là chiều theo ư con muốn làm ǵ th́ làm. Tại sao ngư(c)i

cha không để cho con đư(r)c tự do hành động. Bởi v́ con c̣n thơ ấu, trẻ

ḷng, non dạ. Nói tóm là con chưa đủ sáng láng, để phân biệt phải quấy

và chưa đủ tinh thần cứng rắn, để vư(r)t qua nh"ng gi(c) vật dục cám dỗ.

Ấy vậy nên ngư(c)i cha mẹ phải d́u dắt con trên đư(c)ng đạo đức quang

minh. Gia đ́nh giáo-dục là căn bản đạo ngư(c)i.

     Đối với con, cha mẹ cũng có quyền, như : nh(c) con nuôi dư"ng lúc

về già, nh(c) con giúp đở việc nặng-nề. Cổ-nhơn nói :"Dư"ng nhi đăi

lăo". (Nuôi con để nh(c) lúc về già). Nhưng, cha mẹ muốn dùng quyền ấy,

trước phải làm xong nghĩc vụ ḿnh, tức là nuôi con, dạy con, cho nên

ngư(c)i. Trái lại, nếu cha mẹ không làm tṛn bổn phận ḿnh, mà cứ sai

con, mắng con, như thế là thất phận cha mẹ.

     Vi nhơn từ ư chi hiếu. Thảo là đạo làm con, chẳng nh"ng không ai

đư(r)c từ khước, mà ai cũng phải coi đó là bổn phận của ḿnh n"a.

Cổ-nhơn nói :"Nhơn sanh bá hạnh, Hiếu vi tiên". Ngư(c)i đ(c)i có trăm nết,

song Hiếu đứng đầu.

     Tại sao ngư(c)i ta phải hiếu với che mẹ ?

     Ôi ! Công sanh thành dư"ng dục kể sao cho hết, nào là mư(c)i tháng

cưu mang, ba năm bú móm ẵm bồng, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy

ra. C̣n cha là phải dày công dạy-dỗ, cực nhọc, tảo-tần, dầu trăm cay

ngàn đắng, dầu vào cảnh nguy nan, ngư(c)i cha cũng không từ ; miễng là

làm ra cơm tiền, để nuôi con th́ thôi. Công cha như núi Thái sơn.

Nghĩa mẹ công cha như thế, hỏi vậy ở đ(c)i, có ngư(c)i nào mà chẳng thương

mến chăng ? Ắt không. Nhưng, thương mến chưa đủ, nghĩa vụ làm con bắt

buộc ngư(c)i ta phải tṛn đạo Hiếu.

    Thực hành đạo Hiếu, trướt nhứt là nuôi cha mẹ. Sự nuôi ấy cốt ở

ḷng thành kỉnh, giàu nuôi theo giàu, nghèo nuôi theo nghèo ; ngoài

miếng ăn, miếng uống, tấm áo, manh quần, c̣n phải hết ḷng vui vẻ

trong phận sự, để cho cha mẹ đư(r)c vui ḷng. Một hôm Thầy Tử-Du hỏi ch"

Hiếu ; Đức Khổng-Phu-Tử đáp :"Ngày nay ngư(c)i ta bảo hiếu là biết nuôi

cha mẹ ; nhưng, đến như giống chó ngựa kia cũng có ngư(c)i nuôi. Nếu

nuôi cha mẹ mà không kính, th́ lấy ǵ để phân biệt với sự nuôi cầm

thú". Vậy đủ biết nuôi cha mẹ quí tại ḷng thành kính. Chẳng nên bắt

chước câu :"Giàu th́ đặng thảo ngay, nghèo th́ mất trung Hiếu" l(c)i ấy

chẳng qua là nói để che lỗi của ḿnh mà thôi. Trái lại, nên nhớ câu

:"Nhà nghèo mới có con thảo, nước loạn mới có trung thần". từ xưa,

nh"ng gương trung hiếu tiết liệt, phần nhiều xuất hiện trong nhà nghèo

khó.

    Khi ở chung với cha mẹ, không nên làm buồn ḷng của cha mẹ, nếu

ḿnh có việc buồn riêng, cũng chẳng nên tỏ sắc giận h(c)n cho cha mẹ

thấy. Khi cha mẹ quở trách th́ phải tự xét ḿnh mà chừa lỗi ; chớ

chẳng khá buồn.

    Cha mẹ già phải coi chừng sức khỏe, nghĩa là nuôi cha mẹ phải xem

đến chỗ chưa nói kia. Tại sao ? Bởi v́ có nhiều khi cha mẹ s(r) con lo

buồn mà chẳng tỏ ra nh"ng việc ngư(c)i cần.

     Cha mẹ lúc sanh tiền chẳng nên đi xa ; nếu cần đi vắng th́ phải

cho biết chỗ, để ngư(c)i nhà t́m cho dễ, khi h"u sự. Cha mẹ đau ốm, kẻ

làm con phải tận tâm chạy thuốc, chạy thầy, chính ḿnh phải lo liệu

mọi phương ; nếu giao cho kẻ khác, biết đâu, ngư(c)i ấy, v́ sơ sót làm

thêm bịnh cho cha mẹ ḿnh. B́nh nhựt cũng phải xem chừng : nếu cha mẹ

khỏe th́ vui mừng, mệt th́ lo lắng.

     Ḷng hiếu thảo ai cũng có, nhưng, có một ít ngư(c)i xao lảng, v́

ham mê sắc dục, hoặc tiền của, rồi sanh ngỗ nghịch. Vậy ai là ngư(c)i

làm con, nên thận trọng bổn phận của ḿnh.

    Nhưng đạo Hiếu không phải nhắm mắt phục tùng cha mẹ ; mà trái

lại, phải xem xét cái ǵ của cha mẹ đă làm ; nếu hay th́ theo, c̣n lầm

mỗi th́ ôn tồn khuyên can, sửa đổi. Nếu cha mẹ không nghe th́ lại kính

mà không trái lễ, nghĩa là lần lần lựa cách nói cho cha mẹ nghe lẽ

phải, để sửa đổi ; có khi cha mẹ giận mà đánh đập cũng không h(c)n oán.

    Cha mẹ mất th́ phải tang chế. Cổ nhơn bảo :"Tang tắc trí kỳ ai".

Tân-luật Đại-Đạo định rằng : viêc tang chế không nên xa xí, không nên

quàn linh c"u lâu ngày, không nên dùng đồ Âm-công ḷe-loẹt, không nên

đăi đằng rần rộ mà mất sự nghiêm tịnh ai bi.

    Đức Khổng-Phu-Tử cho sự th(c) cha mẹ rất Hiếu là :"Kính kỳ sở tôn,

ái kỳ sở thân, sự tử như sự sanh, sự vong như sự tồn. Hiếu chi chí

dă". Kính nh"ng ngư(c)i cha mẹ đă tôn trọng, yêu nh"ng ngư(c)i cha mẹ đă

mến, th(c) cha mẹ lúc chết cũng như khi sống, mất cũng như c̣n. Ấy là

Hiếu rất mực vậy. Theo đó th́ suy ra th́ khi cha mẹ chết rồi kẻ làm

con cũng tưởng như khi cha mẹ c̣n sống, chuyên tâm tŕ chí làm tṛn

bổn phận, thỉ chung như nhứt.

 

                             *

                  Bổn phận làm Anh Chị và làm Em

                    Huynh tắc đễ, Đệ tắc cung

 

   Anh em, chị em, đồng thọ sanh nơi một cha mẹ. Tục ng" nói :"Một cục

máu xắn làm năm ba". Đồng cốt nhục, đồng bào thai, và từ lúc nhỏ dại :

ở chung một nhà,ăn chugn một mâm, nằm chung một chiếu ; vui có nhau,

buồn có nhau, nhứt nhứt đều chung cùng với nhau. Vậy cái t́nh thương

yêu khắn-khít ở gi"a anh chị và em không t́nh nào hơn đư(r)c.

  Muốn gi" cái t́nh máu mủ ấy măi măi, th́ ngư(c)i anh chị phải biết bổn

phận ḿnh là thuận yêu, kẻ làm em phải biết bổn phận ḿnh là cung

kính.

   Khi cha mẹ vắng mặt, ngư(c)i anh chị phải quyền huynh thế phụ, nghĩa

là ngư(c)i anh chị có trách nhiệm khuyên răn em, sai khiến em ; nhưng,

muốn dùng quyền ấy th́ ngư(c)i anh chị phải làm tṛn nghĩa vụ của ḿnh,

là thay mặt cho cha mẹ nuôi em, dạy em. Cổ-nhân thư(c)ng khuyên nhau

rằng trước phải làm nghĩa vụ rồi sau mới dùng quyền l(r)i, là lẽ như

vậy.

    Theo lư thư(c)ng nhiên, lúc thành nhơn th́ mỗi ngư(c)i đều có gia

thất. Mặc dầu xa cách nhau, nhưng anh em, chị em phải gi" cái t́nh cốt

nhục duy nhất ấy măi măi ; nghĩa là phải thương yêu, giúp đ" nhau :

việc nhỏ cũng như việc lớn ; mà muốn gi" tṛn cái t́nh cốt nhục ấy,

phải tránh nh"ng tiếng to, tiếng nhỏ ; của v(r) con hay chồng con. Theo

thư(c)ng t́nh, nh"ng em chồng, chị dâu, em rễ, anh v(r), hay chinh nghiêng

lẫn nhau ; v́ nh"ng việc nhỏ mọn.

    Bổn phận anh chị, hay em út phải sáng suốt mà phân định, để tránh

cái vạ chia ĺa. Anh em, chị em là di-hài của cha mẹ, bất ḥa là phá

hoại cái di-hài ấy. Anh em, chị em như tay chơn, bất ḥa là chia ĺa

thủ túc.

    Ngư(c)i nào xử đư(r)c đạo Hiếu-đễ nghiêm trang trong gia-đ́nh, th́

ngư(c)i ấy có tinh thần ḥa-kỉnh. Hiếu-thuận là gốc Đạo xử-thế, ấy vậy

nên ngư(c)i trọn thảo thuận th́ có ḷng trung-quân, ái-chủng.

 

                             *

 

                Bổn phận con cháu đối với ông bà

 

  Ông bà là đấng sanh thành, dư"ng-dục cha mẹ, lại là đấng mà cha mẹ

thương mến quí trọng. Đạo-hiếu buộc ngư(c)i làm con phải kính trọng

nh"ng ngư(c)i mà cha mẹ thâm giao. Ấy đó là nh"ng ngư(c)i bàng-quanmà c̣n

phải xử trí như thế, huống chi ông bà là ruột thịt của chúng ta, mà

chúng ta lại dễ-duôi sao ?

   Ấy vậy khi ông bà sanh tiền, chúng ta phải thay mặt cha mẹ mà chăm

nom giúp đ", nh"ng việc nào mà chúng ta có thể làm đư(r)c. C̣n khi ông

bà qua đ(c)i th́ lại thay mặt cha mẹ mà th(c) phư(r)ng, cúng-tế.

   Luân-lư cổ-truyền của ngư(c)i Việt Nam dạy rằng : ngày tế-tự, cả

gia-tộc h(r)p về nhà th(c), lo việc tế-lễ. Hai ngày : Tiên-thư(c)ng và

Chánh-giỗ, nh"ng ngư(c)i họ hàng vui vầy : có khi nhắc lại sự tích

Tổ-tiên, có lúc hỏi việc hàn-huyên gia-tộc. Gi(c) cúng tế mỗi ngư(c)i đều

có ḷng thành kỉnh rất mực. Khi ra vào, lúc lại qua trước bàn th(c), họ

cúi đầu tỏ vẻ s(r) sệt, dư(c)ng như Ông Bà đương ngự trên chỗ sở-tôn. Gi(c)

tế-lễ ấy, hoàn-cảnh yên lặng, ngư(c)i Trưởng-tộc hành lễ, rồi đến con

cháu cứ theo thứ tự vái lạy trang nghiêm.

    Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ gi" nguyên vẹn cái lễ th(c) cúng Ông Bà đó. Vả

chăng, đạo-h"u đă sẵn có đạo-tâm, nay đem loéng đạo-đức ấy mà th(c) cúng

Ông Bà th́ có lẽ cái phong tục cổ-truyền sẽ đư(r)c tăng phần thuần-mỹ

n"a.

 

                              *

 

                   Bổn phận đối với Cậu Cô Chú Bác

 

    Cậu cô chú bác là anh em ruột thịt với cha mẹ, kẻ làm con chẳng

nh"ng phải yêu mến, mà c̣n quí trọng, như cha mẹ n"a. Nếu vô phước mồ

côi, th́ chính cậu cô, chú bác, là ngư(c)i thay mặt cha mẹ mà nuôi ḿnh.

Đó đủ thấy rằng kẻ làm con phải thương mến quí trọng cô cậu, chú bác

như cha mẹ.

   Khi thành gia thất rồi, tự-nhiên ai cũng có cậu cô, chú bác bên

chồng, cũng như bên v(r). Kẻ làm con cháu cũng không v́ lẽ ǵ mà chẳng

thân ái nh"ng ngư(c)i ấy.

 

                             *

 

                       PHU-THÊ-CANG

 

                    Giềng mối chồng v(r)

 

    Chồng ḥa, v(r) thuận.

    Trai lớn lên th́ có v(r) ; Gái lớn lên th́ có chồng. Ngư(c)i ở đ(c)i, ai

ai cũng phải có đôi bạn, rồi sau mới lập gia đ́nh. Cái định luật ấy từ

xưa đến nay, vẫn không thay đổi. Trong đạo v(r) chồng, có điều tốt nhứt

là hai ngư(c)i ấy đư(r)c thuận ḥa, ăn ở với nhau, từ tóc xanh, đến đầu

bạc. Mà muốn đư(r)c vậy th́ mỗi ngư(c)i phải biết bổn phận của ḿnh và

phải hành-vi trong phạm-vi ấy.

   Chồng là rư(c)ng cột của gia đ́nh, phải đảm đương mọi việc bên ngoài,

để tạo hạnh-phúc cho gia-đ́nh, nghĩa là phải làm lụng cho có cơm, có

tiền để nuôi dư"ng gia-đ́nh no-ấm ; kế đó, sẽ nói đến việc lễ-nghi đạo

đức, tức là bày ra việc dạy dỗ. Cổ-nhơn nói :"Giáo-phụ sơ lai, giáo-tử

anh hài". Nghĩa là dạy v(r) lúc ban sơ mới về, dạy con lúc c̣n thơ ấu.

Mà muốn dạy ngư(c)i, trước phải sửa ḿnh. Giả tỉ như ngư(c)i chồng biếng

nhác, không lo làm ăn, quanh năn cứ lêu-lơng chơi-b(c)i, c(c) bạc. Chồng

như thế mà bảo v(r) nên ngư(c)i, th́ không thể đư(r)c ; hoặc giả cha như thế

mà bảo con đừng c(c) bạc, rư(r)u trà cũng không sao đư(r)c. Ngư(c)i chồng

chẳng nh"ng phải lo làm lụng để tạo hạnh-phúc cho gia đ́nh, mà c̣n

phải có tinh-thần ḥa-ái n"a.

    Về tâm lư, nên biết rằng v(r) là bạn trăm năm, cha mẹ sắm cho. Đàn

bà là ngư(c)i yếu đuối, nương dựa nơi ḿnh, gởi thân cho ḿnh, để cùng

nhau lo việc trăm năm gia thất. Hơn n"a, v(r) chồng lại là ngư(c)i đầu ấp,

tay gối với nhau, vui chung vui, buồn chung lo, nghèo chung chịu, giàu

chung hưởng. Ḷng có nghĩ như thế th́ mới có dạ yêu đương và đùm bọc.

    Ngư(c)i chồng có quyền khuyên lơn, dức bẩn ngư(c)i v(r), nhưng, trước

phải làm xong nghĩa vụ của ḿnh, như nói trên, rồi sau mới dùng đến

quyền. Tuy nói rằng có quyền, nhưng, ngư(c)i chồng, lúc nào, cũng lấy

tinh-thần ḥa-ái làm cốt. Nghĩa là có khuyên lơn, dức bẩn ngư(c)i v(r) th́

cũng chỉ trong ṿng lễ nghi, kính-mến ; chớ chẳng khá đang tay đánh

đập, như kẻ vơ phu.

    Ngư(c)i v(r) phải có tinh-thần thuận-tùng, nghĩa là phải biết dung-ḥa

với chồng, để tạo hạnh phúc gia-đ́nh. Bát trong sóng c̣n động, huống

chi v(r) chồng ăn ở với nhau cả đ(c)i, làm thế nào tránh khỏi một đôi khi

bất đồng ư kiến. Giả tỉ như có trư(c)ng h(r)p ấy xảy ra, th́ v(r) chồng nên

nhịn nhục lẫn nhau, chồng nói v(r) nghe, v(r) nói chồng nghe, để phÂn trần

điều hơn lẽ thiệt. Tương-y, tương-ỷ mà sanh sống trong ṿng lễ-nghi

đạo đức ; điều đó là tốt nhứt ; chẳng nên bắt chước phư(c)ng hỗn-ẩu,

chồng một l(c)i đi, v(r) năm bảy tiếng lại. Thế rồi sanh việc bất-ḥa ;

mà chồng v(r) bất-ḥa th́ gia-đ́nh tan nát.

   Phận gái trọng nhứt là trinh-tiết ; bởi vậy ngư(c)i phụ-n" có thân

phải gi" lấy thân ; mỗi ngày phải làm tăng giá-trị của ḿnh thêm cao

lên măi. Tục g" nói :"Đi ngang đám dưa không nên sửa dép ; đi ngang

cây lư không nên sửa mũ". Đại ư câu nầy khuyên ngư(c)i ta phải hành-vi,

ăn nói, đi đứng trang-hoàng, nhứt là phải tránh nh"ng cử chỉ nào làm

ngư(c)i khác ng(c) vực, cũng như đi ngang đám dưa th́ không nên sửa dép,

hoặc đi ngang cây lư không nên sửa mũ, v́ làm như thế ng(c) rằng ḿnh bẻ

trộm dưa, hay hái trộm lư.

   Nội tr(r) là bổn phận đàn bà, cho nên ngư(c)i v(r) phải chăm lo việc nhà

: thiếu đủ phải biết, c̣n hết phải hay, sắp đặt đâu đó an bày, ăn cần

ở kiệm, phải trọng tiền của chồng làm ra. Tục ng" nói :"Ăn nhịn qua

ngày, ăn vay mắc n(r)". Của chồng công v(r), chồng v(r) cộng tác, để tạo

hạnh phúc gia-đ́nh.

   Tóm lại, đạo v(r) chồng cần nhứt là phải thuận-ḥa, chồng chẳng nên ỷ

quyền mà hiếp đáp v(r), v(r) không nên cậy thế mà hỗn-ẩu với chồng. Đồng

v(r) đồng chồng tát biển đông cũng cạn !

   Tân-luật Đại-Đạo nói :"Hôn nhơn là việc trọng trong đ(c)i ngư(c)i. Phải

chọn hôn trong ngư(c)i đồng đạo, trừ ra khi nào ngư(c)i ngoài ưng thuận

nhập-môn th́ mới đư(r)c kết làm giai-ngẫu".

   Đó là có ư ngừa sự bất đồng tâm lư về sau.

   Tân-luật lại cấm ngư(c)i đàn ông không đặng cưới hầu thiếp. Rủi có

chích lẻ nửa đư(c)ng, mới đư(r)c chắp nối. Thoảng như v(r) lớn không con nối

hậu th́ đư(r)c phép cưới hầu thiếp ; song chính ḿnh Chánh-thê đứng cưới

mới đặng. Ngư(c)i đạo cũng chẳng đư(r)c để bỏ nhau, trừ ra ngoại t́nh, hay

bất hiếu với công-cô.

 

                             *

 

                         Ngũ-thư(c)ng

 

   Đổ lên là Tam-cang, c̣n Ngũ-thư(c)ng là ǵ ?

   Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín gọi là ngũ thư(c)ng, tức là năm đức thư(c)ng,

để xây dựng một phẩm vị làm ngư(c)i ; mà chúng tôi giảng kế đây :

                             *

   NHÂN : Ngư(c)i ta ai cũng có bẩm thọ của Tr(c)i một điểm Linh-quang để

làm tự-tánh của ḿnh ; ngư(c)i đ(c)i gọi đó là nguồn Thiên-lư ở trong

ngư(c)i. Nhân là cái phát động của nguồn Thiên-lư ấy ; cho nên Cổ-nhân

nói : Nhân là hột-giống hóa-sanh đức-tánh tốt.

   Ch" "NHÂN" đem ra mà ứng dụng vào đ(c)i sống th́ nó gồm tất cả nghĩa

vụ làm ngư(c)i ; thành thử, có câu nói : "Nhân là đạo ngư(c)i" (Nhân giả

nhơn dă). Thực hành ch" "NHÂN" tức là áp dụng Thiên-lư vào đ(c)i sống

thực-tế. Thế nên muốn làm "NHÂN" phải gi" ḷng cho ngay thẳng ; nghĩa

là chẳng cho tư-dục xen vào Tâm, để cho nguồn Thiên-lư ở trong Tâm

ung-dung phát-triển theo lẽ tự-nhiên của nó, rồi ngư(c)i ta cứ theo đó

mà làm cho hết bổn phận của ḿnh. Đó là làm "NHÂN" vậy. C̣n như muốn

biết rộng ra n"a th́ chúng ta nên xem Cổ-nhơn dạy phương pháp làm

"NHÂN" như sau :

   Có ngư(c)i hỏi phương-thức làm Nhân là thế nào th́ Đức Khổng-Phu-Tử

nói :"Kỹ dục lập nhi lập nhơn" ; kỹ dục đạt nhi đạt nhơn". Năng cận

thủ tỷ khả vị Nhân chi phương". Nghĩa là ḿnh muốn lập thân thế nào

th́ cũng giúp ngư(c)i cùng lập thân như ḿnh ; ḿnh muốn thông đạt đến

đâu th́ cũng giúp ngư(c)i cùng thông đạt như ḿnh. Ai hay làm nh"ng điều

đó là làm Nhân vậy.

   Thầy Tử-Trương hỏi Nhân, Đức Khổng-Phu-Tử nói :"Hăy làm năm điều

nầy trong Thiên-hạ là Nhân, rằng : Cung, Khoan, Tín, Mẫn, Huệ. Cung

th́ không khinh l(c)n, Khoan th́ đư(r)c ḷng ngư(c)i, Tín th́ đư(r)c ngư(c)i tin

cậy. Mẫn th́ có công, Huệ th́ đủ khiến đư(r)c ngư(c)i".

   Cũng có nhiều ngư(c)i khác hỏi cách làm Nhân, Đức Khổng-Phu-Tử tùy

căn cơ kẻ hỏi mà trả l(c)i, để khai hóa sở học của họ. Đạo Nhân rất rộng

răi, v́ nó gồm tất cả đạo làm ngư(c)i.

   Ngư(c)i có Nhân lúc nào cũng có thái độ ung dung tự-tại, b́nh-tĩnh

yên lặng, mà trong ḷng luôn luôn có một năng lực Trực-giác mẫn-thiệp

; việc đến th́ họ biết ngay, với một cách mau chóng. Họ làm việc ǵ

cũng thích h(r)p Đạo-lư. Họ thật-thà chất-phác mà giàu t́nh-cảm ! Đối

với gia-đ́nh th́ hiếu-đễ, đối với xă-hội th́ thuận-ḥa, đối với từng

ngư(c)i, từng vật th́ yêu thương giúp đ". Trên thuận ḷng Tr(c)i, dưới ḥa

với Chúng-nhơn, cử chỉ hành-động hằng khích lệ trên nền tảng "Vạn-vật

nhứt-thể" việc l(r)i danh ở đ(c)i, họ không phải lánh hẳn ; nhưng, họ

chẳng bỏ đạo-Đức để cầu l(r)i-danh. Đạo-đức với l(r)i-danh, nếu phải bỏ

một th́ họ rất vui ḷng bỏ danh-l(r)i, để cầu Đạo-đức.

   Đạo Nhân có thứ bậc như : thương cha mẹ th́ khác với thương ngư(c)i

láng giềng, thương anh em bậu bạn th́ khác với thương cầm thú. Kịp đến

sự giúp đ" cũng vậy ; nghĩa là nuôi cha mẹ th́ khác với nuôi trâu ḅ.

Đó là chỗ Đạo Nhân không giống với Bác-ái. Bác-ái dạy ngư(c)i ta phải

thương trùm vạn-loại. Ngư(c)i cũng như vật, thân cũng như sơ. Bác-ái

dành cho ngư(c)i xuất-thế, ly-gia ; c̣n Đạo Nhân th́ thích ứng với ngư(c)i

ở Thế, để thi hành Nhơn-đạo từ trong gia-đ́nh đến ngoài xă-hội.

  Thử hỏi tại sao ở đ(c)i lại có ngươi nầy hiếp kẻ nọ ? Th́ đó chẳng qua

là tại ḷng oán-ghét lẫn nhau. Nếu cha con ghét nhau th́ mất từ-hiếu ;

v(r) chồng ghét nhau th́ mất thuận-ḥa ; anh em ghét nhau th́ mất yêu

đương ; ngưi  trong thiên-hạ ghét nhau th́ ngưi  mạnh hiếp kẻ yếu,

ngưi  giàu lấn kẻ nghèo. Muốn tránh ḷng oán ghét, chúng ta cứ mở ḷng

thương yêu (Nhân) cho rộng, rồi tự-nhiên ḷng oán-ghét không có chỗ

nương mà phải đi ra khỏi Tâm-gian của ḿnh, cũng như ḥa-b́nh làm hết

chiến tranh vậy.

                            *

   NGHĨA.- Nghĩa là cử chỉ tác-Động theo đạo-lư. Đối với bổn thân :

Nghĩa làm cho ngưi  thành đức ; c̣n đối với ngưi  khác và vật th́

Nghĩa giúp ngưi  và vật đư(r)c an vui theo lẽ Đạo. Ch" Nghĩa, nếu theo

sau ch" Nhân th́ nó giúp ch" Nhân phát biểu đạo-đức ra ngoài. tỉ như

chúng ta thấy kẻ nghèo th́ chạnh ḷng thương, đó thuộc về Nhân. Ra

công giúp đ" kẻ nghèo, đó thuộc về Nghĩa. Trư(c)ng h(r)p nầy th́ hai ch"

Nhân Nghĩa phải đi kèm nhau mới thành đạo-đức. Trái lại, nếu có Nhân

mà không có Nghĩa th́ đạo-đức thiếu h́nh thức ; c̣n như có Nghĩa mà

không Nhân th́ đạo-đức thiếu tinh-thần. Giả như chúng ta thương kẻ

nghèo mà không ra công giúp đ", th́ ḷng Nhân không thực hiện, c̣n như

ra công giúp ngưi  nghèo mà không có ḷng thương th́ sự giúp đ" ấy lại

v́ một ư ǵ khác ; chớ không phải là Nhân.

   Nhưng phải hiểu rằng ḷng dục l(r)i của ngư(c)i ta mạnh lắm ; cho nên

muốn làm Nghĩa phải ngăn ḷng dục l(r)i, để cho ḷng Nhân phát triển tự

nhiên mới đư(r)c. Cổ-nhơn thư(c)ng khuyên nhau :"Tiền Nghĩa vị hậu l(r)i",

tức là phải làm nghĩa rồi sau sẽ cầu l(r)i là lẽ như vậy.

                              *

    LỄ.- Lễ trước duéng để tế tự, sau lan rộng đến nền nếp xử-sự,

tiếp-vật mà nhơn-quần Xă-Hội thừa nhận. Ch" Lễ lại đồng-thể với ch"

Lư ; cho nên nó phải tùy th(c)i mà biến đổi, càng ngày càng tốt hơn, chớ

chẳng khá cố-chấp mà phải sa vào cái hủ lậu.

   Về phương diện tế tự. Lễ có mục phiêu thứ nhứt là làm cho đàn-tế

đư(r)c tôn nghiêm ; mục phiêu thứ nh́ là đào-tạo cho ngưi tâm-lư kính

và thành. Có kính th́ mới gi" đư(r)c bản tánh của ḿnh ; có thành th́

mới cảm ứng đư(r)c với Tr(c)i. Đó là L giúp ngưi hàm dư"ng tâm-tánh.

   Ḷng ngưi  lúc nào cũng có t́nh-cảm ; mà t́nh cảm xấu sanh nhiều

hơn t́nh-cảm tốt. Lễ dùng để hạn chế t́nh cảm xấu và giúp cho t́nh-cảm

tốt chóng thành. Sách Lễ-kư chép rằng :"Ḷng ngư(c)i ta lúc nào cũng có

sự ham ăn uống, trai-gái và s(r) cái nạn tử-vong, bần-khổ ; nếu ngư(c)i ta

không nghĩ lại th́ Thiên-lư ở trong ngưi (tức Bổn-tánh) sẽ tiêu-diệt

hết". Lễ giúp ngưi gi" vẹn phần Thiên-lư ấy.

   Trên đư(c)ng giao-tế, Lễ phải có Nghi làm h́nh thức . Giả tỉ như

chúng ta gặp ngưi Trưởng-thư(r)ng, th́ chúng ta đem ḷng kính, đó thuộc

về Lễ. Rồi chúng ta nghiêng mũ cúi chào, tỏ ḷng kính ra ngoài ; đó

thuộc về NGhi. Thế nên nói : Nghi tùy Lễ mà chế. Hai ch" "Lễ-Nghi"

thiếu một th́ không thành qui-tắc. Giả tỉ như : Chúng ta có kính trong

ḷng, mà không nghiêng mũ cúi chào, th́ ḷng cung kính không chỗ

nương, để phát biểu. Trái lại, trong ḷng không kính mà bên ngoài làm

ra vẽ cúi chào. Nghi không Lễ th́ chỉ là một h́nh thức khô-khan mà

thôi.

   Lễ-Nghi dùng để phân định ngôi thứ : tôn ti, thư(r)ng hạ. Giả tỉ

trong đám hội đàm : ngưi lớn cứ sổ-sàng ăn nói, sổ-sàng hành-động ;

kẻ nhỏ th́ hỗn-ẩu, không kính nễ ngưi lớn. Thế th́ làm sao mà hiệp

nhau đư(r)c ; cho nên nói rằng : thất Lễ th́ loạn.

   Học Lễ không phải khó khăn, như có ngư(c)i ta lầm tưởng. Bởi v́ Lễ

thuận ḷng ngưi mà dấy ; chớ không phải cư"ng-bách. Cổ-nhơn thư(c)ng

khuyên nhau : trước học Lễ, rồi sau mới học Văn, tức là học Đạo-lư

trước rồi sau sẽ học các khoa khác. Luật dùng để răn ngư(c)i phạm tội.

Lễ để ngăn t́nh-cảm xấu, thế mà ngưi ta s(r) Luật hơn s(r) Lễ ; đó là tại

Luật có hậu thuẩn là h́nh-phạt.

   Nói về gi" Lễ th́ khi đi đứng, nằm, ngồi, lúc nào cũng chẳng khá

dễ-duôi. Ở thư(c)ng th́ cung, làm việc th́ kỉnh, giao-thiệp th́ hết

ḷng. Ba điều ấy, dầu ở chung với kẻ mọi r(r), cũng chẳng khá quên. Ra

khỏi cửa th́ kính, như hầu khách quí ; sai khiến kẻ dư(c)i th́ kính như

thừa hành lịnh trên ; nhứt cử, nhứt động, đều có Lễ, đó là ngưi lịch

sự. Hành-vi, l(c)i nói và tư tưởng, mỗi mỗi đều có trước sau, là ngư(c)i

có tiết. Hành-vi, l(c)i nói và tư-tưởng, mỗi mỗi đều thích trung, là

ngưi có độ. Tiết-độ là mực thước của ngưi, cũng như nhịp trư(c)ng-canh

của âm-nhạc. Lễ là khuôn thước định ra tiết-độ ấy.

                             *

   TRÍ.- Biết phân biệt điều lành để theo, điều d" để tránh là ngưi

Trí. Hoặc giả nói rằng :"Ngưi Trí biết đạo-đức, để hoán-cải điều-ác

thành điều-thiện, mỗi ngày càng làm cho ḿnh trở nên ngưi có giá trị

thêm hơn.

   Muốn thành ngưi Trí, chúng ta phải học hành. Vậy học-hành để mở

trí ; mở Trí để biết làm ngư(c)i. Ấy vậy nên sự học, trước nhứt phải

chánh-tâm và thành-thật làm theo Chơn-lư, mà chúng ta đă học đư(r)c.

   Học và Hành phải đi đôi mới gọi là biết. Nói tỉ : chúng ta biết th(c)

Tr(c)i là một việc rất h"u ích ; nhưng biết th(c) Tr(c)i chưa đủ, thành thử

chúng ta phải tế-lễ Đức CHÍ-TÔN hằng ngày, để tập cho ḿnh có ḷng

thành kính. Ḷng thành kính tức là Chơn-tâm, nó sẽ giúp cho chúng ta

trừ khử Vọng-tâm và cảm thông với Thiên-lư. Th(c) Tr(c)i, Tế Tr(c)i là một

phương pháp làm sáng đức sáng của ḿnh.

   Thầy Tuân-Tử nói :"Chẳng nghe không bằng có nghe ; có nghe không

bằng trông thấy ; trông thấy không bằng biết rơ ; biết rơ không bằng

làm đư(r)c. Học để biết, biết để làm. Thế th́ cái đức sáng của ḿnh càng

ngày càng sáng suốt thêm lên.

   Sự học có nhiều lối : học với kinh nghiệm và học với trí nghĩ. Ví

dụ : Chúng ta chưa biết lửa có tánh nóng. Nay v́ có một duyên cớ ǵ,

chúng ta chạm nhằm lửa mà phải phỏng tay. Thế là chúng ta nh(c) bài học

kinh nghiệm, để biết lửa có tánh nóng.

    Đ(c)i ngưi là một cuộc học. Nếu chúng ta rủi bị phiền năo v́ một

việc ǵ, th́ chúng ta chẳng khá trách Tr(c)i, chẳng khá trách ngưi,

chẳng khá trách sự vật, mà trái lại, phải tự xét ḿnh t́m cho ra cái

nguyên nhân nào làm cho chúng ta phải phiền năo. Phải chăng : tại

không biết, tại trễ-nải, tại tức giận. Khi đă thấy nguyên nhân tạo ra

phiền-năo rồi, chúng ta nên t́m phương giải-quyết, để cho cách xử sự

lần sau đư(r)c khá hơn.

    Trí ngưi là một trư(c)ng hành-động. Khoa-học, ngày nay, nh(c) Trí mà

phát minh biết bao nhiêu cơ-khí kỳ xảo. Chúng ta nên dùng Trí của

ḿnh, để t́m biết đ(c)i sống của ḿnh : Đại để như nh́n ra Vơ-trụ bao

la, biết bao nhiêu Thế-giái vận chuyển không ngừng, lại nh́n đến

vạn-vật yên lặng, trang nghiêm, rồi nghĩ đến thân phận ngưi ta ở đ(c)i

: Sống như vậy rồi chết ra sao ? Và c̣n biết bao nhiêu nh"ng việc

huyền bí trong Vơ-trụ mà chúng ta chưa biết đư(r)c.

   Vậy chúng ta nên chép nh"ng vấn đề ấy, để rồi suy nghĩ, khám phá sự

liên lạc của ngưi với Tr(c)i, ngưi với ngưi, ngưi với vật. Một khi

chúng ta khám phá nh"ng lẽ bí-mật của Tạo-vật rồi, ắt chúng ta sẽ giải

quyết đư(r)c đ(c)i sống của chúng ta với một cách xứng đáng. Theo lư đương

nhiên, đ(c)i sống chẳng phải t́m nơi sự lư nhỏ mọn trong ṿng vật-dục,

mà phải vư(r)t ra ngoài, để rồi sống với Đạo, sống với Thư(r)ng-Đế và sống

với Chúng-sanh.

   Mục-đích của ngưi Trí là biết Đạo, thế nên kẻ học phải kiên-tâm,

tŕ chí. Cách học phải mở cho rộng, hỏi cho kỹ, nghĩ cho cùng, phân

biệt cho rơ và hết sức làm theo để thành toàn cái biết của ḿnh. Mỗi

ngày xét ḿnh ba lần và bền ḷng làm măi cho đến một ngày kia, chúng

ta sẽ có Tâm trọn lành.

   Trí đă phát khởi, thấu hiểu Chơn-lư của cái thiện-ác và biết giới

hạn của t́nh-dục rồi. Lúc bây gi(c), chúng ta ung dung cảm thông với

Thiên-lư mà sống với một thái độ thuận-ḥa, b́nh-tĩnh, theo Đạo

Tự-nhiên.

                            *

   TÍN.- Tín là tin. Thủ tín là điều quí trọng của ngưi; nhứt là kẽ

tu-hành.

   L(c)i nói của ḿnh thốt ra phải trọng nó ; nói ra rồi phải nh́n nhận,

nếu nói không chắc một lần th́, về sau, mặc dầu chúng ta nói thiệt,

ngưi ta cũng không tin. "Nhơn vô Tín bất lập". Ngưi không đặng

tín-nhiệm th́ chẳng làm nên đư(r)c.

   Đối với ḿnh lại phải cần thủ tín nhiều hơn n"a. Chúng tôi xin nhắc

lại câu sách Đại học nói rằng :"Sở vị thành kỳ ư giả vô tự khi

dă". Nghĩa là : cái chỗ gọi là sửa ư thành thật cốt-yếu ở chỗ ḿnh

chẳng tự dối. Đại để câu nầy nói rằng nếu ngưi ta tự dối ḿnhth́ ḿnh

không làm nên đư(r)c.

   Vị dụ : Chúng ta hứa với ḿnh "học cho giỏi". Thế mà rồi ít lâu lại

quên mất, không làm đư(r)c như l(c)i hứa ; đó là tại sao ? Tại ḿnh tự dối

ḿnh. Mà kẻ tự dối ḿnh tức là dối Lương-tâm ; mà dối Lương-tâm là dối

Tr(c)i. Thử hỏi Tr(c)i có nên dối chăng ?

   Nh"ng kẻ bội ước, bất trung, nói rồi chối, hoặc điên-đảo xảo-ngôn,

là kẻ xúc-phạm đến Thần-minh. Kẻ ấy thế nào cũng phải chịu tội. Mất

ḷng tín nhiệm của ngưi, lại mất ḷng tự-tín của ḿnh, kẻ ấy thành ra

một nhân-vật khả-ố. Nó hăm ḿnh vào nơi khốn nạn. Kẻ học Đạo phải tự

ḿnh bó buộc ḿnh : nói thiệt và thủ tín, v́ khoản nầy rất khó dung

chế.

                           *

   Nói tóm lại, Ngũ-thư(c)ng là năm đức thư(c)ng để ngư(c)i ta noi theo mà

sửa ḿnh, hầu trở nên ngưi đạo-đức ; trên thuận cùng Đức CHÍ-TÔN,

dưới ḥa ḿnh với Nhơn-loại. Ngũ-thư(c)ng dùng sửa ngưi thành đạo-đức,

cũng như thước quí, dùng để làm ra h́nh tṛn, thước cũ dùng để làm ra

h́nh vuông. Nếu muốn làm h́nh tṛn và h́nh vuông mà chẳng có thước

qui, thước cũ, th́ làm sao nên đư(r)c ; cũng như muốn sửa ḿnh ra

đạo-đức mà chẳng theo Ngũ-thư(c)ng th́ biết đâu mà học tập.

    Theo cái thuyết "Thiên địa vạn vật nhứt thể" th́ gi"a chúng ta cùng

vạn vật có một giây liên lạc, kết chặt t́nh đồng thể. Đạo nhân dạy

chúng ta phải thương yêu và giúp đ" các loài ; hầu cho muôn loài chung

hưởng cái hạnh phúc thái b́nh của Tr(c)i dành cho chúng vật.

   Phương pháp xử thế th́ thiên h́nh vạn trạng, nghĩa lư vô cùng, kể

không xiết, nhưng rút lại chỉ do Tâm mà thôi. Mà muốn bảo tồn Tâm

chánh, học giả phải gi" năm đức thư(c)ng : Nhân là thương xót ; Nghĩa là

lẽ phải ; Lễ là h(r)p lư ; Trí là thông đạt và Tín là tŕ thủ. Ấy vậy

nên chúng ta làm việc ǵ dầu lớn, dầu nhỏ, cũng phải hỏi lại Tâm ḿnh,

tức vị Thần-minh, ở trong ữ của chúng ta. Như thế, nếu chưa đư(r)c

chí-thiện như Thiên-lư ; nhưng không đến nỗi sai xa.

 

                             *

 

                         PHN GÁI

                            ---

 

                    "Tam-tùng - Tứ-đức"

 

    Mặc dầu trai hay gái đều có bổn phận làm ngưi ; đại để như đă nói

trong trương trước ; nhưng riêng về N-phái, Cổ-nhơn đă vạch sẵn một

con đư(c)ng :"Tam tùng, Tứ đức" mà kẻ Hậu-tấn nên noi theo.

    Có ngưi nói Thế-kỷ 20, văn minh vật chất đă phổ truyền. Phụ n" từ

Tây sang Đông, từ thành thị đến thôn quê,  ngưi  ngưi đều chen lấn

trên đư(c)ng "Canh tân", nếu đem cái thuyết cũ kỹ "Tam tùng, Tứ đức" mà

hô hào, thế có phải là đi ngước chiều Tấn-hóa chăng ? Không. Bởi v́

Luân-lư  cổ truyền của  ngưi  Việt Nam vốn ở trong Nho-giáo, mà v́

Thánh-sư của Nho-giáo là Đức Khổng-Phu-Tử có nói rằng :"Luân-lư pháp

luật phải tùy th(c)i mà sửa đổi cho thích nghi với tŕnh độ tấn hóa của

Nhơn-sanh". Câu sách Trung-dung sau đây đủ chứng minh điều ấy rằng

:"Trọng-Ni tổ thuận Nghiêu-Thuấn, hiến chương Văn-vơ, thư(r)ng luật

Thiên-th(c)i, hạ tập Thủy-thổ". Nghĩa là đức Trọng-Ni (Khổng-Phu-Tử)

thuật lại Đạo Vua Nghiêu, Vua Thuấn, bắt chước Vua Văn, Vua Vơ ;

trên theo th(c)i Tr(c)i mà quyền biến ; dưới tùng Thủy-thổ mà an vui. Vậy

chúng ta nên lư(r)c lại nh"ng qui-luật cổ-truyền, như cái thuyết "Tam

tùng, Tứ đức" rồi chăm chước sửa đổi cho vừa lằn tấn hóa ; nghĩa là

chúng ta gi" nh"ng cái "Hay" bỏ nh"ng cái "Dở" để đưa đoàn Em đi đến

con đư(c)ng "Mỹ-tục thuần phong". Nghĩ như thế, nên chúng tôi yên trí

soạn lại như sau.

                              *

    TAM TÙNG.- Tam tùng là ǵ ?

    Tam-tùng chỉ về ngư(c)i Phụ-n" có ba chỗ theo là : Tại gia tùng phụ

; Xuất giá tùng phu ; Phu tử tùng tử ; để làm cho ḿnh trở nên đứa con

thảo, ngư(c)i v(r) hiền, bà mẹ tốt.

    1.- Tại-gia tùng-phụ.- Nghĩa là khi c̣n thơ ấu, ở với cha mẹ th́

phải tùng cha mẹ. Bổn-phận làm con đối với Cha mẹ th́ phải thảo. Đạo

Hiếu không phân biệt trai hay gái, đại khái nói trong nh"ng trương

trước. Riêng về phận gái ch" "Tại gia tùng phụ" có ư nghĩa đặc biệt là

:

   Khi c̣n thơ-ấu, ở với Cha mẹ, mặc dầu ḿnh có học thức đến đâu cũng

chưa có kinh nghiệm ở đ(c)i, chưa hiểu nhơn t́nh thế-sự, cho nên nh"ng

việc quan hệ đến đ(c)i ḿnh th́ nhứt thiết phải tuân l(c)i cha mẹ. Nên

biết rằng trong đ(c)i, chẳng ai thương chúng ta bằng cha mẹ ; chẳng ai

lo cho chúng ta bằng cha mẹ. Từ xưa đến nay, chưa có ngư(c)i cha mẹ nào

làm hại con. Vậy cha mẹ chúng ta cũng như muôn vàn ngư(c)i khác, hằng

chăm lo cho con nên ngư(c)i. Chúng ta chẳng v́ lẽ chi mà không tuân l(c)i

Ngư(c)i. Thoảng như cha mẹ có dạy điều chi chẳng vừa ư,th́ ḿnh cũng nhỏ

nhẹ xin sửa đổi, chớ không nên cải cọ mà thành ra ương-ngạnh.

   Gần đây mới xuất hiện phong trào "Tự do kết hôn". Vấn đề nầy có thể

chắp thuận về nguyên tắc. Bởi v́ v(r) chồng là bạn trăm năm. Đôi bên cần

phải tâm đầu ư hiệp, th́ mới to nên hạnh phúc gia đ́nh. Trái lại,

nghĩa là kẻ trâu trắng, ngư(c)i trâu đen, th́ cả hai đều phải chịu khổ

trọn đ(c)i. Ấy vậy nên trước khi cưới nhau, ngư(c)i Trai và ngư(c)i Gái

cần biết qua tâm lư của đôi bên.

   Chúng tôi nói :"Chấp thuận về nguyên tắc". Nghĩa là phận gái đư(r)c

quyền chọn lựa ngư(c)i bạn trăm năm của ḿnh ; nhưng trước khi quyết

định, phải ch(c) lịnh cha mẹ. Biết đâu : chúng ta v́ trẻ ḷng non dạ mà

không phân biệt trắng đen ; biết đâu chúng ta măi t́m hạnh phúc mà lại

sa vào cạm bẫy tai hại. Việc tạo lập gia thất là việc lớn của ngư(c)i

Đàn bà. Nói tỉ như chúng ta rủi lạc-lầm lần đầu tiên th́ chúng ta phải

chịu vô phước cả một đ(c)i.

   Đó là chỗ mà phận gái phải dè dặt cho lắm.

   C̣n kẻ làm cha mẹ, không nên ỷ quyền cha mẹ mà ép con. Ngạn ng" nói

:"Ép dầu, ép mở, ai nở ép duyên". Có ngư(c)i gả con mà không giạm hỏi ư

con, về sau, thành ra vô t́nh mà hại một đ(c)i của con. Đương môn, đối

hộ, là một điều tốt, nhưng nó đứng vào hàng thứ nh́. Duy có điều :

chọn dâu, chọn rễ kia, mới thật là trọng yếu.

   Quyền cha mẹ, nghĩa làm con, đôi bên phải dung ḥa với nhau, để đào

tạo hạnh phúc cho con hơn hết. Nếu rủi cha mẹ qua đ(c)i th́ phận gái

cũng nên nghe l(c)i ngư(c)i nuôi dư"ng như Cô, Cậu, Chú, Bác, v.v...

                            *

   2.- Xuất giá tùng phu.- Khi có chồng rồi, phận gái phải ở với nhà

chồng, cả một cuộc đ(c)i mới đó phải thi-hành ; nào là bổn phận đối với

cha mẹ chồng,anh em bên chồng, nào là xử sự với kẻ ăn ở trong gia đ́nh

và ngư(c)i láng giềng ; mỗi mỗi phải cư xử cho trọn đạo ; nhứt là đối

với chồng phải gi" ǵn trinh tiết ; bởi v́ ngư(c)i đàn bà mất trinh th́

mất giá trị (xin xem bài Phu-Thê-Cang).

   3.- Phu tử tùng tử.- Rủi chồng chết th́ phải theo con ; khi con thơ

ấu th́ một ḷng lo nuôi dư"ng giáo-hóa, c̣n khi con nên ngư(c)i th́ một

ḷng sống với con cho tṛn bổn phận của bà mẹ hiền.

   Sách Nho chép chuyện bà thân sanh của Mạnh-tử chọn xóm ở, để cho

con ăn học ; có lần Mạnh-Tử biếng nhác, Bà chặt khung cửi, làm cho con

biết s(r) mà lo học. Nh(c) mẹ hiền mà thầy Mạnh-Tử trở nên bậc Á-Thánh.

Đoàn Hậu-tấn nên noi theo gương làm cha mẹ đó mà lập thân ḿnh.

                              *

 

                            TỨ-ĐỨC

                             ---

 

                       Công, Ngôn, Dung, Hạnh

 

   CÔNG.- Nh"ng việc văn chương, cung kiếm, như bậc anh thư th́ chẳng

nói chi, ngư(c)i Phụ-n" c̣n có N"-công thư(c)ng thức cần phải thuần-thục,

để làm tṛn bổn-phận nội-tr(r), như : may vá, nấu nướng, sắp đặtviệc nhà

có thứ tự. Vả chăng, nội tr(r) là bổn phận đàn bà, nếu ngư(c)i phụ-n"

không biết nh"ng việc thư(c)ng ngày đó th́ mất giá trị của ḿnh ; cho

nên phải siêng năng rèn tập.

   NGÔN.- Ngôn là l(c)i nói, ngư(c)i bàng quan do l(c)i nói của ḿnh mà đoán

ra tâm lư. Tại sao ? Bởi có trong ḷng mới tỏ ra ngoài ; thành thử l(c)i

nói năng phải cẩn thận. Không nói lả lơi, hoa nguyệt, không nói xằng,

nói bậy ; không ngồi lê đôi mách, không nói dối. Muốn đư(r)c vậy th́ tập

cho có thói quen rằng :"Suy nghĩ trước, rồi sau mới nói", tức ngôn

đoái hạnh, hạnh đoái ngôn.

   DUNG.- Dung là dung nhan, diện mạo. Cần phải sạch sẽ, vẽ-vang, đi

đứng trang hoàng, h́nh-dung yểu-điệu tự-nhiên, nghĩa là không phải sửa

cách đi đứng, v́ có ư sửa là mất tự-nhiên, mà mất tự nhiên th́ không

đẹp.

   HNH.- Hạnh là nết, mà nết lại do Tâm mà ra, cho nên muốn có hạnh,

trước phải giồi mài bổn Tâm. Luân-lư dạy rằng phận gái phải hiền lành,

ḥa-nhă. Hiền lành th́ ngăn đư(r)c phóng tâm, ḥa-nhă th́ lkhỏi phải

hỗn-ẩu, kiêu-căng. Trên đư(c)ng giao-tế ; hoặc đối với ngư(c)i nhà hay

ngư(c)i láng giềng, nhứt nhứt phải gi" ư thành thật trước hết. Có thành

thật mới đư(r)c ngư(c)i yêu mến tin dùng.

   Nói rút lại, Tam-tùng, Tứ-đức, nếu ngư(c)i Phụ-n" lấy đó làm kỷ-cương

ở đ(c)i th́ ḿnh sẽ đư(r)c danh thơm là : con thảo, v(r) hiền và mẹ tốt.

                                *

 Tóm luận, thi hành khoản đạo ngư(c)i trên nền tảng Tam-cang, Ngũ-thư(c)ng, Tam-tùng, Tứ-đức, chúng tôi xin tạm một câu sách Đại-học để làm bài kết luận như sau :

   Xưa kia, người i ta muốn làm sáng cái đức sáng của ḿnh trong

Thế-gian, trước hết phải làm tṛn bổn phận đối vối với nước ḿnh

(Trị-quốc) ; muốn trị-quốc, trước phải sửa xong việc nhà ḿnh (Tề-gia)

; muốn tề-gia trước tu-thân ḿnh ; muốn tu thân ḿnh trước phải

chánh-tâm : muốn chánh-tâm trước phải sửa ư ra thành thật (thành ư) ;

muốn thành-ư trước phải khai hóa đến cùng tột cái biết của ḿnh

(trí-tri) ; mà trí-tri tại sự cách vật. Hoặc nói đảo lại là : Cách-vật

rồi sau mới trí-chí ; tri-chí rồi sau mới ư-thành ; ư-thành rồi sau

mới tâm-chánh ; tâm chánh rồi sau mới thân tu, thân-tu rồi sau mới

gia-tề ; gia-tề rồi sau mới quốc-trị ; quốc-trị rồi sau thiên-hạ

thái-b́nh.

   Trên đây là bổn chương tŕnh Xă-hội-học mà người Á-Đông đă chăm

theo tự ngàn xưa. Chương-tŕnh ấy nhắm vào mục-đích ḥa-b́nh Thế-giái,

thức là mỗi người thảo luận với mọi người từ trong gia-đ́nh đến ngoài

xă-hội. Mà muốn đi đến mục-đích ấy, trước phải sửa ḿnh. Đạo tu-thân

bắt đầu từ cách-vật, trí-tri, đến thành-ư, chánh-tâm. Vả lại, Tâm với

Tánh tuy có hai danh-từ, song vốn một, tức là nguồn Thiên-lư Tri phú

cho người. Hễ người có Tâm-chánh, th́ tự nhiên phần Thiên-lư sáng tỏ.

Như trước kia đă nói Thiên-lư ở trong người phát động là Đạo-nhân, mà

Đạo Nhânlà Đạo làm người vậy.

   Ấy vậy nên người nào gi" trọn năm đức thưng là : Nhân, Nghĩa, Lễ,

Trí, Tín đă nói trước kia th́ theo đưc Đạo Tri và cùng vạn-vật đồng

thể. Làm người mặc dầu trai hay gái đều phải biết Đạo Nhân, tức cái

phát-động của nguồn Thiên-lư ở trong người, rồi sau sẽ theo đó mà làm

bổn phận ḿnh. Đưc như thế th́ trên không phạm luật tri, dưới lại

ḥa cùng mọi người. Vậy há chẳng phải an vui lắm sao !