Giáo Chủ Tiên Ðạo

[ Lão tử ]

* Biên Khảo  Huỳnh Tâm

 

Danh từ Lão Tử, chỉ là một danh hiệu, nghĩa là " Ông thầy Già ". Cho nên nói đến thân thế và sách vỡ của nhân vật Lão Tử, bậc đại hiền triết Trung Hoa, ngay cả các học giả Trung Hoa, Nhật Bản và cả Âu Mỹ từ trước đến nay cũng chỉ bàn suông theo giả thuyết chứ chúng ta chưa có thể đích xác biết Lão Tử sanh vào thời nào, năm nào...

         Theo các sử gia :  Tư Mã Thiên, một sử gia đầu tiên của Trung Quốc (vào thế kỷ thứ I tr. T.L. về đời nhà Hán) thì Lão Tử họ là Lý, tên là Nhĩ, tự là Bá Dương, thụy là Ðam, người làng Lệ, huyện Hỗ (có sách chép là Khỗ), xóm Khúc Nhân, tỉnh An Huy, thuộc nước Sở (An Huy ngày nay là Hồ Nam). Lão Tử có làm quen Trụ Hạ Sử (quan giữ tàng thất sử hay giữ công văn) nhà Châu. Sau ông bỏ đi về phía Tây (Cam Túc), không biết rồi ra thế nào.  Nhưng có người lại bác thuyết trên và cho rằng Lão Tử chính tên là Dương Bá Phú ở vào thế kỷ thứ VIII trước Tây lịch chứ không phải là lão Ðam thời Xuân Thu nói trên. Có sách cho là Lão Tử sinh năm 570 và mất năm 490 trước Tây lịch kỷ nguyên, đồng thời với đức Khổng Tử, nghĩa là vào thế kỷ thứ VI trước Tây lịch, vì sử chép rằng năm 522 Khổng Tử có một lần đến hỏi lễ Lão Tử :

 - " Khổng Tử đến Châu hỏi lễ. Lão Tử nói : " Lời nói của ông là lời nói của những kẻ nay đã xương tàn cốt rụi. Vả, người quân tử đắc thời thì đi xe, không đắc thời thì tay vịn nón lá mà đi chơn. Ta nghe rằng : Kẻ buôn giỏi khéo giữ của quý như không có gì, người quân tử đức thạnh, dung mạo dường như kẻ ngu. Họ rất khác với cái kiêu khí và đa dục của ông, thái sắc và dâm chí ấy không ích gì cho thân ông cả. Tôi sở dỉ bảo cho ông biết có bấy nhiêu thôi ".

            Khổng Tử ra về bảo với đệ tử : " Chim, ta biết nó bay như thế nào ; cá, ta biết nó lội làm sao ; thú, ta biết nó chạy cách nào. Thú chạy thì ta có lưới bắt nó ; cá lội thì ta có dây câu ví nó ; chim bay thì ta có bẩy gài nó. Chí như con rồng thì ta không biết nó theo mây theo gió mà bay liệng như thế nào. Nay ta thấy Lão Tử như con rồng ! "

 Lão tử tu dồi Ðạo Ðức, cái học của ông là vụ lấy sự " ẩn tích mai danh " làm gốc. Ở Châu lâu, sau thấy Châu suy, nên bỏ mà đi. Ðến cửa ải, quan lệnh là Doản Hỉ nói : " Ngài toan đi ẩn, xin gượng vì tôi để lại bộ sách ".

 Lão Tử ở lại soạn ra bộ sách ý nói về Ðạo Ðức, phân làm hai thiên, gồm có trên năm nghìn lời. Rồi bỏ mà đi, không biết chung cuộc đời Ngài như thế nào ".

Câu chuyện hỏi lễ trên đây có đích xác hay không quan trọng lắm. Nhưng cái ý nghĩa hàm súc câu chuyện thật đã biểu diển một cách sâu sắc và ý vị " lập trường hữu vi và vô vi " của hai nhà hiền

 triết lừng danh Trung Hoa.

 - Sách Lễ Ký, ở thiên " Tăng Tử Vấn " có câu : " tích ngô tùng Lão Ðam " (xưa ta theo Lão Ðam), nên có kẻ lại cho rằng đồng thời với Khổng Tử cũng có người tên là Lão Lai Tử người nước Sở, có viết ra một bộ sách 15 thiên chuyên nói về công dụng của Ðạo gia.

Sử nước Sở lại có câu " Lão Lai Tử giáo Khổng Tử " (Lão Lai Tử dạy Khổng Tử) nên người sau có kẻ cho rằng Lão Lai Tử chính là Lão Ðam hay Lão Tử.  Sách Sử Ký cũng có chép : " 129 năm sau khi Khổng Tử mất, quan Thái sử nhà Châu là Ðảm gặp Tần Hiến Công nói : " Bắt đầu nhà Tần và nhà Châu hợp với nhau, rồi lại tan. Tan rồi 500 năm lại hợp, hợp với nhau  70  năm  thì  Bá  Vương  ra  đời  vậy

" Căn cứ vào đây mà có kẻ cho rằng " Ông Ðảm tức là Lão Tử ". Rồi lại có kẻ bài bác lời ức đoán đó và bảo rằng : "Ông Ðảm làm quan kia không phải là Lão Ðam vì Lão Tử là một bậc " quân tử ở ẩn ".

- Tất Nguyên, Nho gia đời nhà Thanh trong bài tựa quyển " Lão Tử Ðạo Ðức Kinh Khảo Dị " đã ngờ vực đoạn chép trên đây của sử ký và biện minh : " đời xưa chữ ÐAM và chữ ÐẢM dùng lẫn nhau ".

- Trong Thuyết-Văn Giải-Tư giải nghĩa

- Ðam : Tai mà thòng xuống

 - Ðảm : Tai dài.

 Ở phương Nam có nước tên là Ðảm Nhĩ, nghĩa là người nước đó đều có tai dài thòng xuống.

- Trong Ðại Hoang Bắc Kinh lữ lảm thì Ðảm Nhĩ cũng viết là Ðảm, chữ Lão Ðam viết là Ðam. Cùng như trong sách Hoài Nam Vương chữ  Ðảm Nhĩ viết là Ðam. Vì ý nghĩa và giọng đọc của những chữ trên  có điểm tương đồng nên bị nhầm lẩn với nhau.

_ Trịnh Khang Thành bảo : " Lão Ðam là cái biệt hiệu của những kẻ sống lâu đời xưa ". Cho nên người ta cùng đồng ý đó chỉ là

 danh hiệu của một bậc " Thầy Già ". (Vì chưng Lão Tử sống hơn 160 năm và có kẻ bão là trên 200 năm nên người ta nghĩ rằng nhờ  sự tu dưỡng Ðạo Ðức mà ông được thọ như thế).

Dù danh từ Lão Tử bắt đầu từ thế kỷ 19 đến nay có nhiều nhà bác học Trung hoa, những nhà thông thái Âu Tây theo phương pháp khoa

 học về ngôn ngữ học để nghiên cứu nhưng cũng không tìm ra một lối thoát nào khả dĩ sáng tỏ hơn truyền thuyết : Lão Tử đồng thời với Khổng Tử và lớn hơn độ chừng vài mươi tuổi. Khổng Tử thì sống vào khoảng 552 đến 479, còn Lão Tử thì sống vào khoảng 570-490 trước Tây lịch kỷ nguyên. Tính vào khoảng cuối thế kỷ thứ VI và đầu thế kỷ thứ V (tức là khoảng thời Xuân Thu 772-481) trước Tây lịch cùng thời với Héraclite (535-475) và Pythagore (570-496) ở Hy Lạp.

Dù sao chăng nửa, ông có viết ra Ðạo Ðức Kinh (hai thiên, 81 chương hơn năm ngàn lời nói) để bày tỏ cái tôn chỉ của ông. Và do đó, người ta gọi cái đạo của ông sáng lập ra là Ðạo giáo.

                        II.-TÁC PHẨM

ÐO ÐỨC KINH -

1.- XUẤT XỨ : Theo các truyền thuyết.

 _ Ðạo Ðức Kinh viết ra vào lúc Khổng Tử còn sống :

Căn cứ vào câu chuyện hỏi lễ của Khổng Tử trong sách Trang Tử thuật lại hoặc trong thiên Tăng Tử Vấn của Lễ Ký hay theo lời bàn của Tư Mã Thiên trong sách sử ký về sự gặp gở giữa Khổng Tử và Lão Tử, và có thuyết cho rằng sách của Lão Tử viết ra lúc Khổng Tử còn sống. Vì một lý do nửa là các quyển sách như Lễ Ký, Trang Tử, Lữ thị Xuân Thu, Chiến quốc sách, Hàn Phi Tử, Hàn Thi Ngoại Truyện, Hoài Nam Tử, Sử Ký... và cả Luận Ngữ " viết ra " trước hoặc sau đó ít lâu, có trích nhiều đoạn văn (gồm có 1745 lời) trong Ð.Ð.K., người ta quả quyết Ð.Ð.K. viết ra vào cuối thế kỷ V đầu thế kỷ thứ IV.

_ Ðạo Ðức Kinh viết ra sau Trang Tử (355-375) :

Có người cho rằng thuyết trên không chính xác, vì Ðạo Ðức Kinh không là một quyển sách có chương khúc mà nội dung của nó rất tạp nhạp " phỏng theo thuyết Âm Dương, lượm lặt những chổ hay của Khổng học mà Mặc học để dung hợp với những điều cốt yếu của Danh gia và Pháp gia ". Thuyết này còn cho rằng Ðạo Ðức Kinh cũng đã phỏng theo sách của Trang Tử mà viết ra, hoặc rút tỉa ở các sách binh pháp, ở những tư tưởng về thuyết ngu dân cuối thế kỷ IX sau Chúa Giáng sinh mà thêm vào. Thế nên, sự vay mượn tạp nhạp đó đã cấu thành những tư tưởng không đồng nhất, đôi khi đưa đến mâu thuẫn.

 Khách quan mà xét thì thuyết trên đây có nhiều điểm đáng nghi ngờ. Vì Ðạo Ðức Kinh về phương diện văn chương và tư tưởng có một bố cục theo một hệ thống tư tưởng nhất trí và chặt chẻ. Hơn nữa, các sách của Trang Tử và Hàn Phi Tử đã chú thích về cái học của Lão Tử một cách rỏ ràng " từng điểm một ". Xem thế thì Ðạo Ðức Kinh làm sao viết sau Trang Tử được ? Còn bảo rằng Ð.Ð.K. " rút tỉa tư tưởng " của thuyết ngu dân cuối thế kỷ IX sau Tây lịch lại càng phi lý hơn.

 _ Ðạo Ðức Kinh viết ra vào cuối thế kỷ thứ V và đầu thế kỷ IV trước Tây lịch :

Một thuyết khác cho rằng Ð.Ð.K. có lẽ viết vào khoảng giửa từ Khổng Tử (551-474) và Mặc Tử (480-400) đến Trang Tử (355-275) và Mạnh Tử (372-289), nghĩa là khoảng (460-380). Thuyết này luận rằng Khổng Tử và Mặc Tử không thấy nói đến tên Lão Tử, trái lại, trong nhiều đoạn văn, Lão Tử chống đối hẳn lại tư tưởng của hai nhà tư tưởng trên :

 a) Với Khổng Tử : Lão Tử chỉ trích chê bai những danh từ " Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín " của Nho học nhất là ở những chương 18, 19 và 38 : " Ðại Ðạo phế, hữu Nhân Nghĩa " (18), " Tuyệt Thánh khí trí... Tuyệt nhân khí nghĩa " (19), " Thất Ðạo nhi hậu Ðức, thất Ðức nhi hậu Nhân, thất Nhân nhi hậu Nghĩa, thất nghĩa nhi hậu Lễ... Phù Lễ giả, trung tín chi bạc nhi loạn chi thủ " (38)...

 b) Với Mặc Tử : Lão Tử và Mặc Tử như hai thái cực. Trong sách của Mặc Tử đề cao thuyết " Thượng Hiền " thì trái lại Lão Tử bảo " Bất Thượng Hiền " ở chương thứ ba. Do đó thuyết này cho rằng Lão Tử nhắm vào thuyết " Thượng Hiền " của Mặc Tử mà công kích.

 _ Theo tài liệu chú thích của ông Thu Giang trong quyển Lão Tử tinh hoa :

 _ Lương Khải Siêu và Ðạo Ðức Kinh :

 " Lương Khải Siêu cho rằng " sách Lão Tử Ðạo Ðức Kinh là sản phẩm của thời chiến quốc (480-249) còn nhân vật Lão Tử thì không rỏ thật và ở vào thời nào ". Họ Lương căn cứ vào năm điều sau đây để chứng minh giả thuyết của mình :

            1.- Theo Sử ký, thì nói Lão Tử là tiền bối của Khổng Tử. Vậu cháu của Lão Tử không thể là tướng của nước Ngụy được (Tam Quốc).

 2.- Khổng Tử, Mặc Tử, Mạnh Tử - trước sau không bao giờ đề cập đến Lão Tử.

 3.- Lão Tử Ð.Ð.K. những tên xưng Hầu Vương, Vương Công, Vương Hầu, Vạn Thặng... đều là thành ngữ không thuộc về thời Xuân Thu.

 4.- Trong Ð.Ð.K. giọng văn hết sức tự do và kịch liệt, không giống giọng văn thời Xuân Thu.

 5.- Sách Ð.Ð.K. chỉ trích Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí là chống báng nho gia. Câu " bất Thượng Hiền " là chống báng Mặc Tử. Lại câu " dân bất uý tử... " có vẻ ám chỉ Pháp gia.

 _ Phùng Hữu Lan và Ðạo Ðức Kinh :

Họ Phùng cũng chủ chương rằng sách Lão Tử Ð.Ð.K. là tác phẩm của thời Chiến Quốc. Sách ấy viết sau Huệ Thi và Công Tôn Long (phái

 Danh Học). Chứ không thể trước đó cho được là vì trong sách Lão Tử có đề cập đến vấn đề danh học (vô danh). Họ Phùng nói 3 điều sau đây :

 1.- Về thời đại trước Khổng Tử, không có những người tự trước thuật ra học thuyết riêng. Bởi thế Chương Học Thành, một sử gia đời Thanh có viết : " Về thời xưa không có thấy ai tự viết sách cả. Các nhà cầm quyền cùng sử gia của họ thì chỉ chép văn chương. Còn các sử gia chân chính thì chép các việc xảy ra. Chỉ đến khi xã hội rời rã, các học gia mới bắt đầu lập ra học thuyết riêng. Vì thế, Khổng Phu Tử hơn cả Nghiêu Thuấn ".

 2.- Quyển Ð.Ð.K. không viết theo lối văn đáp như Luận ngữ, Mạnh Tử.

3.- Văn của Ð.Ð.K. viết theo lối kinh, nghĩa là thứ văn thịnh hành ở đời Chiến quốc.

_ Nhưng Hồ Thích trong " Trung Quốc Triết học Sử cương " thì cho rằng đoạn sử ký trên đây ám chỉ về Ðạo giáo và thuyết Âm Dương, không ăn chịu gì đến Ðạo Ðức Kinh, tức là Lão học  ( học thuyết của Lão Tử ) cả, vì Ðạo gia cũng như Âm Dương gia đều thuộc về Tạp gia, như thiên Nghệ Văn Chí trong Tiền Hán Thư có nói qua "

2.- VĂN CHƯƠNG :

 _ Về nội dung tư tưởng, Thái Sử Công trong Lão Trang Thân Hàn Liệt Truyện cho rằng sách Lão Tử thật là " Thâm viển ", " vi diệu ", " kỳ ảo " khó có thể hiểu thấu hết v.v...

 _ Về mặt văn từ thì Ðạo Ðức Kinh theo lối thơ tự do, thường mỗi xâu thơ có ba chữ (chương thứ 3, thứ 4 và thứ 8) ; bốn chữ (chương 21, chương 45) ; sáu chữ ( chương 12) ; bảy chử (chương

 10) ; có khi hành văn giống như điệu của Sở Từ (trong chương thứ

 15), lối ca hành (trong chương thứ 28) v.v... Nhưng căn cứ vào toàn quyển sách, phần nhiều Lão Tử rất chú trọng đến âm vận.

3.- CÁC NHữ CHÚ GIẢI :

Có nhiều học giả đời sau Lão Tử giảng giải về sách Lão Tử rất nhiều. Nhưng trong số các người này có hai người được xem là cự phách :

 a) Hà Án : tự là Bình Thúc, mẹ là Doãn Thị, vợ vua Thái Tổ. Sách Ngụy Chí cho rằng Hà Án " sinh trưởng trong cung điện, thưở nhỏ đã nổi tiếng là tài hoa, rất say mê cái học của Lão Trang, làm ra sách Ðạo Ðức Luận độ mười thiên ". Ông là một danh sĩ trong phái Huyền học đời Ngụy, Tấn, Nam Bắc Triều. Và ông đã đem chỗ sở đắc ở cái học Lão Trang chú giải sách Luận ngử, sắp xếp những mớ hổn tạp cách ngôn, luân lý để biến thành một hệ thống nhân sinh.

 b) Vương Bật : tự là Phụ Tự. Mười tuổi đã yêu thích cái học của Lão Tử. Và ông được nổi tiếng nhờ tài biện luận linh hoạt. Lúc bấy giờ, Hà Án rất thán phục thiên tài ấy : " Thánh nhân nói : Kẻ hậu sinh đáng sợ ! Phải chăng là người nầy ? ". Vương Bật sống kiếp đời bạc phận như kiếp phù du : 24 tuổi tách đường công danh. Với số tuổi này có ai làm nỗi công việc chú thích Châu Dịch và Lão Tử, thế mà Vương Bật đã làm xong và hết sức thâm viển.

Nói về hai người này, Vu Hữu Nhiệm, trong Trung Quốc Học Thuật Tư Tưởng Ðại Cương, cho rằng : " Hà Án chú thích Luận Ngữ, Vương Bật chú thích Châu Dịch đều lấy theo tôn chỉ của Ðạo gia mà giải thích những lời nói của Nho gia ".

 Tuy hai người đều có công lớn đã làm phát huy được tư tưởng của Lão học thời Ngụy Tấn, nhưng :

 _ Hà Án thiên hẳn về phương diện siêu hình của Lão học, lấy quan điểm của Lão Tử để chứng giải quan điễm của Nho gia. Việc làm này không tránh khỏi khiên cưởng, gần như sai lạc, vì đem đạo học của Lão Tử mà giải thích Nho học thì hết sức trái ngược. Tuy nhiên, nhờ việc làm đó mà một số đông tín đồ Nho học đổ xô theo Huyền học.

 _ Vương Bật thì đem Lão học và Dịch học mà bổ túc và giảng giải lẫn nhau, tuy không hoàn toàn, nhưng còn có thể thuận được hơn việc làm của Hà Án.

 Sau này, từ Ðường, Tống, Minh, Thanh có thêm các nhà chú giải tiếp nhau xiển minh Lạo Tử : Lục Ðức Minh, Tư Mã Quang, Tô Triệt, Tô Thức, Thích Ðức Thanh, Tất Nguyên, Nghiêm Phục, Tôn Di Nhượng, Vương Niệm Tôn, Lưu Sư Bồi, Hồ Thích, Lương Khải Siêu v.v..., nhưng phần đông chưa nắm vững yếu chỉ của Lão học và quá cụ về hình thức nên đưa vấn đề đến chổ lạc chạc và mâu thuẩn. Có nhiều người căn cứ vào đấy mà bảo rằng : " Chú giải càng nhiều, càng giết mau Lão Tử ".

III.- TỔNG QUAN HọC THUYẾT LÃO TỬ :

Theo nhiều học giả Ðông và Tây phương thì Ðạo Ðức Kinh là một quyển sách thuộc về Tâm Linh Ðạo Học, hướng Ðạo cho những người theo con đường Huyền Ðạo và siêu thoát.

Thực ra, trên quan điểm khách quan, xét Ðạo Ðức Kinh, ta có thể bổ túc rằng : Lão Tử là một ẩn sĩ vô danh, một hiền giả đã cố gắng đem Ðạo học và Chánh trị, với mục đích là kêu gọi các nhà cầm quyền và chánh khách nên dùng đạo mà trị nước.

Ðạo Lão mãi tới thời Trang Tử mới trở nên siêu thoát. Chứ ở từ Lão Tử ít khi Lão Tử nhắc đến vấn đề này. Ðiểm đáng chú ý là Lão Tử lồng vào Ðạo Ðức Kinh một bộ mặt chính trị sâu sắc.

Cho nên có người khuyên ta nên đọc Trang trước, Lão sau. Vì người ta đồng ý quan niệm rằng : " muốn áp dụng phương pháp vô vi nhi trị hay dĩ bất trị, trị thiên hạ cần phãi trước nhất thực hiện được ít nhiều cái Ðạo nơi mình, nghĩa là : cần phải là một bậc chân nhân vô kỷ, vô công, vô danh, tức là : người không còn tư tâm, tư dục nữa, và như vậy, mới thực hiện Ðạo theo từng giai-đoạn Tự-giác nhi giác-tha ".

A.- Ðạo :

 Trong các Triết-gia Trung-Quốc có lẽ Lão tử là người đầu tiên đã dùng chữ Ðạo đễ chĩ cái Nguyên-lý Tuyệt-Ðối của Vũ-Trụ đã có từ trước khi khai thiên lập địa, không sinh, không diệt, không tăng giảm.

            Ðạo có thể dưới hai phương diện :

 a) Vô : thì Ðạo là Nguyên-lý của Trời đất, nguyên lý vô hình.

            b) Hũu : thì Ðạo là nguyên-lý hũu-hình, là Mẹ sinh ra vạn vật. ( Vô danh thiên-địa chi thủy ; hũu-danh vạn-vật chi mẫu).

 Ðạo, là một Nguyên lý hoàn toàn huyền diệu siêu hình và bất khả tư nghị. Người ta không thể định danh nó, " không thể phân chia " nó, nghĩa là không thể dùng Lý-Trí mà hiểu, muốn hiểu ta nên dùng Tâm mà thôi. Ở Chương I của Ðạo-Ðức-Kinh, Lão bão rằng khi ta định cho Sự-Vật một cái tên là ta tự làm cho ta xa lìa với cái " chân diện mục " của chúng :

        " Ðạo khả đạo phi thường đạo,

        Danh khả danh phi thường danh ".

                            ( Chương I )

 nghĩa là :

 " Ðạo mà nói ra được, không còn phải là Ðạo " thường " nữa, Danh mà gọi ra được, không còn phải là danh  " thường " nữa. "

 Sự vật là " vô-thường " cho nên không thể định danh cho sự vật bằng một danh từ " kinh " được Ta có thể kết luận rằng nhân sinh-quan của Lão-Tử theo sự " thực hiện " là một nhân-sinh quan " Ðộng " (dynamique), không là " tịnh " (statique).

 Ðối với Lão-Tử, ông quan-niệm rằng không có cái gì ở đời nầy mang ý nghĩa tuyệt đối cả mà chỉ có thể tương đối mà thôi : " Hữu Vô tương sanh, nan dị tương thành, trường đoản tương hình, cao hạ tương khuynh, âm thinh tương hòa, tiền hậu tương tùy " ( Chương 2 ). Nghĩa là : Có không cùng sang, khó dễ cùng thành, ngắn dài cùng sánh, cao thấp cùng chiều, giọng tiếng cùng họa, trước sau cùng theo.

Sự tương đối luôn có sẳn và gây sự tranh chấp vì mâu thuẫn trong lòng ta : " thương nhau lắm cắn nhau đau ".

 Vậy muốn được Ðạo, Lão-Tử khuyên ta đừng nhìn sự vật bằng cặp mắt nhị-nguyên chia phân Nhĩ Ngã mà phải nhìn thấy tất cả đều là Một. Vì nhìn cuộc đời bằng Lý-Trí tức là cho ta nhìn lọt qua khối óc chia phân sự vật " Giải kỳ phân " thì làm sao thấy được sự " huyền đồng " của tất cả sự vật.

 Theo Lão-Tử, Ðạo trùm lấp Trời Ðất Vũ trụ nhưng không làm sao

 thấy được nên gần như " không có " gì cả. Ở chương 11 ông diển đạt cái " không không " đó như : " Tam thập phúc, cộng nhất cốc, đương kỳ vô, hữu xa chi dụng. Duyên thực dĩ vi khí, đương kỳ vô, hữu thất chi dụng..." ( Ba chục căm họp lại một bầu, nhưng nhờ chỗ " không " mới có cái dùng của xe. Nhồi đất để làm chén bát, nhờ chỗ " không " mới có cái dụng của chén bát. Khoét cửa nẻo, làm buồng the, nhờ chổ " không " mới có cái dụng của buồng the...)

 Ðạo thì như thế. Ðến Ðức thì Lão-Tử dùng với cái nghĩa siêu-hình chứ không còn là nghĩa luân-lý thông thường. Vì Lão-Tử cho rằng Ðức là nguồn gốc sinh ra Trời đất Vạn vật, là " mầm sống ngấm ngầm ". Lão Tử nói: " Khổng Ðức chi dung, duy Ðạo thị tùng " ( Dáng của Ðức lớn, thì theo cùng với Ðạo ). Hoặc: " Ðạo sinh chi, Ðức súc chi. Trưởng chi dục chi, đình chi độc chi, dưỡng chi, phúc chi..." ( Ðạo sinh đó, Ðức muôi đó, cấp dưỡng đó, nuôi nắng đó, đùm-bọc đó, bồi sức đó, dưỡng nuôi đó, chở che đó).

Xem thế thì Ðạo sinh Ðức dưỡng, nên mới được gọi là Huyền-tẫn

 ( Mẹ nhiệm mầu ).

B.- CÁi Ð-NG CỦA ÐạO :

 Trời đất vạn vật đều bắt nguồn ở Ðạo và trở về với Ðạo.

a) Con đường đi ra: " Ðạo sinh Nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam. Tam sinh vạn vật. Vạn vật phụ Âm nhi bão Dương, Xung khí dĩ vi hòa " ( Ðạo sinh Một, một sinh Hai, Hai sinh Ba, Ba sinh Vạn-vật. Trong vạn vật không vật nào mà không cõng Âm và bồng Dương. Nhân chỗ xung nhau mà hòa với nhau).

 b) Con đường đi về : " Phản giả Ðạo chi động " ( Trở lại, cái động của Ðạo ).

 Hai khuynh-hướng nghịch nhau : Ði ra rồi Trở về ( phản phục ), theo Lão-tử thì " Vạn vật tịnh tác, ngô dĩ quan phục, phù vật vân, các phục quy kỳ căn " ( Vạn vật cùng đều sinh ra; ta lại thấy nó trở về gốc; ôi mọi vật trùng, đều trở về cội rễ của nó.

 ( Chương 16 ).

 Cội rễ ở đây tức là gốc Tịnh, là nguyên-lý Vô-vi : " Quy căn viết Tịnh, thị vị viết Phục-Mạng, Phục-Mạng viết Thường " ( Trở về cội rễ, gọi là Phục Mạng. Mà Phục-Mạng gọi là Thường). Muốn suốt đời không nguy khốn thì người ấy phải đạt đến đạo

 " thường ". Vì thường là bất-biến, luôn luôn đúng với tất cả vạn-vật, nắm cả giềng mối vạn-vật vũ-trụ. Nhờ quan niệm chữ Thường thế nên Lão-Tử mới nghĩ đến một cái gì như là một thứ Ðịnh-Mạng trong sắc giới : " Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất thất " ( lưới trời lồng lộng, thưa mà chẳng lọt )...

C.- HUYỀN Ð-NG :

Ðạo là Mẹ nuôi của vạn-vật và " con " là vạn-vật, và như thế ta thấy hình ảnh của một Bà Mẹ là đầu mối của học thuyết Lão-Tử, vì Lão-học thường chú trọng về phần Âm : " Thiên hạ hữu thủy, dĩ vi thiên hạ mẫu. Ký đắc kỳ mẫu, dĩ tri kỳ tử. Ký tri kỳ tử, phục thủ kỳ mẩu. Một thân bất đãi ".( Chương 52 ). ( Thiên hạ có nguồn gốc, dùng làm mẹ của Thiên hạ. Hễ, giữ được Mẹ, thì biết được con. Ðã biết được con, trở về với mẹ : Thân đến chết không nguy). Suy lý từ đó ta thấy :

        - Vạn vật " trở về với Ðạo "

        - Văn-minh vật chất khi đến độ cùng tột rơi về tinh thần. Cho nên có người bảo : Cái học nguyên từ ngày nay của Tây-phương " trở lại gặp gỡ với Huyền-học của Ðông-Phương. Vắn đề đồng nhất của Tâm và Vật, Vật-chất và Tinh-Thần...trước những phát minh về nguyên-tử-lực không còn phải là một vấn đề siêu-hình nan giải nữa ". Muốn thực hiện được sự huyền đồng ấy với Ðạo phải trải qua ba giai đọan :

      1.- Bước đầu : Phải " kiến tố, bão phác " và " thiểu tư, quả dục ", nghĩa là : phãi tập sống giản-di tự nhiên, ít tư riêng, ít tham dục. Ðây chỉ mới là bước đường đầu, người ta còn gọi là con đường " tâm trai "

Tóm lại là phải dứt bỏ cái " ta " nhân tạo nhiều giả dối để trở về cái " ta " đồng nhất với đạo, nghĩa là cố gắng đạt đến chổ " thanh tĩnh " và " vô-vi ".

        2. - Rồi đến giai đoạn " Ngộ Ðạo ".

        3. - Cuối cùng, đã đạt tới trạng thái " huyền-đồng ,nghĩa là, đến lúc mọi vật đều hòa đồng với nhau thành Một, không còn thấy riêng tư, phân biệt nữa. Sự nhận thức trong lúc nầy chỉ cần tâm linh trực giác : " Giải kỳ phân, hoà kỳ quang, đồng kỳ trần thị-vị Huyền-Ðồng " ( Bỏ chia phân, hoà ánh sáng, đồng bụi bặm, ấy gọi là Huyền-Ðồng).

 Khi đã đạt tới chổ Huyền-Ðồng là lúc Tâm hồn được yên tĩnh và khoan khhái vô cực. Ðó là sự nhẹ nhàng lâng lâng khác thường chỉ có thể diễn tả bằng 2 tiếng " thoát tục ". Vì tính chất quá trừư-tượng nầy khó có thể giải đáp cho một số người chưa đạt tới Ðạo thắc mắc nên nhóm Ðạo gia mới bày ra những câu chuyện Thần Tiên để hình dung hóa vấn đề trừư-tượng trên như Lão-Tử được tôn làm Thái Thượng Lão-Quân, Trang-Tử được tôn làm Nam-Hoa Ðại-Lão Chân-Tiên... Từ đó, sau nầy người ta bảo rằng theo Lão Trang tức là đi tu tiên để học lụyện những " quyền phép lạ lùng thần tiên " để trường sanh bất tử, bay bổng lên tiên...

Cho nên ở Chương 70, Lão-Tử đã than : " Ngô ngôn thậm dị tri, thậm dị hành. Thiên hạ mạc năng tri, mạc năng hành ". ( Lời nói của ta rất dễ hiễu, rất dễ làm. Thế mà, trong thiên hạ không ai hiểu, không ai làm).

 Vì đạo của Ngài rất khó, thường chạm đến lòng vị kỷ của con người mang nhiều Bản Ngã nên dù người theo thấy hay mà muốn thực hiện thì không ai làm nổi.

 Ví như : Theo Ðạo thì phải :

        - Biết " dừng ", biết " đủ " để đánh đổ lòng dục vọng vị kỷ. Lão-Tử dặn : " Họa mạc đại ư bất tri túc ".

        - Biết " làm mà không cậy công, công thành rồi không nên  ở lại, không để cho ai thấy cái tài hiền của mình ".

          ( Chương 77 )

        - Biết " Bớt chỗ dư bù chổ thiếu ". ( Chương 77 )

        - Biết hạ mình " không tự xem mình là sáng..., không tự  cho mình là phải..., không tự hào và khoe khoang ". ( Chương 22 )

        - Biết " Dĩ đức báo oán ", " với kẻ lành thì lấy lành mà ở với kẻ chẳng lành, cũng lấy lành mà ở, với kẻ thành tín thì lấy thành tín mà ở, với kẻ không  thành-tín thì cũng lấy thành tín mà ở ". ( Chương 63  và 49 ) V.V...

            Như thế thì Ðời làm sao thấu nổi, hiểu nổi, vì Ðạo thì quá lý

 tưởng mà người Ðời thì bản chất quá ư tầm thường !

D.- CHÍNH-TRị

 Cũng như Khổng-tử cùng các Pháp gia... Lão-tử đã nhìn thấy một thời đại hỗn loạn cực kỳ thê thảm cũa thời Xuân-Thu, Chiến Quốc nên mới viết ra Ðạo-Ðức-Kinh, cốt cho nhũng nhà trị nước, hoặc cho những kẻ sắp ra cầm quyền trị nước một giải pháp an-bang tế

thế. Lão-tử nghĩ :

        - " Dân chi cơ, dĩ kỳ thượng thực thuế chi đa ; dân chi nan trị, dĩ kỳ thượng chi hữu vi ; dân chi khinh tử, dĩ kỳ cầu sinh chi hậu " ( Dân mà đói là vì trên bắt thuế nhiều, dân mà khó trị là vì trên dùng đạo hữu vi, dân mà coi thường cái chết là vì quá trọng cầu cái sống ). ( Chương 75 ). Vậy nên, lấy chết mà dọa dân thì có ích gì, vì :

        " Dân chi úy tử, nại hà dĩ tử cụ chi " (dân không sợ chết, làm sao lấy chết để dọa đó ! ) (Chương 74).

 Ham sống sợ chết là thiên tính của loài người. Nhưng đừng đưa người ta vào thế bí. Tư tưởng nầy, Lão Tử chống lãi những hình phạt Tru lục của Pháp gia thời đại ấy.

 Tóm lại, Lão Tử quan niệm " trị loạn " sao bằng " phòng loạn " : rút củi ra, thì lửa tắt đi. Và " cái đạo trị nước hay nhất để đem lại hạnh phúc cho nhân dân là đưa họ trở về một đời sống thật thà và giản dị ".

            Tổng quan về học thuyết của Lão Tử chúng ta có thể căn cứ vào tài liệu của giáo sư Dương Quảng Hàm trong V.N.V.H.S.Y.

 a) Về triết lý :

 " Lão Tử cho Ðạo là một nguyên lý rất huyền diệu do đấy mà sinh ra trời, đất và vạn vật. Ðạo vốn là đơn nhất, sinh ra âm dương ; âm dương sinh ra trời, đất và khí ; trời, đất và khí sinh ra muôn vật. Muôn vật sinh ra khắp cả thế gian, rồi lại quay trở về Ðạo. Trở về Ðạo, rồi lại hóa ra vạn vật, cứ đi đi về về mãi thế, tức là cái cuộc biến cải sống chết ở đời, mà là cái cuộc tuần hoàn theo lẽ tự nhiên ".

 b) Về luân lý :

 " Người ta muốn theo Ðạo thì nên " thanh tĩnh vô vi " nghĩa là phải tuyệt hết cái bụng nghĩ ngợi, ham muốn và quên cả hình hài đi để lòng được trong sạch yên lặng mà không hành động gì cả, cứ phó mặc tự nhiên không phải nhọc trí nhọc sức. Sở dĩ người ta phải khổ sở, lo nghĩ là vì phải hành động mà nguồn gốc của sự hành động là dục tình ; bởi thế, nếu dứt hết dục tình thì không phải hành động không phải lo nghĩ, khổ sở mà lòng được thư thái, thân được an nhàn. Cho nên trong nhân loại kẻ gần Ðạo nhất là đứa anh nhi mà người có nhiều đức cũng hồn nhiên như đứa bé con vậy ".

IV.- LÃO TỬ VỚI ÐạO GIÁO :

 Tư tưởng của Lão Tử đã xây trên nền triết học quá cao thâm nên khó có người hiểu và theo đúng. Vì lẽ đó Ðạo Lão sớm biến đổi thành một tôn giáo dị đoan và aỏ thuật.

a) Thượng lưu trí thức :

 Liệt-Tử, Trang-tử và những người trí thức xem sách Lão-Tử thì bị ảnh hưởng rất nhiều như thích sống một đời tiêu-diêu phóng khoáng, an-nhàn bên chén trà chung rượu dưới cảnh thiên-nhiên và không thích mùi dơ bẩn công danh phú qúy.

 b) Giới bình dân :

            Thường quan niệm đạo Lão như một nơi tu luyện quyền phép vạn năng. Tư tưởng mê-muội này đưa đến sự tin tưởng dị đoan về thần tiên, luyện đan ( luyện thuốc trường sinh bất tử), phù thủy và ảo thuật như bùa bèn, ấn-quyết v.v...

Tư tưởng Ðạo giáo đã du nhập vào Việt-Nam ta từ đời Bắc-Thuộc không theo một hệ thống nhất loạt. Không kể đến phương diện tín ngưỡng và dị đoan, Ðạo giáo bàng bạc ảnh hưởng trong hầu hết thi ca nước ta. Giáo sư Dương Quảng Hàm trong V.N.V.H.S.Y. đã nói :

 " ... Trong tác phẫm cũ của ta bao nhiêu những tư tưởng phóng

 khoáng, nhàn tản, yếm thế, là do ở Ðạo giáo mà ra. thí dụ : Trong tập thơ của Nguyễn-Bỉnh-Khiêm và trong tập hát nói của Nguyễn-Công-Trứ, những bài vịnh cảnh nhàn đều là chịu ảnh hưởng của Ðạo-Giáo cả... ".

            Ta có thể tóm kết về Ðạo Lão qua mấy điểm sau :

 1) Thiên-Luận :

 a) Ở thời đại của Lão-Tử vì chiến tranh liên tiếp, niềm tin tưởng ở Thượng-đế bị lung lay. Phản ảnh ngược lại thời đại mình, Khổng-Tử đã đề cao thiên-mệnh để phục-hồi-tưởng cũ. Lão-Tử trái lại đã bác bỏ quan niệm Thượng Ðế vì thế ông viết :

        Thiên-địa bất nhân dĩ vạn vật vi xô cẩu.

        ( Trời đất bất nhân lấy vạn-vật làm đồ chó rơm ).

 b) Ðể chứng minh sự hiện-hữu cũa vũ-trụ, ông cho rằng ở khởi-thủy có cái vô cùng yên tĩnh mà ông gọi là Ðạo. Rồi tức có tính cách vô cùng.

 c) Ðến đây ông quay về quan niệm cổ truyền của Tàu Tức thuyết âm dương, nên có câu : " Ðạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn-vật ".

 Ta có thể hiểu " nhất " là cái Thể Duy-Nhất của Ðạo. Nhị là trỏ vào hai khí Âm Dương, tức là hai nguyên-lý mâu-thuẫn xung đột và xô xát nhau. Tam là nguyên-lý thứ ba đóng vai trò người trọng tài nắm giềng mối làm cho sự mâu thuẫn kia phải sống chung, không thủ tiêu nhau để tiến tới việc dung hòa : Vạn vật thành hình. Lão-Tử bảo nguyên-lý thứ ba nầy là Dụng của Ðạo.

 d) Nếu hỏi ngược lại từ đâu đã có Ðạo, câu trã lời của Ông là do Tự-nhiên. Sự đề cao thế lực của tự-nhiên sẽ đưa đến thuyết vô-vi.

 2) Vô-vi-luận :

 a) Vì sự đề cao của tự nhiên nên thuyết vô-vi tất phải có. Theo Lão-Tử thì vạn vật sinh tồn được mà không cần phải làm gì cả. Trái lại, conn người lại chỉ hăm hở tiến trên đường hữu-vi. Nhưng, nếu mục đích của đời người là hạnh-phúc thì e rằng đường hữu-vi chỉ mở ra những trang sử đẫm máu mà thôi. Với thuyết vô-vi Lão-Tử đã lên án văn minh.

 b) Tạo ra văn-minh là do lý-trí. Bởi thế, đồng thời Lão-Tử hủy bỏ thế lực của Lý-trí. Bỏi thế, đồng thời Lão-Tử hủy bỏ thế lực của Lý-trí, nên có câu :

        " Càng học lại càng không biết gì ".

 c) Nhưng muốn thực hiện vô vi, con người phải diệt bỏ dục vọng tầm thường và phải buông thả mình nhờ cái Ðạo đưa đi. Kết quả ta sẽ phát huy được ở ta một năng khiếu hiểu biết phi thường vượt thời gian và không gian. Nơi đó, con người đã trỡ thành bực chân nhân hay tiên.

3) Tư tưởng chính-trị của Lão-Tử :

 Lão-Tử không hoàn toàn xuất thế. Ông muốn đem thuyết vô-vi áp-dụng vào thực-tế. Bất đầu đạo Lão lên án đạo khổng vì đã tạo ra những cái tương đối sẽ có mâu-thuẫn và xã-hội không yên.

 Một lý-tưởng-quốc quan-niệm bởi Lão-Tử là : Nước nhỏ, ít người, không quân đội, không chính phủ, không văn minh kỷ xảo ; người ta sinh ra ở đâu cứ yên đó và giữ lấy phong tục dịu dàng. Tuy tư-tưởng trên mang hình sắc tiêu-cực, nhưng xét kỷ thì người ta không thực hiện nổi chính vì có quá nhiều dục vọng.

 4) Học thuyết của Trang-Tử : Trang-Chu là học trò của Lão-Tử. Ông yếm thế hơn Lão-Tử, lên án tình đời bạc bẽo. Bỡi vậy, ông xóa nhòa tất cả và coi tất cả là ảo mộng.  Nhưng theo ông, chúng ta còn một chân-bản-thể vĩ đại. Muốn khôi phục lại chân-bản-thể nầy, người ta cần phải vô-vi và xuất-thế, tức lìa bỏ những tầm thường của thế gian. ( xem chữ Trang-Tử ).

            5) Tâm-lý phong-lưu tài-tử :

            Nếu đạo không có lý-tưởng siêu-việt là thánh hiền, thì đạo Lão có bậc chân nhân. Ðối với quân-tử, Ðạo Lão còn có người phong-lưu tài tử.  Ta không rõ xuất xứ của danh-từ nầy. Nhưng ta có thể hiểu đó là những người giỏi dắn và có tình cảm đẹp. Họ đều mang nặng ảnh hưởng Lão-Trang.

            Như Trang Tử, họ yếm thế và coi đời là ảo mộng. Họ lại học Lão Tử lên án văn minh, nên coi thường danh lợi.

Ðể thực hiện tích cực tư tưởng yếm thế trên, họ thường xa lìa xã hội, sống gian hồ hay ẩn dật giữa thiên nhiên. Trong cuộc sống

 này, họ thực hiện vô vi bằng cách kéo dài cuộc đời an nhàn. Họ uống rượu, đánh cờ cũng vì thế.

 Nếu Lão Tử lên án lý trí, thì ở họ, lý trí không có ảnh hưởng gì. Họ buông thả theo tình cảm, nên tìm cái đẹp của thiên nhiên và theo đuổi ái tình. Danh từ giai nhân đi kèm với tài tử vì vậy.

 Ðể ghi những rung cảm của lòng, họ dùng đến nghệ thuật, nên thường họ là họa sĩ, nhạc sĩ và thứ nhất là thi sĩ. Nếu so sánh với tinh thần lãng mạn Tây phương, ta thấy Tây phương cũng có những đặc điểm trên. Ta có thể kết luận là : Thái độ lãng mạn là phản ứng của tình cảm đối với lý trí. Nhưng người tài tử vì còn lý tưởng chân nhân nên tình cảm rất thuần túy. Trái lại, Tây phương không có lý tưởng nào khác nửa bỡi vậy dể trở thành trụy lạc.

V.- KẾT LUậN :

 1) Giá trị của Ðạo Lão :

 a) Xác nhận ở người ta có một bản thể tinh thần tức là cái Ðạo.

 b) Ðưa người ta tới một cuộc sống có phần sát với nhân loại tính. Ðó là buông theo tình cảm.

 c) Mở ra một con đường hạnh phúc mà mục đích cuối cùng là cuộc sống hồn nhiên. Vì chủ trương vô vi nên sự thực hiện hạnh phúc này không khó khăn gì. Ðó là sự nguôi quên mọi ham muốn.

2) Con người Lão Tử :

 Ðể kết luận về nhà hiền triết Á Ðông - Lão Tử - chúng ta mượn lời nhận xét của nhà học giả Tây phương, ông E. V. Zenker sau đây :

 " Lão Tử cũng do hoàn cảnh xã hội tạo nên, nhưng ông ta vượt ra ngoài con đường mà các nhà tư tưởnh tiền sử Trung Hoa trước ông đã đi (...). Cái việc rất là phi thường nơi ông là ông đã hoàn toàn tách mình ra khỏi hoàn cảnh xã hội của ông, luôn cả cái người và giáo lý của ông, vượt lên cả tư tưởng của ông ra khỏi những gì do sự ngẩu nhiên và hoàn cảnh đương thời hạn định để trở nên một nhà tư tưởng " Vượt thời gian " hơn hết trong những triết gia Trung Quốc ".

 Vì quá siêu việt nên người đương thời không hiểu ông và ít kẻ hưỡng ứng. E. V. Zenker kết luận :

 " Lão Tử đâu phải chỉ sống cho một nước Trung Hoa và cho thời buổi của ông mà thôi đâu : Ông là một trong những bậc thầy thuần  túy nhất và sâu sắc nhất của Nhân Loại ". (Histoire de la Philosophie Chinoise. Page 107-108).

 Và Lão Tử với cái nhìn của René Bertrand :